Qua bài học các em cần hiểu rõ đoạn thơ Cảnh ngày xuân là bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng được gợi lên qua từ ngữ, bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình của Nguyên Du.
→ Bút pháp miêu tả, gợi, sử dụng những từ ngữ giàu chất tạo hình cảnh ngày hiện ra mới mẻ, tinh khôi và tràn đầy sức sống với những đặc điểm riêng.
⇒ Dùng các từ ghép liên tiếp, từ Hán Việt, từ láy, phép ẩn dụ gợi tả không khí cảnh hội mùa xuân rộn ràng, náo nức, vui tươi cùng những nghi thức trang nghiêm mang tính chất truyền thống của người Việt tưởng nhớ đến người đã khuất.
⇒ Bâng khuâng xao xuyến, lặng buồn về một ngày chơi xuân đang còn mà sự linh cảm về điều sắp xảy ra xuất hiện.
Đề: Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
a. Bốn câu thơ đầu: Gợi tả khung cảnh ngày xuân
b. Tám câu thơ tiếp theo: Gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.
c. Sáu câu thơ cuối: Cảnh tan hội lúc chiều ta.
3. Kết bài
Cảnh ngày xuân là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Với bài soạn tóm tắt đoạn trích, các em sẽ thấy được một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ với những cánh én bay liệng, cỏ non xanh rợn trải dài đến chân trời hiện ra qua ngòi bút tài tình của Nguyễn Du. Để nắm được toàn bộ những nội dung và nghệ thuật của đoạn trích, các em có thể tham khảo thêm: Bài soạn Cảnh ngày xuân.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Cảnh ngày xuân là đoạn trích sau phần giới thiệu gia thế nhà Thúy Kiều. Với đề bài Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân, các em sẽ cảm nhận được bức tranh mùa xuân với những hình ảnh của chim én liệng, của cỏ non xanh tận chân trời cùng hình ảnh đi hội vui tươi trong tiết thanh minh của chị em nhà Thúy Kiều. Bên cạnh bài soạn, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Đóng vai Thúy Kiều kể lại đoạn trích Cảnh ngày xuân
- Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân
- Cảm nhận sáu câu thơ cuối đoạn trích Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du
- Cảm nhận bốn câu thơ đầu đoạn trích Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du
- Cảm nhận về đoạn trích Cảnh ngày xuân
- Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du
- Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong đoạn trích Cảnh ngày xuân
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Cảm nhận đoạn trích sau:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Du vốn là một thiên tài nghệ thuật trong việc tả người với bút pháp ước lệ tượng trưng, với tài năng ấy, nhà thơ đã dựng lên đầy sinh động bức chân dung chị em Thúy Kiều, thật sự là mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười, khiến độc giả phải cảm thán không thôi. Trong một đoạn trích khác, tài năng miêu tả của Nguyễn Du lại càng được nhấn mạnh, nhưng không phải tả người mà là biệt tài tả cảnh với những vần thơ rất hài hòa sống động, tựa như khung cảnh mùa xuân đang thực sự hiện ra trước mắt. Nghệ thuật tả cảnh đặc sắc như vậy ta sẽ được thấy trong đoạn trích Cảnh ngày xuân.
Cảnh ngày xuân là đoạn trích nối tiếp ngay sau đoạn trích tả tài, sắc của chị em Thúy Kiều. Đoạn trích tả cảnh du xuân của chị em Thúy Kiều trong tiết Thanh Minh, cũng trong đoạn trích này số phận của nàng Thúy Kiều cũng phần nào được dự đoán, đồng thời là tiền đề cho cuộc gặp gỡ của Thúy Kiều với mộ Đạm Tiên, với Kim Trọng, bắt đầu một mối tình đẹp nhưng ngang trái.
Đoạn trích giống như một bức tranh với những gam màu sáng, nhưng lạnh tả sắc thiên nhiên, cảnh người du xuân, thể hiện trình độ bậc thầy trong tả cảnh của đại thi hào Nguyễn Du. Đoạn trích gồm 3 phần, đầu tiên là bức tranh phong cảnh thiên nhiên ngày xuân, phần thứ hai là cảnh lễ hội ngày xuân, cuối cùng ấy là cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về. Trong đó có lẽ phần cuối là một phần khá đặc sắc, trong đó có bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du, cảnh ngày xuân đang tươi vui bỗng chuyển màu buồn vì những nỗi vấn vương, nỗi băn khoăn khó hiểu của lòng người.
"Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang"
Trong đoạn trích này, cảnh sắc nhuộm một nỗi buồn man mác, lúc này đây, đã là buổi chiều tà "bóng ngả về tây", cảnh hội đã tàn, người cũng đã tan, không đâu vui bằng cảnh hội, cũng chẳng đâu buồn bằng cảnh hội tan. Chị em Kiều mang trong lòng một nỗi buồn, nỗi hụt hẫng bởi ngày xuân chóng tàn, mặt trời nhanh xuống núi, chính vì lòng người buồn thế nên cảnh sắc xung quanh cũng chẳng thể nào vui cho được. Những hình ảnh "tiểu khê", "dòng nước uốn quanh", "dịp cầu nho nhỏ", đều được Nguyên Du thu nhỏ lại, mang một vẻ man mác, dịu dàng, thêm màu nắng nhàn nhạt chiều tà, người ta lại càng cảm nhận nhân được cái thanh, cái trầm lắng của cảnh vật và hơn cả đó chính là nỗi buồn bã, trầm tư đọng trong lòng người. Bởi trước những cảnh vật ấy, con người lại càng thấy mình trở nên nhỏ bé, lạc lõng và cô đơn hơn cả, đặc biệt là Kiều vốn là người đa sầu đa cảm thì nàng lại càng thêm thấm thía điều ấy.
Đặc biệt trong đoạn thơ, còn có sự xuất hiện của một loạt các từ láy như "tà tà", "thơ thẩn", "thanh thanh", "nao nao", đó chính là sự xáo trộn, sự khuấy động âm ỉ trong lòng người, tuy lặng lẽ và im ắng nhưng lại để lại nhiều cảm xúc, khiến người ta dễ nghĩ ngợi vẩn vơ, bởi những bâng khuâng, vấn vương về cảnh xuân đã tàn, những nỗi buồn man mác vì thấy cảnh "tro tàn giấy bay". Trong đoạn thơ có một cảnh tả hành động của Thúy Kiều và Thúy Vân, "Chị em thơ thẩn dan tay ra về", đó là sự kết nối tâm linh tương thông của hai chị em, cái "dang tay" ở đây có thể là cái nắm tay, cái dắt tay thân thiết, cùng chia sẻ tâm trạng, nỗi buồn với nhau mà không cần một từ ngữ nào cả. Nhịp thơ chậm đều dàn trải, càng nhấn mạnh mỗi buồn man mác, gợi một không gian yên ắng cho nỗi buồn ấy được bao trùm khắp cả cảnh sắc, cả con người.
Người buồn khiến cảnh cũng nhuốm màu buồn thêm câu thơ kết đoạn "Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang", dường như có một nhịp ngắt, cái "bắc ngang" ấy là dự đoán một tương lai đầy trái ngang, ắt gặp những trắc trở khó khăn của Thúy Kiều. Nếu đọc thật kỹ và ngẫm lại, thì cuộc đời Kiều tựa như đoạn trích Cảnh ngày xuân vậy, nàng có một khởi đầu rất tươi sáng, vui vẻ, nhưng càng về sau càng buồn dần, dẫn đến kết cục bế tắc, đoạn trường.
Đoạn trích Cảnh ngày xuân là một đoạn trích hay, thể hiện tài năng kiệt xuất của đại thi hào Nguyễn Du, ông không chỉ có tài năng miêu tả người với bút pháp ước lệ mà với cảnh vật tài năng của ông ở phương diện này cũng chẳng hề thua kém, từng vần thơ như được thổi thêm hồn, dần trở nên sống động, tươi đẹp như một bức tranh phong cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ. Thêm vào đó ở phần sau bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc trưng thường xuất hiện trong thơ Nguyễn Du cũng được đưa vào càng làm nổi bật tâm trạng con người, không cần một lời nói một dáng điệu cử chỉ nào của nhân vật, ta cũng cảm nhận được lòng nhân vật ấy đang chất chứa những nỗi buồn sâu thẳm. Đoạn thơ cũng là một dấu khởi đầu, báo hiệu về cuộc đời đầy biến động và đau khổ của Kiều suốt về sau, tiếc thương cho một nàng giai nhân đa sầu đa cảm, nhưng phận mỏng, mệnh bạc...
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
- Đoạn trích được viết theo kết cấu trình tự thời gian của cuộc du xuân:
+ Đoạn 1 (4 câu đầu): Khung cảnh màu xuân.
+ Đoạn 2 (8 câu tiếp): khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.
+ Đoạn 3 (6 câu cuối): Cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về.
Câu trả lời của bạn
Đoạn trích nằm nằm ở phần 1- Gặp gỡ và đính ước, sau đoạn Nguyễn Du miêu tả tài sắc của hai chị em Thúy Kiều, trước đoạn Kiều gặp mộ Đạm Tiên và Kim Trọng.
Câu trả lời của bạn
Trong nền văn học Việt Nam, "Truyện Kiều" được biết đến là một tác phẩm xứng tầm kiệt tác. Điều này được tạo nên bởi ngòi bút điêu luyện của đại thi hào Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn ngữ. Không chỉ được đánh giá cao ở mặt nội dung mà tác phẩm còn để lại nhiều dấu ấn trong lòng độc giả về mặt nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Nằm trong dòng chảy đó, trích đoạn "Cảnh ngày xuân" là một minh chứng tiêu biểu cho tài năng của tác giả trong việc miêu tả thiên nhiên.
Trước hết, tác giả đã miêu tả bức tranh thiên nhiên thông qua khung cảnh mùa xuân tươi đẹp và tràn trề sức sống:
"Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Bút pháp miêu tả thiên nhiên dưới ngòi bút của nhà thơ lại hiện lên đậm chất tạo hình và hội họa với những hình ảnh, đường nét, màu sắc phối hợp tinh tế, nhẹ nhàng. Khung cảnh mùa xuân quen thuộc được miêu tả thông qua hình ảnh những cánh én sải cánh chao liệng trên bầu trời cao rộng, gợi lên bước đi không ngừng nghỉ của dòng thời gian. Ánh nắng mùa xuân được miêu tả qua cụm từ "thiều quang" gợi sắc màu tươi mới, dịu nhẹ, vừa ấm áp vừa rực rỡ của tiết trời xuân. Bức họa thiên nhiên tiếp tục được làm nổi bật bởi những gam màu mang đậm tính chất hội họa. Sắc xanh tươi của cỏ non trải dài đến tận cuối chân trời tạo nên một không gian bao la, rộng lớn ngút ngàn và khoáng đạt. Sự xuất hiện của một vài bông hoa lê điểm xuyết sắc trắng trong sự kết hợp giữa biện pháp đảo ngữ, sử dụng cách nói "trắng điểm" thay cho "điểm trắng" để làm nổi bật màu sắc tinh khôi, sáng trong cùng bút pháp chấm phá quen thuộc trong thơ ca trung đại đã gợi liên tưởng đến những câu thơ cổ trong nền văn học Trung Quốc:
"Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa"
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa)
Nếu trong những câu thơ trên, người viết miêu tả hình ảnh "cỏ thơm" gợi hương vị thì tác giả Nguyễn Du lại sử dụng màu sắc "Cỏ xanh" với sự non tươi mơn mởn để gợi lên sức xuân và sắc xuân tràn trề, đồng thời tạo nên sự hài hòa trong vẻ đẹp vừa tươi mới, vừa tinh khôi.
Và rồi sự chuyển động của thời gian cũng khiến cho lễ hội kết thúc, đồng thời ánh "thiều quang" không còn và thay vào đó là không gian buồn bã của bóng tà dương trong buổi xế chiều:
"Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang"
Khung cảnh thiên nhiên vẫn mang vẻ đẹp dịu nhẹ của mùa xuân thông qua hình ảnh "bóng tả về tây" gợi ánh nắng nhạt dần và mặt trời đang lặn xuống cùng những chi tiết về khe nước nhỏ - nơi mà con người bước đi cùng sự chậm rãi, "thơ thẩn" và dòng nước uốn quanh "nao nao" để gợi lên không gian bé nhỏ, thân thuộc khác với không gian rộng lớn, bát ngát ở khổ thơ đầu. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt từ láy giàu giá trị gợi hình, gợi cảm để miêu tả không gian tĩnh lặng trong tâm trạng buồn bã, bâng khuâng và tiếc nuối. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn thơ vô cùng đặc sắc thông qua việc tác giả đã sử dụng thành công hệ thống từ láy và bút pháp tả cảnh ngụ tình. Các từ láy thường được đảo lên đầu câu thơ để nhấn mạnh tâm trạng của con người - dụng ý của nhà thơ. Đặc biệt, qua cách sử dụng từ láy "nao nao", sắc thái của cảnh vật hiện lên qua vẻ đẹp lững lờ trôi xuôi của dòng nước trong bóng chiều tà; đồng thời đó còn là sự "nao nao" trong tâm trạng của con người. Đó là sự bâng khuâng, luyến tiếc, xao xuyến về một buổi du xuân trong cảm xúc của người con gái "đa sầu đa cảm" Thúy Kiều, đó còn là sự linh cảm về những điều sắp xảy ra - Kiều sẽ gặp nấm mộ Đạm Tiên, gặp Kim Trọng.
Như vậy, thông qua trích đoạn "Cảnh ngày xuân", chúng ta có thể thấy được tài năng của tác giả Nguyễn Du trong việc miêu tả thiên nhiên. Để phác họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp, sáng trong và bức tranh lặng lẽ buổi chiều tà, đại thi hào dân tộc đã lựa chọn những hình ảnh thơ đặc sắc và miêu tả trong sự hài hòa giữa màu sắc, đường nét và hình khối. Đặc biệt, tác giả đã vận dụng thành công bút pháp "tả cảnh ngụ tình" để làm nổi bật dòng tâm trạng của con người ẩn chứa sau cảnh vật, thể hiện sự thống nhất giữa "cảnh" và "tình" giống như ông đã từng khẳng định:
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"
- Trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, câu thơ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” sử dụng biện pháp tu từ nào?
- Chỉ ra tác dụng của biện pháp ấy tới việc thể hiện nội dung.
Câu trả lời của bạn
- Câu thơ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” sử dụng bút pháp gợi tả và biện pháp nhân hóa.
- Trên nền trời xanh lam trong sáng của chiều xuân được điểm xuyết những đốm trắng của hoa lê:
+ Chữ “trắng” được đảo lên trước tạo sự mới mẻ tinh khôi, thanh khiết, kết tinh những tinh hoa của trời đất.
+ Chữ “điểm” nhấn mạnh, gợi hình ảnh bàn tay người họa sĩ tạo nên những điểm chấm phá cho bức tranh cảnh mùa xuân.
⇒ Câu thơ đắt giá, diễn tả vẻ đẹp tự nhiên bình dị, trong trẻo và giàu sức sống của mùa xuân.
- Các từ láy được sử dụng trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là những từ láy nào?
- Nêu tác dụng của việc sử dụng các từ láy đó.
Câu trả lời của bạn
- Các từ láy được sử dụng trong bài: thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ để gợi tả sắc thái cảnh vật cũng như tâm trạng của con người.
- Đặc biệt từ láy “nao nao” gợi nên nét buồn khó hiểu, không thể gọi tên.
“Thơ thẩn”: tâm trạng nuối tiếc khi tan hội trong sự bần thần, lắng buồn.
⇒ Cảm giác buồn, bâng khuâng xao xuyến một ngày vui xuân đã hé mở một vẻ đẹp tâm hồn, thiếu nữ tha thiết với vẻ đẹp của tạo vật, niềm vui với cuộc sống, nhạy cảm và sâu lắng.
- Những từ láy này đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật, thông qua bút pháp tả cảnh ngụ tình, cảnh tình càng trở nên tương hợp hơn.
- Trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, câu thơ “Tà tà bóng ngả về tây” gợi đến khoảng thời gian nào trong ngày?
- Việc đó có tác dụng gì?
Câu trả lời của bạn
- Câu thơ “Tà tà bóng ngả về tây” gợi tả thời gian chênh chếch xế chiều, đó là thời gian trong văn học gợi nỗi buồn.
- Việc tả cảnh hoàng hôn khi cảnh vật đang đi vào hoạt động nghỉ ngơi, tĩnh lặng, dường như con người cũng đi vào trạng thái bâng khuâng, trống trải khó tả.
- Tâm trạng con người cũng biến chuyển theo sự biến chuyển của thời gian.
- Buổi chiều sẽ gợi lên trong lòng người tâm trạng buồn man mác.
- Trong đoạn trích Cảnh ngày xuân, câu thơ Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi gợi lên thời điểm nào của mùa xuân?
- Qua đó tác giả muốn thể hiện cảm xúc gì?
Câu trả lời của bạn
- Qua câu thơ: Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi, gợi lên thời gian Tiết Thanh minh trong mùa xuân.
- Tác giả cảm thấy nuối tiếc, ngỡ ngàng trước sự chảy trôi nhanh chóng của thời gian.
Câu trả lời của bạn
- Bút pháp tả cảnh của tác giả là bút pháp kết hợp giữa gợi và tả, tả cảnh ngụ tình gợi lên tâm trạng tiếc nuối, thơ thẩn, quyến luyến của chị em Thúy Kiều khi phải chia tay với hội xuân.
- Tác giả sử dụng nhiều từ láy vừa gợi tả cảnh sắc vừa nêu bật được tình cảm, tâm trạng của chị em Thúy Kiều.
- Trong đoạn trích có nhiều đoạn miêu tả thiên nhiên đặc sắc: cảnh ngày xuân, cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh thông qua bút pháp tả và gợi.
Câu trả lời của bạn
Hai câu thơ: Tà tà bóng ngả về tây/ Chị em thơ thẩn dan tay ra về:
- Thời gian chiều tà thường xuất hiện trong văn học gợi lên nỗi buồn, những điều ảm đạm, hiu hắt:
+ Thời gian chiều tà cũng nhuốm màu tâm trạng bần thần, thẫn thờ của chị em Kiều khi phải chia tay với hội.
+ Cảnh vật và con người cùng chìm trong tâm trạng bâng khuâng khó tả, tâm hồn của con người cũng chuyển điệu cùng tâm hồn, cảnh vật.
- Cảnh vật như lắng dần, mọi chuyển động đi vào nhẹ nhàng, mang dáng dấp nhỏ bé, phảng phất nỗi buồn.
- Tác giả sử dụng nhiều từ láy: nao nao, tà tà, thanh thanh không những biểu đạt được sắc thái của cỏ cây, cảnh vật lúc hoàng hôn mà còn góp phần thể hiện được tâm trạng của nhân vật.
- Hai câu thơ cuối, gợi lên nét buồn khó hiểu, mơ hồ, mông lung khi tác giả dùng từ láy “nao nao”.
- Bút pháp tả cảnh ngụ tình càng nhấn mạnh thêm tâm trạng tiếc nuối, buồn bã khi tan hội.
⇒ Cảnh vật mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân đã nhuốm màu tâm trạng tiếc nuối, thẫn thờ của chị em Kiều khi tan hội.
Câu trả lời của bạn
Ngày xuân thấm thoát trôi qua thật nhanh như thoi đưa, thoắt một cái đã qua hai tháng, giờ đã là tháng thứ ba - tháng cuối cùng của mùa xuân.
Ánh sáng của ngày xuân nhẹ nhàng, trong veo, lan tỏa, trải dài khắp muôn nơi. Trên nền trời cao là những đàn chim én mùa xuân đang chao nghiêng bay lượn. Dưới mặt đất là một thềm cỏ xanh non bất tận chạy ra xa tít tắp. Trên nền cỏ xanh tươi ấy là những bông hoa lê điểm tô vài sắc trắng gợi lên sự tinh khôi, mới mẻ. Sự kết hợp hài hòa của hai màu sắc tuyệt vời ấy càng làm cho bức tranh phong cảnh mùa xuân thêm phần sinh động, rạng rỡ, đầy sức sống.
Hôm nay là lễ tảo mộ, là một nét đẹp văn hóa, biểu trưng cho đạo lý biết ơn, tri ân tiên tổ bằng việc sửa sang phần mộ của gia đình người thân đã khuất. Cũng như mọi năm, chị em Thúy Kiều và Vương Quan xin phép cha mẹ đi tảo mộ và ra ngoài du xuân, cả ba cũng hòa vào dòng người đi lễ.
Thật là một cảnh rộn rã, náo nhiệt. Đủ các tầng lớp xã hội có mặt ở đây, từ các tài tử giai nhân cho đến những người dân bình thường. Người thì ngựa xe, võng lọng theo hầu, người thì bận quần áo sặc sỡ, tất cả đã tạo nên một ngày hội tưng bừng đầy màu sắc. Mọi người, kẻ thì rẫy cỏ, người thì đắp lại mộ, tô lại bia, nhộn nhịp. Tảo mộ xong thì cùng nhau đốt tiền vàng, thoi vàng, tro tiền gặp gió bay tứ tung khắp nơi. Người ta thắp hương nơi phần mộ tổ tiên của mình.
Chiều xuống, khi mặt trời đã ngả về tây, mọi người lũ lượt kéo nhau ra về. Ba chị em nhà Kiều cũng nắm tay nhau thơ thẩn bước trên con đường đỏ ráng chiều. Phong cảnh sao mà êm dịu, yên bình đến thế, chỉ nghe tiếng chim hót và tiếng suối kêu róc rách đâu đây. Ba chị em yên lặng tận hưởng cảm giác thanh bình của buổi chiều tà, lòng nao nao nuối tiếc ngày hội rộn ràng của mùa xuân. Xa xa, có cây cầu nhỏ bắc ngang qua ghềnh.
Câu trả lời của bạn
- Hai câu thơ đầu vừa nói đến thời gian, vừa gợi được không gian:
+ Thời gian của mùa xuân thấm thoắt trôi mau, đã bước sang tháng ba “thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.
+ Không gian: ánh sáng trong veo, không gian trong trẻo cho những “con én đưa thoi”.
⇒ Vừa tả cảnh vừa ngụ ý thời gian trôi qua mau.
- Hai câu sau miêu tả bức tranh xuân tuyệt mĩ:
+ “Cỏ non xanh tận chân trời”: không gian khoáng đạt, giàu sức sống.
+ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”: Gọi hoa mùa xuân với sắc trắng trong trẻo, thanh khiết, tinh khôi.
⇒ Bức tranh mùa xuân sinh động, giàu sức sống.
Câu trả lời của bạn
- Lễ hội mùa xuân hiện lên với Lễ tảo mộ và Hội đạp thanh.
- Không khí lễ hội được gợi tả từ hệ thống từ ngữ giàu sức biểu cảm:
+ Các tính từ được sử dụng: “nô nức”, “gần xa”, “ngổn ngang” làm rõ hơn tâm trạng của người đi lễ hội.
+ Các danh từ sự vật : “yến anh”, “tài tử”, “giai nhân”, “ngựa xe”, “áo quần”: gợi tả sự tấp nập đông vui của người đi hội.
+ Các động từ gợi sự rộn ràng của ngày hội.
- Thông qua cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều, tác giả khắc họa hình ảnh một truyền thống văn hóa lễ hội của dân tộc.
- Lễ và hội giao thoa hài hòa ⇒ nhà thơ yêu quý, trân trọng những vẻ đẹp của quá khứ dân tộc.
⇒ Nghệ thuật: bút pháp chấm phá, các từ ngữ được sử dụng đa dạng, linh hoạt, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình...
⇒ Bức tranh lễ hội mùa xuân sống động.
Câu trả lời của bạn
Đoạn trích đã khắc họa rõ nét bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, náo nhiệt trong cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều vào tiết thanh minh.
Câu trả lời của bạn
Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh Minh được gợi tả trong tám câu thơ tiếp:
- Phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh);
- Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bởi hàng loạt các từ ghép tính từ, danh từ, động từ:
+ Từ ghép danh từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân;
+ Từ ghép động từ: sắm sửa, dập dìu;
+ Từ ghép tính từ: gần xa, nô nức.
Câu trả lời của bạn
Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được hoạ nên bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra bao la. Trên nền xanh tươi, trong trẻo ấy điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chữ điểm có tác dụng gợi vẻ sinh động, hài hoà. Tác giả sử dụng bút pháp hội hoạ phương Đông: chấm phá, lấy tĩnh tả động.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *