Qua đoạn trích giúp các em học sinh hiểu được lòng nhân đạo của Nguyễn Du, ông khinh bỉ và căm phẫn sâu sắc bọn buôn người, đau đớn, xót xa trước thực trạng con người bị hạ thấp, bị chà đạp. Bài học khắc họa tính cách, miêu tả diện mạo, cử chỉ của nhân vật.
⇒ Vẻ ngoài chải chuốt, không phù hợp với lứa tuổi, cử chỉ và thái độ bất lịch sự tơ trẽn, hỗn láo.
⇒ Bút pháp tả thực, cùng các từ tượng hình, tượng thanh làm cho Mã Giám Sinh hiện lên là kẻ giả dối, lố bịch, vô học, mất lịch sự, kém văn hóa.
⇒ Tâm trạng tàn tạ, đau khổ, xấu hổ, tiểu tụy.
⇒ Tác giả thể hiện niềm cảm thương sâu sắc trước thực trạng con người bị hạ thấp, bị chà đẹo. Nhà thơ như hóa thân vào nhân vật để nói lên nỗi tủi hổ, đau đớn của Kiều
Nội dung
Nghệ thuật
Đề: Phân tích Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều của Nguyễn Du.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
3. Kết bài
Mã Giám Sinh mua Kiều là đoạn trích nằm ở phần hai của Truyện Kiều (Gia biến và lưu lạc). Đoạn trích kể về việc Kiều phải bán mình để chuộc cha và em. Đứng trước cảnh "cò kè", "ngả giá" của Mã Giám Sinh, Kiều trở thành một món hàng không hơn không kém. Để nắm được những nội dung cần đạt khi học tiết học này, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Mã Giám Sinh mua Kiều.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Những ngày tháng “trướng rũ màn che” của Thúy Kiều đã chấm dứt vì nỗi oan của gia đình. Trước biến cố gia đình bị thằng bán tơ vu oan, Kiều đã quyết định bán mình để lấy tiền chuộc cha và em trai. Cũng từ sự kiện này mà cuộc đời mười lăm năm lưu lạc ở nơi đất khách quê người của Kiều bắt đầu. Để cảm nhận về đoạn thơ một cách sâu sắc, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Viết một đoạn văn trình bày suy nghĩ về đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều
- Suy nghĩ về thân phận Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều
- Phân tích nhân vật Mã Giám Sinh trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều
- Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Xưa có một người thiếu nữ nổi tiếng khắp kinh thành bởi nhan sắc không ai sánh bằng và tài năng toàn vẹn cầm, kỳ, thi, họa. Đó chính là Thúy Kiều. Nàng là con của một gia đình trung lưu lương thiện cùng hai em là Thúy Vân và Vương Quan. Nhưng trớ trêu thay, gia đình nàng bị mắc oan, cha nàng là Vương ông bị bắt. Giữa hoàn cảnh éo le đó, nàng đã chọn chữ hiếu để trọn đạo làm con. Kiểu đã quyết định bán mình chuộc cha, mà kẻ mua nàng chính là Mã Giám Sinh - một tên buôn người có tiếng.
Mụ mối mà Kiều nhờ đã hoàn thành giao ước, mụ đã dẫn Mã Giám Sinh đến mua Kiều. Màn chào hỏi, vấn danh diễn ra thật chóng vánh:
- Mã Giám Sinh - Hắn xưng tên.
- Huyện Lâm Thanh - Hắn trả lời như vậy khi được hỏi đến quê quán.
Nhìn đến vẻ bề ngoài cũng đủ thấy hắn là một kẻ giả dối, xấu xa. Đã khoảng bốn mươi mà trông hắn vẫn ăn diện, ra vẻ trai lơ, không có gì là đĩnh đạc, đường hoàng. Người hầu kẻ hạ của hắn thì nhiều, ra vào không ngớt. Ngay hắn thôi cũng thể hiện sự vô học qua lời ăn, tiếng nói cộc lốc, giả dối. Hắn đến gia đình Kiều như thể đến nhà hắn vậy. Không thèm chào hỏi, mời mọc, hắn ngồi ngay ở ghế trên - chiếc ghế chỉ dành cho người chủ của gia đình. Trong khi kẻ ỷ thế đồng tiền còn đang ra vẻ quan lớn thì mụ mối đã nôn nóng giục Kiều ra mắt. Bề ngoài có vẻ như Mã Giám Sinh đến hỏi vợ, nhưng thực chất đó lại là một cuộc mua bán người. Kiều rõ điều đó hơn ai hết nên nàng sao có thể vui được. Gia đình gặp họa, mỗi người mỗi ngả, thân nàng thì phải bán mình chuộc cha. Nàng nhớ biết bao những ngày gia đình sum họp, những khoảnh khắc bên người đã cùng hẹn ước trăm năm. Nhưng những ngày đó đã qua rồi. Giờ đây, nàng bước ra gặp Mã Giám Sinh mà trong lòng cảm thấy sợ hãi, rụt rè. Kiều buồn nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp vốn có. Nàng mảnh dẻ, yếu ớt như cây mai, cây trúc trước cơn gió lớn, khác gì cây liễu trước ngọn sóng to. Phần Kiều là vậy, còn về phần Mã Giám Sinh thì khác, vốn là kẻ buôn người nên hắn ngắm nhìn, đắn đo về Kiều như lật qua lật lại mớ rau xem kỹ để mua. Hồi lâu sau, hắn mới thử tài Kiều. Hắn bắt Kiều phải chơi đàn nguyệt, làm thơ trên quạt cho hắn nghe. Hắn xem Kiều tấu lên bản nhạc buồn ai oán cùng bài thơ than phận trách trời, thật đáng thương. Nhưng Mã Giám Sinh không thèm để ý đến điều đó, hắn nhận thấy Kiều là một món hàng hiếm có, chắc chắn sẽ đem lại nhiều món hời nên chẳng ngại gì mà đồng ý mua ngay. Bằng giọng điệu của kẻ buôn người chuyên nghiệp, hắn hỏi giá:
- Xưa nay mua ngọc đến Lam Kiều, nay đây cũng vậy. Thật là một người sắc khó ai sánh bằng, tài hiếm ai bì kịp. Vậy sính nghi là bao?
Mụ mối thấy vậy khấp khởi mừng thầm, phen này sẽ được đổi đời, giàu to. Mụ ra giá ngay:
- Thúy Kiều vốn là quốc sắc thiên hương, chẳng may gặp gia biến, được để ý tới nên cũng không dám giấu, đáng giá nghìn vàng không hơn không kém.
Quả đúng là một cái giá cao, Mã Giám Sinh chưa vội trả giá ngay. Hắn và mụ mối kẻ bớt một, kẻ thêm hai, cò kè một hồi lâu mới được cái giá ngoài bốn trăm, tức là chưa được một nửa giá đầu. Thế mới tường tận đây là hai kẻ chỉ biết đến đồng tiền. Thật xót xa thay cho thân Kiều tội nghiệp. Vậy là từ đây, Kiều bước vào một cuộc đời sóng gió, ba chìm bảy nổi, lưu lạc khắp bốn phương.
Câu trả lời của bạn
Người ta đã nói nhiều về tài miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Trong Truyện Kiều, dù là nhân vật chính diện hay phản diện đều rất sinh động. Chỉ bằng một vài nét chấm phá nhân vật của ông hiện ra trước mắt người đọc một cách cụ thể cả ngoại hình lẫn nội tâm. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều đã phần nào chứng minh tài năng miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Chân tướng tên buôn thịt bán người cứ lộ dần qua màn kịch ngắn này.
Mã Giám Sinh xuất hiện với tư cách là một "viễn khách". "Viễn khách" là người khách từ phương xa đến. Ngay từ đầu người khách từ phương xa đến này đã có một chút đáng ngờ:
Hỏi tên rằng: "Mã Giám Sinh''
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Cách trả lời nhát gừng, cộc lốc ấy đã hé cho ta thấy người "viễn khách" này chẳng mấy lịch sự. Cách trả lời ấy hoàn toàn xa lạ với một người có học như y tự xưng: sinh viên trường Quốc Tử Giám. Ngay việc y chỉ nói họ mà không nói tên đã chứng tỏ y muốn che giấu tung tích của mình. Hỏi quê quán y cũng trả lời qua quýt cho xong chuyện. Chân tướng Mã Giám Sinh bộc lộ dần qua cách Nguyễn Du miêu tả ngoại hình của y:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
"Trạc ngoại tứ tuần" là đã ngoài bốn mươi tuổi. Thời bấy giờ là ở vào tuổi không còn trẻ nữa, thế mà y vẫn "mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao". Tác giả cố ý làm nổi bật mâu thuẫn giữa tuổi tác và cách tỉa tót, chải chuốt, cách ăn diện quá mức của y. Những từ "nhẵn nhụi', "bảnh bao" không chỉ thể hiện được vẻ kệch cỡm của Mã Giám Sinh mà còn kín đáo bộc lộ thái độ châm biếm của Nguyễn Du. Cách ăn mặc "bảnh bao" của y càng chứng tỏ y chẳng phải là một sinh viên trường Quốc Tử Giám hào hoa phong nhã. Hình như y đang cố che đậy một điều gì, qua cách tỉa tót, chải chuốt và ăn diện quá mức ấy. Nhưng dù cố che đậy, bản chất vỏ bọc của y vẫn cứ lòi ra:
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
"Trước thầy sau tớ" có vẻ rất đàng hoàng, trịnh trọng, nhưng sao lại "lao xao"? "Lao xao'' là ồn ào, lộn xộn mất trật tự. Cả tớ lẫn thầy đều chẳng giữ ý tứ khi vào nhà Vương ông. Vừa vào đến nơi Mã Giám Sinh đã "ngồi tót' ở "ghế trên" một cách "sỗ sàng". Động tác ngồi của y càng chứng tỏ y là kẻ vô học trịch thượng hợm hĩnh. Một người thực sự là sinh viên trường Quốc Tử Giám ít nhất phải thanh nhã như Kim Trọng, đi đứng, ăn nói từ tốn, lịch sự như Kim Trọng:
Nẻo xa mới tỏ mặt người
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
Mã Giám Sinh hoàn toàn ngược lại: y nói năng cộc lốc, ăn mặc kệch cỡm, đi đứng láo nháo, hợm hĩnh,... Tất cả đã cho ta hiểu con người của y. Nguyễn Du không dừng lại ở đó, ông còn tiếp tục lột trần chân tướng Mã Giám Sinh. Trước "nét buồn như cúc, điệu gầy như mai"của Kiều, y chẳng một chút động lòng trắc ẩn. Ngược lại y còn bắt Kiều làm thơ, gảy đàn để y "đắn đo cân sắc cân tài'. Sau đó y mặc cả. Y xem Kiều chi là món hàng không hơn không kém. Đầu tiên y còn làm bộ là người có chữ:
Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?
Sau đó y lộ nguyên hình là một tên "buôn thịt bán người" sành sỏi:
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Từ "đáng giá nghìn vàng" y "cò kè" thêm, bớt chỉ còn "bốn trăm". Nghĩa là chưa được một nửa... Điều đó chứng tỏ y rất thủ đoạn trong việc mua bán. Mã Giám Sinh đã nắm được tình thế của gia đình Vương ông, y đã tìm cách hạ giá hàng đến mức thấp nhất. Khi màn kịch khép lại cũng là lúc chiếc mặt nạ bị lột trần. Mã Giám Sinh chẳng cần trá hình là một sinh viên trường Quốc Tử Giám nữa. Y đã hoàn thành vai diễn của mình:
Định ngày nạp thái vu quy,
Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong!
Tính cách con buôn lừa đảo, giả dối, xảo trá, kệch cỡm của Mã Giám Sinh được Nguyễn Du khắc họa khá cụ thể và sinh động. Tính cách đó được thể hiện chủ yếu qua việc miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ và hành động nhân vật. Bằng những từ ngữ chọn lọc có sức gợi, sức biểu cảm cao, Nguyễn Du vừa lột trần được bản chất xấu xa của tên buôn thịt bán người họ Mã vừa bộc lộ thái độ châm biếm khinh ghét của mình đối với hạng người bịp bợm, hợm hĩnh, thô lỗ ấy. Chỉ qua màn kịch ngắn này, chúng ta cũng hiểu phần nào tài năng miêu tả nhân vật của đại thi hào Nguyễn Du.
Câu trả lời của bạn
Tác phẩm Truyện Kiều là một tác phẩm bất hủ gắn liền với tên tuổi của đại thi hào Nguyễn Du. Truyện tập trung xoay quanh cuộc đời sóng gió của Kiều, cũng là cuộc đời của bao người phụ nữ trong thời phong kiến. Họ luôn phải chịu nhiều cay đắng, tủi nhục từ bọn người bất nhân, vô lương tâm dùng đồng tiền của mình chà đạp lên quyền sống của họ. Trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã lột tả trần trụi thân phận của nàng Kiều là một trường hợp tiêu biểu cho chế độ thời ấy.
Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai (gia biến và lưu lạc). Sau khi bị thằng bán tơ vu oan, gia đình Thúy Kiều lâm vào cảnh tan tác, đau thương. Của cải bị cướp đoạt, cha và em trai Kiều bị lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” bắt bớ, khảo tra, đánh đập dã man. Cái giá mà chúng đưa ra thật là khủng khiếp: “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Kiều đành gạt nước mắt, gác mối tình đầu đẹp đẽ với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em ra khỏi chốn lao tù.
Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều. Đoạn trích là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh của cuộc đời Kiều kéo dài suốt mười lăm năm.
Cái tin Kiều muốn bán mình đã gây xôn xao dư luận cả một vùng rộng lớn vì không ai không biết đến nàng một người con gái nức tiếng tài sắc vẹn toàn. Mã Giám Sinh đã nhờ người mai mối dẫn đến nhà để cưới nàng làm vợ lẽ.
Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả chung chung mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật. Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ biết hắn là người từ phương xa tới (“viễn khách”). Hỏi hắn thì hắn trả lời cộc lốc, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi:
“Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Hai câu mà chỉ cung cấp được một thông tin nhỏ là hắn mang họ Mã. Còn tất cả đều mập mờ, không rõ ràng. “Giám Sinh” là tên gọi chung của các sinh viên trường Quốc tử giám chứ không phải là tên riêng. Còn “huyện Lâm Thanh” rộng bao la, ai biết hắn ở chỗ nào, gia thế ra sao?. Cách nói năng của Mã đã bộc lộ một phần về con người hắn. Hắn chẳng có chút gì là nho nhã, thanh lịch của một chàng “giám sinh”, hạng người có học.
Nguyễn Du đã chụp cận cảnh làm rõ bộ mặt và trang phục của Mã:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Bộ mặt mày râu nhẵn nhụi dĩ nhiên là thiếu tự nhiên, râu cạo nhẵn, lông mày tỉa tót rất trai lơ. Từ “nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ trẽn, phẳng lì. Áo quần bảnh bao là áo quần trưng diện, cũng thiếu tự nhiên, Hai chữ “bảnh bao” thường dùng để khen áo quần trẻ em chứ ít dùng cho người lớn”. Phủ một lớp hào nhoáng lên vẻ ngoài nhân vật, tác giả đã chế giễu, mỉa mai tên buôn người họ Mã. Sự đả kích ngầm càng sâu cay hơn khi một người đã “trạc ngoại tứ tuần” (sắp lên lão) lại tỉa tót công phu, lại cố tô vẽ cho mình ra dáng trẻ trung như trai mới lớn. Chân dung của y còn rõ nét qua hành động. Chỉ một câu: “Trước thầy sau tớ lao xao”
Nguyễn Du đã tô đậm cái cung cách đi hỏi vợ lạ đời của Mã Giám Sinh. Thầy tớ hắn có khác chi một lũ người ô hợp, nhốn nháo, lộn xộn, lưu manh lấc cấc.
Đặc biệt hành động thô lỗ, sỗ sàng của một kẻ vô học, đội lốt người học trò trường Quốc tử giám, đã hiện lên khá rõ qua chi tiết: “Ghế trên ngòi tót sỗ sàng”.
“Ghế trên” là ghế ở vị trí trang trọng, dành cho bậc cao niên, bậc huynh trưởng, bậc đáng kính. Kẻ đi hỏi vợ là bậc con cái mà lại “ngồi tót” thì thật chướng mắt, vô lễ.
Bản chất con buôn của Mã Giám Sinh bộc lộ đầy đủ hơn trong cuộc mua bán Kiều. Miệng nói những lời hoa mỹ:
Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều”
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Nhưng hành động của y lại hoàn toàn trái ngược. Một loạt các từ “cò kè, thêm bớt, ngã giá…” đã chứng tỏ Mã Giám Sinh là một kẻ buôn người sành sỏi, lọc lõi. Y đã lộ nguyên hình là một con buôn sành sỏi. Mã Giám Sinh đâu còn là người học trò trường Quốc tử giám như đã xưng danh. Mặc dù ăn mặc chải chuốt, nói những lời hoa mỹ, ra vẻ lịch sự nhưng dần dần bản chất xấu xa, đê tiện, giả dối của y đã lộ rõ.
Với bút pháp kết hợp giữa kể và tả, bằng một số nét phác họa về mối quan hệ mờ ám, vẻ ngoài chải chuốt, nói năng vô lễ, cử chỉ vô học, hành động vô lương, Nguyễn Du đã khắc họa sắc nét hình tượng Mã Giám Sinh, kẻ buôn người, từ ngoại hình đến tính cách. Mã Giám Sinh trở thành một điển hình bất hủ cho sự đê tiện, tàn ác.
Nói đến Kiều trong toàn bộ cuộc mua bán này, Nguyễn Du đã để cho Kiều câm lặng, không nói được một lời nào. Nỗi đau đớn, thẹn thùng, xót xa tủi hổ ê chề đã lên đến đỉnh điểm. Từ một người con gái, gia đình phong lưu, “Kín cổng cao tường”, nay biến thành một món hàng dưới bàn tay bẩn thỉu của mụ mối và Mã Giám Sinh, làm sao không khỏi đau đớn cho được.
Nguyễn Du đã sử dụng một loạt hình ảnh ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng, lấy thiên nhiên làm chuẩn mực, để diễn tả tâm trạng của Kiều khác hẳn với đoạn miêu tả Kiều trong cuộc mua bán ở “Kim Vân Kiều truyện”, từ đầu đến cuối, Kiều tuyệt nhiên không nói một lời. Điều đó chứng tỏ sự sáng tạo của Nguyễn Du, sự am hiểu sâu sắc và thấu đáo tâm lý nhân vật của đại thi hào.
Nguyễn Du không đưa ra một lời nhận xét, đánh giá trực tiếp nhưng qua một loạt các hình ảnh, từ ngữ miêu tả dáng vẻ, tâm trạng Kiều “Ngại ngùng dợn gió e sương…..mặt dày”, “nét buồn……..như mai” chúng ta cũng cảm nhận được sự cảm thông, xót xa cho người con gái đẹp tài hoa nhưng đã bị những thế lực hắc ám trong xã hội phong kiến (bọn buôn thịt bán người, thế lực đồng tiền) chà đạp, biến thành một món hàng giữa chợ.
Nguyễn Du đã thành công trong việc khắc hoạ nhân vật chính diện và phản diện và sự am hiểu của sâu sắc tâm lý nhân vật của ông trong tác phẩm. Ông đã phơi bày một cách chân thật bản chất đê tiện, xấu xa của Mã Giám Sinh đồng thời lên án xã hội phong kiến, tố cáo gay gắt sự tàn nhẫn của đồng tiền và những kẻ xấu xa đã chà đạp lên tài sắc và nhân phẩm của người phụ nữ.
Câu trả lời của bạn
Tôi là Vương Thúy Kiều, con gái đầu lòng của Vương Viên Ngoại. Khi viết những dòng này, gia cảnh nhà tôi đang lâm vào cảnh khốn cùng. Tất cả cũng là do tên bán tơ đã vu oan cho gia đình tôi chứa hàng quốc cấm. Bọn quan lại nghe lời vu oan của hắn, chưa kịp điều tra rõ ràng, đã bắt nhốt cha và em tôi. Còn bọn quan nha được dịp, trong lúc lục soát nhà tôi, đã vơ vét bao nhiêu tiền của. Giờ đây, cha và em tôi đang lâm vào tình trạng khốn khó, không có ba trăm lạng bạc thì làm sao cứu được họ đây. Trong hoàn cảnh này, tôi biết kiếm đâu ra ba trăm lạng bạc đây? Suy nghĩ mãi, và rồi, chẳng còn cách nào khác, tôi đành quyết định bán mình chuộc cha và em, đành phải phụ tình chàng Kim Trọng. Câu chuyện tôi bán mình chuộc cha và em có vẻ là đề tài nóng hổi cho cả vùng, từ xa đến gần, mọi người cứ xôn xao bàn tán…
Từ hôm ấy trở đi, chẳng hôm nào tôi có thể ăn được một bữa ngon, ngủ được một giấc yên lành. Cứ vừa chợp mắt, tôi lại nghĩ đến những ngày tiếp theo của cuộc đời mình, rồi sẽ ra sao đây. Tôi sẽ phải sống cuộc sống như thế nào trong suốt quãng đời con lại, khi không còn được sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ, khi không còn chơi đùa vui vẻ cùng hai em nữa? Chắc tôi sẽ nhớ lắm, nhớ những ngày tháng êm đềm, trướng rũ màn che, nhớ những buổi chơi xuân cùng các em, và nhớ gia đình tôi nhiều lắm. Và rồi ai sẽ thay tôi chăm sóc cho ba mẹ? Họ cũng đã lớn tuổi rồi, lỡ có đau ốm mà không có tôi bên cạnh, họ sẽ phải làm sao. Rồi bất giác nghĩ đến người mình sắp phải lấy làm chồng, sẽ là ai đây, một người xa lạ nào đó, người mà tôi còn chưa hề biết mặt, người mà tôi không có một chút gì gọi là tình yêu cả. Càng nghĩ, tôi lại càng buồn. Nhìn ra cửa sổ ngắm nhìn ánh trăng sáng, tròn vằng vặc, trăng như đang soi rọi vào lòng tôi. Trăng đêm nay sáng quá! Nhưng sao cảnh vật lại có vẻ buồn bã và tiêu điều vậy nhỉ?
Bất giác, cái kỉ niệm ngày hôm đó chợt ùa về, vây lấy tôi, kỉ niệm vào cái đêm trăng rằm, tôi và Kim trọng đã cùng nhau uống chén rượu thề, cùng nhau hẹn ước sẽ thủy chung đến trọn đời. Vậy mà giờ đây, tôi đã phụ chàng. Chắc chàng sẽ giận tôi lắm, nhưng tôi nào còn cách khác. Mọi cảm xúc trong tôi giờ đây rối như tơ vò, đan lại vào nhau như một mê cung huyền bí mà tôi không cách nào có thể thoát ra được. Lo lắng. Bồn chồn. Và rồi, ngày đó cũng đến.
Ngày hôm đó. Trời không đẹp và sáng như mọi ngày. Mọi vật xung quanh như đều mang một vẻ lạnh lùng, u ám đến lạ thường. Trời u ám hay do lòng tôi đang u ám? Tôi cũng chẳng rõ. Nhưng rõ ràng, lòng tôi giờ đây đau lắm, trái tim tôi như muốn nổ tung ra khi nghĩ đến việc sắp phải làm vợ lẻ của người khác. Ngồi trong buồng, tôi cũng đã nghe được sự ồn ào của hắn ta cùng bọn hầu cận từ đằng xa đang đi lại. Nào là kèn, trống, láo nháo như một bọn tàn quân chẳng theo hàng ngũ gì, hệt như một gánh xiếc rong, chẳng có tôn ti trật tự. Tôi cũng chẳng rõ có chuyện gì xảy ra lúc đó, chỉ được nghe cô hầu gái kể lại trong lúc tôi đang ngồi trong buồng:
- Tiểu thư biết không, khi phu nhân hỏi tên hắn, hắn chỉ trả lời cộc lốc vỏn vẹn ba chữ: "Mã Giám Sinh", cứ như tát nước vào mặt vào mặt phu nhân vậy. Rồi khi hỏi đến quê, hắn ta cũng chỉ trả lời y như vậy: "Huyện Lâm Thanh cũng gần". Lúc đó, em thấy bà mối nhìn hắn, giật tay áo của hắn có vẻ như hắn đã nói sai sự thật vậy. Mà mới vào nhà, hắn đã tót lên ngồi ngay ghế trên. Ai nấy cũng khó chịu mà chẳng dám nói gì. Chắc họ cũng hiểu chỉ có hắn mới có tiền để cứu lão gia và công tử.
Lòng tôi giờ đây còn tâm trí đâu mà nghe kể chuyện. Nhưng những điều hắn lắm vẫn khiến tôi phải suy nghĩ và cảm thấy thật khó chịu. Giám Sinh ư? Đó chẳng phải là tên gọi những học trò ở Quốc tử giám hay sao? Sao cách ăn nói của hắn thô lỗ, thiếu lễ nghi, hành động của hắn cứ như một kẻ vô học vậy. Còn nữa, tôi nhớ bà mối đã giới thiệu hắn là người ở phương xa tới kia mà. Vậy mà bây giờ hắn lại bảo quê hắn cũng gần. Thật đúng là một kẻ mập mờ, khó tin. Cảm thấy khó chịu vô cùng, tôi vẫn cố nén lại trong lòng. Vì rõ ràng, hắn chính là cơ hội duy nhất để cứu cha và em tôi. Tôi phải cố gắng nhấn nhịn, không thể để cha và em phải chịu khổ trong chốn lao tù được nữa. Tôi đang miên man trong dòng suy nghĩ thì người hầu gái lại nói tiếp:
- Chưa hết đâu, cái cách ăn mặt của hắn cũng rất khó coi nữa. Nhìn qua, chắc hắn cũng đã ngoài bốn mươi rồi. Vậy mà mặt mày nhẵn thín, không có lấy một sợi râu. Ăn mặc thì lòe loẹt, lố lăng, bộ quần áo của hắn trông như những anh thanh niên chốn phong lưu vậy.
Nghe vậy, tôi lại càng khó chịu hơn. Đã hơn bốn chục tuổi mà còn ăn mặc như thế, thật chẳng đứng đắn chút nào! Một kẻ như vậy có thể là một phu quân tốt được chăng? Tôi buồn bã khi biết rõ câu trả lời chính xác trong đầu mình. Nhưng thôi, bây giờ thì còn suy nghĩ gì được nữa. Dù hắn có là người như thế nào, mình phải cố gắng cứu cha và em cho bằng được.
Tai tôi như ù đặc. Bất giác nhìn ra vườn, ngắm nhìn những cánh hoa đang khoe sắc, trông chúng thật đẹp và tràn đầy sức sống. Tôi thầm tủi thẹn với chúng. Tôi ước mình được như những cánh hoa kia thỏa sức mà khoe sắc, đón lấy ánh nắng mặt trời vàng óng và vui vẻ giữa cuộc đời. Nhưng, trước những ngày tháng vui vẻ đang chờ đợi và trước một cuộc tình đẹp vừa chớm nở, tôi đã phải bỏ hết tất cả lại phía sau. Trong gương, khuôn mặt tôi chẳng còn tươi sắc như những đóa hoa ngoài kia, giờ đây, nó xanh xao, gầy guộc và dường như dày hơn để đón nhận những lời chê bai, phỉ nhổ của người đời.
Mụ mối bước vào, trông thấy tôi tiều tụy chẳng còn chút sắc, mụ liền hối thúc người hầu trang điểm cho tôi. Tôi ngồi im, thẫn thờ. Tâm trạng tôi rối bời những cảm giác xấu hổ và nhục nhã đến ê chề, rồi sự lo lắng mơ hồ về con đường phía trước không biết sẽ ra sao. Như một cái máy, tôi hành động theo mọi sự điều khiển của mụ mối. Mụ dìu tôi xuống thềm nhà, lòng tôi cứ nhói lên từng cơn. Tôi cúi gầm mặt xuống đất, cảm giác hổ thẹn, phẫn uất dâng trào thành những dòng nước mắt. Tôi cứ mặc cho nó tuôn rơi theo mỗi bước chân tiến về đại sảnh. Từ nhỏ đến giờ, có bao giờ tôi phải đứng ra cho người ta ngắm nghía và bình phẩm như vậy đâu. Mụ mối hết vén tóc rồi lại bắt tay, bắt tôi xoay một vòng để mã Giám Sinh xem xét, cứ như đang giới thiệu hàng hóa vậy. Mã Giám Sinh ra chiều có vẻ hài lòng, khẽ mỉm cười. Nhưng rồi, hắn lấy lại được vẻ bình thản, kéo mụ mối lại, thầm thì to nhỏ cái gì đó. Rồi mụ mối bắt tôi đánh đàn cho hắn nghe. Tôi ngẩn người ra, bàng hoàng. Giờ phút này mà bắt tôi đánh đàn ư? Tôi nào có tâm trạng đâu chứ. Nhưng rồi, tôi cũng đành phải làm theo. Tôi cố gắng lắm mới dạo lên được hai khúc nhạc. Âm thanh của tiếng đàn hay chính là âm thanh của sự tuyệt vọng đang vang lên trong lòng tôi, âm thanh của tiếng đàn như đang nức nở, khóc thay cho những giọt nước mắt đang đọng lại giữa khóe mắt đang được tôi cố gắng kiềm lại để đừng tuôn trào ra. Tôi khẽ nhìn qua bên kia, mẹ tôi đang lặng lẽ ngồi khóc…
Tưởng đã xong, Mã Giám Sinh lại kêu bà mối bắt tôi làm thơ trên quạt. Tình cảnh này mà bắt tôi làm thơ trên quạt, thật là một tấn bi hài kịch. Nhưng nghĩ đến cha và em tôi, lòng tôi lại lẳng lặng làm theo.
Bài thơ làm xong. Mã Giám Sinh đón lấy đọc chăm chú. Sau đó, tỏ vẻ hài lòng, hắn ra giọng lịch sự hỏi:
- Xưa kia mua ngọc phải đến Lam Kiều. Vậy xin dạy cho tôi cần phải trả sính lễ bao nhiêu cho xứng đáng với nàng Kiều đây.
Thấy mẹ tôi thần người ra, không biết phải trả lời ra sao, bà mối liền nói đỡ:
- Kiều tài sắc vẹn toàn, giá đáng nghìn vàng cũng chưa chắc đã mua được. Nay gia cảnh nhà nàng đang gặp khó khăn. Dám xin công tử thương tình mà giúp đỡ.
Nghe vậy, hắn ta nhăn mặt có vẻ khó chịu, trả giá ngay:
- Cái gì cơ? Một nghìn à? Thật là quá đáng mà! Hai trăm thôi nhé.
- Ông thương tình cho. Hai trăm thì làm sao cứu được gia đình họ, huống chi còn tiền công của tôi nữa.
Suy nghĩ một lát, hắn nói:
- Vậy thì bốn trăm thôi. Giá chót đó.
- Ông giúp thêm cho một tí, gia đình nàng Kiều đang rất khó khăn…
Sau một hồi, họ cũng quyết định giá hơn bốn trăm lạng bạc. Nghe họ trả giá với nhau mà tôi cười ra nước mắt. Họ xem tôi là gì nhỉ? Một món hàng ư? Tôi giờ đây bị xem như một món hàng không hớn không kém, có thể tùy tiện ra giá và trả giá với nhau. Nỗi buồn và nhục nhã của tôi tuôn trào ra như một dòng chảy chảy khắp người tôi. Khẽ ngước nhìn lên, khuôn mặt Mã Giám Sinh lúc đầy vẻ thỏa mãn như mua được một món hàng với giá hời. Lòng tôi thắt lại, đau đớn đến tột cùng. Hắn đưa một tờ canh thiếp và phiếu để làm ghi. Hắn và bà mối đã bàn bạc là ba hôm nữa sẽ đến nạp tài…
Mã Giám Sinh và cả mụ mối đã đi rồi. Căn nhà tôi lại trở nên yên bình và tĩnh lặng như ngày nào. Lòng tôi giờ đây trống vắng đến tê dại. Tôi đã trở thành vợ của người khác. Tôi lại nhớ đến Kim Trọng. Tôi phải chia tay mối tình đầu thật đẹp chỉ vừa mới chớm nở. “Kim Trọng ơi, chàng ở nơi xa hãy thấu hiểu cho thiếp. Thiếp chẳng còn sự lực chọn nào khác. Tất cả cũng chỉ tại xã hội này, cái xã hội mà thế lực đồng tiền đã làm chủ tất cả, xã hội mà mọi người chỉ coi tiền là trên hết, tiền dường như đã có thể mua được mọi thứ, kể cả mua thịt bán người. Xã hội này đã khiến thiếp phải trở nên thế này. Sẽ không còn những ngày tháng cùng chàng vui vẻ, những lời hẹn thề chỉ còn là những kỉ niệm đẹp, những giấc mơ không thể nào thực hiện được. Thiếp chẳng biết rồi mình sẽ trôi về đâu trong cái dòng chảy của cuộc đời này".
Câu trả lời của bạn
Đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều dài 34 câu, trích trong Truyện Kiều từ câu 618 – 652. Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra tấn, tù đày, tài sản gia đình bị bọn sai nha "sạch sành sanh vét cho đầy túi tham". Trước cảnh gia biến, Kiều đã quyết định: "Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!".
Đoạn thơ ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều và nỗi đau khổ của nàng trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu " trâm gãy bình tan".
Đoạn thơ tả cảnh mua bán người thời trung cổ được kể lại rất cụ thể, sống động. Người mua là Mã Giám Sinh kẻ bán là mụ mối. Người bị đem bán là Thúy Kiều. Khách viễn phương đến, mụ mối rước khách vào lầu trang. Mụ mối giục Kiểu "kíp ra” cho khách gặp. Mụ mối "vén tóc bắt tay" món hàng mình; Mã Giám Sinh "cân sắc cân tài". Khi khách đã "mặn nồng một vẻ một ưu" mới hỏi giá. Mụ mối thách: "một nghìn vàng". Hai bên "cò kè" mua bán với cái giá "vàng ngoài bốn trăm". Cuộc mua bán xong, hai bên làm thủ tục: '!đưa canh thiếp" và hẹn ngày chồng tiền nhận hàng. Cuộc mua bán người lại được dùng bằng những ngôn từ sang trọng như: mua ngọc, sính nghi, đưa canh thiếp làm nghi, nạp thái vu quy. Đúng như cảnh hỏi vợ, thách cưới của các gia đình quý tộc thời xưa.
Cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Trong xã hội có bọn buôn thịt bán người, có loại người làm mối, sống bằng nghề làm mối. Tài sắc của người con gái như Thúy Kiều đã trở thành một món hàng để "cò kè"mua bán. Nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp. Câu thơ "Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong" là lời bình luận cuộc mua bán, lên án đồng tiền hôi tanh, mặt trái đồng tiền trong tay bọn bất lương, bọn buôn thịt bán người.
Đoạn thơ thể hiện nghệ thuật tả người của Nguyễn Du.
Mụ mối: nhanh nhảu, đon đả hỏi họ tên, quê quán viễn khách, rồi "rước vào lầu trang". Giục Kiều ra nhanh (kíp ra), "vén tóc bắt tay” Kiều, khôn khéo thách giá:
Mối rằng: Đáng giá nghìn vàng,
Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!
Tác giả tả cử chỉ, ngôn ngữ mụ mối, làm hiện lên một loại người nhanh nhẹn, khôn khéo, giảo hoạt, kiếm ăn bằng nghề làm mối trong việc mua, bán người.
Mã Giám Sinh là "viễn khách" đến để "vấn danh" – khách đến hỏi vợ và xin cưới. Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Hai câu tiếp theo là "hỏi – đáp". Cách trả lời cộc lốc. khiếm nhã. Hai chữ "rằng" làm cho khẩu ngữ thêm thô lậu:
Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh",
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Mã Giám Sinh chung lưng vốn với mụ Tú Bà mở ngôi hàng lầu xanh ở Lâm Tri nhưng nói dối là quê ở "Lâm Thanh cũng gần". Hắn chỉ là một tên buôn thịt bán người nhưng mập mờ khoe hão là sinh viên trường Quốc Tử Giám, họ Mã, nghĩa là một trí thức phong kiến thuộc tầng lớp quý tộc. Nhân cách hé lộ dần. Ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn trai lơ: "Nhẵn nhụi" và "bảnh bao"là hai nét vẽ châm biếm:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Cũng "thầy"cũng "tớ", cũng "trước" cũng "sau", có vẻ sang trọng lắm, đi đâu một bước là có kẻ hầu người hạ, nhưng thầy, tớ của ông khách viễn phương này sao mà "lao xao"chẳng có nền nếp, lễ giáo gì! Cái cử chỉ "sỗ sàng", không biết ý tứ gì, không biết giữ lễ phép, dám đường đột leo lên ghế cao ngồi "tót"! Nếu là sinh viên trường Quốc Từ Giám thật, thì hắn ta rất kém sĩ hạnh!
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng…
Một chữ “ tót” đầy khinh bỉ, đã vạch trần chân tướng kẻ "Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa
"Cân sắc cân tài", "ép", "thử”,… những cử chỉ, cách thức mua người ấy của tên lái buôn họ Mã mới thật ghê tởm! Chỉ sau khi đã "mặn nồng một vẻ một ưa", Mã Giám Sinh mới "dặt dìu" mua bán. Hắn là kẻ khôn ngoan đến róc đời, trong mọi mánh lới buôn thịt bán người. Cũng sang trọng kiểu cách như ai. Chẳng qua chỉ là hoa hòe hoa sói thớ lợ:
Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều",
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.
Hai chữ "cò kè" đã bóc trần bản chất bủn xỉn của một kẻ “ Quanh năm buôn phấn bán hương đã lẻ”
Qua nhân vật Mã Giám Sinh, ta càng thấy rõ bút pháp hiện thực trong tả người của Nguyễn Du. Nét vẽ nào cũng sắc sảo tạo nên tính cách rất sống của nhân vật Mã Giám Sinh. Chi tiết nghệ thuật nào cũng rất sống, đằng sau đó là thái độ khinh bỉ của nhà thơ đối với loại người bạc ác tinh ma này! Bức chân dung phản diện của Mã Giám Sinh có giá trị tố cáo hiện thực đặc sắc, lên án bọn buôn thịt bán người vô nhân đạo, đạo đức giả trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.
Kiều là một thiếu nữ hiếu thảo, giàu đức hi sinh, Trước cảnh gia biến nàng bán mình để chuộc cha, để cứu gia đình. Nàng tự xem thân mình như "hạt mưa” nhỏ bé hèn mọn. Tất cả vì "ba xuân", một lòng đền đáp công ơn sinh thành của cha me:
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.
Kiều sống trong tâm trạng bi kịch dữ dội giữa tình riêng với tình nhà, giữa chữ tình với chữ hiếu, "nỗi mình thêm tức nỗi nhà". Nàng vô cùng đau khổ. Bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu "lệ hoa” đã tuôn rơi, cả người nàng như héo hon rũ xuống: "ngại ngùng",… "bóng thẹn",… "mặt dày", "nét buồn như cúc điệu gầy như mai” Vì là người đẹp đau khổ cho nên các ẩn dụ so sánh mà nhà thơ sử dụng đều gắn liền với cái đẹp: thềm hoa, lệ hoa "nét buồn như cúc, điệu gầy như mai". Kiều bị mụ mối và Mã Giám Sinh "ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ". Mã Giám Sinh đã “đắn đo cân sắc cân tài". Con người Kiều, tài sắc Kiều đã trở thành món hàng đem ra mua bán. Nguyễn Du đã ca ngợi lòng hiếu thảo, đức hi sinh của Kiều trước gia biến, cảm thương cho nỗi đau khổ của nàng khi Mã Giám Sinh "cân sắc cân tài", khi bị hắn "cò kè bớt một thêm hai"… Đoạn thơ chứa chan tinh thần nhân đạo là ở những chi tiết nội dung ấy.
"Mã Giám Sinh mua Kiều" là đoạn thơ có giá trị tố cáo đanh thép và sâu sắc nhất trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc sảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội, ở đây là Mã Giám Sinh. Nhà thơ đã lên án mặt trái đồng tiền hôi tanh: "Tiền lưng đã có, việc gì chàng xong!". Đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều: phải bán mình chuộc cha. Thương tiếc tài sắc giai nhân bị dập vùi. Đó là giá trị nhân đạo.
Đoạn thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Du trong sự tả cảnh mua Kiều, trong tả người: tả Mã Giám Sinh, tả mụ mối thì sử dụng bút pháp hiện thực, chi tiết hiện thực; tả Kiều thì thiên về ước lệ. Rất biến hóa, tài tình. Ngôn ngữ mang sắc thái biểu cảm đầy ấn tượng.
Tóm lại, cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực và chứa chan tinh thần nhân đạo. Đoạn thơ là sự khởi đầu tiếng kêu thương của một kiếp đoạn trường
Câu trả lời của bạn
Nằm ở phần thứ hai, sau khi gia đình Kiều bị vu oan, Kiều bán mình chuộc cha.
Câu trả lời của bạn
3 phần.
Câu trả lời của bạn
- Tính cách bản chất con buôn lọc lõi, trắng trợn, xấu xa được bộc lộ.
- Sự giả dối từ lí lịch, cho tới lý do mua Kiều, thậm chí còn cò kè bớt xén thể hiện bản chất bất nhân.
Câu trả lời của bạn
- Hình ảnh Thúy Kiều hiện lên tiều tụy, tội nghiệp, bước đi đẫm lệ, trong lòng đầy đau đớn.
- Nỗi đau bị hạ thấp, bị chà đạp, nỗi đau gia đình gặp nạn, nỗi lo lắng cho số phận của mình sắp tới.
Câu trả lời của bạn
- Thương xót, cảm thông trước số phận nhỏ nhoi của con người, giá trị con người bị chà đạp.
- Vạch trần thực trạng của xã hội đồng tiền đổi trắng thay đen.
- Tố cáo bọn buôn người bất nhân, hám lợi.
Câu trả lời của bạn
Đúng.
Câu trả lời của bạn
- Thể hiện tâm trạng cô đơn, tội nghiệp của Kiều.
- Nói lên nỗi nhớ người yêu và cha mẹ của Kiều.
- Nói lên tâm trạng buồn bã, lo âu của Kiều.
Câu trả lời của bạn
- Ngoại hình: Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
- Cử chỉ, hành động, cách nói năng: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng; Đắn đo cân sắc cân tài, ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ; Cò kè bớt một thêm hai,…
- Tính cách: thể hiện bản chất con buôn, bất nhân, xem con người chỉ như một món hàng hoá có thể mua bán, thậm chí cò kè bớt xén; giả dối từ việc giới thiệu lí lịch cho đến trình bày mục đích mua Kiều: “Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều – Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”…
Câu trả lời của bạn
- Người tình chung thủy.
- Là con người hiếu thảo.
- Là người có tấm lòng vị tha.
Câu trả lời của bạn
- Tả cảnh ngụ tình.
- Lặp cấu trúc.
- Sử dụng ngôn ngữ độc thoại.
Câu trả lời của bạn
Nhấn mạnh tâm trạng đau đớn của Kiều.
Câu trả lời của bạn
Lo sợ cho cảnh ngộ của chính mình.
Câu trả lời của bạn
Thuý Kiều ở vào tình cảnh tội nghiệp, phải bán mình, chấp nhận hi sinh tình duyên với chàng Kim:
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng.
- Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng, Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. Đó là nỗi đau đớn đến tột cùng. Từ một cô gái khuê các, sống trong cảnh "trướng gấm màn che" bỗng dưng nàng bị ném vào cuộc đời ô trọc, bầm dập.
- Trong lòng nàng lúc bấy giờ đang ngổn ngang trăm mối tơ vò: tình duyên đứt đoạn, cha và em bị đánh đập, cửa nhà tan nát thế nhưng nàng phải đánh đàn, phải làm thơ để cho Mã Giám Sinh vừa lòng, trong lòng thì lại chất chứa lo lắng vì số phận sắp tới của mình.
Câu trả lời của bạn
Đoạn trích thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du:
- Tấm lòng cảm thương, xót xa trước thân phận nhỏ nhoi của con người, giá trị con người bị chà đạp;
- Vạch trần thực trạng xã hội đen tối, thế lực và đồng tiền lộng hành; Gián tiếp lên án thế lực phong kiến đã đẩy con người vào tình cảnh đau đớn, lên án thế lực đồng tiền bất nhân;
- Bày tỏ thái độ căm phẫn, khinh bỉ trước bọn buôn người giả dối, bất nhân.
Câu trả lời của bạn
Bố cục: 3 đoạn
- 10 câu đầu : Chân dung Mã Giám Sinh qua ngoại hình, hành động.
- 6 câu tiếp : Nỗi đau đớn tủi nhục của Kiều.
- 10 câu cuối : Bản chất con buôn của Mã Giám Sinh.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *