Bài học này giúp các em tổng kết và hệ thống hóa những tri thức đã học về các thể loại văn học gần với từng thời kì.
Câu 1: Nhìn chung về nền văn học Việt Nam
Câu 2: Các bộ phận hợp thành nên văn học Việt Nam
a. Văn học dân gian
b. Văn học viết
Câu 3: Tiến trình lịch sử văn học Việt Nam
a. Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX
b. Từ thế kỉ XX đến năm 1945
c. Sau cách mạng tháng 8 đến nay
Câu 4: Mấy nét nổi bật, đặc sắc của văn học Việt Nam
Câu 5: Sơ lược về một số thể loại văn học
Câu 6: Một số thể loại văn học hiện đại
Để nắm được những khái niệm, những đặc trưng thể loại của văn học dân gian, văn học trung đại và hiện đại, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Tổng kết Văn học (Tiếp theo).
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Tính cách nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên qua đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga".
Câu trả lời của bạn
Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu trong giai đoạn sáng tác trước khi thực dân Pháp xâm lược. Cuộc đời và tính cách Lục Vân Tiên có những nét trùng hợp với cuộc đời và tính cách của tác giả. Điểm nổi bật trong tính cách Lục Vân Tiên là tính nghĩa hiệp. Lục Vân Tiên là điển hình của con người nghĩa hiệp trong một xã hội đang suy thoái. Muốn hiểu con người nghĩa hiêp Lục Vân Tiên, ta cùng nhau phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga.
Đang trên đường lên kinh đô dự thi thấy dân tình than khóc thảm thiết, Lục Vân Tiên đã dừng lại hỏi han. Nghe dân tình kể: có một bọn cướp nhóm ở Sơn Đài không ai đương nổi hiện đang xuống cướp thôn hương "gặp con gái tốt qua đường bắt đi" Lục Vân Tiên bèn "ghé lại bên đàng"
"Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô."
Một người trong tay không có khí giới lại đơn độc vẫn bẻ cây làm gậy xông vào đánh bọn cướp. Chỉ riêng điều đó đã nghĩa hiệp lắm rồi. Vân Tiên không hề đắn đo, tính toán. Người khác chắc phải nghĩ ngợi suy tính truớc khi hành động. Nên nhớ là chàng đang đi thi. Công danh phú quý đang đợi chàng ở phía trước. Bọn cướp lại rất đông, ai ai cũng đều khiếp sợ chúng. Thế mà chàng quyết định một cách nhanh chóng. Điều đó chứng tỏ hành động vì việc nghĩa đã trở thành bản chất tốt đẹp của chàng.
Gặp bọn cướp, Lục Vân Tiên mắng ngay vào mặt chúng:
Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ,Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân".
Lời mắng của chàng càng chứng minh cụ thể hơn tính cách nghĩa hiệp ấy. "Hại dân" là việc làm bất nghĩa. Vì dân diệt trừ lũ "hại dân" là việc làm nhân nghĩa. Chính nhận thức được điều đó mà Lục Vân Tiên đã "tả đột hữu xông"
"Khác nào Triệu Từ mở vòng Đương Dang."
Hình ảnh so sánh này càng làm nổi bật tính cách nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên. Tài năng của chàng được ví với Triệu Tử Long - một danh tướng thời Tam quốc. Một mình chống lại bọn cướp cứu giúp dân lành, Lục Vân Tiên là hiện thân của con người luôn hành động vì nghĩa lớn.
Tính cách nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên còn được biểu hiện qua cử chỉ từ chối việc trả ơn của Kiều Nguyệt Nga - người mà chàng đã cứu thoát khỏi tay bọn cướp, Nguyệt Nga rất biết ơn chàng. Nàng muốn tạ ơn để đáp lại hành động nghĩa hiệp của chàng:
"Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.
Gặp đây đang lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi."
Lời lẽ của Kiều Nguyệt Nga rất phù hợp với đạo lý. Người chịu ơn bao giờ cũng mong muốn được trả ơn. Đó là tấm lòng thành của nàng. Nhưng "Vân Tiên nghe nói liền cười". Nụ cười của chàng thât vô tư, hồn nhiên. Và chúng ta hãy nghe chàng giải thích với nàng:
"Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng."
Nếu làm ơn mà trông người khác hoặc buộc người khác trả ơn, theo Lục Vân Tiên thì không phải là con người nghĩa hiệp. Chàng không chấp nhận những lẽ như vậy. Chàng hành động không phải để được đền đáp. Việc từ chối sự đền ơn của Kiều Nguyệt Nga càng tô đẹp thêm con người nghĩa hiệp Lục Vân Tiên. Chàng vốn trọng nghĩa khinh tài. Cử chỉ ấy của chàng càng làm cho chúng ta thêm khâm phục và yêu mến. Quan niệm của chàng cũng chính là quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu. Sách xưa nói: "kiến ngãi bất vi vô dũng giã" Lục Vân Tiên coi đó là phương châm sống của chàng. Vì thế thấy việc nghĩa chàng không hề đắn đo, cân nhắc, đã lao vào đánh tan bọn cướp cứu Kiều Nguyệt Nga, mang lại cuộc sống bình yên cho dân lành.
Có thể nói qua đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa khá đầy đủ chân dung người anh hùng lí tưởng. Lục Vân Tiên là con người nghĩa hiệp mà hành động một mình với chiếc gậy thô sơ, đã đánh tan bọn cướp Phong Lai là một minh chứng. Hình ảnh Lục Vân Tiên sống mãi trong lòng người dân Việt Nam qua các thế hệ như một tấm gương về tính cách nghĩa hiệp của chàng.
Phân tích nét nổi bật của tính cách nhân vật Lục Vân Tiên trong đoạn trích "Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga" của Nguyễn Đình Chiểu.
Câu trả lời của bạn
Lục Vân Tiên - nhân vật chính của tác phẩm - hơn ai hết đã biểu hiện rõ nét lí tưởng của người anh hùng. Đặc biệt là đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó phai mờ về hình ảnh một trang nghĩa sĩ đánh cướp, cứu người.
Nói theo Hoài Thanh “Trong cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác trong một xã hội suy tàn, Nguyễn Đình Chiểu đã đưa vào trận cả một đạo quân bừng bừng khí thế, kiên quyết vì chính nghĩa mà chiến đấu và chiến thắng” thì thủ lĩnh đạo quân đó phải là Lục Vân Tiên chứ không phải là ai khác.
Chính Lục Vân Tiên tiêu biểu cho lí tưởng sống đạo đức cao đẹp của nhân dân ta lúc bấy giờ. Chàng là người học rộng, tài cao, văn võ kiêm toàn lại luôn luôn sẵn sàng ra tay cứu giúp người khi hoạn nạn. Vừa từ tạ tôn sư xuống núi, định về kinh ứng thí, trên đường đi, chợt thấy một đám người khóc than bỏ chạy, chàng liền dừng lại hỏi chuyện mới hay có một bọn cướp dữ vừa cướp phá làng xóm và bắt đi hai cô gái. Lục Vân Tiên không chịu được cảnh bất bình, đã nổi giận:
Vân Tiên nổi trận lôi đình
Hỏi thăm lũ nhỏ còn đình nơi nao
Tôi xin ra sức anh hàn
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.
Thấy người mắc nạn, Lục Vân Tiên liền ra tay:
... ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy, nhằm làng xông vô.
Dẫu chỉ mỗi một mình, bọn cướp thì đông, dầu trước đó dân làng hết sức khuyên chàng tuổi trẻ không nên dính vào việc này e sẽ mang họa vào thân, nhưng Lục Vân Tiên vẫn chủ động đi kiếm lũ cướp, đánh tan chúng, để cứu người yếu đuối. Hành động bẻ cây làm gậy, nhằm làng xông vô của chàng trai này thật đẹp đẽ vì đã khắc họa được hình ảnh của một trang nghĩa sĩ sẵn sàng trừ ác giúp dân.
Bất chấp bọn cướp hung bạo bao vây tứ phía, Lục Vân Tiên đã dũng cảm tả đột hữu xung. Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dương.
Ngay phần mở đầu truyện thơ, cụ Đồ Chiểu đã giới thiệu Vân Tiên là người Văn đà khởi phụng đằng giao. Võ thêm tam lược lục thao ai bì. Thì lúc này chính là cơ hội để chàng thi thố tài năng võ nghệ của mình. Hình ảnh Vân Tiên tung hoành chiếc gậy trong tay, tạo được một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc mọi thế hệ. Sức mạnh của chàng trai trẻ ấy đã khiến bọn lâu la khiếp sợ:
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Bọn lâu la phải quăng cả vũ khí để chạy tháo thân. Còn tên đầu đảng, thì:
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Thế là, chỉ một mình, Vân Tiên đã dẹp xong lũ cướp.
Nhưng điều đáng quý hơn của chàng nghĩa sĩ này là ngoài bản lĩnh, tài năng, còn có thái độ vô tư. Làm xong việc nghĩa, chàng đã không coi đó là công ơn và khẳng khái từ chối việc đền ơn. Kiều Nguyệt Nga khi thoát nạn, cảm tạ chàng và tự nguyện xin được đền ơn:
Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng
Gặp đây đang lúc giữa đàng
Của tiền chẳng có bạc vàng cũng không
Tưởng câu báo đức thù công
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi!
Nhưng Lục Vân Tiên đã khẳng khái chối từ mọi sự đền đáp:
Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn…
Nụ cười của tráng nghĩa sĩ này mới đẹp làm sao! Trong nụ cười ấy bao hàm cả sự thông cảm lẫn sự bao dung.
Vân Tiên đã làm việc nghĩa một cách vô điều kiện và coi đó là lẽ tự nhiên; ở đời là phải thế, không thể nào khác hơn được. Với Vân Tiên, cứu người mắc nạn là vì nghĩa. Đó là lí tưởng mà chàng nghĩa sĩ này đã từng ôm ấp và thực hiện:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Tóm lại, Lục Vân Tiên là mẫu người hào hiệp, sẵn mang trong huyết mạch truyền thống trọng nghĩa khinh tài của dân tộc ta. Phẩm chất cao đẹp ấy đáng được người đời sau học tập và phát huy. Lục Vân Tiên cho ta một bài học lớn về tinh thần nghĩa hiệp, không thể làm ngơ trước tai họa và đau khổ của người khác. Trong xã hội ngày nay, mẫu người như thế không phải không có. Đọc báo, nghe đài, ta vẫn gặp họ ở chỗ này, chỗ khác. Họ xứng đáng được xã hội biểu dương.
Gấp trang sách lại, hình ảnh hào hùng của chàng nghĩa sĩ sẵn sàng ra tay trừ thói hồ đồ hại dân vẫn cứ còn hiện rõ.
Từng lời thơ mộc mạc của cụ Đồ Chiểu như âm vang mãi, nêu lên cho mọi người chúng ta một tấm gương sáng trong đẹp đẽ. Ngày nay, đâu phải việc “cứu khốn phò nguy" là không còn cần thiết nữa. Lục Vân Tiên, do đó, vẫn góp phần giúp cho chúng ta sống đẹp hơn và xứng đáng hơn với lời tâm niệm:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Suy nghĩ về Lục Vân Tiên thời nay qua hai câu thơ: Nhớ câu kiến nghĩa bất vi Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ xuất sắc, nhà yêu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Ông dùng ngòi bút sắc bén của mình để chiến đấu chống cái xấu, cái ác trong xã hội, mong ước xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ. Lục Vân Tiên là nhân vật lý tưởng, được ông trau chuốc và gửi gắm vào nhân vật này biết bao tình cảm và khát vọng lớn lao. Phẩm chất anh hùng và hiệp nghĩa của Lục Vân Tiên thể hiện rõ nét qua lời giải bày với Kiều Nguyệt Nga khi nàng có nguyện vọng báo đáp ơn cứu giúp của chàng:
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Từ nghĩa khí của chàng Lục Vân Tiên, chúng ta suy nghĩ về lối sống của con người thời nay thật khó phân giải.
Thân bài:
Khi ra tay đánh tan bọn cướp hung bạo Phong Lai, Lục vân Tiên chỉ nghĩ đến việc giải nguy cứu người và dạy cho bọn cướp một bài học đích đáng, bảo vệ dân lành chứ không hề nghĩ đến chuyện ơn nghĩa đáp đền. Lục Vân Tiên là đại diện cho công lí, đại diện của lý tưởng sáng ngời về lẽ công bằng ở đời. Đối với chàng “giữa đường gặp chuyện bất bình chẳng tha”. Chàng đại diện cho những bậc anh hùng trong xã hội phong kiến, đề cao dũng khí, cam trường ra tay hành hiệp trượng nghĩa cứu người yếu đuối trừng phạt kẻ hung bạo:
“Kiến ngãi bất vi vô dũng giả
Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”.
Với nhân vật Lục Vân Tiên nhà thơ đã xây dựng một mẫu người lý tưởng trong xã hội phong kiến đương thời trên nền tảng đạo đức Nho giáo. Cũng qua nhân vật này, ông muốn xây dựng một xã hội lý tưởng. Ở đó, cái tốt đẹp được coi trọng và ngưỡng mộ, người tài đức được trọng dụng, các oan khuất được giải minh.
Bằng việc khắc họa hành động anh hùng, hiệp nghĩa của Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình chiểu mạnh mẽ khẳng định rằng muốn xây dựng một xã hội lý tưởng phải tiêu diệt những hạng người xấu xa, độc ác. Tác phẩm thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời thông qua kết thúc có hậu của tác phẩm là thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà. Lục Vân Tiên là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa, xem thường danh lợi, vì nhân dân mà hành động.
Ngày nay, tinh thần hiệp nghĩa ấy vẫn còn tỏa sáng trong cuộc sống, trở thành tấm gương điển hình của hành động dũng cảm cứu người khi lâm nguy, hoạn nạn, được nhân ca ngợi và đề cao.
Báo chí đã đưa tin rất nhiều về hành động cứu giúp người hoạn nạn, bảo vệ tài sản của người gặp nạn của các “hiệp sĩ” ở Bình Dương. Họ xuất thân là những người chạy xe thồ, những người lao động bình thường. Họ không có chức năng thi hành pháp luật, cũng không có trách nhiệm phải bảo vệ người khác được nhà nước quy định.
Thế nhưng, bất bình trước hành động ngang ngược, phạm pháp của bọn cướp, các anh đã ra tay trấn áp chúng, bảo vệ tính mệnh và tài sản trước nhân dân. Không những thế, các anh còn tham gia đuổi bắt và truy tố chúng trước pháp luật để kẻ ác bị trừng trị, dân lành được bảo vệ, công lí được thực thi. Nhiều lần, bị bọn cướp hăm dọa, thậm chí là tấn công gây thương tích nhưng các anh vẫn giữ vững lí tưởng. Các anh chính là những Lục Vân Tiên can trường, dũng khí, quyết chiến đấu để bảo vệ lẽ công bằng trong thời đại mới.
Chúng ta cũng không quên hình ảnh của MC Phan Anh rong ruổi trên khắp nẻo đường, tìm đến và hỗ trợ, cứu giúp đồng bào các vùng thiên tai lũ lụt. Ở đâu có người khó khăn, anh đều tìm cách giúp đỡ họ vượt qua hoạn nạn. Không những thế, anh còn kêu gọi, vận động các mạnh thường quân, các nhà hảo tâm, các tổ chức từ thiện, các doanh nghiệp, cá nhân có chung nguyện vọng cùng chung tay giúp sức tạo nên một phong trào tương trợ nhân ái rộng lớn trên khắp cả nước.
Nhiều khi, các chương trình hành động của anh bị nhiều người soi mói, chỉ trích, vu khống, cố tình bôi nhọ danh dự và nhân phẩm của anh nhưng Phan Anh đã dũng cảm vượt qua. Anh đã đứng vững và tiếp tục hành động. Phan Anh xứng đáng được ca ngợi như một Lục Vân Tiên trong thời đại ngày.
Thế nhưng, trong cuộc sống vẫn còn lắm người thờ ơ trước nghịch cảnh khổ đau của người khác. Cuộc sống tiện nghi khiến họ ngày càng trở nên vô cảm, vô tình. Họ chỉ biết lợi ích của bản thân mà bỏ rơi người khác trong khó khăn hoạn nạn. Thậm chí là còn tiếp tay cho kẻ ác.
Trong thời gian qua, báo chí cũng đưa tin rất nhiều về những vụ “hôi của” của nhân dân khi các xe hàng gặp tai nạn trên địa bàn. Vụ tai nạn xảy ra khiến cho nhiều hàng hóa trên xe đổ ra đường. Người dân vô tình vô cảm, không những không chung tay cứu giúp mà còn thản nhiên lấy đi hàng hóa mặc cho tài xế van nài thảm thiết. Đến khi lực lượng chức năng đến hỗ trợ người bị nạn, họ vẫn cứ tiếp tục hành động mà không chút xấu hổ. Đó là một thực trạng đau lòng, đáng tủi nhục.
Cũng có nhiều vụ tai nạn giao thông xảy ra để lại cho ta nhiều suy nghĩ. Khi nạn nhân bất tỉnh, nhiều kẻ cơ hội cũng vây quanh nạn nhân, tranh thủ lấy đi những đồ vật đáng giá rồi bỏ mặt nạn nhân trong thương tích, không cần quan tâm họ sống chết thế nào. Đó là một hành vi tàn nhẫn, vô nhân đạo.
Cũng có nhiều bạn trẻ, chỉ vì một xích mích nhỏ mà kéo bè kéo đảng đi đánh một người, gây cho họ nhiều thương tích nghiêm trọng hoặc thậm chí là mất mạng. Đó là hành động hèn hạ của kẻ tiểu nhân, ỷ mạnh hiếp yếu thật không đáng mặt anh hùng.
Cũng có nhiều bạn trẻ không chăm lo học hành mà lêu lổng, sống cuộc sống buông thả, hèn kém, trụy lạc trong các tệ nạn xã hội, thiếu ý chí, thiếu lý tưởng trong sáng. Họ chỉ biết đến bản thân, thậm chí là sống bản năng, tàn ác, dẫm đạp lên các giá trị đạo đức chuẩn mực của xã hội để thỏa mãn đời sống thấp kém của mình. Đó là những ung nhọt trong xã hội cần phải sớm được gỡ bỏ để xây dựng một cuộc sống trong sạch, vững mạnh, tiến bộ.
Xã hội càng văn minh, con người cần phải biết tôn trọng và thực hiện những nguyên tắc chung, biết sống vì mọi người, đề cao lòng nhân ái và tinh thần hiệp nghĩa. Phải tuân thủ và bảo vệ pháp luật, hướng đến bảo vệ cộng đồng.
Tuổi trẻ cũng cần nỗ lực rèn luyện mình, ra sức học tập và nâng cao bản lĩnh sống. Biết đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái bất công, bảo vệ lẽ phải hướng đến lý tưởng cao cả.
Không còn nghi ngờ gì nữa, để bảo vệ chính mình, bảo vệ cuộc sống của chúng ta, để công lí được thực thi và kẻ ác không có cơ hội gây ra điều ác thì mỗi người phải tự hoàn thiện bản thân mình, tăng cường đoàn kết tạo nên nguồn sức mạnh to lớn kiên quyết quét sạch cái xấu xa ra khỏi cộng đồng. Mỗi các nhân hãy là một Lục Vân Tiên đem sức mình xây dựng quê hương đất nước.
Phân tích phẩm chất tốt đẹp của Lục Vân Tiên trong Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ Nam Bộ nổi tiếng thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Văn chương của Đồ Chiểu chân chất, mộc mạc giản dị nhưng vẫn thấm đượm được hương vị của tình người, thể hiện được những nét đặc trưng trong tính cách của con ngươi Nam Bộ, đọc văn của ông ta thường cảm nhận được cái mộc mạc, chân thực trong từng áng thơ văn. Và một trong những tác phẩm điển hình cho cảm hứng, tư tưởng văn học của cụ Đồ Chiểu ta có thể kể đến ở đây đó chính là tác phẩm Lục Vân Tiên, hình ảnh của Lục Vân Tiên cũng chính là hình ảnh của những con người Nam Bộ đầy nhân nghĩa, mang trong mình những phẩm chất vô cùng đáng quý, ta có thể thấy rất rõ những phẩm chất, tính cách của nhân vật này qua trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”.
Lục Vân Tiên là nhân vật trung tâm của tác phẩm Lục Vân Tiên, đồng thời cũng là nhân vật mà nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu xây dựng để kí thác những tư tưởng, quan điểm cũng như thể hiện một ước mơ về thế giới công bằng, con người sống với nhau bằng tình nghĩa chứ không phải bằng những thứ vật chất thông thường. Có thể nói trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là trích đoạn thể hiện được rõ nét và sâu sắc nhất được những phẩm chất đáng quý ở Lục Vân Tiên, cũng là một trong những trích đoạn hay nhất của “Lục Vân Tiên”.
Trước hết, hình ảnh của Lục Vân Tiên hiện lên trước mắt của người đọc đó chính là hình dáng của một con người anh hùng, mang trong mình tinh thần chính nghĩa, căm ghét những cái xấu xa làm tổn hại đến cuộc sống của nhân dân, bênh vực, bảo vệ người dân thường vô tội khỏi những thế lực tàn ác:
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm đàng xông vô
Kêu rằng bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Ấn tượng đầu tiên của ta về Lục Vân Tiên đó chính là một con người nhân nghĩa, ngay thẳng cùng với lí tưởng sống đầy cao đẹp. Trên đường đi, Lục Vân Tiên đã chứng kiến cảnh bọn cướp Phong Lai giữa ban ngày hoành hành cướp bóc của người dân vô tội. Chứng kiến cảnh “chướng tai gai mắt” đó, Lục Vân Tiên không thể khoanh tay đứng nhìn, chàng không mảy may suy nghĩ mà bẻ cây bên đường rồi xông vào giữa đám cướp. Hành động bẻ cây bên đường tuy chỉ miêu tả phác qua, ta ngỡ như không có gì đáng nói lắm, nhưng chính những chi tiết nhỏ như vậy lại thể hiện được phẩm chất tốt đẹp của Lục Vân Tiên.
Tâm lí thông thường của con người đó là thường e ngại trước những việc bao đồng, sợ sẽ ảnh hưởng đến bản thân mình. Nhưng hình ảnh của Lục Vân Tiên ở đây lại khác hẳn, nhìn thấy lũ cướp hoành hành tác quái, gây đau khổ cho người dân vô tội, chàng không mảy may suy nghĩ thiệt hơn dù chỉ một khắc mà bẻ cây làm gậy, hành động có phần vội vàng, nông nổi nhưng lại thể hiện được khí thế quyết liệt và tình thế khẩn trương của sự việc, chàng không ngần ngại xông vào một đám cướp mà tên nào cũng to lớn, khỏe mạnh, hung hãn. Câu nói “Kêu rằng bớ đản hung đồ/Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân” đã thể hiện được lí tưởng, quan điểm sống của Lục Vân Tiên.
Làm người thì phải mang đến những điều tốt đẹp, phải giúp đỡ những người xung quanh chứ không phải gây ra đau khổ cho họ. Câu nói của Lục Vân Tiên cũng chính là lời tuyên chiến giữa chính nghĩa đối với thế lực phi chính nghĩa. Sau khi dẹp được lũ cướp Phong Lai, Lục Vân Tiên còn vô cùng ân cần, quan tâm đến người bị hại, muốn hỏi thăm, động viên để họ an tâm. Hành động này thể hiện được sự ấm áp trong tính cách, ở tình yêu thương mà Lục Vân Tiên dành cho những người xung quanh mình, vì sự giúp đỡ với chàng không phải là hời hợt, qua loa, mà giúp cho ra giúp:
“Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi ai than khóc ở trong xe này?”
Nghe tiếng khóc ở trong xe, Vân Tiên đã đến gần để hỏi han quan tâm nhưng cũng là để thông báo cho người nọ yên tâm vì giờ lũ cướp đã bị dẹp tan, không còn mối đe dọa nào có thể đe dọa nữa. Khi nghe Kiều Nguyệt Nga kể về sự tình cũng như thể hiện lòng biết ơn cứu giúp của Lục Vân Tiên đối với mình bằng cách muốn quỳ lạy tạ ơn. Lục Vân Tiên động lòng bởi một cô gái yếu đuối gặp phải chuyện không hay giữa đường, nhưng nghe thấy cô gái muốn ra gặp để lạy tạ ơn thì Lục Vân Tiên lập tức ngăn cản bằng lời nói có phần gấp gáp:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
Tiểu thơ con gái nhà ai
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kì”
Như vậy, qua những câu thơ này, ta còn phát hiện ra những phẩm chất đáng quý nữa ở Lục Vân Tiên, đó là một con người coi trọng lễ tiết. Hành động ngăn cản của Lục Vân Tiên đối với Kiều Nguyệt Nga vừa là từ chối việc tạ ơn của nàng. Hơn hết là Lục Vân Tiên đề cao chữ lễ, trong xã hội phong kiến xưa, nam nữ không được tùy tiện gặp mặt, nói chuyện bởi quan điểm “nam nữ thụ thụ bất thân”, đặc biệt với người con gái, sự giao lưu, tiếp xúc với những người nam nhân không phải chồng của mình sẽ bị đánh giá về phẩm chất, từ đó thì cũng không được coi trọng.
Hiểu như vậy ta mới thấy được, Vân Tiên ngăn cản Kiều Nguyệt Nga bước ra hoàn toàn là vì phẩm tiết của nàng, Vân Tiên không muốn làm ảnh hưởng đến danh tiếng của một cô gái, những khuôn phép lễ giáo này đối với chúng ta ngày nay có thể thấy hơi cứng nhắc, nực cười, nhưng trong xã hội xưa lại không vậy. Một con người không chỉ có lòng nhân nghĩa mà còn đề cao những lễ giáo đạo đức thì quả là đáng quý, đáng được trân trọng. Một phẩm chất càng đáng quý hơn nữa, đó chính là quan niệm của chàng về việc nhân nghĩa. Khi nghe Kiều Nguyệt Nga muốn báo đáp ơn cứu mạng thì Lục Vân Tiên khảng khái từ chối và nói ra phương châm sống của mình:
“Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đã rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Theo quan điểm của mình, Vân Tiên cho rằng làm ơn vốn xuất phát từ tinh thần chính nghĩa tự nguyện đầy chân thành, mong muốn chỉ là giúp người chứ không phải mong báo đáp, hàm ơn. Nay đã biết được rõ đầu đuôi câu chuyện thì cũng không nên tính toán thiệt hơn, bởi quan niệm của Lục Vân Tiên là làm việc nghĩa xuất phát từ tấm lòng, mà kiến nghĩa thì bất vi. Những người làm ơn vì lợi lộc vốn chẳng phải anh hùng.
Như vậy, trên trang văn hình ảnh của Lục Vân Tiên hiện lên thật đẹp, thật đáng trân trọng, đó là hình ảnh của một người anh hùng luôn mang tinh thần chính nghĩa, chính trực, trọng lễ tiết và có lí tưởng sống đầy cao đẹp. Chính những phẩm chất ấy đã khiến cho hình ảnh của Lục Vân Tiên hiện lên càng cao đẹp biết bao.
Đóng vai cô kĩ sư kể lại văn bản Lặng lẽ Sapa.
Câu trả lời của bạn
Khi chuẩn bị nhận việc ở Sa Pa thì tôi chẳng hào hứng gì cả. Trước khi lên ấy, tôi cảm thấy thật buồn chán với mối tình nhạt nhẽo và tôi đi với tâm trạng chán nản. Nhưng không, tôi đã lầm vì nơi đây có những con người rất tốt, đáng để tôi học hỏi và suy nghĩ lại tất cả. Đặc biệt, cuộc gặp gỡ với người thanh niên trên đỉnh Yên Sơn làm tôi xúc động hơn cả.
Trong chuyến xe lên Lào Cai hôm ấy có cả một bác lái xe, ông họa sĩ và tôi. Khung cảnh ở đây thật đẹp, thật thơ mộng. Có những rặng đào với cả đàn bò lang. Khi tiếp xúc với anh thanh niên, được nghe anh kể về những người khác thì tôi đã hiểu thêm về cuộc sống ý nghĩa của anh cũng như của những người thầm lặng trên đình núi Yên Sơn cao hai ngàn sáu trăm mét này.
Tôi vẫn còn nhớ giây phút được bác lái xe giới thiệu cho chúng tôi về anh thanh niên. Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, sống một mình trên đinh núi nên anh rất “thèm người”. Bác vừa nói xong thì anh xuất hiện. Vóc dáng nhỏ bé, nét mặt tràn đầy sức sống, là những gì toát lên qua cái nhìn của tôi về anh. Qua lời giới thiệu của ông họa sĩ, chúng tôi được anh mời lên nhà chơi. Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi hiện ra trước mặt tôi là một vườn hoa. Nào hoa đơn, thược dược, nào hoa hồng,., đầy khắp vườn khiến tôi không còn e thẹn mà chạy ngay đến bên người con trai ấy. Anh trao cho tôi bó hoa một cách tự nhiên và tôi cũng đón nhận bó hoa ấy và tôi có cảm giác như chúng tôi đã quen nhau từ lâu.
Anh giới thiệu về công việc của mình. Nhiệm vụ của anh là đo gió, đo mưa, đo nắng, dự báo thời tiết hằng ngày phục vụ cho sản xuất, chiến đấu. Anh kể rằng nửa đêm đang nằm trong chăn, phải chui ra khỏi chăn, ra vườn giữa khí trời lạnh buốt. Tôi thấy tội cho anh vô cùng. Không những hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình anh còn có một lối sống ngăn nắp mẫu mực.
Tôi đọc sách còn ông họa sĩ thì trò chuyện với anh. Ông họa sĩ hỏi anh:
– Sao người ta bảo anh là người cô độc nhất thế gian? Rằng anh “thèm” người lắm?
Anh thanh niên cười:
– Các từ ấy đều là của bác lái xe. Không, không đúng đâu.
Anh hạ giọng tâm sự với chúng tôi rằng lúc chưa vào nghề, nhìn ngôi sao giữa bầu trời đen kịt, anh nghĩ ngôi sao kia lẻ loi một mình.
Bây giờ vào nghề, anh mới thấy không phải vậy. Anh còn cho rằng công việc của anh gắn liền với bao công việc của anh em đồng chí dưới xuôi, Cất công việc đi, anh buồn đến chết mất. Anh tâm sự như đọc lại một điều suy nghĩ từ rất lâu. Bất giác anh giật mình khi thấy ông họa sĩ hí hoáy vẽ mình. Anh đã từ chối một cách khiêm tốn và giới thiệu cho ông những người xứng đáng được vẽ hơn. Tôi thấy được biết bao nét đẹp đáng quý hiện rõ trong con người anh. Và dù anh có ngăn cản, ông họa sĩ già vẫn vẽ được nhưng hơi vất vả, hình như ông có chút bối rối về anh. Ông nghĩ “người con trai ấy đáng yêu thật nhưng làm ông nhọc quá. Với những diều làm cho người ta suy nghĩ về anh, và về những diều anh suy nghĩ…”. Cuộc gặp gỡ này đã giúp tôi hiểu sâu hơn về mối tình nhạt nhẽo và yên tâm hơn về quyết định của mình.
Cuộc vui nào mà chẳng đến lúc phải chia tay. Giây phút đó thật luyến tiếc. Tôi cố tình để lại cho anh chiếc khăn mùi xoa để làm kỷ niệm nhưng anh tưởng tôi quên nên trả lại cho tôi. Anh còn tặng cho chúng tôi một làn trứng gà không tiễn vì bảo đã gần đến giờ “ốp”. Tôi rất cảm phục việc thực hiện giờ làm việc của anh.
Cuộc nói chuyện tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại trong tôi và cả ông họa sĩ già những ấn tượng khó quên. Qua cuộc gặp gỡ ấy, tôi đã có những suy nghĩ và tình cảm mới mẻ về con người và cuộc sống. Anh thánh niên đã giúp tôi cảm nhận được hơi thở tràn trề sức sống của những con người làm việc trên Sa Pa. Trước khi nhận việc ở đây, tôi đã chần chừ, chán nản, nhưng giờ đây tôi đã thay đổi cách suy nghĩ của mình.
Dàn ý đóng vai cô kĩ sư kể lại Lặng lẽ Sa Pa.
Câu trả lời của bạn
Mở bài: Giới thiệu mình là cô hoạ sĩ và dẫn dắt về cuộc gặp gỡ với anh thanh niên
Thân bài:
Kết bài: Bày tỏ cảm xúc của bản thân về buổi gặp gỡ ấy.
Đóng vai nhân vật cô kĩ sư trẻ của truyện Lặng lẽ Sa Pa kể lại cuộc gặp gỡ đầy thú vị với anh thanh niên.
Câu trả lời của bạn
Gấp trang vở đầy màu mực tiếp, đầy kiến thức, đầy những ước mơ tôi bước chân vào đời với tâm thế còn hoang mang chưa biết sẽ làm việc như thế nào và tâm trạng thoáng buồn vì mối tình dang dở. Trên chuyến xe đến chỗ nhận việc làm, tôi gặp một bác họa sĩ, chẳng hiểu sao tự dưng tôi lại có cảm giác ông giống như cha của tôi vậy, ông cho tôi những lời khuyên và giúp đỡ tôi như giúp đỡ một người con. Trong chuyến đi qua Sa Pa ấy, tôi và bác gặp được một anh thanh niên mà mãi sau này tôi vẫn nhớ. Tôi nhớ không phải là tôi thích anh mà tôi nhớ vì ngưỡng mộ anh, kính trọng anh.
Xe dừng bánh tại Sa Pa để nghỉ trưa, bác lái xe hứa sẽ giới thiệu một anh thanh niên cho tôi và bác họa sĩ. Tôi hơi e ngại, sau đó khi nhìn thấy anh mặt tôi bất giác đỏ lên. Anh chạy lên nhà chuẩn bị trước, đôi và bác họa sĩ theo sau. Bước chân lên những bậc thềm đập vào mắt tôi là một thiên đường trên mặt đất, một ngôi nhà nhỏ xinh trên cao và bên cạnh là những luống hoa đủ màu sắc. Ở đó người con trai đang cắt hoa. Tôi vui mừng quá quên mất ngại ngùng chạy đến bên nhận bó hoa từ tay anh. Anh nói là để kỉ niệm lần đầu quen nhau. Chúng tôi có khoảng ba mươi phút để trò chuyện. Anh mời tôi và bác họa sĩ vào nhà để thưa chuyện.
Khi bước vào nhà, chúng tôi hoàn toàn ngạc nhiên trước sự sạch sẽ, ngăn nắp trong ngôi nhà nhỏ xinh ấy. Tôi đưa mắt ngắm những đồ vật trong nhà. Bất giác tôi tiến tới phía bàn đọc sách của anh, khẽ giở cuốn sách anh đang đọc giở ra xem. Trong lúc tôi ngồi đó, anh cầm rót nước mời bác họa sĩ uống và tận tay cầm một chén trà ra bàn cho tôi. Anh rất lịch sự biết tôi đang đọc nên chỉ lặng lẽ để trên bàn. Anh nói về công việc của anh, nói rất cụ thể, rất chi tiết. Tay tôi cầm sách đọc nhưng lại bị chính câu chuyện của anh lôi cuốn. Tôi không nhìn nhưng tai tôi đang nghe. Anh nói xong thì bảo chúng tôi kể chuyện dưới xuôi cho anh nghe. Nhưng bác họa sĩ muốn anh kể về anh tiếp, anh nói đến những khó khăn khi sống ở trên này, anh trả lời câu hỏi của bác họa sĩ về “cô độc nhất thế gian” và “thèm người”. Bác họa sĩ hình như có ý vẽ anh, tôi thấy anh khiêm tốn giới thiệu những người đáng vẽ hơn anh. Trong lúc ấy bác họa sĩ vẫn cứ vẽ, anh vẫn cứ giới thiệu.
Bỗng nhiên tôi lại muốn để lại một cái gì đó cho anh nhớ về tôi giống như anh nói để kỉ niệm lần đầu gặp mặt. Thế nhưng tôi lại chẳng có gì trong ví cả. Hết thời gian tôi với bác họa sĩ được anh tiễn đến tận chân cầu thang ra về. Tưởng là đi được rồi nhưng anh lại chạy với theo trả lại cho tôi chiếc khăn mùi xoa tôi cố tình để lại. Tôi thấy anh thật thà quá, chẳng hiểu sao tôi cảm giác như bác họa sĩ hiểu được ý tôi nên tôi đỏ mặt cầm lại và ra về. Từ chuyến ấy không biết bác họa sĩ có lên đó không nhưng có dịp nhất định tôi sẽ tìm gặp lại anh để nghe anh kể về những giờ ốp thú vị.
Nêu suy nghĩ của em về quan niệm sống đẹp.
Câu trả lời của bạn
Sống đẹp là sống có mục đích, có ước mơ, lí tưởng. Sống đẹp là sống có chí cầu tiến, biết đứng dậy bằng chính đôi chân của mình khi vấp ngã, biết bền lòng và dũng cảm vượt qua những thử thách, khó khăn để vươn lên, chắp cánh cho ước mơ của mình đưọc bay cao, bay xa. Sống đẹp còn là một lối sống có văn hóa, biết lịch sự; là một cuộc sống có tri thức, có tình người.
Trong cuộc sống hằng ngày mỗi người chọn cho mình những cách thể hiện khác nhau hình thành lên những cách sống khác nhau: sống đẹp, sống có ích và lối sống ích kỷ, buông thả thậm chí chìm trong vòng tội lỗi. Như vậy "sống đẹp" là một lối sống tích cực mà mỗi người cần phải hướng tới. Nhưng sống thế nào mới là lối "sống đẹp" còn là điều băn khoăn của rất nhiều người.
"Đẹp" không phải chỉ là cái đẹp hình thức. Cái "đẹp" thể hiện từ những hành động cư xử nhỏ nhất trong cuộc sống đến nghị lực vươn lên trong mỗi con người. "Sống đẹp" trước hết phải xuất phát từ lòng nhân ái, từ chính tình yêu trong trái tim để từ đó mà sống hết mình vì người khác, để bao dung, thứ tha ... Xuất phát từ tình yêu thương nên bất cứ hành động nào dù là nhỏ nhất cũng đầy sự quan tâm, chia sẻ giữa những con người. Một sáng đến trường bạn không sợ muộn học mà dừng lại giúp một cụ già qua đường. Mỗi ngày dành dụm tiền để ủng hộ quỹ “vì người nghèo". Những hành động ấy dù nhỏ nhặt nhưng đều là những nghĩa cử cao đẹp.
Sống đẹp là sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Trong lịch sử của dân tộc có biết bao tấm gương về sống đẹp: Trần Hưng Đạo, Trưng Nhị, Trưng Trắc, Trần Quốc Toản, chị Võ Thị Sáu, anh Kim Đồng, anh Nguyễn Văn Trỗi,… vĩ đại hơn cả là Bác Hồ kính yêu. Họ là những người sống hết mình vì dân tộc vì cách mạng, vì nền độc lập, tự do của đất nước. Họ đã giành cả cuộc đời mình cho Tổ quốc. Họ là những anh hùng đã có công giữ nước, là những tấm gương sáng cho chúng ta học tập, noi theo.
Bên cạnh đó cũng không hiếm những người có lối sông tiêu cực, đi ngược với luân lí và đạo đức. Đó là những tên bán nước, buôn người, những người đầu độc chính dân tộc mình bằng thuốc phiện, rượu cồn. Chính họ đã vấy bẩn bộ mặt xã hội, làm cho không ít dân ta trở nên nhu nhược, bần hèn. Đó là những tấm gương xấu đáng bị lên án và bài trừ. Thật vậy, để sống đẹp không phải là điều đơn giản. Ai cũng biết sống đẹp là như thế nào, nhưng không phải ai cũng biết sống thế nào cho đẹp. Bởi lẽ, cuộc sống hiện tại quá hỗn tạp, có nhiều luồng tư tưởng khác nhau, hoặc đồng điệu hoặc trái ngược nhau. Có những người sống thiên về vật chất mà vô tình đánh mất đi vẻ đẹp của tâm hồn. Trong khi sống đẹp đòi hỏi chúng ta phải thực sự tỉnh táo, biết nhận thức, biết yêu thương, biết giữ mình khỏi những cám dỗ của xã hội.
Sống đẹp không phải là chuyện một ngày, một bữa. Chúng ta không thể trở thành người sống đẹp chỉ trong một ngày, một giờ. Cần phải nhận thức đúng và rèn luyện thường xuyên. Lâu ngày sẽ trở thành thói quen, lối sống của ta sẽ dần được cải thiện. Sống đẹp không khó; chỉ khó khi ta lười biếng, e ngại hoặc chưa đủ quyết tâm, dễ dàng bỏ cuộc, buông xuôi, mặc cho dòng đời xô đẩy. Cuộc đời bạn phải do bạn quyết định. Có sống đẹp hay không cũng do ở nơi bạn. Đừng ngồi lì mãi thế! Cũng đừng mãi mê muội chạy theo những thứ phù phiếm mà đánh mất đi bản chất của mình! Đừng sống phí tuổi thanh xuân cho những trò vui vô bổ, những thói ăn chơi trụy lạc! Mà bạn hãy trao dồi kiến thức, sinh hoạt, vui chơi lành mạnh, tham gia các hoạt động xã hội như giúp đỡ người nghèo, các em bé mồ côi, các cụ già ốm đau, không nơi nương tựa.
Sẽ sống đẹp nếu con người có mục tiêu, có lý tưởng hợp lý, vừa sức và hài hòa giữa các giá trị. Giá trị vật chất, giá trị nhân văn, giá trị tinh thần, giá trị thẩm mỹ... phải thực sự hài hòa trong quan hệ tương tác sẽ làm cho mỗi người sống đẹp hơn. Thật sự bất hợp lý và thiếu toàn diện nếu như con người thiếu động cơ sống hay thiếu động cơ đích thực và chân chính. Sống đẹp mãi là động lực để mỗi người phấn đấu nếu như mỗi người biết cống hiến, biết hy sinh và có bản lĩnh sống!
Hãy mở rộng lòng mình, đem yêu thương sưởi ấm cho những trái tim ướt lạnh trước sóng gió của cuộc đời. Hãy biết cho đi để được nhận lại: tình yêu thương, niềm tin và hy vọng. Sống đẹp là lối sống mà ai ai cũng muốn có được. Sống phải biết học tập và rèn luyện đúng cách thì lối sống ấy mới tồn tại và phát triển. Không ai sống đẹp ngay từ lúc lọt lòng. Bởi vậy, học tập và rèn luyện đúng cách là con đường duy nhất đưa ta đến với một lối sống văn minh, một lối sống đẹp. Bạn còn chờ gì nữa?
Hãy bắt đầu từ hôm nay, và ngay bây giờ! Bạn thực sự muốn mình là một người "Sống đẹp".
Tôi từng đọc một bài thơ nghe qua tưởng chỉ là thơ vui nhưng lại mang một ý nghĩa sâu sắc:
"Khi anh sinh ra
Mọi người đều cười
Riêng anh thì khóc tu tu
Hãy sống sao để khi chết đi
Mọi người đều khóc
Còn môi anh thì nở nụ cười"
Bạn và tôi, hãy tự chiêm nghiệm cho mình lối sống đẹp để khi ở cuối con đường, chúng ta đều mỉm cười mãn nguyện!
Dàn ý Suy nghĩ về cái chết của nhân vật Vũ Nương.
Câu trả lời của bạn
Mở bài:
Thân bài:
Kết bài
Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là “thiên cổ kỳ bút”, là “áng văn hay của bậc đại gia”, tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian.
Suy nghĩ về cái chết của nhân vật Vũ Nương.
Câu trả lời của bạn
Nếu như cái chết đầy bi thương của lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao gợi nên trong tâm hồn người đọc một sự thương xót và căm phẫn xã hội bất công, tàn bạo đã bóp nghẹt quyền sống của người dân, để họ phải tìm đến lối thoát duy nhất là cái chết thương tâm, thì với tác phẩm chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ cũng vẫn một nỗi lòng ấy nhưng man mác trong những dòng cảm xúc nóng hổi một sự bất ngờ nho nhỏ ta thắc mắc tại sao, chỉ với một lời nói không rõ ngọn ngành của một đứa trẻ mới tập nói, chỉ bởi những suy nghĩ đơn giản và ngây thơ lại dẫn đến một cái chết vô cùng bi thương cho người phụ nữ công dung ngôn hạnh-người mà đáng lẽ ra sẽ phải nhận được niềm hạnh phúc xứng đáng.
Câu trả lời có lẽ từ đây, nếu tỉnh táo và xem xét thấu đáo vấn đề thì có lẽ Trương Sinh đã không đẩy vợ đến con đường chết. Chính vì sự đa nghi và mất lòng tin vào vợ, chính vì sự vũ phu nam quyền độc đoán, vì sự bất công, coi rẻ mạng sống người phụ nữ mà khiến cho cái chết của Vũ Nương lại thêm muôn phần bi thảm. Sự ra đi của nàng là cách duy nhất để chứng minh cho nỗi oan nghiệt của bản thân, là chút hi vọng cuối cùng để níu giữ lại phẩm giá tốt đẹp của người phụ nữ.
Sự ra đi của Vũ Nương để lại trong lòng người đọc bao niềm cảm thương đau đớn, ngậm ngùi, bao sự tiếc nuối một kiếp ''hồng nhan bạc mệnh'' quá đỗi xót xa trong lòng xã hội lúc bấy giờ.
Có thể thấy thoát ẩn hiện trong những trang văn của Nguyễn Dữ là một niềm thương cảm quặn xé trước bi kịch ngang trái của Vũ Nương, là lời tố cáo đanh thép một chế độ xã hội với những hủ tục lạc hậu những lời văn của Nguyễn Dữ thấm đẫm sâu sắc giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
Trước và sau Vũ Nương, ta bắt gặp Thị Kính, Thúy Kiều họ đều là nạn nhân của lễ giáo phong kiến dù bị oan khuất, bị vùi dập về cả thể xác lẫn tinh thần, dù phải sống dưới lớp bùn đen nhơ nhớp của xã hội tanh bẩn nhưng ở họ sẽ mãi ngời sáng vẻ đẹp về phẩm chất luôn ngời sáng để cho người đương thời và mãi mãi về sau khânm phục, nâng niu, kính trọng.
Viết một đoạn văn trình bày cảm nhận của em về đoạn cuối bài thơ Đồng chí (“Đêm nay... trăng treo”).
Câu trả lời của bạn
Đồng chí! Ôi tiếng gọi nghe sao mà thân thiết nghĩa tình đến vậy! Là một nhà thơ - chiến sĩ, với ngòi bút vừa hiện thực vừa lãng mạn, Chính Hữu đã viết bài thơ Đồng chí với tất cả cảm xúc chân thành nhất của mình. Bài thơ hay khép lại bằng những hình ảnh thật đẹp và đầy ấn tượng:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Cả bài thơ thể hiện tình đồng chí keo sơn gắn bó của những người chiến sĩ trong những tháng ngày gian khổ của cuộc kháng chiến trường kì. Nhạc điệu bài thơ trầm lắng như lời tâm tình của hai người lính trong đêm trăng chờ phục kích công đồn. Tình cảm ấy đã được hình thành từ những thiếu thốn vật chất đến những thử thách ngoài chiến trường. Để rồi từ đó trở thành tình cảm thiêng liêng - tình đồng chí. Hai người lính đến với nhau từ hai phương trời xa lạ nhưng lại có nhiều nét tương đồng, những nét tưởng lạ mà quen. Đó là tình yêu quê hương, xứ sở. Và bây giờ sự gắn bó vẫn đang nảy nở và thắm thiết hơn trong đêm chờ giặc tới!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Khung cảnh thiên nhiên thật khắc nghiệt: rừng hoang sương muối. Chỉ có ai đã từng sống trong khói lửa chiến tranh, thiếu thốn như các anh với áo rách vai, chân không giày mới có thể hiểu được cái rét buốt lạnh cắt da thịt của đêm sương muối ở rừng. Trong cảnh rừng hoang vắng rậm rạp và lạnh lẽo ấy hiện lên hình tượng một con người kì vĩ đẹp lạ thường:
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Câu thơ xua tan đi màn sương mờ ảo, sưởi ấm cả cánh rừng hoang vu. Dưới ánh trăng, người chiến sĩ thật đẹp, thật trong sáng. Từ đứng cạnh bên nhau đã tạo nên bức chân dung hoàn chỉnh về tư thế của các anh. Các anh tuy hai mà một, tuy ít mà nhiều. Các anh đã cùng chia sẻ bao khó khăn, vất vả cùng với những cảm xúc của một người lính trẻ để đi lúc này trong giây phút căng thẳng hồi hộp chờ giặc tới, các anh vẫn luôn ở bên nhau. Đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết, giữa hoà bình độc lập và nô lệ, giữa thiên đường và địa ngục, các anh vẫn nhớ đến đồng đội trao cho nhau hơi ấm của tình người, tình đồng chí.
Đọc thơ Chính Hữu ta như cảm thấy hơi ấm đang toả ra khắp cơ thể, khắp không gian. Hơi ấm ấy phải chăng được bắt nguồn từ cảm xúc chân thành, mộc mạc, giản dị trong lời thơ Chính Hữu. Câu thơ cuối tuy đã khép lại tác phẩm nhưng với em nó mãi là dư âm không bao giờ cạn:
Đầu súng trăng treo
Câu thơ vừa thực vừa ảo cho ta nhiều cảm xúc mới mẻ. Khoảng cách giữa bầu trời và mặt đất, giữa con người và thiên nhiên đã được xích lại gần gũi hơn bởi một từ treo. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp tả thực và lãng mạn vừa xa vừa gần. Phải chăng câu thơ là ước muốn, là hi vọng của Chính Hữu - người lính Cụ Hồ về một cuộc sống hoà bình, tươi đẹp? Sau đêm nay, sau giờ phút căng thẳng, lạnh buốt này sẽ là một sớm mai ấm áp với ánh bình minh sáng ngời Người chiến sĩ, với nhiệm vụ đã thành người thi sĩ với bao cảm hứng dạt dào. Hình ảnh cây súng trong bài thơ Đồng chí khiến ta chợt nhớ đến sông Mã, Tây Tiến trong câu thơ của Quang Dũng:
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Đáng trọng và đáng quý làm sao khi trong thời máu lửa oai hùng đó vẫn có những vần thơ thật hay, thật đẹp và thú vị đến thế!
Như lời kết nhẹ nhàng của bản nhạc du dương, Đồng chí của Chính Hữu đã cho thế hệ trẻ hôm nay phần nào hiểu được giá trị thiêng liêng, cao cả của tình đồng chí, đồng đội thời chiến. Những lời thơ trong Đồng chí đã gieo vào lòng bạn đọc bao cảm xúc và ấn tượng mới mẻ khép lại trang thơ mà hình ảnh Đầu súng trăng treo vẫn hiện ra trong ý nghĩ người đọc như một thứ hào quang soi rọi về một thời quá khứ oai hùng, hướng chúng ta đến những gì tốt đẹp ở tương lai.
Suy nghĩ về tác phẩm Chiếc lá cuối cùng.
Câu trả lời của bạn
O Hen-ri là một nhà văn Mĩ rất thành công với thể loại truyện ngắn. Các câu chuyện của ông thường đề cập đến cuộc sống hằng ngày của những con người thuộc tầng lớp bình dân trên đất Mĩ. Tuy nhẹ nhàng, nhưng chúng luôn gây cho người đọc sự xúc động sâu sắc với những ý nghĩa nhân đạo cao cả. Từ truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng – một tác phẩm đặc sắc, ta có thể thấy được phần nào tài năng của nhà văn. Một chiếc lá vô cùng nhỏ bé và rất đỗi mộc mạc bước vào truyện của O Hen-ri, đã trở thành nơi đúc kết cảm xúc, hoài bão, khát vọng,… của mỗi người trong cuộc sống.
Chiếc lá cuối cùng là bức tranh phác hoạ một cách chân thực và sống động cuộc đời của những người hoạ sĩ nghèo nước Mĩ. Xiu và Giôn-xi – hai cô gái còn rất trẻ đã rời bỏ quê hương, người thì ở miền Nam nước Mĩ xa xôi, quanh năm nắng gắt, người lại ở vùng Bắc lạnh giá vô cùng để đến Oa-sinh-tơn với hi vọng về cuộc sống mới xán lạn hơn! Nhưng không phải trời lúc nào cũng chiều lòng người. Với hai bàn tay trắng, cùng với cái giá vẽ cũ kĩ, vài tờ giấy, hộp bút màu, các cô vẫn hằng ngày lao động cật lực trong các công viên, ở các quảng trường, nhà ga, bến xe hỏa,… Nghèo vẫn hoàn nghèo! Chỉ có tình cảm giữa họ thì ngày một giàu thêm!
Bỗng một ngày, số phận như muốn đùa giỡn với hai cô gái trẻ. Giôn-xi đột ngột đổ bệnh sưng phổi. Là một cô gái yếu đuối, lại được sinh ra ở vùng đất có khí hậu nhiệt đới, Giôn-xi khó lòng đủ sức chống lại bệnh tật. Hơn nữa, sự nghèo túng càng khiến cô không muốn sống! Suốt ngày nằm bẹp trên giường, trong căn phòng tối tăm, chật hẹp, chỉ duy nhất nguồn ánh sáng của mặt trời chiếu rọi, Giôn-xi chỉ biết hằng ngày ngắm nhìn cây thường xuân bám vào bức tường gạch đối diện cửa sổ. Cuối thu đầu đông, lá bắt đầu rụng dần, cành cây trở nên thưa thớt, trơ trọi, cây như bị tước mất sức sống mãnh liệt tiềm tàng. Cô gái bé nhỏ ngắm nhìn cây, lá và thời tiết bất thường rồi lại suy nghĩ về số phận của mình. Chúng cũng như cô đang ngày một chết dần, chết mòn, héo hắt! Mong ước ngày nào đã nguội lạnh, thay vào đó là tư thế sẵn sàng đón nhận một sự ra đi tự nguyện. Cô tự phó mặc cuộc đời mình cho những chiếc lá. Lá càng rụng nhiều thì quãng thời gian còn lại của cô trên cõi đời này càng ngắn dần. Cô chỉ chờ đến khi nào chiếc lá thường xuân cuối cùng chạm đất thì cô cũng xuôi tay về với Chúa. Giôn-Xi tuyệt vọng đến nỗi ngay cả khi chiếc lá cuối cùng vẫn dũng cảm treo mình trên cành cây thì cô vẫn tin chắc rằng nó sẽ rụng và cô sẽ chết. Chiếc lá vừa là nỗi tuyệt vọng, vừa là niềm hi vọng nhỏ nhoi cuối cùng níu giữ Giôn-xi với cuộc sống.
Tình cảnh của cô khiến những người bạn của cô đau đớn vô cùng. Người đầu tiên là Xiu, cô đã khóc “đến ướt đẫm cả một chiếc khăn giấy Nhật Bản”. Tuy không phải là máu mủ ruột rà, nhưng Xiu vẫn miệt mài ngày đêm kiếm từng đồng từng hào mua thuốc, chạy chữa cho bạn… Biết được tâm trạng của người bạn gái, cô đã nói như van nài:
– “Em thân yêu!” Xiu nói, cúi gương mặt hốc hác gần xuống gối, “Em hãy nghĩ đến chị, chị sẽ làm gì đây?”.
Lời nói đầy nước mắt là biểu hiện của một tình cảm bạn bè cao quý khôn cùng.
Giôn-xi vẫn đòi kéo mành lên mà Xiu không ngăn cản nổi. Mặc dù không mở cửa thì không có ánh sáng để chăm sóc bạn, để vẽ minh hoạ lấy tiền mua thuốc và thức ăn cho người bệnh thoát khỏi lưỡi hái tử thần… mà mở cửa thì hình ảnh của cái chết ám ảnh bạn mình. Xiu hi vọng chiếc lá đừng rụng vì nó còn ngày nào trên cành là ngày đó bạn cô còn mong manh chút hi vọng nhỏ nhoi.
Ngày qua ngày, Xiu vẫn tận tình chăm sóc cho Giôn-xi, vẫn kiên nhẫn khơi dậy trong người bạn gái niềm tin yêu cuộc sống, sự đấu tranh để chiến thắng bệnh tật. Đối với cô, chiếc lá đã thể hiện rõ tĩnh yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc, lo lắng tận tình dành cho người bạn thân!
Nỗi khổ tâm của Xiu còn tác động tới cụ hoạ sĩ già Bơ-men, người yêu quý và luôn bảo vệ hai cô gái trẻ Xiu và Giôn-xi. Sự nghèo khổ và cuộc mưu sinh đã chiếm trọn thời gian và tâm sức của cụ. Cả ba con người không thân thích này đã gắn bó và yêu quý nhau vì cùng từ xa tới Oa-sinh-tơn, sống vất vả, thiếu thốn để theo đuổi những ước mơ đẹp đẽ về nghệ thuật nên họ coi nhau như người thân trong nhà. Giôn-xi đang ngày càng tuyệt vọng, gần kề với cái chết, thôi thúc cụ Bơ-men phải làm một điều gì đó để cứu vãn. Cụ muốn làm cho cái kết của câu chuyện phải ngược lại với sự chờ đợi của cô gái. Cụ biết rằng muốn Giôn-xi được sống thì chiếc lá cuối cùng phải còn lại trên cây, ít ra cho đến khi Giôn-xi qua khỏi. Và cụ đã biết mình phải làm gì…
Sau một đêm kéo dài với những cơn gió phũ phàng và trận mưa không ngớt, chiếc lá vẫn nằm đó, dũng cảm treo mình trên cây. Giôn-xi dường như không tin vào mắt mình và “ngắm nhìn chiếc lá hồi lâu”, từ giây phút đó, có điều gì hình thành trong đáy sâu tâm hồn làm thay đổi hẳn suy nghĩ và hành động của cô. Chúng ta nghe cô nói: “Em thật là một con bé hư, chị Xiu thân yêu ơi”, “Chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào. Muốn chết là một tội. Giờ thì chị có thể cho em xin tí cháo và chút sữa pha với rượu vang đỏ và khoan – đưa cho em chiếc gương tay trước đã, rồi xếp mấy chiếc gối lại quanh em, để em ngồi đầy xem chị nấu nướng”. Một tiếng đồng hồ sau, cô nói: “Chị Xiu thân yêu ơi, một ngày nào đó em hi vọng sẽ được vẽ vịnh Na-plơ”. Sức mạnh vô hình của chiếc lá đã kéo Giôn-xi vể với hiện thực, trở về với niềm lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống. Thật là kì diệu ! Ở đây, ta có thể thấy rõ vai trò chiếc lá thể hiện niềm tin yêu cuộc sống, khát vọng và ước mơ ở cuộc sống của Giôn-xi.
Chiếc lá thường xuân là món quà tặng vô giá mà cụ Bơ-men trao cho Xiu và Giôn-xi với mong ước, mai sau, hai cô sẽ hoàn thành ước mơ để trở thành những hoạ sĩ nổi tiếng!… Như vậy, trong cái đêm định mệnh đó, trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến tột cùng, ông hoạ sĩ già sáu mươi tuổi vật lộn với mọi khó khăn về cả khách quan lẫn chủ quan để thổi hồn mình cùng tình yêu thương vô bờ bến của mình qua những đường nét trên bức tường đầy mưa bão. Bức tranh chiếc lá đã chứa đựng một sửc sống mãnh liệt, sự ấm nóng của sự hi sinh cao cả! Sự hiện diện của chiếc lá ông cụ vế trong đêm dông bão đó đã cứu sống cô gái trẻ đang tuyệt vọng. Chính với ý nghĩa lớn lao đó mà tác phẩm cuối đời của người hoạ sĩ già đã trở thành một kiệt tác, điều mà cụ Bơ-men không hề ngờ tới. Chắc hẳn, cụ sẽ mỉm cười mãn nguyện khi thấy hai cô gái đã cảm nhận được tình thương yêu đầy hi sinh của cụ, và hành động cao cả ấy sẽ là nguồn động lực giúp họ vươn lên trong cuộc sống. Chúng ta xúc động thật sự khi nghe Xiu thổn thức nói với bạn, “Ôi em thân yêu, đó chính là kiệt tác của cụ Bơ-men – cụ vẽ nó ở đấy vào cái đêm mà chiếc lá cuối cùng đã rụng”. Cụ Bơ-men đã ra đi, nhưng chiếc lá vẫn còn đó như một bản thánh ca tuyệt vời của tình yêu thương và đức hi sinh cao cả.
“Tình đời trong chiếc lá”, đó chính là bức thông điệp mà O Hen-ri muốn gửi gắm qua truyện ngắn của mình. Qua đó, nhà văn đã ngợi ca những tình cảm cao đẹp, ngợi ca tình bạn cao quý, thiêng liêng của những người nghệ sĩ nghèo nước Mĩ.
(Phan Mai Anh, lớp 9A9, Trường THCS Ngô Sĩ Liên,
Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội)
Bình luận câu tục ngữ “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ mang phần đến cho”.
Câu trả lời của bạn
Cuộc sống luôn đòi hỏi con người phải cố gắng, nỗ lực vươn lên để khẳng định giá trị của bản thân. Con người luôn luôn được đào tạo tính tự lập, kiên cường, ý chí. Mọi thứ chúng ta có được phải trả giá bằng mồ hôi, xương máu, bằng trí tuệ và sức lực của chúng ta thì mới có ý nghĩa và mang lại hạnh phúc cho ta. Chính vì vậy, trong kho tàng ca dao, tục ngữ của nước ta có câu nói “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”
Câu nói này muốn nhắc nhở khuyên nhủ con người ta phải biết lao động chân chính, để tạo ra của cải vật chất cho mình. Có như vậy cái bạn làm ra mới có ý nghĩa và lâu bền. Còn nếu như bạn không lao động chỉ nhăm nhăm chờ người khác mang quà, tới biếu mình thì chắc chắn là không bao giờ có chuyện đó. Nếu như bạn không làm gì có lợi cho họ. Không có động thái “Có qua có lại mới toại lòng nhau”
Trong xã hội phong kiến xưa kia, phần lớn của cải do người dân lao động làm ra rơi vào tay giai cấp bóc lột. Bọn chúng sống xa hoa, phè phỡn trên mồ hôi nước mắt dân nghèo. Thằng còng làm cho thằng ngay ăn, Ngồi mát ăn bát vàng là những sự thực phũ phàng diễn ra hằng ngày. Bởi thế, ông cha ta đã thể hiện rõ ràng quan điểm của mình về lao động và hưởng thụ; qua đó phản ánh mơ ước, khát khao có được sự công bằng, hợp lí trong xã hội: “Có làm thì mới có ăn. Không dưng ai dễ đem phần đến cho”
Câu nói trên đúc kết cho con người một nguyên tắc sống chân thành, mộc mạc, giản dị dạy con người phải biết quý trọng lao động, trân trọng những thành quả do công sức lao động của mình làm ra. Cuộc sống con người muốn tồn tại lâu dài, muốn tự mình hiên ngang, thẳng thắn đi trên con đường của mình được mọi người yêu quý, kính nể, thì cần phải biết lao động, lao động về thể xác hay trí óc thì đều là những lao động chân chính. Việc chúng ta tạo ra những vật chất, tiền tài từ sức lao động của mình giúp cho chúng ta khẳng định được vị thế, giá trị của bản thân trong cộng đồng, trong xã hội.
Có làm thì mới có ăn không dưng ai dễ mang phần tới cho
Còn những con người không biết lao động, không yêu quý việc lao động chỉ muốn ngồi mát ăn bát vàng, trông chờ người khác mang sẵn của cải vật chất tới cho mình, thì sớm muộn cũng phải trả giá đắt. Bởi trong cuộc sống nếu chúng ta không làm lợi cho họ, thì không có lý do gì họ lại mang lại lợi ích cho ta. Nhưng khi chúng ta làm lợi cho một người nào đó để nhận sự biếu xén của họ, thì vô tình chung chúng ta đang làm sai tới lợi ích của đông đảo mọi người. Việc làm sai trái này sẽ có ngày nào đó bị phanh phui ra ánh sáng, khiến cho chúng ta phải khốn đốn. Nhẹ thì cảnh cáo, kỷ luật, nặng thì tù tội, vướng vòng lao lý sinh tử…
Trong xã hội hiện đại của chúng ta ngày nay, bên cạnh những người biết quý trọng lao động, có ý thức lao động để tự lập, tự cường thì cũng có nhiều người đang sống như một cây tầm gửi, sống bám vào xã hội, mong chờ sự giúp đỡ bố thí tình thương của xã hội như: hot girl Bella đang rất thu hút mọi người ở trên mạng xã hội hiện nay.
Cô gái này chỉ sinh năm 1988 còn rất trẻ sức khỏe bình thường, nhưng lại muốn có cuộc sống ăn ngon, mặc đẹp mà không phải lao động. Cô gái này thường xa vào nhà hàng, khách sạn, đi xe taxi mà không chịu trả tiền, rồi khi mọi người mắng mỏ cô thì cô gái này lại kêu rằng mình đang có bầu cần phải được chăm sóc nhằm kêu gọi tình thương của xã hội.
Tất nhiên trong xã hội ta nhiều người có lòng hảo tâm và sẵn sàng giúp đỡ cô gái này. Nhưng dường như lòng tham của cô gái này quá lớn. Cô ta ngày càng đòi hỏi nhiều hơn và luôn luôn muốn người khác cung phụng mình mà không bao giờ nghĩ mình làm gì cho họ, gây phẫn nộ trong dư luận xã hội.
Những người có tư tưởng sống như cô gái Bella này thật đáng chê trách và đáng xấu hổ. Nên loại bỏ những con người này ra khỏi xã hội không nên quá quan tâm tới họ, để họ lợi dụng lòng tốt của cộng đồng nhằm trục lợi. Nên dạy họ những bài học để họ hiểu được giá trị của việc lao động ý nghĩa như thế nào.
Câu tục ngữ trên là thái độ sống, quan điểm hoàn toàn đúng đắn của cha ông ta việc cống hiến, lao động với thành quả hưởng thụ. Có lao động thì mới được hưởng thụ thành quả. Thông qua câu tục ngữ ông cha ta đã khẳng định một chân lý tồn tại mãi mãi đó là lao động mới là tiêu chuẩn đo sự thành công, đạo đức, giá trị của một con người khi sống trong xã hội.
Trong giai đoạn hiện đại, câu tục ngữ này càng có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó nhằm giáo dục, khuyên nhủ những vị quan chức, quyền cao chức trọng phải biết giữ mình trước những túi quà, những tập phong bì, để giữ cho tâm hồn trong sạch, thanh cao. Bởi “Không dưng ai dễ mang phần đến cho” đằng sau những món quà đắt tiền, những tập phong bì kia đều là những âm mưu khác, nếu vị quan chức kia nhận đồng nghĩa đã thương lượng, bao che cho điều ác, điều xấu, đã bán rẻ thanh danh và phẩm hạnh của mình. Rồi sẽ có một ngày anh ta phải trả giá trước pháp luật và trước toàn thể người dân trong xã hội.
Đã từ lâu nhân dân ta đã đúc kết lên câu: “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”. Em hãy nêu suy nghĩ của mình về câu ca dao này..
Câu trả lời của bạn
Mở bài: Giới thiệu về câu "Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”
Từ xưa đến nay dân tộc Việt Nam luôn luôn có truyền thống yêu lao động, luôn hăng say trong sản xuất và chiến đấu, chính vì thế, lao động trở thành một thứ không thể thiếu trong cuộc sống của nhân dân, chính vì vậy mới có câu tục ngữ:
“Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”.
Thân bài: Suy nghĩ về câu "Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”
Kết bài: Bài văn nêu suy nghĩ về câu ”Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”
Câu tục ngữ đã để lại cho mỗi chúng ta những bài học, những cảm nghĩ sâu sắc hơn về lao động, sự chăm chỉ, sẽ giúp chúng ta có được những điều tốt nhất cho cuộc sống, trở thành những người có ích cho xã hội này. Luôn yêu lao động, cần cù thì mọi điều tốt đẹp sẽ đến với mỗi chúng ta.
Suy nghĩ về tình cha con của anh Sáu và bé Thu trong đoạn trích “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Quang Sáng là nhà văn chuyên viết về cuộc sống của con người Nam bộ. Tác phẩm của ông đã để lại dấu ấn trong lòng biết bao người đọc. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. Đoạn trích “Chiếc lược ngà” trong sách văn chín-tập một cho ta hiểu được tình cha con của anh Sáu và bé Thu rất thiêng liêng và đẹp đẽ. Để hiểu rõ hơn về tình cảm cao đẹp đó chúng ta hãy phân tích về nhân vật anh Sáu và bé Thu trong đoạn trích ấy.
Anh Sáu xa nhà đi chiến đấu cho đến khi bé Thu lên tám tuổi anh mới có dịp về thăm nhà thăm con. Trong ba ngày anh Sáu ở nhà, bé Thu không chịu nhận anh là cha vì vết sẹo dài trên má khiến cho anh không giống với người cha trong ảnh chụp chung với má mà em đã được xem. Em chỉ nói trổng, không nhờ anh chắt nước cơm vì không muốn gọi ba và Thu đã hất tung cái trứng cá mà anh gắp cho rồi em bơi xuồng qua mét ngoại. Khi bé Thu nhận ra anh Sáu là ba thì tình cảm cha con trỗi dậy mãnh liệt trong long em, nhưng đó cũng là lúc anh Sáu đã đi rồi. Ở khu căn cứ, anh Sáu đã làm cho con chiếc lược ngà với dòng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Trong một trận càn, anh Sáu bị thương. Trước lúc hy sinh, anh còn kịp trao chiếc lược ngà cho đồng đội, nhờ bác Ba đem về cho bé Thu.
Bé Thu là một đứa trẻ thương cha bằng một tình cảm mãnh liệt, bất tử. Cũng như nhiều đứa trẻ bất hạnh khác trong chiến tranh, bé thu thiếu thốn tình yêu thương của người cha tử tấm bé. Do đó, em khát khao được gặp cha và mong muốn được gọi một tiếng ba trong đời. Nhưng tất cả những gì bé Thu biết về cha mình chỉ là một tấm ảnh cũ khi ông chụp chung với mẹ. Hình ảnh ấy đã khắc sâu vào trong tâm trí bé. Vì vậy, khi gặp ông Sáu, bé Thu không thể chấp nhận ông Sáu là cha bởi trên khuôn mặt ông là một vết sẹo dài đáng sợ khác hẳn với người cha trong tấm ảnh. Anh Sáu càng gần gũi, vỗ về bé thì bé càng đẩy ra. Em chẳng bao giờ chịu gọi ba, bất chấp lời dọa nạt, kể cả khuyên nhủ của người. Nhưng bé Thu càng tỏ thái độ lạnh nhạt, xa lánh ông Sáu ta càng thấy rõ tình yêu của bé đối với người cha của mình trong tấm ảnh. Đối với em, tình thương cha không thể chia sẻ cho bất cứ ai. Em phản kháng mãnh liệt để khẳng định mình chỉ có một người cha. Tất cả những hành động, suy nghĩ ấy đã tan biến khi em hiểu vấn đề.
Khi được bà ngoại giải thích, bé Thu đã trăn trở và ân hận nhưng đó cũng là lúc ông Sáu phải lên đường. Bao cảm xúc dồn nén trong long suốt mấy năm nay cộng với nỗi ân hận đã vỡ òa ra thành tiếng thét- như cứa vào tâm can của mọi người. Trong giây phút chia tay ấy, cái nhìn xa xăm, bao cử chỉ, hành động đều nói lên tình thương cha của em thật nồng nàn. Hiểu được tình thương của người con nhỏ bé đó, không ai giận em mà quý em nhiều hơn. Thử hỏi, có nỗi đau nào lớn bằng nỗi đau của một đứa con mong muốn được gặp cha trên đời, nhưng đến khi gặp mặt, nó lại không nhìn nhận. Để rồi đến lúc hiểu ra thì cha nó phải chia xa vĩnh viễn. Khi lớn lên, bé Thu đã trở thành cô giao liên dũng cảm và nhận chiếc lược ngà của ba từ ông Ba. Tình cha con trong Thu đã trở nên bất tử.
Trong đoạn trích “Chiếc lược ngà”, tình thương con dạt dào bất tận của người cha-anh Sáu, đã thể hiện rất rõ nét. Thương gia đình, thương con nên anh đi chiến đấu khi con chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ con của anh chồng chất theo thời gian. Bởi vậy khi được về thăm nhà, ông cảm thấy nôn nao, trăn trở. Nhưng trái ngược với sự mừng rỡ, xúc động khi được về thăm con là cảm giác hụt hẫng trước thái độ xa lánh của con. Với anh, nỗi đau thương tật để lại trên mặt không đau bằng nỗi đau tinh thần. Nhưng anh vẫn không hề thất vọng khi trao tình thương cho con mà bị con từ chối. Suốt ba ngày phép, anh luôn ở gần con để vỗ về con, mong được nghe tiếng ba. Nhưng đáp lại sự quan tâm của anh chỉ là sự phản kháng, lạnh lùng và những lời nói trổng của con gái. Điều đó đã khiến anh vô cùng đau khổ. Chính lòng thương con đã khiến anh nhẫn nhục, kiên trì. Hạnh phúc dâng trào và những dòng nước mắt trong giây phút chia tay khi anh được con gọi bằng tiếng ba thân thương, nỗi mong chờ của người cha đã được bù đắp. Nhưng hạnh phúc đến với anh sao mà ngắn ngủi quá vì đã đến lúc anh phải chia tay với con. Dù ở gần con hay ở xa con nhưng tình thương của anh Sáu không phai nhạt. Ở chiến khu, anh rất nhớ con và ân hận vì đã đánh con. Anh đã dồn tất cả tình yêu thương của mình để làm chiếc lược ngà với dòng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Đó chính là thước đo để đánh giá tình thương con sâu đậm của anh. Trong một trận càn, anh bị bắn. Trước phút lâm chung, anh không nói được lời nào nhưng anh vẫn nhớ đến “Chiếc lược ngà”. Bằng cái nhìn với người đồng đội, anh Sáu đã chuyển giao kỉ vật cho bé Thu. Phải chăng tình yêu thương con là sức mạnh để anh vượt qua cái chết. Tình thương con của anh đã trở nên bất tử.
Chiến tranh đã gián tiếp xuất hiện qua vết sẹo của anh Sáu. Nó đã trở thành hố sâu ngăn cách tình cảm cha con. Tuy nhiên, vượt qua rào cản vô hình ấy, tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu lại trở nên cao đẹp và thiêng liêng hơn bao giờ hết.
Em cảm thấy xúc động trước sự mất mát của cha con anh Sáu. Biết bao nhiêu người đã hy sinh tình cảm đẹp đẽ ấy trong chiến tranh chống quân xâm lược.
Bằng giọng kể hay, truyền cảm-Bác Ba, cách kể chuyện tự nhiên với những tình huống bất ngờ nhưng hợp lý, đặc biệt là cách xây dựng vai kể làm cho câu chuyện trở nên chân thật, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã đem đến cho người đọc cảm xúc nhẹ nhàng, sâu sắc về bức tranh hiện thực của cuộc chiến những năm 1966: mối quan hệ tình cảm gia đình trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc đầy gian khổ và hy sinh. Câu chuyện đã khuyên chúng ta phải biết trân trọng và giữ gìn tình cảm gia đình thiêng liêng và đẹp đẽ.
Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Quang Sáng viết truyện Chiếc lược ngà năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì chống Mĩ. Là một nhà văn quê ở miền Tây Nam Bộ, hầu như ông chỉ viết về cuộc sống và con người của quê hương trong chiến tranh và sau hoà bình. Truyện ngắn này ra đời trong hoàn cảnh đạn bom ác liệt nhưng lại tập trung nói về tình người, cụ thể là tình cha con của người chiến sĩ cách mạng.
Anh Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc đứa con gái đầu lòng mới một tuổi. Mãi đến khi nó lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà. Con bé không nhận anh Sáu là cha vì vết sẹo trên mặt khiến anh không giống trong bức ảnh chụp cùng với vợ mà bé Thu đã được má cho xem. Đến lúc bé Thu nhận ra cha thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi. Tình cha con thiêng liêng trỗi dậy mãnh liệt trong em khiến cho mọi người xúc động. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào việc làm một chiếc lược bằng ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn của giặc, anh Sáu bị thương nặng. Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược ngà cho người bạn, với ý nhờ mang về quê trao tận tay con gái của mình.
Tình cha con sâu sắc được tác giả thể hiện qua hai tình huống: Tình huống thứ nhất là cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách. Thu đối xử với cha như đối với người xa lạ. Đến lúc em nhận ra và ôm riết lấy cha, thể hiện tình cảm mãnh liệt thì anh Sáu lại phải ra đi làm nhiệm vụ.
Tình huống thứ hai là ở khu căn cứ, anh Sáu dồn tất cả tình yêu thương, mong nhớ con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng anh đã hi sinh và không kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha đối với con.
Sau nhiều năm xa cách, anh Sáu chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người. Đến lúc được về thăm nhà, bao nỗi nhớ thương chất chứa từ lâu nên anh Sáu không kìm được niềm vui khi nhìn thấy bé Thu: Cái tình người cha cứ nôn nao trong người anh. "Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to: “Thu! Con!"
Nhưng thật trớ trêu, đáp lại tình cảm nồng nàn của người cha, bé Thu lại tỏ ra sợ hãi và ngờ vực. Anh Sáu càng muốn gần con để vỗ về yêu thương thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa lánh.
Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu trong lần gặp cha đầu tiên được tác giả miêu tả ở hai thời điểm trước và sau khi nhận ra cha.
Tâm lí và thái độ của bé Thu được tác giả thuật lại rất sinh động qua hàng loạt các chi tiết vừa cảm động, vừa buồn cười: Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Lần đầu tiên nhìn thấy người đàn ông lạ, lại xưng là ba, con bé hết sức ngạc nhiên và sợ hãi, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!"
Khi má bảo gọi cha vào ăn cơm, nó nhất quyết không chịu. Má ép quá, bé Thu chỉ gọi trống không: Vô ăn cơm! Kể cả lúc má đi vắng, nó lâm vào thế bí, muốn nhờ anh Sáu chắt bớt nước nồi cơm đang sôi mà cũng vẫn nói trổng, nhất định không gọi là cha. Anh Sáu lặng im xem nó làm cách nào. Bé Thu lấy vá (muôi) múc nước ra, vừa múc vừa lầu bầu tức giận. Bữa cơm, anh Sáu âu yếm gắp cho con cái trứng cá vàng ươm. Bé Thu bất ngờ lấy đũa hất rơi xuống đất. Anh Sáu không nén được tức giận, đánh con một cái vào mông. Bé "lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm" bỏ ăn, chèo xuồng về nhà bà ngoại bên kia sông. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích kêu rộn ràng để tỏ ý bất bình.
Sự ương ngạnh của bé Thu đúng là tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không đáng trách. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Thu còn quá nhỏ nên không thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le. Phản ứng rất tự nhiên chứng tỏ bé Thu có cả tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc và chân thật. Bé chỉ yêu khi tin chắc người đó đúng là ba của mình. Trong thái độ cứng đầu của bé ẩn chứa cả sự kiêu hãnh dành cho người cha thân yêu - tức là người đàn ông điển trai trong tấm hình chụp chung với má.
Khi đã nhận ra cha, cảm xúc và hành động của bé Thu biểu hiện thật mãnh liệt, khác hẳn lúc trước.
Ba ngày nghỉ phép đã hết. Trước lúc lên đường, anh Sáu đang bịn rịn chia tay thì bất chợt bé Thu cất tiếng gọi ba và tiếng kêu như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba" mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa... Hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run.
Điều gì đã dẫn đến sự thay đổi đột ngột trong thái độ cùa bé Thu? Thì ra khi bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết sẹo làm thay đổi vẻ mặt của cha là do giặc Pháp bắn bị thương. Sự nghi ngờ đã được giải toả và bé Thu ân hận, hối tiếc về cung cách cư xử lạnh nhạt của mình đối với cha: Nghe bà kể, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn.
Vì thế, trong phút chia tay, tình yêu và nỗi mong nhớ đối với người cha xa cách bấy lâu đã bùng ra thật mạnh mẽ khiến bé Thu bối rối, cuống quýt. Chứng kiến cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu, nhiều người không cầm được nước mắt. Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến cho bác Ba tức người kể chuyện - thật sự xúc động. Diễn biến câu chuyện được trần thuật theo lời bác Ba, người bạn thân thiết của anh Sáu. Bác Ba đã chứng kiến tận mắt cảnh ngộ éo le của cha con anh Sáu và trong lòng bác dâng lên một nỗi xót xa. Bác bỗng thấy khó thở như có bàn tay nắm lấy trái tim.
Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, ngôn ngữ và hành động của bé Thu, tác giả đã làm nổi rõ một số nét trong tính cách nhân vật. Tình cảm cha con của bé Thu thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Cá tính của bé Thu cứng cỏi đến mức ương ngạnh, nhưng thực ra Thu rất hồn nhiên, ngây thơ. Tác giả tỏ ra am hiểu và diễn tả rất sinh động tình cảm trẻ thơ trong sáng.
Sức hấp dẫn của truyện Chiếc lược ngà, toát ra từ cốt truyện đơn giản nhưng chặt chẽ, cùng những yếu tố bất ngờ mà hợp lí. Chuyện bé Thu lâu không nhận cha, rồi lại biểu lộ những tình cảm thật nồng nhiệt, đầy cảm động với cha trước lúc chia tay. Sự bất ngờ đã gây được hứng thú cho người đọc, nhất là khi hiểu được diễn biến lôgic ở bên trong các sự việc, hành động có vẻ mâu thuẫn.
Tình cảm cha con sâu nặng đã được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến anh Sáu về phép thăm nhà và được miêu tả kĩ lưỡng hơn khi anh Sáu vào căn cứ kháng chiến trong rừng sâu.
Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh anh Sáu suốt nhiều ngày là việc anh đã lỡ tay đánh con. Lời dặn tha thiết của đứa con: “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đã thôi thúc anh nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh dành tặng con gái.
Kiếm được một khúc ngà voi nhỏ, anh Sáu mừng rỡ vô cùng. Anh dành hết tâm trí vào việc làm cây lược: Anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc. Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.
Chiếc lược ngà đã thành một kỉ vật quý giá, thiêng liêng đối với anh Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận, dằn vặt bấy lâu và ấp ủ bao nhiêu tình cảm nhớ thương, mong đợi của người cha đối với đứa con xa cách. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh. Nhưng rồi một tình cảnh đau thương lại đến với cha con anh Sáu. Anh đã hi sinh khi chưa kịp trao tận tay đứa con gái chiếc lược ngà. Những lời kể lại của bác Ba, người trong cuộc, đã làm nổi bật giá trị thiêng liêng bền vững của tình cha con và tình đồng chí của những chiến sĩ cách mạng.
Truyện Chiếc lược ngà có những đặc điểm khá tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống bất ngờ nhưng vẫn tự nhiên, hợp lí. Giọng kể mộc mạc, tự nhiên. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam Bộ. Đặc sắc của truyện ngắn này còn thể hiện ở ngòi bút miêu tả tâm lí, đặc biệt là tâm lí trẻ em rất tinh tế và chính xác. Điều đó thể hiện sự nhạy cảm và tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn với con người và cuộc đời.
Một điểm đáng chú ý nữa và cũng là điều góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn này là việc lựa chọn nhân vật kể chuyện. Người kể chuyện trong vai một người bạn chiến đấu thân thiết của anh Sáu không chỉ chứng kiến và kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật. Qua những quan sát và cảm xúc của người kể, các chi tiết, sự việc và nhân vật trong truyện đều được phản ánh chân thực, khắc hoạ rõ nét, góp phần nêu bật nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Truyện Chiếc lược ngà đã diễn tả một cách xúc động tình cảm thắm thiết, sâu nặng của cha con anh Sáu. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và ngời sáng. Câu chuyện không chỉ nói lên tình cha con thiêng liêng mà còn gợi cho người đọc suy ngẫm và thấm thía những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh mang đến cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Vì vậy mà ý nghĩa tố cáo, lên án chiến tranh xâm lược của truyện khá sâu sắc.
Giải thích và bình luận câu tục ngữ: ‘Có làm thì mới có ăn...’.
Câu trả lời của bạn
Cũng như hai tiếng học - hành, học - hỏi, hai chữ làm và ăn được nhân dân ta nói đến trong ca dao, tục ngữ thật sâu sắc, ý vị đậm đà. Đây là câu tục ngữ tiêu biểu nhất nêu lên bài học làm người, thể hiện một triết lí nhân sinh tích cực về mối quan hệ giữa làm và ăn của mỗi người trong xã hội:
‘Có làm thì mới có ăn,
Không dưng ai dễ dem phần đến cho’
Câu tục ngữ diễn đạt dưới hình thức thơ lục bát. Câu lục mộc mạc, giản dị như một lời ăn tiếng nói hàng ngày của bà con lao động về một sự thật hiển nhiên ở đời: ‘Có làm thì mới có ăn’. Dân gian đã sử dụng cách nói điều kiện - hệ quả để chỉ ra một chân lí. 'Có làm' là điểu kiện; ‘có ăn’ là hệ quả. Thật là dễ hiểu, vì có làm thì mới có ăn; muốn có ăn thì phải làm, phải lao động.
Hai tiếng ‘không dưng’ trong câu bát nghĩa là không bỗng chốc, không tự nhiên, tự dưng mà có. Chữ ‘phần’ là miếng ăn, là của cải vật chất. ‘Có con mà gả chồng gần - Nửa đêm đốt đuốc đem phần biếu cha’ (ca dao). Nghĩa câu bát bổ sung cho nghĩa câu lục, dân gian đã nhắc khẽ người đời nên biết, nên nhớ là không tự dưng, không bỗng chốc vô cớ mà thiên hạ đem miếng ăn, đem của cải vật chất đến cho không mình.
Tóm lại, câu tục ngữ đã chỉ rõ: Muốn sống, muốn tồn tại, muốn ấm no thì phải lao động; không thể sống ỷ lại thiên hạ.
Câu tục ngữ đã khẳng định giá trị to lớn của lao động, ca ngợi sức lao động và con người lao động. Lao động trước hết để nuôi sống bản thân mình, nuôi sống gia đình mình. Lao động còn để phục vụ đất nước và nhân dân trên vị thế công dân. Có làm có lao động mới sản xuất ra mọi của cải vật chất và sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần để làm cho đất nước ngày thêm giàu đẹp. Lao động là nguồn sống, nguồn ấm no hạnh phúc cho gia đình và xã hội.
Qua câu tục ngữ, nhân dân ta đã phê phán những kẻ lười biếng, ăn bám, chỉ biết ‘Ăn dày làm mỏng’ ỷ lại ‘Há miệng chờ sung’. ‘Có làm thì mới có ăn’ siêng năng, chịu khó lao động thì ấm no, có bát ăn bát để. Lười biếng thì đói rét, khổ cực, chẳng ai cho, chẳng ai thương! Muốn ấm no hạnh phúc và được mọi người tôn trọng thì phải lao động, cần cù, chịu khó. Đã từ bao đời nay, người nông dân Việt Nam đem mồ hôi và công sức bám lấy ruộng đồng, nương rẫy, cuốc bẫm cày sâu, một nắng hai sương, cày cấy quanh năm mới làm ra được hạt gạo để nuôi sống mình, nuôi sống gia đình mình. Nhờ thế mới có lương thực nuôi bộ đội đánh giặc, mới có nhiều gạo để xuất khẩu. Khái niệm làm và ăn rất rộng lớn. Người thợ xây nhà, làm cầu đường, trường học, bệnh viện, dệt vải, làm ra mọi vật dụng cho quốc kế, dân sinh. Thầy thuốc chữa bệnh, săn sóc sức khỏe nhân dân. Giáo viên dạy học, đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động có văn hóa, có kĩ thuật cho đất nước. Lao động chân tay và lao động trí óc đều vẻ vang. Tất cả đều là nguồn nhân lực để nuôi sống xã hội, để xây dựng đất nước ngày một thêm văn minh, giàu đẹp. ‘Có làm thì mới có ăn’ từ chân lí ấy ta mới cảm nhận được, lao động là cái đáng quý nhất, người lao động là người đáng kính nhất trong xã hội.
Câu tục ngữ trên chỉ rõ lao động là thước đo giá trị phẩm giá của mỗi người, mỗi thành viên trong gia đình, mỗi công dân trong xã hội. Cần cù siêng năng, kiên nhẫn, chịu khó, dũng cảm, sáng tạo, v.v... là những đức tính tốt đẹp được hình thành phát triển trong lao động, làm nên nhân cách công dân. Và cũng vì thế mà các thói xấu, tệ nạn như lười biếng, ỷ lại, ngại khó ngại khổ, tham lam, thích ăn ngon, mặc dẹp, xài sang mà chây lười, bóc lột, tham nhũng, xa hoà, lãng phí, v.v... đều bị cộng đồng chê cười, khinh bỉ, lên án. Dân gian nói thật hay về chuyện làm và ăn ở đời. Những câu tục ngữ ấy đã trở thành bài học luân lí thấm thía:
- ‘Hay ăn thì lăn vào bếp’.
- ‘Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn’.
- ‘Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ’.
- ‘Có khó mới có miếng ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho’
Câu tục ngữ ‘Có làm thì mới có ăn...’ nêu lên một nguyên tắc, một quan niệm đúng đắn, công bằng, về làm và ăn, về cống hiến và hưởng thụ: có làm thì có hưởng, làm tốt hưởng nhiều, làm ít, làm dở thì hưởng ít, không làm không hưởng. Trong xã hội cũ, nhân dân lao động đầu tắt mặt tối quanh năm mà vẫn đói rét, trái lại, tầng lớp trên không làm mà lại sống trong nhung lụa. Đó là nghịch lí, bất công: ‘Thằng còng làm cho thằng ngay ăn’, ‘Kẻ ăn không hết người tần không ra.
Lao động thủ công, lao động cơ bắp thật đáng quý. Một giọt mồ hôi, một hạt cơm vàng. Nhưng lao động kĩ thuật, lao động sáng tạo, tài kinh doanh quản lí mới là phẩm chất cần có, nên có đối với mọi người sống trong nền kinh tế - xã hội tri thức.
Nếu làm mà không tiết kiệm, sống xa hoa lãng phí, cần mà không kiệm, thì có thể nói là chưa hiểu đầy đủ câu tục ngữ ‘Có làm thì mới có ăn...’. Qua câu tục ngữ trên, nhân dân ta đã đề cao lao động, nêu lên bài học giáo dục tinh thần lao động, nhắc nhở mọi người yêu lao động, biết sống bằng lao động. Bước vào đời, ai cũng phải sống bằng lao động, phải biết làm giàu một cách chính đáng bằng vốn liếng của mình, bằng chất xám và tài năng của mình. Cuộc đời đâu chỉ vì ăn mà làm, mà lao động? Còn nhiều ý nghĩa cao quý hơn. Vì sự ấm no hạnh phúc của toàn thể cộng đồng, vì sự phú cường của đất nước mà người người lao động, nhà nhà lao động. Làm để ăn để sống; làm còn để hiến dâng và phục vụ. Ông cha ta còn nhắc nhở: ‘Miệng ăn núi lở’, vì thế cần kiệm phải là quốc sách.
Học đi đôi với hành, học tập khoa học, kĩ thuật,... phải là niềm say mê của thanh thiếu nhi. Để có miếng ăn mà phải lấy cái xe bò làm công cụ, phải làm kiểu con trâu đi trước, người cày theo sau thì buồn lắm! Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giúp chúng ta hiếu sâu hơn hai chữ làm và ăn trong câu tục ngữ ‘Có làm thì mới có ăn...’ này. Vì thế, học giỏi, lao động giỏi, được sống trong khoa học và giàu có là chí hướng, là ước vọng của mỗi chúng ta.
Ý nghĩa kết thúc Chuyện người con gái Nam Xương.
Câu trả lời của bạn
⇒ Qua kết thúc truyện này, chúng ta thấy được thái độ căm ghét, lên án của Nguyễn Dữ đối với xã hội bất công đương thời, cái xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định nỗi đau xót và niềm thương cảm của tác giả với số phận bi thảm của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.
Kể lại một việc tốt mà em đã làm.
Câu trả lời của bạn
Hôm đó, cô trả vở Toán cho cả lớp. Đó là môn yêu thích nhất của Linh. Nhưng không hiểu sao hôm nay vẻ mặt của Linh rất lo lắng, và tôi còn thấy Linh cứ quay bên này, quay bên kia mãi.
Cô vừa trả vở xong cho các bạn thì đến giờ ra chơi. Tôi liền đến bên Linh. Linh nói: Hôm nay, bố mẹ tớ đi làm sớm, tớ không kịp xin mẹ 9.000đ để mua bút Nét hoa viết vào vở Toán. Linh sực nhớ ra và reo lên, A! Đúng rồi! Cậu có hai cái bút Nét Hoa, cậu có thể cho tớ mượn một chiếc được không? Tôi đứng ngẫm nghĩ một lúc rồi tự đặt câu hỏi cho chính mình: Có nên cho Linh mượn bút không nhỉ? Tôi hơi băn khoăn. Tiếng trống đã vang lên. Tôi liền về chỗ của mình. Cả lớp ngồi vào chỗ hát xong và Linh cắm cúi viết bài ngay để khỏi trễ giờ. Linh thấy thế nài nỉ tôi cho mượn bút. Cuối cùng tôi cũng quyết định được và gọi nhỏ: Linh ơi! Tớ cho cậu mượn bút này. Chiếc bút đó do mẹ tặng tôi nhân ngày sinh nhật. Màu mực của chiếc bút rất đẹp. Linh nhận được, vẻ mặt phấn khởi lắm. Mỗi khi viết xong mấy chữ, tôi lại ngẩng lên và cảm thấy mực cứ vơi dần đi theo dòng chữ, con số ngay ngắn, thẳng hàng nằm trên trang giấy của bạn. Hết giờ Toán, Linh trả cho tôi chiếc bút và nói: Cảm ơn cậu vì đã cho tớ mượn chiếc bút nhé! Hôm sau, cô trả vở Toán, cả tôi và Linh đều được điểm 10. Tôi mừng lắm vì đã làm được một việc giúp bạn.
Khi về đến nhà tôi kể lại cho mẹ nghe. Mẹ nói: Con hãy cố gắng giúp bạn nhiều hơn khi gặp khó khăn nhé! Tôi như thấm thía câu nói đấy của mẹ và tôi không bao giờ quên được câu chuyện xảy ra ngày hôm đó.
Kể lại một việc tốt mà em đã chứng kiến.
Câu trả lời của bạn
Hôm ấy, chiều thứ bảy, em sang nhà ngoại chơi. Khi đi đến gần đồn công an, một sự việc xảy ra làm em chú ý. Ngay trước cổng đồn, một người phụ nữ đang vừa khóc vừa nói gì đó với chú công an. Người phụ nữ khoảng bốn mươi tuổi, ăn mặc giản dị, tay xách một gói đồ. Còn chú công an khoảng hai mươi lăm tuổi. Người phụ nữ vẫn vừa khóc vừa cầu cứu chú công an: - Chú ơi! Chú cứu tôi với. Bây giờ tôi biết làm sao đây! Chú công an ôn tồn nói với người phụ nữ: - Chị cứ bình tĩnh kể đầu đuôi sự việc. Chúng tôi sẽ giúp chị. Người phụ nữ nức nở: - Tôi đưa cháu đi chợ để mua quần áo, sách vở chuẩn bị cho cháu vào năm học mới. Trả tiền xong, quay lại, tôi đã không thấy cháu đâu cả. Tôi tìm mấy vòng quanh nơi mua bán cũng không thấy. Tôi lo quá không biết tính sao. Thế là tôi lại đây. Chú ơi! Chú giúp tôi với! Chú công an hỏi: - Cháu bé là trai hay gái? Cháu mấy tuổi? Ăn mặc thế nào? Người phụ nữ kể cho chú công an nghe. Chú ghi ghi, chép chép ... Đúng lúc đó tôi thấy chị Lan, gần nhà tôi, tay dắt một đứa bé trai khoảng 5 tuổi đến cổng đồn công an. Em bé vừa đi vừa khóc, mồ hôi nhễ nhại. Chị Lan dùng khăn giấy lau cho em và nói với em điều gì đó. Vừa nhìn thấy bé trai, người phụ nữ mừng quýnh: - Ôi! Con tôi! Chú công an ơi! Cháu đây rồi! Người phụ nữ ôm chầm lấy con. Có lẽ mừng quá nên mất một lúc sau người phụ nữ mới quay sang cảm ơn chị Lan rối rít: - Cô cảm ơn cháu nhiều lắm! Nếu không có cháu bây giờ cô không biết sẽ làm sao? Chị Lan nhẹ nhàng đáp: - Dạ, không có gì đâu cô ạ! Cháu sang nhà bạn. Trên đường đi, cháu thấy em đang ngồi bên gốc cây và khóc. Cháu hỏi nhưng em không nhớ số nhà nên cháu không thể đưa em về nhà được. Cháu quyết định đưa em đến đây để nhờ các chú công an giúp đỡ. Người phụ nữ nói tiếp: - Cháu ngoan quá! Cháu tên gì? Cháu học lớp mấy? Chị Lan chỉ cười, rồi xin phép về.
Mọi người nhìn chị Lan bằng ánh mắt trìu mến. Riêng tôi, tôi rất yêu quý chị Lan. Chị không chỉ giúp đỡ bà con, cô bác lối xóm mà chị luôn sẵn sàng giúp đỡ tất cả mọi người.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *