Bài học này giúp các em tổng kết và hệ thống hóa những tri thức đã học về các thể loại văn học gần với từng thời kì.
Câu 1: Nhìn chung về nền văn học Việt Nam
Câu 2: Các bộ phận hợp thành nên văn học Việt Nam
a. Văn học dân gian
b. Văn học viết
Câu 3: Tiến trình lịch sử văn học Việt Nam
a. Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX
b. Từ thế kỉ XX đến năm 1945
c. Sau cách mạng tháng 8 đến nay
Câu 4: Mấy nét nổi bật, đặc sắc của văn học Việt Nam
Câu 5: Sơ lược về một số thể loại văn học
Câu 6: Một số thể loại văn học hiện đại
Để nắm được những khái niệm, những đặc trưng thể loại của văn học dân gian, văn học trung đại và hiện đại, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Tổng kết Văn học (Tiếp theo).
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Sở thích , tích cách , vẻ đẹp của Phương Định , Nho và chị Thao trong bài Những ngôi sao xa xôi
Câu trả lời của bạn
Viết về những nẻo đường Trường Sơn trong những năm đánh Mĩ, không chỉ có những bài thơ, bài ca ca ngợi những chiến sĩ lái xe hay những cô gái mở đường trong trang thơ của Lâm Thị Mĩ Dạ mà còn có những câu chuyện đầy cảm phục viết về những cô gái thanh niên xung phong, những cô trinh sát mặt đường, những cô chuyên phá bom nổ chậm mở đường cho xe qua. Những cô gái trẻ ấy đã được Lê Minh Khuê (một cây bút nữ xuất sắc của mảnh đất Xứ Thanh) kể lại và khắc hoạ chân dung tâm hồn tính cách. Ba cô gái trẻ là những ngôi sao xa xôi trên cao điểm Trường Sơn. Ba cô thanh niên xung phong : Thao, Nho và Phương Định biên chế thành một tổ trinh sát mặt đường – cái tên gợi sự khát khao làm nên những sự tích anh hùng. Tổ trưởng là Thao, lớn tuổi hơn một chút so với Nho và Phương Định.
phân tích mạch cảm xúc của bài thơ viếng lăng bác, sang thu
Câu trả lời của bạn
Mạch cảm xúc của bài thơ trôi chảy theo dòng thời gian, khi đứng trước lăng, vào trong lăng, khi ra ngoài lăng và khi rời xa lăng. Mạch cảm xúc đó được diễn đạt tướng ứng với bốn khổ thơ.
Mở đầu bài thơ là lời của đưa con từ miền Nam ra Bắc để thăm lăng Bác.
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác.
Tác giả xưng "con" một cách gần gũi, thân tình, mộc mạc mà giản dị đúng như bản chât con người Nam Bộ. Với một chuyến đi dài đấy những mệt nhọc nhưng khi đứng trước lăng Bác thì tình cảm kính yêu lại dào dạt lên trong lòng nhà thơ.
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
"Đã thấy" gợi nên một cái nhìn một hành động tưởng chừng như đã biết trước. Cái hình ảnh quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam: "hàng tre xanh xanh" đang lấp ló trong làn sương mờ ảo. Tính từ "bát ngát" như choáng ngợp cái nhìn của Viễn Phương. Ông thốt lên:
"Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng"
Từ láy tính từ "xanh xanh" đã gợi nên một màn mắc non của hàng tre bao trùm tất cả. Bài màu quen thuộc như dân Việt Nam, hàng tre "bão táp mưa sa đứng thẳng hàng" hình ẩn dụ "hàng tre" chính là biểu tượng cho tâm hồn thanh cao, sức sống bền bỉ, mãnh liệt, sự kiên cường, bất khuất không gục ngã trước mọi thứ khó khăn thử thách của cả dân tộc Việt Nam.
Khổ thơ thứ hai được tạo nên từ cặp câu với những hình ảnh thực, ẩn dụ, sóng đôi:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
"Mặt trời" ở câu đầu là hình ảnh mặt trời thực ơ mặt trời của thiên nhiên rực rỡ, vĩnh hằng, là nguồn sáng đối với vạn vật. "Mặt trời" thứ hai là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ kính yêu. Bác là mặt trời cách mạng, soi đường chỉ lối, dẫn dắt dân tộc Việt Nam thoát khỏi kiếp người lầm than, mở ra một tương lai tươi sáng.
Bác như nguồn sáng rực rỡ không bao giờ tắt trong lòng mỗi người dân đất Việt. Bác được so sánh với mặt trời là thiên thể vĩ đại của vũ trụ, tạo nên sự vĩ đại, ấm áp, tỏa sáng từ trái tim yêu nước thương dân của Bác. Đó cũng là lòng thành kính của nhân dân đối với Bác Hồ.
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"
Hình ảnh "dòng người đi trong thương nhớ" là hình ảnh thực: đoàn người vào lăng thăm Bác trong mỗi xúc động, bùi ngùi, tiếc thương vô hạn.
Dòng người đó được tác giả liên tưởng để "tràng hoa" cũng là một hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Cuộc đời của họ cũng như bông hoa nở dưới ánh sáng mặt trời rực rõ. "Bảy mươi chín mùa xuân" là cách nói hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng. con người bảy mwoi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời như mùa xuân góp vào mùa xuân lớn của dân tộc.
Bằng điệp từ "ngày ngày" tác giả đã diễn đạt sự đều đặn của biết bao dòng người với nỗi tiếc thương vô hạn cứ lặng lẽ, lần lượt vào lăng viếng Bác.
Khi đứng trước linh cữu Người, miềm biết ơn thành kính đã chuyển sang xúc động, nghẹn ngào.
Bác đang nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Bác đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản trong ánh sáng dịu hiền. Cả cuộc đời Bác lúc nào cũng lo nghĩ cho đất nước có bao giờ yên. Bác ngủ yên giữa đây, khi miền Nam được giải phóng, Bác mới có thể yên lòng, thanh thản nghỉ ngơi. Hai câu thơ sử dụng cách nói giảm nói tránh để thể hiện sự xúc động, dâng trào của nhà thơ Viễn Phương.
Nhưng mặc dù biết Bác vẫn sáng mãi trong lòng của dân tộc, nhà thơ vẫn phải chấp nhận một cái sự thật là bác đã ra đi mãi mãi.
"Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim"
"Trời xanh" là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho sự vĩnh hằng, cũng như Bác vậy luôn tồn tại mãi mãi trong lòng người dân, người con yêu nước.
Thế nhưng tác giả vẫn đau xót "nghe nhói ở trong tim" đó là tấm lòng xót thương đến quặn lòng của nhà thơ đứng trước linh cữu Bác.
Đoạn cuối là ước nguyện của nhà thơ trước khi phải rời xa lăng Bác.
"Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này"
Nghĩ đến ngày mai trở về miền Nam, rời xa lăng Bắc, tạm biệt miền Bắc nhà thơ không khỏi bùi ngùi, xúc động, tiếc thương "thương trào nước mắt".
Điệp từ "muốn làm" thể hiện cái ước nguyện nho nhỏ của nhà thơ: chỉ muốn làm con chim để ngày ngày hót ca cho giấc ngủ của Bác, muốn làm một đóa hoa để tỏa hương thơm ngát, muốn làm một cây tre trung hiếu để đứng canh giấc ngủ nghìn thu của Bác.
Mạch của xúc của bài thwo rất ổn định, tự nhiên cùng nhịp điệu sâu lắng, hài hòa đã tạo nên sự thành công của bài thơ.
Cảm xúc của nhà thơ cũng là cảm xúc của người con đất Việt dành cho Bác với sự tôm kính, yêu thương, đau xót khi vào thăm lăng, đứng trước linh cữu của Người.
Với chúng ta Bác sẽ luôn tồn tại trong trái tim, mãi là nguồn sáng vĩnh cửu soi đường chỉ lối cho dân tộc Việt Nam "bước tới đài vinh quàn để sánh vai với các cường quốc năm châu"
mạch cảm xúc của bài thơ mùa xuân nho nhỏ
Câu trả lời của bạn
Bài thơ bắt đầu từ những cảm xúc trực tiếp hồn nhiên, trongtrẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên, từ đó mở rộng cảm nghĩvề mùa xuân đất nước. Từ mùa xuân lớn của thiên nhiên đất nước mà liên tưởng tới mùa xuân của mỗi cuộc đời – một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn. Bài thơ kết thúc bằng sự trở về với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương,đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
=> Mạch cảm xúc phát triển theo lối “tức cảnh sinh tình”đặc trưng nổi bật của thơ ca.
theo em tại sao hình ảnh bếp lửa trong bài thơ là thiêng liêng và kì lạ
Câu trả lời của bạn
- Hình ảnh bếp lửa đã ghi dấu ấn kì lạ và sức rung động trong tình cảm thiêng liêng của mỗi người . Với nhà thơ bếp lửa gắn liền qua hình ảnh bà qua kỷ niệm ấu thơ . Nhớ đến bếp lửa là nhớ đến bà và ngược lại
- Bếp lửa đã trở thành hình tượng thơ giàu sức biểu cảm qua đó cảm xúc nhà thơ được bộc lộ một cách sâu sắc kín đáo . Bếp lửa là tình bà ấm áp là nguồn sống do tay bà chăm chút . Bếp lửa chứng kiến những khó khăn , gian khổ trong cuộc đời bà . Tác giả thầm biết ơn bếp lửa , biết ơn bà
- Bếp lửa luôn tồn tại qua thời gian bất tử trong lòng nhà thơ và những người đọc
- Bếp lửa càng sáng ấm áp bao nhiêu thì lòng bà càng lung linh , kì diệu bấy nhiêu
Hãy chỉ ra nguyên nhân dẫn đến cái chết của vũ nương
Câu trả lời của bạn
Cái chết của nhân vật Vũ Nương có nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến đó chính là lời nói ngây thơ của bé Đản. Để vơi đi nỗi nhớ chồng, để giúp con nhớ tới cha mà Vũ Nương đã chỉ vào cái bóng của mình trên tường và bảo với bé Đản đó chính là cha của cậu bé. Lời nói dối tưởng chừng vô hại nhưng cuối cùng chính nó đã gây ra cái chết đầy oan trái cho người con gái thuỷ chung, đôn hậu. Đứa con bé bỏng, ngây thơ đâu có biết nỗi lòng của mẹ nó, đâu có biết cha nó vẫn chưa trở về. Nhưng người đáng trách nhất ở đây chính là Trương Sinh-con người ít học lại đa nghi. Không hỏi rõ sự tình, cũng không nói được nghe tin đó ở đâu, Trương Sinh mắng nhiếc, đánh đuổi Vũ Nương mmặc cho họ hàng, làng xóm can ngăn. Cái bản chất hồ đồ, độc đoán, nông cạn đã biến Trương Sinh thành một kẻ độc ác-bức tử vợ mình. Ngoài ra, cái chết của Vũ Nương cũng tố cáo xã hội phong kiến đầy bất công, ngang trái, trọng nam, khinh nữ; tó cáo những cuộc chiến tranh vô nghĩa đã cướp đi niềm vui và hạnh phúc của biết bao con người trong xã hội lúc bấy giờ.
Phân tích hình ảnh trăng trong 3 bài thơ: Đồng chí, Đoàn thuyền đánh cá, Ánh trăng
Câu trả lời của bạn
– Giới thiệu về ánh trăng: như một người bạn gắn bó.
– Sự khám phá vẻ đẹp của ánh trăng được phô diễn trong các vần thơ.
– Ánh trăng vĩnh hằng, bất diệt thể hiện trong 3 tác phẩm: Đoàn thuyền đánh cá; Đồng Chí; Ánh trăng…
– Hình ảnh ánh trăng làm bạn đồng hành, cùng đồng cam cộng khổ với các anh bộ đội trong tác phẩm Đồng Chí
– Cách xây dựng hình ảnh ánh trăng trong thơ Chính Hữu mang tính biểu tượng sâu sắc.
– Hình ảnh ánh trăng trong thơ của Huy Cận mang đậm chất vui tươi, hứng khỏi của cuộc sống lao động vùng biển
– Ý nghĩa của hình ảnh ánh trăng trong mối quan hệ với con người lao động
– Ánh trăng quyện với hơi thở của nước Hạ Long tạo nên một không khí vừa hứng khởi lại vừa nên thơ
– Vẻ đẹp của hình ảnh ánh trăng trong sự gắn bó với con người nhưng còn pha màu triết lí thâm trầm và đầy ấn tượng trong thơ Nguyễn Duy.
– Tác giả Nguyễn Duy như nhìn thấy phần khuất tối của mình, thấy được sự vô tâm, quên lãng đáng trách.
– Bài thơ “Ánh trăng” là dòng hoài niệm của nhà thơ về quá khứ nghĩa tình về tuổi thơ hạnh phúc
– Khẳng định là về ý nghĩa, vẻ đẹp, sự thủy chung của trăng qua hình ảnh ánh trăng trong 3 tác phẩm.
Có thể nói trăng là sự kết tinh của những gì đẹp nhất, tinh túy nhất, vẻ đẹp của nó đủ để làm mê đắm hồn thi nhân. Trăng như một người bạn hữu gắn bó bền chặt với con người, là thú vui để họ đăng lầu vọng nguyệt, đàm đạo thi ca. Ánh trăng dát vàng lung linh ánh sáng dịu nhẹ ấy tỏa lan mọi nẻo đường, nó như chạm đến cả tâm hồn thi nhân. Bởi vậy mà trăng luôn là bến đợi, bến chờ của nhiều tác giả. Họ đã đi sâu vào khám phá mọi khía cạnh trong vẻ đẹp của ánh trăng bằng sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc. Và sự khám phá ấy như được phô diễn, được thấm nhuần qua từng câu thơ, từng trang viết. Hình ảnh Ánh trăng đã đi vào thơ ca với vẻ đẹp vĩnh hằng, giờ đây nó như hiện hữu bất diệt trong các bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của nhà thơ Huy Cận; “Đồng chí” của Chính Hữu và “Ánh trăng” của Nguyễn Duy. Đó đều là những thi phẩm tràn ngập ánh trăng.
Trong vườn thơ dân tộc, ta đã bắt gặp hình ảnh ánh trăng trong nhiều thi phẩm với nhiều ý nghĩa khác nhau. Nó bao trùm tạo vật, gắn bó với con người dẫu đó là lúc gian khổ của chiến tranh khi hòa bình lập lại. Phải chăng vì thế mà nó đã được các nhà thơ khám phá và thể hiện một cách vừa gần gũi lại vừa riêng biệt trên những trang viết của mình? Đọc bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, ta dễ bắt gặp hình ảnh ánh trăng đồng cam cộng khổ cùng những người lính trong thời chống Pháp. Nhà thơ đã gợi mở một không gian bao la của núi rừng Việt Bắc, một hoàn cảnh khắc nghiệt của đêm đông lạnh giá để rồi trăng xuất hiện làm tan biến hết những gian khổ thử thách ấy. Nếu qua những “Cơn ớn lạnh”, những trận “Sốt run người” và những thiếu thốn về vật chất, ta thấy những biểu hiện yêu thương đùm bọc của tình đồng chí thì khổ thơ cuối lại nêu lên những biểu hiện cao đẹp nhất, đó là chung chiến hào:
“ Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Trong đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu, trong gian khổ khắc nghiệt, trong căng thẳng “Chờ giặc tới” thi các chiến sĩ vẫn “đứng cạnh bên nhau”, vào sinh ra tử có nhau.Và trong hoàn cảnh đó thì trăng cũng như một người đồng chí, đồng đội luôn gắn bó và tỏa ánh sáng ấm nồng làm dịu đi cái rét buốt của thiên nhiên. Ánh trăng soi sáng tạo vật, rọi sáng mọi nẻo đường lối đi của các anh lính Cụ Hồ. Nếu người lính trên đường ra trận có ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan thì người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông “rừng hoang sương muối” lại có “đầu súng trăng treo”. Dưới cái nhìn của người lính thì súng và trăng không còn khoảng cách nữa mà quấn quyện với nhau làm tan biến cái hiện thực của chiến tranh gian khổ. Hình ảnh ánh trăng trong thơ Chính Hữu khiến người đọc mê đắm và hòa mình vào không gian bao lãng mạn dưới ánh sáng dát vàng lung linh. Nó như nguồn sáng vô tận rọi vào bức tranh một ánh sáng riêng, một màu sắc riêng thấm đẫm tình người. Phải chăng đó chính là sự khám phá sâu sắc, sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ?
Bài thơ “Đồng Chí” quả thực là một thi phẩm tràn ngập ánh trăng. Nó thể hiện rõ phong cách thơ Chính Hữu. Ngôn ngữ thơ hàm sức, mộc mạc, tiết kiệm trong từng hình ảnh, từng câu chữ mà gợi lên nhiều ý nghĩa. Câu thơ chắc gọn bên ngoài mà ẩn chứa một tâm hồn thiết tha, da diết bên trong. Có thể nói, nét độc đáo và đặc sắc nhất trong cách thể hiện của Chính Hữu là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn. Nhà thơ đã xây dựng hình ảnh mang tính biểu tượng sâu sắc “Súng” và “trăng” là gần và xa, là thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ. Phải chăng đó là cách thể hiện rất riêng trong thơ Chính Hữu?
Cũng viết về hình ảnh ánh trăng nhưng trong thời kì đổi mới ở miền Bắc thì Huy Cận lại có sự khám phá rất khác biệt so với Chính Hữu. Đọc bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”; người đọc như được đắm mình trong những trang viết thấm nhuần ánh trăng cuộc sống lao động. Nếu trước năm 1945, thơ Huy Cận giàu chất triết lý và thấm thía bao nỗi buồn thì sau Cách mạng, thơ ông lại dạt dào niềm vui, nhất là khi ông nói về cuộc sống mới, con người mới. Phải chăng vì thế mà hình ảnh ánh trăng trong thơ của ông cũng mang đậm chất vui tươi, hứng khỏi của cuộc sống lao động vùng biển? Huy Cận đã hòa nhập vào cuộc sống lao động và khai thác ý nghĩa của hình ảnh ánh trăng trong mối quan hệ với con người lao động làm chủ cuộc đời. Nhà thơ đã gợi lên bầu không khí hồ hởi, tràn ngập sức sống của cảnh đánh cá trên biển mênh mông rộng lớn. Ông đã nhập thân vào thiên nhiên, vào công việc, vào con người để rồi vẽ nên một khung cảnh lao động vừa thực vừa ảo:
“ Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Nếu trong cảnh rừng hoang sương muối, trang đồng cam cộng khổ như một người đồng chí, đồng đội thì giờ đây trong công việc đánh bắt cá của ngư dân, trăng lại là một người bạn đồng hành trên mọi chuyến ra khơi. Đoàn thuyền “lướt”nhẹ mà nhanh trên mặt biển hiền hòa phẳng lặng như một tấm gương soi cảnh trời mây. Trong cái tốc độ phi thường của con thuyền thì có gió lái thuyền đi, buồm đầy trăng sáng. Nhưng nhà thơ lại viết “Thuyền ta lái gió với buồm trăng” thì hình như nó đã biến thành đoàn thuyền của toa nhận mặc khách rồi, đâu còn là đoàn thuyền của ngư dân đánh cá nữa! Ánh trăng theo con người đi khắp biển khơi, tỏa ánh sáng lung linh dát vàng trong đèn tối soi tỏ mọi hoạt động của ngư dân. Biển nước chan hòa ánh trăng làm lộ ra những con cá rực rỡ sắc màu. Ánh trăng quyện với hơi thở của nước Hạ Long tạo nên một không khí vừa hứng khởi lại vừa nên thơ, khiến người đọc như đi vào cõi mộng. Phải chăng đó chính là sự khám phá của Huy Cận về hình ảnh ánh trăng tròn và sự gắn bó với con người lao động làm chủ đất nước?
Nhà thơ đã vẽ nên một khung cảnh lao động tràn ngập ánh trăng với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, với trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện. Huy Cận đã sáng tạo hình ảnh đẹp, độc đáo qua cách sử dụng màu sắc, sử dụng các thủ thuật nghệ thuật như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa và thậm xưng. Từng câu thơ đều thấm đượm bao sức sống mãnh liệt của người dân vùng biển cũng thấm đượm ánh trăng. Đó chính là cách thể hiện rất riêng trong thơ Huy Cận.
Thơ Nguyễn Duy cũng đi sâu vào khám phá vẻ đẹp của hình ảnh ánh trăng trong sự gắn bó với con người nhưng còn pha màu triết lí thâm trầm và đầy ấn tượng. Ánh trăng ấy tỏa sáng bất diệt, vĩnh hằng trong bài thơ “Ánh trăng” một bài thơ được cô đúc nên từ tâm sự.
Có lẽ nhìn trăng tác giả như nhìn thấy phần khuất tối của mình, thấy được sự vô tâm, quên lãng đáng trách. Xưa, Nguyễn Tuân đã từng coi trăng là “cố nhân”, Xuân Diệu trong bài “Nguyệt Cầm” cũng đã tha thiết gọi: “Trăng thương, trăng nhớ hỡi trăng ngần”. Trở lại với bài thơ “Ánh trăng”, bao nhiêu cảm xúc dường như nén lại nhưng nó cứ thổn thức trong lòng. Trong cái khoảnh khắc bất ngờ ấy khiến cho lòng người trở nên “rưng rưng” – cái “rưng rưng” làm cho con người thanh thản lại, vững tâm lại, cái tốt như hé lộ. Cái nút tâm lí giờ đây đã được nới rộng và niềm tâm sự cũng đang dần được tháo gỡ. Cuộc gặp gỡ giữa trăng với người không hề “tay bắt mặt mừng” mà lắng xuống ở độ sâu cảm nghĩ. Xưa Lí Bạch có viết:
“ Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương”
Nếu ở đây, hai câu thơ trên khơi nguồn cảm xúc cho thơ hướng về quê hương thì trong thơ Nguyễn Duy, trăng lại đưa người đọc tìm về những miền kí ức xa xăm trong quá khứ. Nhìn trăng, nhà thơ nhìn thấy bao kỉ niệm đẹp chợt ùa về – những kỉ niệm đầm ấm nghĩa tình. “Đồng, sông, bể, rừng” tất cả những thứ ấy, thứ quen thuộc với quá khứ lại hiện hữu trong tâm trí con người. Những chặng đường của quá khứ và hiện tại cứ nối nhau, lúc thì đan xen, khi thì tách rời khiến ta nhìn rõ nét băm khoăn, rối bời của tâm trạng. Trước cái nhìn sám hối của nhà thơ, vầng trăng như gợi lên báo cái “còn” mà con người tưởng chừng như đã mất. Hai gương mặt đối diện với nhau ở đây lấp lánh những điều không nói. Phải chăng nó khiến ta nhớ đến khi tình yêu mới bén giữa Kim Trọng và Thúy Kiều? Cũng chính trong giây phút ấy, vầng trăng đã trả cho nhà thơ sự vô tư và tình người dạt dào. Đoạn thơ như đã khắc sâu điều mà nhà thơ muốn tâm sự. Phải chăng những kỉ niệm này cũng khơi dậy cái ân tình sâu nặng của một thế thời chinh chiến?
Nguyễn Duy đã đem phần đẹp nhất, nhân hậu nhất, trong sáng nhất của trăng để soi vào phần đen tối nhất của con người. Trăng là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, cho sự bất biến, cho vẻ đẹp vĩnh hằng của cuộc đời. Thời gian, kỉ niệm cứ như dòng chảy không ngừng những nó đâu cuốn đi được lòng thủy chung son sắt của trăng? Cái tròn đầy đó đối lập với cái hụt với của kẻ vô tình. Trăng bao dung độ lượng biết bao! . “Ánh trăng im phăng phắc” gợi liên tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc khiến nhà thơ giật mình thức tỉnh mặc dù trăng không một lời oán trách. Nhìn trăng – tác giả như nhìn thấy sự vô tâm quên lãng của mình đối với người bạn tri kỉ trong một thời gian quá khứ. Cái “Giật mình” ấy thật đáng trân trọng – một sự thức tỉnh của lương tâm. Phải chăng qua đó tác giả muốn rung lên hồi chuông cảnh tỉnh mọi người? Thế mới biết, những bài học sâu sắc về đạo lí làm người đâu cứ phải tìm trong sách ở hay từ những khái niệm trừu ượng xa xôi!
Trong bài thơ, ánh trăng tỏa sáng không gian, rọi sáng tâm hồn, làm sống dậy trong tâm trí con người bao kỉ niệm gian lao mà đầm ấm nghĩa tình. Những tâm sự sâu kín của người thi sĩ giờ đây là tình cảm chung của cả một thế hệ nặng sâu ân tình. Ta dễ thấy, suốt cả bài thơ chỉ có một chủ thể nhưng cái chủ thể ấy lại dấu mình vô danh. Phải chăng qua đó, Nguyễn Duy muốn nói lên tâm sự chung của mọi người thuộc cùng thế hệ? Cả bài thơ là dòng hoài niệm của nhà thơ về quá khứ nghĩa tình về tuổi thơ hạnh phúc. Đó không còn là một câu chuyện riêng, một tâm sự riêng mà là tiếng lòng sâu sắc của bao người khác. Cái “tôi” chủ quan giờ đã biến thành cái “ta” mang ý nghĩa khái quát hơn, rộng lớn hơn. Cái chung và cái riêng – cái kỉ niệm và cái ân tình cứ hòa quyện với nhau tạo nên một hồn thơ dạt dào cảm xúc.
Vậy với tư cách là một độc giả đi dạo trên chuyến đò thời gian men theo dòng hoài niệm của Nguyễn Duy, ta có thể khẳng định rằng bài thơ “Ánh trăng” là một bài thơ hay mang đầy giá trị. Cái giá trị ấy là sự kết tinh của dòng cảm xúc sâu lắng và chất triết lí thâm trầm. Bài thơ là sự giao nhau của tâm hồn thi sĩ với tâm sự nghĩa tình của cả một thế hệ. Chúng hòa quyện với nhau tạo nên một tư tưởng triết lí sâu xa.
Qua ba tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá”, “Đồng chí”, “Ánh trăng” chúng ta thấy rõ sự khám phá và cách thể hiện hình ảnh ánh trăng của ba nhà thơ. Ánh trăng không chỉ là ngọn đèn soi sáng giữa đêm tối mập mờ, mà nó còn là người bạn chi kỉ trên suốt chặng đường ta đi. Dù khó khăn, gian khổ, hiểm nguy ánh trăng vẫn là người bạn luôn sánh bước bên ta. Ánh trăng thủy chung, trọn vẹn, nghĩa tình sắt son. Đó là đạo lí đắt giá không chỉ cho thế hệ những người đã qua một thời trận mạc mà còn cho cả một lớp người mai sau.
Đề bài: Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn " chiếc lược ngà" của nguyễn quang sáng
( mọi người giúp e phần liên hệ & mở rộng vấn đề ạ. còn những phần trước mik viết được r. mở rộng: đời sống gia đình hiện nay như thế nào? mơ ước?)
Câu trả lời của bạn
Viết về cuộc sống và chiến đấu của quân và dân ta là ưu tiên hàng đầu của nền văn học kháng chiến. Chúng ta có thể tự hào rằng, nền văn học nước nhà đã có những tác phẩm xuất sắc, phản ánh sâu sát cuộc sống và chiến đấu kiên cường, bất khuất của các chiến sĩ. Các nhà văn đã bám sát hiện thực cuộc chiến, kịp thời phát hiện, ca ngợi, biểu dương những tấm gương anh hùng, đã anh dũng chiến đấu quên mình vì đất nước.
Bên cạnh đó, một số nhà văn tìm cho mình một hướng đi mới, hướng ngòi bút vào những câu chuyện cảm động đời thường nhưng không kém phần quyết liệt. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng với cách nhìn nhẹ nhàng, đằm thắm, đã đi sâu vào đời sống tình cảm gia đình và phát hiện ra những giá trị sáng ngời cách mạng bằng trái tim trân trọng sâu sắc. (Vẻ đẹp Tình cảm gia đình trong chiến tranh)
Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu – con gái ông – không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm ba em không giống với người cha trong bức ảnh mà em biết. Nó cương quyết không gọi anh là ba.
Đến khi Thu nhận ra cha, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường trở về khu căn cứ. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng con. Trong một trận càn củ giặc, ông Sáu hi sinh. Trước lúc ra đi mãi mãi, ông đã kịp trao cây lược cho bác Ba, nhờ bạn chuyển cho con gái.
Viết Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang Sáng không miêu tả nhiều về cuộc chiến, ông hướng ngòi bút vào đời sống tình cảm gia đình và những chuyển biến tâm lí của nhân vật ông Sáu và bé Thu. Đó là một thử thách lớn đối với nhà văn. Làm thế nào để gắn kết giữa cái chung và cái riêng, giữa nhiệm vụ chiến đấu và trách nhiệm với gia đình.
Dĩ nhiên, nhà văn đã có ý định và cách thể hiện hợp lí nhưng để làm bừng sáng lí tưởng cách mạng và khát vọng tự do, khẳng định sâu sắc tình cảm gia đình trong chiến tranh đòi hỏi nhà văn phải có điểm nhìn hợp lí, đúng đắn, tự nhiên và giàu sức thuyết phục.
Nỗi khao khát gặp lại con sau bảy năm xa cách trở thành động lực mãnh liệt thôi thúc anh Sáu trở về nhà. khi trong thấy con, không chờ xuồng cập bến, ông đã nhảy thót lên làm chiếc thuyền con chòng chành, vội vàng bước chân dài, gọi con tha thiết: “Thu!Con!”. Vừa gọi, ông vừa giơ tay chào đón con. Cảm xúc mãnh liệt bộc phát khiến ông không kìm nổi xúc động. Tiếng gọi tha thiết dồn ứ bấy nhiêu năm trời, ngọt ngào hơn tất cả. Tiếng gọi thiêng liêng của tâm hồn và tình yêu vĩ đại của người cha.
Thế nhưng, thực tế lại không như anh nghĩ. Tình huống truyện nảy sinh từ khoảng khắc này – Bé Thu hoàn toàn hờ hững, xa lạ. Nó ngơ ngác không hiểu chuyện gì đang sảy ra rồi sợ hãi bỏ chạy. Nó quá bất ngờ bởi tình huống sảy ra đột ngột, không được báo trước. Ông Sáu cũng không hiểu chuyện gì đang sảy ra nữa. Tình yêu và nỗi chờ mong trong ông đột nhiên không được tiếp nhận khiến ông đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn làm mặt ông sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy.
Phải chăng, cuộc đời đang thử thách ông? Số phận đang trêu đùa ông? Với bản lĩnh của người lính, ông đã vượt qua cảm giác hụt hẫng ban đầu, trong lòng không hề hoài nghi. Những ngày ở nhà, ông đã cố gắng gần gũi và tìm hiểu vì sao bé Thu không nhận cha nhưng trước thái độ lạnh nhạt, ông đã đau khổ, cảm thấy bất lực. Suốt ngày ông chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con.
Nhưng càng vỗ về, con bé càng đẩy ra. Ông mong được nghe một tiếng ba của con bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi. Ông đau khổ lắm nhưng chỉ “nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười” vì “khổ tâm đến nỗi không khóc được”. Nhiều lúc giận quá, ông đã đánh bé Thu sau lại hối hận. Mâu thuẫn cứ giằng xé trong ông.
Thời gian nghỉ phép sắp hết. Cuộc chiến vẫn đang ác liệt và chưa có dấu hiệu kết thúc. Có thể sau lần trở về này sẽ lâu lắm ông mới quay trở lại. Tác giả đã tinh tế miêu tả nỗi đau giằng xé trong ông Sáu bằng sự cảm thông sâu sắc. Hoàn cảnh của ông Sáu cũng là hoàn cảnh của biết bao chiến sĩ trên mặt trận. Họ ngày đêm chiến đấu nhưng trái tim vẫn giữ ấm tình cảm gia đình và khát khao đoàn tụ.
Hoàn cảnh đặt ra thử thách quá trớ trêu. Trái tim ông Sáu tuy mạnh mẽ nhưng không thể tránh khỏi đau xót. Ông tự nhắc mình phải kiên trì, biết đâu bé Thu sẽ hiểu ra. Ông cố tìm hiểu con nhưng con bé quá bướng bỉnh, khiến ông đành bất lực, ngậm ngùi nghĩ đến ngày phải xa con ra đi.
Hôm chia tay trên bến sông, nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông muốn ôm con, hôn con nhưng sợ nó lại bỏ chạy nên chỉ đứng nhìn nó ngậm ngùi với đôi mắt biết bao trìu mến lẫn buồn rầu. Tình cảm của người cha quá lớn, tình yêu thương mãnh liệt khiến ông rưng rưng nước mắt. Cho đến khi nó cất tiếng gọi “Ba”, ông xúc động đến không cầm được nước mắt. Tiếng“ba” ngọt ngào mà ông đã mong đợi bấy lâu, khao khát bấy lâu. Đây là những giọt nước mắt hạnh phúc của người cha, của người cán bộ kháng chiến.
Được ở bên gia đình, yêu thương và chia sẽ những yêu thương vốn là quyền của con người. Chiến tranh đã ngăn cách họ. Chiến tranh đã gây nên những nghịch cảnh trớ trêu dở khóc dở cười. Giọt nước mắt hạnh phúc hòa lẫn trong nỗi đau thương bất tận. Ông Sáu hiểu rõ giây phút bé Thu nhận ra ông, dành cho ông tình cảm tha thiết nhất cũng là lúc phải chia tay. Cuộc chiến đang vẫy gọi, ông Sáu phải lên đường. Có ai ngờ đâu, đó lại là cuộc chia ly vĩnh viễn.
Tình yêu con tha thiết của ông còn được thể hiện rất sâu sắc khi ông ở khu căn cứ. Xa con, ông luôn nhớ con trong nỗi day dứt, ân hận ám ảnh vì mình đã lỡ tay đánh con. Lời dặn của con lúc chia tay đã thôi thúc ông làm cho con cây lược. Rồi ông dồn hết tâm trí và công sức vào việc làm cho con cây lược, tỉ mỉ khắc từng chiếc răng, làm cho nó thật đẹp. Ông gửi vào đó tất cả tình yêu và nỗi nhớ. Có bao nhiêu nhát khắc là có bấy yêu thương mà ông Sáu đã dành cho con.
Nhiều lúc nhó con ông lấy cây lược ra chải chải lên đầu cho cây lược thêm bóng mượt. Yêu con, ông Sáu yêu đến từng sợi tóc của con. Chiếc lược trở thành vật thiêng liêng đối với ông Sáu, nó làm dịu đi nỗi ân hận, nó chứa đựng bao tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong ngóng của người cha với đứa con xa cách. Cây lược ngà chính là sự kết tinh của tình phụ tử thiêng liêng.
Ông Sáu đã không bao giờ trở về và lời hứa với con bé mãi mãi không thực hiện được. Trong trận càn lớn của quân Mĩ – Ngụy, Ông Sáu đã hi sinh khi chưa kịp trao cây lược cho con gái. “Trong giờ phút cuối cùng,không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chúc. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử.
Người đọc bàng hoàng, sửng sốt và tiếc thương. Ông Sáu hi sinh nhưng ngọn lửa yêu thương trong trái tim ông vẫn còn cháy mãi. Chiến tranh có thể ngăn cách họ, hoặc giết chết họ nhưng không thể khiến họ ngừng yêu thương. Chiếc lược ngà mà ông Sáu nhờ đồng đội gửi cho bé Thu trước lúc ông hi sinh là hình ảnh của sáng giá về sức mạnh phi thường của tình cảm cha con thiêng liêng, bất diệt.
Chiếc lược ngà đã rất thành công khi xây dựng được tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí. Nguyễn Quang Sáng đã chú trọng xây dựng cốt truyện chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Chuyện được kể bởi người đồng đội của anh sáu khiến câu chuyện tự nhiên, chân thực, dễ đi vào lòng người, gây được sự cảm động sâu sắc ở người đọc.
Với ngôi kể này, người kể chuyện xen vào những lời bình luận, suy nghĩ, bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật, và câu chuyện vẫn mang tính khách quan. Có lẽ, nhà văn đã dụng công lớn nhất ở việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật một cách tinh tế và sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé Thu. Chất giọng Nam bộ ngọt ngào, bình dị cũng là điểm mạnh của nhà văn.
Qua nhân vật ông Sáu, người đọc không chỉ cảm nhận tình yêu con tha thiết sâu nặng của người cha chiến sĩ mà còn thấm thía bao đau thương mất mát đối với những em bé, những gia đình. Tình yêu thương con của ông Sáu còn như một lời khẳng định: “Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể hủy diệt được sự sống của con người, còn tình cảm của con người – tình phụ tử thiêng liêng thì không bom đạn nào có thể giết chết được”.
* Kết bài:
Truyện “Chiếc lược ngà” đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Truyện còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát, đau thương mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình Việt Nam.
kể tên những tác phẩm về quê hương mà em biết
Câu trả lời của bạn
Quê Hương , Đồng Chí, Quê Hương em , Nước Đại Việt Ta , v...vv..v
Trong chương trình Ngữ Văn 9 tập 1, em có học 1 tác phẩm trong đó có 2 câu thơ:
"Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng"
a) Cho biết 2 câu thơ đó trích trong tác phẩm nào? Của tác giả nào?
b) Em hiểu ngĩa của 2 câu thơ trên đó như thế nào, tác giả muốn gửi gắm điều gì qua 2 câu thơ trên.
Câu trả lời của bạn
a)
- Hai câu thơ trên nằm trong phần " Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" được trích trong tác phẩm " Truyền Lục Vân Tiên" của tác giả Nguyễn Đình Chiểu.
b)
- Hai câu thơ nằm trong phần Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga của phần đầu truyện, đó cũng là câu nói của Lục Vân Tiên đáp lại những câu nói biết ơn của Kiều Nguyệt Nga khi chàng đã không ngại nguy hiểm để dẹp trừ bọn lâu la giải thoát cho nàng. Qua hai câu thơ trên cho thấy Lục Vân Tiên là một người anh hùng, gặp việc nguy trước mắt không thể nào làm ngơ được, đồng thời cũng qua hai câu thơ trên tác giả muốn gửi gắm thông điệp đẹp đẽ đến với mọi người, nếu đã là anh hùng thì khi thấy việc nghĩa mà bỏ qua không làm thì không phải là người anh hùng.
Chúc bạn học tốt!
Nhận xét về trình tự diễn biến về câu chuyện Làng của Kim Lân
Câu trả lời của bạn
Bạn tham khảo :
Nhận xét :Trình tự diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai:dduwwocs thể hiện theo các tình huống:
-Khi nghe tin àng theo giặc
-Khi nghe tin làng theo giặc được cải chính
->Cách sắp xếp trình tự diến biến tâm lý trên giúp cho người đọc hình dung được 1 sự mâu thuẫn ,dằng xé trong tâm trạng của ông Hai ,trong việc thể hiện tình yêu làng ,yêu nước của ông
Nếu Chuyện người con gái Nam xương kết thúc ở đoạn Vũ Nương tự tử, Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ thì giá trị có giảm đi không? Vì sao?
Câu trả lời của bạn
có giảm đi giá trị .vì làm cho cây chuyển sẽ giảm bớt đi nỗi buồn ,giảm bớt đi nhưng những giọt nước mắt mà câu chuyện lấy đi của người đọc.cách kết thúc chuyện của tác giả là đều có mục đích vì vậy ta không nên sửa đổi
Trong bài Con chim chiền chiện, nhà thơ Huy Cận có viết: Chim bay, chim sà Lúa tròn bụng sữa Đồng quê chan chứa Những lời chim ca Bay cao, cao vút Chim biến mất rồi Chỉ còn tiếng hót Làm xanh da trời... Hãy nêu những nét đẹp của đồng quê Việt Nam được tác giả miêu tả qua hai khổ thơ trên
Câu trả lời của bạn
Tuổi thơ tôi là những ngày chăn trâu trên cánh đồng đầy ắp nắng và gió. Ở đó, tôi đã có tuổi thơ, có hình ảnh của cơn gió ngàn miên man từ triền núi thổi qua cánh đồng mát rượi, với những đợt sóng lúa rì rào. Hình ảnh những ráng chiều vàng nhạt, những ngọn khói lam chiều từ phía làng tôi nhẹ nhàng xuyên qua mái tranh lững thững bay lên hòa quyện vào không gian sâu lắng, mẹ đã nổi lửa cơm chiều. Không gian đồng chiều thật ngọt ngào với tiếng hót vang trời của loài chim chiền chiện. Một loài chim bé nhỏ hiền lành ngày ngày gắn bó cùng lũ trẻ chăn trâu trên cánh đồng nắng gió này. Tiếng hót của chim chiền chiện thanh cao, trong trẻo đi sâu vào lòng tôi như lời ru của mẹ. Đúng thật, ngày tháng tuổi thơ tôi được nuôi dưỡng bằng lời ru ngọt ngào sâu lắng bên nôi của mẹ và giọng ca trong trẻo ngất trời của chim chiền chiện trên cánh đồng quê. Bầu trời chiều xanh biếc cao vời vợi, không một gợn mây nào. Trên bãi cỏ hoang, từng chú trâu no nê vẫn đang cố gặm thêm những ngọn cỏ cuối cùng trong ngày. Những chú nghé tinh nghịch đùa nhau rồi đuổi nhau chạy tung tăng quanh mẹ. Đây là thời điểm đẹp nhất trong ngày vì cái nắng chảy bỏng của một ngày hè đã nhường chỗ cho một chiều tà mát rượi. Những cơn gió ngàn vẫn miên man thổi, cánh đồng sau mùa trở nên khô cằn với những gốc rạ xơ xác. Ta có thể cảm nhận hương vị quê hương khi đi chân trần trên những gốc rạ khô, một âm thanh xào xạc, một mùi hương nồng nồng… Và trên cao, khúc nhạc đồng quê lại cất lên trong trẻo chan hòa. Từng đàn chiền chiện chao lượn bay qua để lại tiếng hót vang vọng khắp cánh đồng. …
Chim bay chim sà
Lúa tròn bụng sữa
Đồng quê chan chứa
Những lời chim ca
Bay cao cao vút
Chim biến mất rồi
Chỉ còn tiếng hát
Làm xanh da trời…
(Huy Cận)
Một ngày hè trên quê hương được khép lại bằng những cột khói lam chiều bay lên từ bếp mẹ nấu cơm tối, bằng tiếng hót vút trời của loài chim chiền chiện, bằng hình ảnh đàn trâu no nê thủng thẳng trên con đường về làng, bằng tiếng cười râm ran của lũ trẻ chúng tôi với làn da nắng cháy…
Phân tích nhân vật ông hai trong truyện" làng" của Kim Lân
Câu trả lời của bạn
"Làng" của nhà văn Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc về chủ đề tình yêu quê hương đất nước của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Nhân vật chính của tác phẩm - ông Hai – chẳng những là một người nông dân chất phác, hồn hậu như bao người nông dân khác mà còn là một người có tình yêu làng quê, đất nước thật đặc biệt.
Tác phẩm ra đời năm 1948 lấy bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến của nhân dân ông Hai là người dân làng Chợ Dầu nhưng để phục vụ kháng chiến ông cùng gia đình tản cư đến một nơi khác. Chính tại nơi đây ông luôn trăn trở về cái làng thân yêu của mình với bao tình cảm, suy nghĩ vô cùng cảm động...
Trước hết, ông là một người nông dân chất phác, nồng hậu, chân chất... như bao người nông dân khác. Đến nơi tản cư mới, ông thường đến nhà hàng xóm để cởi mở giãi bày những suy nghĩ tình cảm của mình về cái làng Chợ Dầu thân yêu, về cuộc kháng chiến của dân tộc. Ông đi nghe báo, ông đi nghe nói chuyện, ông bàn tán về những sự kiện nổi bật của cuộc kháng chiến... Ông Hai không biết chữ, ông rất ghét những anh nào "ra vẻ ta đây" biết chữ đọc báo mà chỉ đọc thầm không đọc to lên cho người khác còn biết. Ông ít học nhưng lại rất thích nói chữ, đi đính chính tin làng mình theo giặc ông sung sướng nói to với mọi người: "Toàn là sai sự mục đích cả!".... Tất cả những điều đó không làm ông Hai xấu đi trong mắt người đọc mà chỉ càng khiến ông đáng yêu, đáng mến hơn.
Không chỉ vậy, điều đáng quý nhất ở ông Hai chính là tấm lòng yêu làng tha thiết. Và biểu hiện của tấm lòng ấy cũng thật đặc biệt.
Cái làng đối với người nông dân quan trọng lắm. Nó là ngôi nhà chung cho cộng đồng, họ mạc. Đời này qua đời.khác, người nông dân gắn bó với cái làng như máu thịt, ruột rà. Nó là nhà cửa, đất đai, là tổ tiên, là hiện thân cho đất nước đối với họ. Trước Cách mạng tháng Tám, ông Hai thuộc loại "khố rách áo ôm", từng bị "bọn hương lí trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, lang thang hết nơi này đến nơi khác, lần mò vào đến tận đất Sài Gòn, Chợ Lớn kiếm ăn. Ba chìm bảy nổi mười mấy năm trời mới lại được trở về quê hương bản quán. Nên ông thấm thía lắm cái cảnh tha hương cầu thực. Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Trước Cách mạng tháng Tám, ông khoe cái dinh phần của viên tổng đốc làng ông: "Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi." Và mặc dù chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viên tổng đốc là "cụ tôi" một cách rất hả hê! Sau Cách mạng, "người ta không còn thấy ông đả động gì đến cái lăng ấy nữa", vì ông nhặn thức được nó làm khổ mình, làm khổ mọi người, là kẻ thù cùa cả làng: "Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó. [...] Cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy" Bây giờ ông khoe làng ông khởi nghĩa, khoe "ông gia nhập phong trào từ hồi kì còn trong bóng tối", rồi những buối tập quân sự, khoe những hố, những ụ, những giao thông hào cùa làng ông,... Cũng vì yêu làng quá như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra hay bực bội, "ít nói, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm . Ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày làm việc cùng với anh em: sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra.[...] Trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên." Lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng Chợ Dầu của ông đánh Tây.
Ông lão đang náo nức, "ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!" vì những tin kháng chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. Một người đàn bà tản cư vừa cho con bú vừa ngấm nguýt khi nhắc đến làng Dầu. Cô ta cho biết làng Dầu đã theo giặc chẳng "tinh thần" gì đâu. Ông Hai nhận cái tin ấy như bị sét đánh ngang tai. Càng yêu làng, hãnh diện tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông Hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. Nhà văn Kim Lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông Hai trong biến cố này.
Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã làm ông điếng người: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tường như đến không thở được. Một lúc lâu ông mới rặng è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ [...] giọng lạc hẳn đi", "ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi" và nghĩ đến sự dè bỉu của bà chủ nhà. Ông lão như vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm. Những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc động: "Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu...". Nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở: ''Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước...". Cả nhà ông Hai sống trong bầu không khí ảm đạm: "Gian nhà lặng đi, hiu hắt, ánh lửa vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên nét mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ chụm đầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà". Ông Hai ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào cũng nơm nớp, bất ổn trong nỗi tủi nhục ê chề. Thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là "chuyện ấy". Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, "không dám bước chân ra đến ngoài" vì xấu hổ. Và cái chuyện vợ chồng ông lo nhất cũng đã đến. Bà chủ nhà bóng gió đuổi gia đình ông, chỉ vì họ là người của làng theo Tây. Gia đình ông Hai ở vào tình thế căng thẳng. Ông Hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất: "Thật là tuyệt đường sinh sống! [..] đâu đâu có người Chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách của Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu."
Từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông Hai đâm ra thù làng: "Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ..." Và "nước mắt ông giàn ra". Ông lại nghĩ đến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia.
Bao nỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành trút cả vào những lời trò chuyện cùng đứa con thơ dại:
- Hức kia! Thầy hỏi con nhé, con là con của ai?
- Là con thầy mấy lị con u.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng Chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?
Thằng bé nép đẩu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
- Có.
Ông Lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
- À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
- Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ.
Những lời đáp của con trẻ cũng là tâm huyết, gan ruột của ông Hai, một người lấy danh dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một lòng với kháng chiến, với Cụ Hồ. Những lời thốt ra từ miệng con trẻ như minh oan cho ông, chân thành và thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông:
"Anh em đồng chí biết cho bố con ông
Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.
Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai"
Nhà văn đã nhìn thấy những nét đáng trân trọng bên trong người nông dân chân lấm tay bùn. Nhân vật ông Hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói về làng bất kể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điếm tâm lí vì cộng đồng, vui cái vui của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến của trạng thái tâm lí hết sức đặc trưng của một người nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng mình phản bội. Nếu như trong biến cố ấy tâm trạng cùa ông Hai đau đớn, tủi cực bao nhiêu thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là tin đồn không đúng, làng Chợ Dầu của ông không hề theo giặc, sự vui sướng càng tưng bừng, hả hê bấy nhiêu. Ỏng Hai như người vừa được hồi sinh. Một lần nữa, những thay đối cùa trạng thái tâm lí lại được khắc hoạ sinh động, tài tình: "Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy...". Ông khoe khắp nơi: "Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn![...] Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả", "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn.[... ] Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!". Đáng lẽ ra ông phải buồn vì cái tin ấy chứ? Nhưng ông đang tràn ngập trong niềm vui vì thoát khỏi cái ách "người làng Việt gian". Cái tin ấy xác nhận làng ông vẫn nhất quyết đứng về phía kháng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại được sống như một người yêu nước, lại có thể tiếp tục sự khoe khoang đáng yêu của mình,... Mâu thuẫn mà vẫn hết sức hợp lí, điểm này cũng là sự sắc sảo, độc đáo của ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Người đọc sẽ không thể quên được một ông Hai quá yêu cái làng của mình như thế. Lúc ông nói thành lời hay khi ông nghĩ, người đọc vẫn nhận thấy rất rõ đặc điểm ngôn ngữ của vùng quê Bắc Bộ, của một làng Bắc Bộ: "Nắng này là ***** chúng nó", "không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy", "Thì vườn", "có bao giờ dám đơn sai",... Đặc biệt là nhà văn cố ý thể hiện những từ ngữ dùng sai trong lúc quá hưng phấn của ông Hai. Những từ ngữ "sai sự mục đích cả" là dấu ấn ngôn ngữ của người nông dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nói cái mới nhưng từ ngữ chưa hiểu hết. Sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phần nào cũng nhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này. Trong tác phẩm, nhà văn cũng thể hiện rõ sự thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê. Kim Lân đã vận dụng những hiểu biết đó hết sức khéo léo vào việc xây dựng tâm lí, hành động, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn giản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc đáo.
Tình yêu làng của ông Hai không đơn giản, hẹp hòi là tình yêu chỉ riêng đối với nơi ông sinh ra và lớn lên. Ê-ren-bua từng tâm đắc: "Tình yêu làng xóm trở nên tình yêu quê hương đất nước". Và bởi thế, tình yêu làng của ông Hai gắn bó chặt chẽ với tình yêu nước với tinh thần kháng chiến đang lên cao của cả dân tộc. Đó cũng chính là biểu hiện chung của tình yêu đất nước của người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
Trong số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, người đọc khó có thể quên một ông Hai yêu làng quê, yêu đất nước, thuỷ chung với kháng chiến, với sự nghiệp chung của dân tộc. Một ông Hai thích khoe làng, một ông Hai sốt sắng nghe tin tức chính trị, một ông Hai tủi nhục, đau đớn khi nghe tin làng mình theo giặc, một ông Hai vui mừng như trẻ thơ khi biết tin làng mình không theo giặc,... Ai đó đã một lần thấy nhà vàn Kim Lân, nghe ông nói chuyện còn thú vị hơn nữa: hình như ta gặp ông đâu đó trong Làng rồi thì phải.
Ông Hai là một nhân vật độc đáo mang nhiều đặc điếm chung tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp nhưng đồng thời cũng mang những đặc điểm tính cách rất riêng, rất thú vị. Ông đã trở thành linh hồn của Làng và thể hiện trọn vẹn tư tưởng của nhà văn và tác phẩm.
Hãy nói lên cảm cảm nhận của em về bài thơ "Đò Lèn" của Nguyễn Duy
Câu trả lời của bạn
Tham khảo
Trong phong trào thơ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Nguyễn Duy xác lập được một lối đi riêng : không ngang tàng, "bụi bặm" theo kiểu Phạm Tiến Duật, không gân guốc như Nguyễn Đức Mậu hay nghiêm trang như Nguyễn Khoa Điềm, mà nghiêng về quan sát, phân tích đời sống rồi bằng trải nghiêm cá nhân rút ra những triết lí bất ngờ và sâu sắc. Hơi ấm ố rơm, Tre Việt Nam,... đều cùng mạch suy tư khởi nguồn từ những điều bé nhỏ. Đọc Nguyễn Duy thường bắt gặp những xúc cảm đầm ấm, hồn hậu đã lắng kết trong ta thành kí ức cội nguồn, thành tâm thức văn hoá, như mùi hương tuổi thơ, dẫu phảng phất mơ hồ mà không thể nào quên được. Đò Lèn, được viết sau ngày đất nước đã im tiếng súng, con người trở lại quỹ đạo của đời sống hoà bình, nhưng ở đây vẫn nguyên vẹn là một Nguyễn Duy đắm sâu triết lí mà thanh thoát nhẹ nhõm trong hơi thơ dân dã tự nhiên, một cái tôi nghệ sĩ có khả năng nối kết từ hổi ức riêng tư đến lịch sử dân tộc.
Bài thơ triển khai kết cấu theo dòng chảy của hoài niệm tuổi thơ, ngỡ ngọt ngào mà hoá ra xa xót, ngậm ngùi: - Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá - Thuỏ nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị rồi giãi bày: Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế rồi suy tưởng: Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực rồi kể lể: - Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất - Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại. Đại từ "tôi" bé nhó, cá nhân, có vẻ âm thầm nữa, không phải cái thế kiêu bạc của người lính chiến "ung dung buồng lái ta ngồi" (Phạm Tiến Duật) mà trĩu nặng những ân tình, những bộc bạch, sẻ chia. Cái tôi hồi ức, kể lể, giãi bày ấy là cầu nối hai mạch thơ, hai tính chất của bài thơ này : mạch tự sự và mạch trữ tình, tính chất "kể lại, phản ánh" (một câu chuyện) và "suy tưởng, chiêm ngẫm, cảm xúc" (những nông sâu lẽ đời). Đó là một kết cấu có thể tìm được ở nhiều bài khác (ví dụ Bát nước ngô của bà mẹ ở Cam Lộ, Bầu trời vuông, Tiếng đàn bầu, Hơi ấm ổ rơm). Nét riêng biệt của Đò Lèn có lẽ nằm ở những sức níu tương phản : hiện thực (cái đói, chiến tranh) và tâm linh (tiên, Phật, thánh thần), lịch sử và đời thường / cá nhân (bà, tôi). Và điêu kì lạ được cảm nhận từ sức mạnh của những tương phản là : cái đói không huỷ diệt được cái đẹp tâm linh trong khi chiến tranh (bom Mĩ giội) thì huỷ diệt được cả tiên, Phật, thánh thần. Nhưng cả đói nghèo lẫn sự tàn khốc của chiến tranh bất ngờ lại tôn lên sừng sững, vững chãi hình ảnh người bà. Do đó, một măt bài thơ là hiện thực, một hiện thực dữ dội, khủng khiếp ("nhà bà tôi bay mất", "bay tuốt cả chùa chiền", "thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết"), mặt khác cũng là tàm linh ("cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm") và một hình ảnh đời thực : "bà tôi di bán trứng ở ga Lèn". Sức mạnh của con người trong đời thực, vượt qua những chấn động lịch sử, sẽ còn ám ảnh hơn cả "mùi huệ trắng, hương trầm". Cảm hứng về cái đẹp (hồi ức tuổi thơ) sẽ dần chuyển sang cảm hứng về cái thường nhật (trong sự đối sánh với cái thiêng - giờ đã bị giải thiêng). Ngôn ngữ thơ ở Đò Lèn giản dị, trong sáng, không một từ nào khó hiểu, nhưng khi đứng cạnh nhau trong một câu thơ, những câu cạnh nhau thành bài thơ, tất cả tạo nên một ám ảnh da diết lạ lùng. Kí ức về tuổi thơ như ánh chớp loé lên những ấn tượng sống động, hiện hữu : hành động (níu váy bà), thú vui (câu cá, bắt chim sẻ, hái trộm nhãn), mùi hương (mùi huệ trắng, khói trẩm), một âm thanh điệu hát chầu văn, một dáng người lảo đảo,... Những địa danh cống Na, Bình Lâm, chùa Trần, dền Sòng, đền Cây Thị,... thân thuộc với tác giả, cũng không hề xa lạ với bất cứ người dân Việt Nam nào từng sống ớ thôn quê. Nguyễn Duy thật tài tình khi chỉ phác vài nét bút đã có thể làm rõ, chẳng hạn hình ảnh một cậu bé "níu váy bà đi chợ Bình Lâm", "chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng" ; nhưng tài tình hơn là khả năng làm mờ, làm ảo hoá không gian, bằng và trong ngôn ngữ, ở hai câu thơ đẹp như ảo ảnh : mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng. Ngoài từ "thơm lắm" là một ấn tượng rõ (một xúc cảm ngây thơ) thì mồi chữ trong hai câu này đều ảo. Mùi huệ thơm, nhưng là mùi thơm "trắng", lại quyên với khói trầm trắng đục trở thành mùi hương duy nhất, hương kỉ niệm, hương tuổi hoa niên "thơm lắm", không gì thay thế được. Điệu hát văn là âm thanh, nhưng cũng là hình ảnh cô đồng "lảo đảo". Những từ ngữ đều nghiêng về cảm giác, hoặc nhìn ra cái hư ảo : mùi, trắng, quyện, khói, thơm, bóng, láo đảo,... Ngữ pháp câu thơ cũng đặc biệt mà nếu thử phân tích chủ - vị hoặc tìm các cách ngắt nhịp sẽ thấy tính chất nhoè mờ của nó. Có rất nhiêu đoán định khác nhau từ các khá năng ngữ pháp của hai câu thơ này : mùi huệ trắng là chủ, nhưng cũng có thô "mùi huệ trắng quyên khói trầm" là chủ, mà "mùi huệ"/"trắng quyện khói" xem ra vẫn ổn. Cũng vậy, ở câu thứ hai có thể là : (trong) "điệu hát văn" "lảo đảo bóng cô đồng"/"điệu hát văn" (làm) "lảo đảo bóng cô đồng"/"điệu hát văn" và "bóng cô đôgng" cùng "lảo đảo",...Câu trên là một hương thơm ảo, màu sắc ảo (hương huệ, hương trầm, màu trắng hoa huệ, màu khói) câu dưới là một hình bóng ảo (cô đồng), một âm thanh ảo (điệu hát văn), bóng cô đồng lảo đảo đi ra từ điệu hát văn, chứ không phải một cô đồng thật (huống hổ lại là "bóng"!). Kí ức của nhà thơ làm sống dậy một không gian say người : say vì hương thơm và âm nhạc, say vì một cái gì thuộc vể tâm linh, ảo diệu. Một cặp câu thơ tạo không gian "nhập đồng". Và đó là cái nhìn của hồi ức, là nét vẽ của hồi ức, phi lí tính. (Nó cũng giống như khi Nguyễn Duy viết vể Đà Lạt một lần trăng : Trăng ảo ảnh lập lờ trong sương trắng Ngọn gió nhà ai thấp thoáng bên đồi Tiếng vó ngựa gõ ròn trên dốc vắng Nghe mơ hồ một tiếng lá thông rơi... Mỗi câu thơ đều tinh đến từng chữ, mà cái tinh cứ tự nhiên như không chút dụng công). Những câu lạ của Đò Lèn chính là những câu thơ đưa dẫn về phía tâm linh, bằng cảm nhận nguyên sơ của con trẻ : Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm "Trong suốt" là một cảm nghiệm tâm linh, hay là một ảo giác, một tín ngưỡng của tâm hồn thơ dại giữa hư - thực, bà - tiên, Phật, thánh, thần ? Thực ra đâu sẽ là hư, đâu là thực ? Người bà cụ thể là thực chăng ? Nhưng cũng là hư khi có bao điều quan trọng mà "tôi đâu biết". Tiên, Phật, thánh, thần,... là hư mà cũng đã từng là thực trong niềm tin tuổi nhỏ. Ở đây, những tương phản tạo thành sức ám ảnh của từ ngữ, hình ảnh thơ như hư - như thực, cái hiện thực (củ dong riềng luộc sượng) - cái tâm linh huyền ảo, hay niềm tin lãng mạn vượt lên hiện thực ấy (mùi huệ trắng, hương trầm thơm). Cái đói là một hiện thực, nhưng nó không giết được cái đẹp. Nó giữ người ta ở trạng thái "trong suốt" - độ trong nhìn xuyên thấu, một trạng thái tồn tại không còn thân thể, một trạng thái hoà nhập tâm linh. Trong suốt chứ không phải trong veo trẻ thơ ("Tiếng ve trong veo xé đôi hồ nước" - Hoàng Nhuận Cầm), không phải trong trắng, trong sạch, trong biếc,... Trong suốt, là một cảm giác tâm linh. Trong dòng hồi ức của người cháu, hình ảnh người bà là một ám ảnh, một niềm vui, một xa xót, một ăn năn,... Trở lại câu hỏi : Người bà là hiện thực hay là hình ảnh của tâm linh ? Nhiều bạn đọc chắc còn nhớ đến người bà tảo tần cùng bếp lửa sưởi ấm tuổi thơ của Bằng Việt: Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. (Bếp lửa) Và đây, người bà cơ cực như biết bao người bà, người mẹ Việt Nam, trong thơ Nguyễn Duy: Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế bà mò cua xúc tép ở đồng Quan bà đi gánh chè xanh Ba Trại Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn. Những địa danh riêng ở đây vẫn đem lại cảm xúc chung vé quê hương nguồn cội ; người bà tuy là của "tôi" nhưng chẳng hề riêng tư. Chỉ với một từ "thập thững", người đọc đã như nhìn thấy những bước chân già nua trong giá rét : thập thững, không phải chập chững (bước chân của đứa trẻ đặt lên mặt đất từng bước một), như có cả hơi thở dồn. Không hoàn toàn giống đôi chân "Bước cao thấp bên bờ tre hun hút" đầy hốt hoảng trong câu thơ Hoàng Cầm, mà là bước đi thường ngày của người già : bước đi lên - xuống theo nhịp quang gánh trĩu xuống, yếu ớt, bước đi gây cảm thương... Nó thành một từ ám ảnh mà âm thanh khi đọc lên đã tạo sắc thái ý nghĩa. "Tôi đâu biết" là một cái giật mình, một nỗi xa xót, như cái giật mình, xa xót của bao nhiêu người con khi nghĩ về mẹ, vé bà - những người đàn bà Viột Nam. Hướng về cuộc đời cơ cực ấy, ngôn ngữ bài thơ cũng chân thực, dung dị. Đó là người bà của đời thường, xa lạ với cái nhìn thi vị, lí tưởng hoá (ý thức này ở Nguyễn Duy rất mạnh, ông thường khắc hoạ hình tượng mẹ theo cách này : "Mẹ ta không có yếm đào - Nón mê thay nón quai thao đội đầu - Rối ren tay bí tay bầu - Váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa"). Độ Lèn còn một hình ảnh về người bà được viên nổi trong không gian hiện thực dữ dội : Bom Mĩ giội, nhà bà tôi hay mất đền Sông hay, bay tuốt cả chùa chiền thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn. Cách dùng khẩu ngữ và giọng suồng sã của đời sống với lối nói "bay mất", "bay tuốt", "rủ nhau đi đâu hết" mang nét nghĩa mai mỉa càng làm rõ cái khốc liệt của chiến tranh. Tác giả không chỉ tạo một cảm giác "sốc" về sự kiện (bom Mĩ giội), mà còn tạo một con "sốc" cảm xúc hẫng hụt ("thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết"),... Chùa chiền, thánh, Phật là huyền thoại, là tín ngưỡng, nhưng cũng vẫn là cái khả biến, hoặc có thể chỉ là cái vỏ của huyền thoại mà tuổi thơ cả tin chẳng thể nhận ra. Vậy đó, chiến tranh, bom Mĩ và sức tàn phá dữ dội của nó làm người ta thấy rõ : chẳng có gì kì diệu hơn sức mạnh của con người, kì diệu sao là sức mạnh của con người bình thường, bé nhỏ : "Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn". Bình tâm như không là cái phi thường nhất trong bối cảnh hiện thực bất thường ấy! Nếu theo mạch cảm hứng của thơ ca thời kháng chiến chống đế quốc Mĩ, có thể hình ảnh này sẽ khơi nguồn cho một huyền thoại mới : huyền thoại về con người. (Chẳng hạn, như đã từng thấy trong thơ Tố Hữu một mẹ Tơm "Bóng mẹ ngồi trông vọng nước non", "Sông trong cát chốt vùi trong cát - Những trái tim như ngọc sáng ngời" ; một mẹ Suốt "Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung - Gió lay như sóng biển tung trắng bờ",...). Nhưng Nguyễn Duy không dừng ở cảm hứng khẳng định sức mạnh kì diệu của con người, không nhập vào dòng huyền thoại để ngợi ca, dù hình ảnh người bà bán trứng ừ ga Lèn xứng đáng là một trong những hình ảnh khắc ghi sâu đậm về con người Việt Nam trong cảnh "bom Mỹ giội" gợi triết lí về cái đời thường và cái lịch sử, cái khả biến và bất biến,... Khổ cuối cùng của bài thư vần đọng kết một nỗi buồn sâu, buồn lâu và một suy ngẫm phổ quát về những kiếp người bình dị, vô danh: Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại dòng sông xưa vẫn bên lở, bên hồi khi tôi biết thương bà thì đã muộn bà chỉ cồn là một nấm cỏ thỏi. Cách kể "Tôi đi lính, lâu khống về quê ngoại" tưởng như lời tự sự bình thường, nhưng ngẫm ra, nó chất chứa trong đó cả một quá khứ, nén dồn thời gian dằng dặc của một cuộc chiến tranh, những nén dồn tâm trạng, vì con người bị cuốn theo dòng cháy lịch sử, không được sống với đời thường. Nhiều người đã biết đến cái "nấm cỏ khâu xanh rì" như một triết lí buồn vể thân phận con người ("Trăm năm nào có gì đâu - Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì" - Cung oán ngâm khúc), hay cái nấm đất "sè sò" của Nguyễn Du bên con dường dập dìu bước chân trai thanh gái lịch như dinh mệnh dành cho ke "hồng nhan đa truân" ("Sè sè nấm đất bên đường - Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh" - Truyện Kiều). Ở Đò Lèn của Nguyễn Duy, cái "nấm cỏ khâu" kia, cái "nấm dât sè sè" ấy, tròn nhỏ lại thành "nấm cỏ" ám ảnh hơn vì nó Việt Nam hơn, và càng ám ảnh khi đặt nó vào dòng thác cuộn chảy của lịch sử. Thiên nhiên thì vẫn vậy "dòng sông xưa vãn bên lỡ, bên bồi", chỉ có con người đã thành hư vô. Những cuộc biến thiên dâu bể tác động mạnh không chỉ đến một dân tộc, đến những cái thuộc về tín ngưỡng của dân tộc, không chỉ làm bay mất cả đền chùa miếu mạo mà cụ thể hơn, máu thịt hơn, nó hằn dấu lên kí ức con người, lên thân phận con người. Từ cách nhìn đó, bài thơ tưởng chừng rất cá nhân (cá nhân đến từ cái nhan đề Dò Lèn) lại mang đậm một cảm hứng lịch sử, một cách nhìn lịch sử, một sự "nhận thức lại lịch sứ". Nằm trong mạch suy ngẫm đó, những tác phẩm tự sự sẽ có tiếng nói lớn hơn (chẳng hạn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh hay một số truyện ngắn mượn chất liệu lịch sử của Nguyẻn Huy Thiệp,...). Tuy nhiên, thư "nói nhó", nói nhẹ và buồn nhưng thấm thìa theo cách riêng. Chuyện thánh thần bay mất... vừa có ý nghĩa tố cáo tội ác kẻ thù (vì tàn phá đến cả tín ngưỡng thiêng liêng) vừa hoá giải huyền thoại của một niềm tin ngây thơ, nông nổi (những cái dó mà cũng "bay mất", "bay tuốt") - nhất là khi ngôn từ thơ dầy chất suồng sã, hài hước thì cảm giác hoá giải huyền thoại càng rõ, vừa để khẳng định sức sống của những con nuười bình thường như "bà tôi" vừa giã từ ảo tưởng về quyển năng thần thánh. Cuối cùng, "bà tôi" cũng như bao con người xứng dáng là huyền thoại ấy lại trở về với "nấm cỏ" vô danh, khiêm nhường, nhỏ bé mà vĩnh hằng. Người ta vốn chỉ quen nhớ lịch sử theo những dấu mốc sự kiện; còn những phần chìm lấp, dễ bị lãng quên, những cá nhân nhỏ bé sẽ được ai nhớ đến nếu không phải thơ ca, không phải nghệ thuật ? Cái buồn ở bài thơ để lại ấn tượng đậm nét hơn cái đẹp, cái lãng mạn tâm linh, nhưng hoàn toàn có cơ sở để tin rằng thánh thần, chùa chiền có thể bay mất, riêng cái mùi hương trầm, huệ trắng vẫn sẽ thơm mãi trong kí ức con người - đó là một sức mạnh tâm linh không gì huỷ diệt được. Quả là sức nén, sức ám ảnh của một bài thơ, có thể đáng sợ hơn một tiểu thuyết, điều này không phải là một cách nói ngoa.
Đặc điểm của truyện Trung Đại .
Giúp mình nhé .
Câu trả lời của bạn
Đặc điểm truyện trung đại:
+ Thường được tính từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX
+ Viết bằng văn xuôi chữ Hán
+ Nội dung mang tính giáo huấn
+ Vừa có loại truyện hư cấu ( truyện Con hổ có nghĩa) và có tryện gắn với ký hay sử ( truyện Mẹ hiền dạy con và truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng)
+ Cốt truyện đơn giản
+ Nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật.
1. Ý kiến của em về hành động của Lục vân Tiên khi cứu Kiều Nguyệt Nga?
2. Hai chi tiết của vua Quang Trung ở trận Ngọc Hồi?
3. Vì sao tác giả lại miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân trước rồi mới miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều?" Làn thu thủy, nét xuân sơn" miêu tả vẻ đẹp gì của Thúy Kiều?
Câu trả lời của bạn
1....Truyện thơ Lục Vân Tiên do nhà nho mù loà Nguyễn Đình Chiểu sáng tác có vị trí cao trong nền văn học Nam Bộ nói riêng và nền văn học dân tộc nói chung. Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga ”để lại nhiều ấn tượng đẹp bởi hình ảnh Lục Vân Tiên -người anh hùng chiến đấu vì nghiã, văn võ song toàn.
Đoạn trích là một trong những đoạn thơ hay nhất của tác phẩm, tiêu biểu cho bút pháp tự sư của Nguyễn Đình Chiểu. Nhân vật Lục Vân Tiên được khắc hoạ thành mẫu người anh hùng lý tưởng tuyệt đẹp :giàu lòng thương người, dũng cảm và nghiã hiệp.
Bản tính anh hùng nghĩa hiệp là đức tính tốt đẹp nhất của Vân Tiên. Từ giã thầy chàng hăm hở xuống núi về kinh đô ứng thí. Trên lộ trình gian nan ấy chàng bất ngờ gặp cảnh dân dắt díu nhau chạy loạn, kêu khóc thảm thương, chàng hứa :
Tôi xin ra sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.
Căm giận lũ bất lương, Vân Tiên sôi sục lên án hành động dã man của chúng. Chàng đứng về phía nhân dân, phía người bị nạn, bẻ cây làm gậy xông thẳng vào bọn cướp Phong Lai hung dữ :
Kêu rằng :Bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.
Đạo lý thương người như thể thương thân, thấm nhuần và toả rạng trong hành động của Vân Tiên. Tình thương người đã nâng cao chí khí và lòng dũng cảm cho chàng thư sinh họ Lục. Bọn cướp đông đặc, gươm giáo sáng ngời, bừng bừng sát khí. Còn Vân Tiên chỉ có một vũ khí thô sơ “cây gậy bên đàng ”. Thế mà trong cuộc chiến không cân sức ấy :
Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dương.
Không tả tỉ mỉ trận chiến, chỉ bằng mấy dòng thơ ngắn gọn mà đặc sắc cùng nghệ thuật so sánh, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh một dũng tướng đánh nhanh, kín võ, sánh ngang Triệụ Tử Long thời Tam Quốc trong trận phá vây quân Tào bảo vệ ấu chúa. Việc làm của Vân Tiên cao đẹp hơn bởi nó xuất phát từ lòng nhân từ, từ tư tưởng cứu dân diệt ác nên giản dị, vô tư mà trong sáng, cao đẹp vô cùng. Cuộc chiến của chàng giống hệt thuở xưa Thạch Sanh diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của chàng là kết tinh sức mạnh của nhân dân, của điều thiện nên nó vô địch :
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Lời thơ chân chất, thô mộc song hồn thơ thì chan chứa dạt dào. Nó nêu bật một chân lý : kẻ bất nhân độc ác thì thảm bại, người anh hùng làm việc nghĩa sẽ chiến thắng.
Tự nguyện dấn thân vào nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ…Tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi Vân Tiên không hề kiêu ngạo. Trái lại chàng thật khiêm nhường, chính trực, chân thành mà dung dị. Cuộc kỳ ngộ giữa người đẹp và trang anh hùng diễn ra thật cảm động. Nguyệt Nga tha thiết muốn mời chàng hiệp sĩ qua miền Hà Khê để nàng báo đức thù công, “ Vân Tiên nghe nói liền cười” – nụ cười đáng yêu đáng kính của một tâm hồn vô tư hào hiệp. Chàng cười bởi chàng quan niệm :
Làm ơn há dễ trong người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Đúng là giọng nói, cách nói của chàng trai Nam Bộ – nôm na, giản dị mà chất phác vô cùng. Đằng sau những lời giản dị ấy là ngọt ngào, thơm thảo một quan niệm nhân sinh, một tấm lòng nhân ái, hào hiệp. Với chàng, ơn nghĩa là việc thông thường của người sống có văn hoá, đang theo đòi kinh sử, hướng về nghĩa khí, lấy chữ nhân làm động cơ, làm mục đích cho mọi hành động. Chàng hành động vì lòng nhân, vì nghĩa lớn, trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện. Chàng quan niệm :
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Lời nói chắc nịch vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường vừa đẻ khẳng định việc làm đúng đắn, tất yếu thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sống của mình. Đó là lẽ sống của những hiền nhân quân tử thời xưa, của con người chân chính ngày nay.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu, nhân vật Lục Vân Tiên mang cốt cách của tráng sỹ thời loạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trọng nghĩa khinh tài, sống và hành động theo phương châm : “Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha ”. Dẫu còn bị ảnh hưởng bởi quan niệm phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân ” song ngôn ngữ, cử chỉ, hành động của chàng rất đẹp, rất anh hùng. Lòng thương người, chí quả cảm và tinh thần vị nghĩa của chàng đậm màu sắc đạo lý của dân tộc ta.
Bằng giọng thơ phóng khoáng, chân mộc và ngôn từ bình dị, đoạn trích đã hoàn thiện một cách xuất sắc hình ảnh chàng Lục Vân Tiên anh hùng, nghĩa hiệp. Có thể nói, Lục Vân Tiên đúng là nhân vật lí tưởng mà Nguyễn Đình Chiểu muốn gửi gắm ước mơ, khát vọng cứu nước giúp đời của mình. Đọc thơ càng thêm trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của nhà nho yêu nước, yêu đạo lý mà người dân Nam Bộ vẫn trìu mến gọi là Đồ Chiểu.
3...Đại thi hào Nguyễn Du đã tả sắc đẹp của 2 Kiều như sau :
" Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây THUA nước tóc , tuyết NHƯỜNG màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy , nét xuân sơn
Hoa GHEN thua thắm , liễu HỜN kém xanh
Mình nhớ cô giáo mình giảng thế này :
Nhà thơ Nguyễn Du đã miêu tả sắc đẹp của Thúy Vân trước để tạo một khái niệm cơ bản về cái đẹp - nét đẹp hoàn mỹ, và qua đó tôn vinh nhan sắc của Thúy Kiều .
Đại thi hào đã rất có ý khi miêu tả Thúy Vân trước " người đẹp như hoa , giọng nói trong sáng như ngọc " : 1 người rất đẹp, một cái đẹp đằm thắm , dịu dàng sang trọng ít ai sánh được, cái đẹp thu hút ngta khi vừa mới gặp , tạo cho ng đối diện cảm giác an lành thu thái khi tiếp xúc khiến cho ai cũng cảm mến và hài lòng , tác giả đã dùng từ " thua " và " nhường " để diễn đạt sự hài lòng mà mọi ng dành cho Vân .
Với Thúy Kiều : tài sắc vẹn toàn và vượt trội . Nàng đẹp - liễu phải HỜN và hoa phải GHEN. Khi đối diện với Thúy Kiều ng khác có cảm giác mình quá thua kém và ghanh tị bởi vì nàng quá xuất sắc, nhà thơ cũng đã có ý nói đến cuộc đời gian truân của Thúy Kiều từ những câu thơ diễn tả sắc đẹp của nàng
1) Hãy tưởng tượng mình là Vũ Nương, kể lại câu chuyện người con gái Nam Xương .
2) Hãy tưởng tượng mình là Trương Sinh, kể lại câu chuyện người con gái Nam Xương.
3) Hãy tưởng tượng mình là Thúy Kiều, hãy kể lại "Cảnh ngày xuân"
4) Hãy tưởng tượng mình là Thúy Kiều, hãy kể lại "Kiều ở lầu Ngưng Bích".
Các bạn lập dàn bài mấy đề trên giúp mk nha!!!! Mai mk phải kiểm tra zòi!!!! Một đề cũng được!!!!
Câu trả lời của bạn
Đề 1:
Đã hơn một năm trôi qua, kể từ khi chàng Trương lập đàn giải oan, tôi hiện về nói lời tạ từ rồi ra đi mãi mãi. Tôi cũng đã bình tâm trở lại mà chấp nhận cuộc sống dưới thủy cung với Linh Phi và các nàng tiên trong cung nước. Tuy nhiên trong sâu thẳm trái tim tôi vẫn không nguôi nhớ trần thế, nhớ quê hương, nhớ cuộc sống gia đình hạnh phúc trước kia, đặc biệt là con trai. Những kỉ niệm ấy vẫn luôn hiện về trong tâm trí tôi.
Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, tuy xuất thân trong gia đình nghèo khó nhưng từ nhỏ đã được cha mẹ dạy bảo đến nơi đến chốn nên hiểu mọi lễ nghĩa, biết cư xử đúng mực. Đến tuổi 18 trong làng đã có vài người đánh tiếng trống hỏi tôi, nhưng vì cha mẹ của tôi không muốn tôi vất vả nên đã nhận 100 lạng vàng rồi gả tôi cho Trương Sinh, con một nhà giàu trong làng, thế là tôi được yên bề gia thất nhưng biết chồng có tính đa nghi, hay ghen, tuy là con nhà giàu nhưng đa nghi ít học nên tôi luôn giữ gìn khuôn phép không từng lúc nào để vợ chồng thất hòa.
Cuộc đoàn viên chưa được bao lâu thì đất nước có giặc. Chồng tôi tuy là con nhà giàu nhưng vì ít học nên phải đi lính loạt đầu. Tôi và mẹ chồng tôi đều rất buồn, trong buổi tiễn đưa mẹ có dặn dò, tôi cũng nói mong chồng ra trận giữ gìn để trở về được bình yên chứ không cần quan cao tước lớn. Chàng nghe vậy xúc động không nói lên lời dứt áo ra đi. Sau khi chồng đi được mươi ngày thì tôi sinh hạ một đứa con trai đặt tên là Đản rồi một mình vừa chăm sóc con, một lòng thủy chung chờ đợi mong chồng sớm về đoàn tụ.
Nhưng mẹ chồng tôi vì thương nhớ con trai mà sinh bệnh. Tôi hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật rồi khuyên như mong mẹ chóng khỏe. Song vì tuổi già bệnh nặng, vận trời khó tránh nên mẹ chồng tôi qua đời. Tước khi mất bà nói: "Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đầy đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Tôi hết lòng thương xót, lo ma chay tế lễ như với cha mẹ đẻ của mình.
Qua năm sau, giặc tan, chồng tôi trở về bình yên đúng như mong đợi, khi buồn vì mẹ không còn nhưng tôi hy vọng gia đình sẽ hạnh phúc như xưa. Nhưng bé Đản vì chưa gặp cha bao giờ nên không chịu nhận dù tôi đã hết sức dỗ dành, có lẽ là còn trẻ con nên ương bướng. Ngay hôm sau, chàng bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng tổ tiên tạ ơn vừa để báo cho mẹ biết chàng đã về, cho mẹ yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn tụ. Không ngờ ngày vui ngắn chẳng tày gang, buổi trưa hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời tra hỏi tôi trong thời gian chàng đi xa tại sao làm chuyện xấu xa thất tiết trái đạo lý... tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi đã giải thích cho chàng hiểu: tôi nói đến thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết. Tôi cũng cầu mong van xin chống đừng nghi oan để cứu vãn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ.
Nhưng chàng không tin, hỏi chuyện kia do ai nói chàng cũng không nói. Làng xóm bênh vực cho tôi cũng chẳng ăn thua gì, chàng vẫn một mực mắng mỏ rồi đuổi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực vì tai họa bất ngờ ập đến nên cố bày tỏ nhưng chàng vẫn lạnh lùng không thay đổi. Biết rằng người có tính cách như chàng thật khó giải thích nên tôi tắm gội chay sạch, suy nghĩ trước sau thấy rằng cuộc đời thật không có ý nghĩa, bao nhiêu vất vả với gia đình, ngay cả tấm lòng thủy chung một mực chăm lo cho mẹ già, con trẻ nhưng bây giờ cũng bị phủ nhận không thương tiếc. Tôi không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan. Tôi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. Nhưng các nàng tiên trong cung nước thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung.
Một hôm tôi gặp Phan lang, người cùng làng trước đây có ơn với Linh Phi nên khi gặp nạn đã được Linh Phi cứu. Phan Lang kể chuyện cho tôi: "Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau mọi người nghe chàng ân hận kể lại rằng: một hôm phòng không vắng vẻ chợt đứa con chỉ cái bóng trên tường của chàng nói là cha Đản. Chàng lúc ấy mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi".
Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa thương chồng con vì không ai chăm sóc. Không kiên nhận tìm hiểu nguyên nhân mà quá đau đớn tuyệt vọng mà dẫn tới cái chết. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, ban đầu tôi đã nói không còn mặt mũi nào quay lại nữa nhưng sau đó vì nhớ quê hương, chồng con, lại mong muốn được giải oan, phục hồi danh dự nên tôi lại nói sẽ quay trở về. Hôm sau Phan Lang trở về dương thế, tôi gửi theo chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương tôi sẽ có ngày trở về dương thế. Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Hoàng Giang với tình cảm chân thành hối lỗi và thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi có ý khuyên tôi nên về với chồng con nhưng tôi vì có nghĩa với Linh Phi và lại hạnh phúc gia đình tan vỡ khó hàn gắn nên không muốn trở về.
Đến ngày thứ ba, giữa trốn trần gian mịt mù khói tỏa thì Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất.
Chuyện của gia đình tôi là câu chuyện buồn: dù quá khứ đã lùi xa nhưng có lẽ những người trong cuộc vẫn bị ám ảnh day dứt. Riêng bản thân tôi dù đã sống cuộc sống trần gian, nhớ chồng con vẫn chôn kín ở trong lòng khó có thể diễn tả bởi chính cuộc sống ấy đã đẩy tôi đến cái chết. Hy vọng rằng đừng đình nào rơi vào bi kịch.
Trong bài thơ "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử viết:
"Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi"
a) Đọc 2 câu thơ trên em liên tưởng tới những câu thơ nào đã học trong chương trình Ngữ Văn 9, hãy chép chính xác các câu thơ đó và cho biết các câu thơ trích trong tác phẩm nào? Của tác giả nào?
b) Vẻ mùa xuân của các tác giả có gì giống nhau và khác nhau? (Trình bày dưới dạng 1 đoạn văn, so sánh điểm giống và khác nhau.)
Câu trả lời của bạn
a) Đọc 2 câu thơ trên em liên tưởng tới những câu thơ:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm 1 vài bông hoa
Trích bài cảnh ngày xuân trong tác phẩm ''Truyện Kiều''- Nguyễn Du
b) hay để tối đi
hãy so sánh sự khác nhau giữa 2 hình tượng chiến sĩ trong thời kì chống Pháp ( đồng chí) và chống Mỹ ( bài thơ về tiểu đội xe không kính): về hoàn cảnh, lí tưởng, tinh thần, ý chí.
giúp mình!!! mình cần gấp!! thankssssss
Câu trả lời của bạn
Về đề tài: Dên tộc ta đứng lên tiến hành hai cuộc chiến tranh cách mạng oanh liệt chống Pháp và chống Mĩ. Lẽ tất nhiên, ở đất nước hơn ba mươi năm chưa rời tay súng. Hình ảnh anh “Bộ đội Cụ Hồ” là hình ảnh “con người đẹp nhất” đáng yêu nhất trong văn thơ và là niềm tự hào lớn của dân tộc.
về tác phẩm: Cùng với nhiều bài thơ khác, bài thơ Đồng chí sáng tác vào đầu năm 1948 khi tác giả Chính Hữu chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc, Bài thơ về tiểu đội xe không kính sáng tác năm 1969 khi tác giả Phạm Tiến Duật tham gia hoạt động ở tuyến đường Trường Sơn đã khắc họa thành công về đề tài người lính.
Về luận đề: Hình tượng anh bộ đội được ghi lại trong hai bài thơ đã lưu giữ trong văn chương Việt Nam hai gương mặt đẹp, đáng yêu của người lính trong hai thời kì lịch sử.
Ý 2: Phân tích lịch sử
Những điểm chung: Đây là người lính của nhân dân nên họ cùng mang những vẻ đẹp chung:
Yêu nước, yêu quê hương, yêu đồng chí:
Có thể phân tích các câu thơ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” (Đồng chí) và “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước” (Bài thơ về tiểu đội xe không kính).
Có thể phân tích cử chỉ nắm tay chất chứa bao tình cảm không lời trong cả hai bài thơ thể hiện sự gắn bó tình đồng chí.
Vượt qua mọi khó khăn gian khổ để quyết tâm tiêu diệt giặc hoàn thành nhiệm vụ:
Tất cả những khó khăn gian khổ, thử thách được tái hiện bằng những chi tiết hết sức thật, không né tránh tô vẽ trong cả hai bài thơ.
Thế mà, các chiến sĩ đều có một tư thế ngoan cường “chờ giặc tới”, “ung dung nhìn thẳng”.
Lạc quan tin tưởng: Cả hai bài thơ đều thể hiện tinh thần lạc quan của người lính. Từ “miệng cười buốt giá” của anh bộ đội kháng chiến chống Pháp đến “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” của anh lính lái xe thời chống Mĩ đều thể hiện tinh thần lạc quan, khí phách -anh hùng.
Những điểm riêng khác nhau:
Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu thể hiện người lính nông dân thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc mà sáu sắc. Tình đồng chí thiêng liêng hòa quyện với tình cảm giao tiếp khi lí tưởng chiến đấu đã rực sáng trong tâm hồn.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật thể hiện người lính lái xe trong cuộc kháng chiến chống Mĩ với vẻ đẹp trẻ trung, ngang tàng. Đây là thế hệ những người lính có học vấn, có bản lĩnh chiến đấu, có tâm hồn nhạy cảm, có tính cách riêng mang chất “lính” đáng yêu. Họ tất cả vì miền Nam ruột thịt với trái tim yêu nước cháy bỏng.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Ý 3: Đánh giá chung:
Hình tượng người lính dù ở thời kì kháng chiến chống Pháp hay kháng chiến chống Mĩ đều mang phẩm chất cao đẹp của “anh bộ đội Cụ Hồ” thời đại đã cung cấp cho các nhà thơ những nguyên mẫu đẹp đẽ, họ tạo nên những hình tượng làm xúc động lòng người. Viết về những người lính, các nhà thơ nói về chính mình và những người đồng đội của mình. Vì thế, hình tượng người chân thật và sinh động.
Cho đoạn văn sau:
” Việc của chúng tôi là ngồi đây. Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Người ta gọi chúng tôi là tổ trinh sát mặt đường. Cái tên gợi sự khát khao làm lên những sự tích anh hùng. Do đó, công việc cũng chẳng đơn giản. Chúng tôi bị bom vùi luôn . Có khi bò trên cao điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp lánh. Cười thì hàm răng trắng lóa lên khuôn mătj nhem nhuốc. Những lúc đó, chúng tôi gọi nhau là” những con quỷ mắt đen”.”
1. Đoạn văn trên là lời của nhân vật nào? Tại sao tác giả không để nhân vật xưng “tôi” mà xưng “ chúng tôi”? Qua lời kể của nhân vật giúp em hiểu gì về cuộc sống và công việc của tổ trinh sát mặt đường?
2. Xác định câu có chứa thành phần khởi ngữ trong đoạn văn trên?Câu trả lời của bạn
- lời của PĐ, xưng '' chúng tôi'' vì công việc phá bom là công việc chung của 3 cô gái,hiện ra một khung cảnh chiến trường ác liệt đầy rẫy những nguy hiểm.
-'' Do đó, công việc cũng chẳng đơn giản.''
( cho xin 1 like nha)
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *