Qua bài học giúp các em thấy được tấm lòng nhân nghĩa, vị tha của Kiều. Ý nguyện của Nguyễn Du mong ước cuộc sống công lý, chính nghĩa "ở hiền gặp lành".
⇒ Cách cư xử tế nhị, khôn khéo của Thúy Kiều khi báo ân Thúc Sinh. Nàng có bản chất vị tha, thái độ sống vì ân nghĩa. Thông minh, sáng suốt.
→ Hoạn Thư là người khôn ngoan, ranh ma, quỷ quyệt. Với bản lĩnh sắc sảo của mình đã biến nguy thành an, tìm mọi cách để giảm thiểu tội lỗi của mình và hạ bớt sự căm giận của Kiều để Kiều không thể chừng phạt nặng nề như dự định.
→ Kiều là người khoan dung, độ lượng, nhân hậu và có lòng vị tha.
Đề: Phân tích nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích "Kiều báo ân báo oán" của Nguyễn Du.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
→ Qua việc báo ân Thúc Sinh, ta thấy Thúy Kiều là một người nhân hậu, nghĩa tình “Ơn ai một chút chẳng quên”.
3. Kết bài
Thúy Kiều báo ân báo oán là một trong những đoạn trích thành công của Nguyễn Du khi sử dụng ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tính cách và con người nhân vật. Với bài soạn Thúy Kiều báo ân báo oán, các em sẽ thấy được những ân oán của Kiều được đền trả công bằng như thế nào. Chi tiết bài soạn, các em có thể tham khảo tại đây: Bài soạn Thúy Kiều báo ân báo oán.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Nguyễn Du đã sáng tạo nên những lời thoại biến hóa để nói lên chuyện ân oán, cái lẽ đời xưa nay, ca ngợi sự thủy chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh báo ân báo oán là một tình tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều. Để thấy được những sự việc và thái độ của Thúy Kiều trong đoạn trích này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích nhân vật Hoạn Thư trong đoạn trích Kiều báo ân báo oán
- Đóng vai Thúy Kiều kể lại cho mọi người nghe việc báo ân báo oán
- Phân tích nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán
- Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Đại thi hào Nguyễn Du để lại cho văn học nước nhà nhiều tác phẩm nổi tiếng và có giá trị, một trong số đó không thể không nhắc tới Truyện Kiều- đỉnh cao văn học dân tộc. Tác phẩm không chỉ phản ánh hiện thực xã hội đồng tiền đầy tiêu cực đương thời mà còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc. Và có thể khẳng định rằng tư tưởng nhân đạo đã xuyên suốt tác phẩm, trở thành một thứ ánh sáng hấp dẫn, khơi dậy mối đồng cảm, xúc động trong lòng độc giả. Đoạn trích "Thúy Kiều báo ân báo oán" là một trong những đoạn trích thể hiện rõ nhất vẻ đẹp của tình thần nhân đạo, quá đó thấy được một tấm lòng cao cả của thi nhân.
Trong văn học, tinh thần nhân đạo được thể hiện rất đa chiều. Đó là tiếng nói cảm thông, xót xa trước những cảnh ngộ bất hạnh, đau đớn. Đó là sự căm phẫn trước sự tàn ác, xấu xa của những kẻ thống trị bạo tàn. Đó còn là sự ca ngợi và trân trọng những ước mơ, khát vọng và lý tưởng đẹp đẽ trong tâm hồn con người, là sự tin yêu, khâm phục dành cho những người xả thân vì nghĩa lớn. Đến với Thúy Kiều báo ân báo oán, ta được cảm nhận một vẻ đẹp mới của tình thân nhân đạo, đó là cả ngợi vẻ đẹp trong đức hạnh và cốt cách của con người, vẻ đẹp của lòng trọng nghĩa, bao dung nơi nàng Kiều.
Vốn dĩ trong cuộc đời, những người đã đưa tay cứu vớt, giúp đỡ ta lúc khó khăn luôn là người đáng được ta trân quý và biết ơn. Và Kiều cũng như thế, với tấm lòng lương thiện, nhân hậu, trọng nghĩa của mình, nàng đâu thể quên được những ơn sâu mà Thúc Sinh đã dành cho. Đó là ngày mà chàng Thúc nhận nàng làm lẽ, giải thoát nàng khỏi chốn lầu xanh nhục nhã, khỏi thân phận kẻ bán hương hoa.
"Bây giờ kẻ ngược, người xuôi,
Biết bao giờ lại nói lời nước non ?
Bởi thế, mà nàng đã chẳng ngần ngại cho mời Thúc Sinh vào trước để trả ơn nghĩa ngày xưa:
" Cho gươm mời đến Thúc lang
Mặt như chàm đổ mình đường dễ run
Nàng rằng:"Nghĩa nặng nghìn non
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?"
Lời lẽ đầy chân thành, sâu sắc, thể hiện sự tôn trọng "người cũ" của nàng Kiều. Những ngày tháng Thúc giúp Kiều, hạnh phúc bên Kiều ấy là những tình nghĩa nặng sâu mà Kiều có được.
Trước vẻ mặt đầy run sợ của Thúc Sinh, nàng hiểu được rằng chàng Thúc cũng đang vô cùng lo lắng, sợ hãi nên đã trấn an Thúc Sinh. Hơn ai hết, Kiều biết rằng những khổ đau, éo le xưa kia trước sự ghen tuông của Hoạn Thư không phải là Thúc Sinh gây ra, cũng không phải là điều Thúc Sinh mong muốn, vì vậy mà nàng không hề buông một lời trách than trước Thúc Sinh, trái lại nàng còn mang bạc vàng, lụa là tặng chàng như sự đền ơn đầy kính trọng:
"Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là"
Trước lời nói và hành động của Kiều, ta càng cảm phục tấm lòng trọng nghĩa nơi người con gái tài sắc vẹn toàn kia.
Với người ân nhân, Kiều luôn ân cần, từ tốn, nhưng với kẻ gây ra khổ đau cho nàng, Kiều không khỏi xót xa, oán trách khi nhắc đến:
" Vợ chàng quỷ quái tinh ma
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau
Kiến bò miệng chén chưa lâu
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa"
Nhưng dù kẻ tội nhân kia có gây nên bao tội lỗi, vùi dập nàng bao tủi nhục thì với tấm lòng bao dung của mình, Kiều vẫn thứ tha cho họ. Trách móc đó rồi cũng hạ lòng độ lượng mà tha tội.
Hoạn Thư là vợ chính của Thúc Sinh, sự ghen tuông có phần mù quáng ấy đã khiến cho Kiều bị chà đạp. Giờ đây hai người gặp lại trong hai vị thế khác nhau, Kiều là người chiến thắng còn Hoạn Thư là kẻ tội đồ. Khi Hoạn Thư xuất hiện, Kiều đã lên tiếng trước:
" Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!"
Hai từ "tiểu thư" cùng lời chào thưa trước như một sự mỉa mai người trước mặt kia. Bằng sự sắc lạnh trong từng câu chữ, Kiều đã cảnh cáo tội ác của Hoạn Thư.
" Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều"
Trước cảnh tình lúc ấy, Hoạn Thư không khỏi sợ hãi "hồn lạc phách xiêu", nàng lấy lời kêu ca mà giãi bày hòng mong Kiều mở lòng từ bi mà giảm tội cho mình. Trước hết Hoạn Thư thú nhận tội lỗi về mình bày tỏ sự chân thành, ghen tuông là câu chuyện thường thấy ở đàn bà. Tiếp theo nàng gợi lại chuyện xưa, chút ân tình nhỏ bé ngày lên các viết kinh và ngày nàng bỏ trốn. Và trong thâm tâm của Hoạn Thư, dẫu cho Kiều là tình địch nhưng nàng vẫn luôn "kính yêu" trân trọng tài năng và đức hạnh nàng Kiều. Trước lời thống thiết có tình, có lý, lời van xin chân thành và đúng mực ấy, Kiều cũng xuôi lòng mà tha tội:
" Khen cho:"Thật đã nên rằng
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời
Tha ra thì cũng may đời
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
Đã lòng tri quá thì nên"
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay."
Những nếm trải đau thương mà Kiều phải chịu đựng không phải là ít, có lẽ rất khó để thứ tha cho kẻ gây bão khổ đau cho chính mình. Nhưng Kiều đã mang tình thương, sự đồng cảm và bao dung để xua tan những hận thù kia. Kiều tha tội cho Hoạn Thư cũng là lúc lòng Kiều được nhẹ nhàng hơn, oán hận cũng được hoá giải. Tấm lòng cao thượng của Thúy Kiều đã cho thấy được một trái tim đẹp nơi nàng. Và chắc chắn rằng, qua Thúy Kiều, Nguyễn Du đã gửi gắm tấm lòng mình, tinh thần nhân đạo của mình vào trong đó. Đó là sự bao dung, là lòng trọng nghĩa, là lòng yêu chính nghĩa và khát khao công lý để mang lại một xã hội tốt đẹp hơn, công bằng hơn.
Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán bằng việc xây dựng ngôn ngữ đối thoại đặc sắc, khắc hoạ nhân vật tinh tế đã mang đến một tinh thần mới của chủ nghĩa nhân đạo. Đó là tinh thần được kế thừa và phát huy trong truyền thống với những giá trị cao đẹp của dân tộc.
Câu trả lời của bạn
Hoạn Thư là một nhân vật trong Truyện Kiều- một trong những người làm nên tấn bi kịch cho cuộc đời Kiều. Không chỉ là con người có tính cách bạo tàn, ngang ngược khi ngược đãi, chà đạp Thúy Kiều mà trong đoạn trích "Thúy Kiều báo ân báo oán", Hoạn Thư còn hiện lên là một con người xảo quyệt, đầy cá tính, khôn ngoan.
Khi gặp được Từ Hải, được chuộc ra khỏi chốn thanh lâu, được sống cuộc sống hoàn toàn mới, Thúy Kiều dưới sự giúp đỡ của Từ Hải đã tiến hành một "phiên tòa" để tiến hành báo ân báo oán.Vốn là người gây ra bao nhiêu đau khổ, bi kịch cho Thúy Kiều, Hoạn Thư khi bị người của Từ Hải giải đến đã vô cùng hoảng hốt, lo sợ.Sự lo sợ này thể hiện ra ngay trong nét mặt:
"Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu
Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca"
Là một người đàn bà thông minh, khi bị Thúy Kiều cho giải đến lễ đường thì đã nhận thức ngay được tình huống, biết mối nguy hiểm, những hình phạt đáng sợ mà tới đây mình sẽ phải gánh chịu. Nên dù là con người hống hách, không coi air a gì thì vào hoàn cảnh này, Hoạn Thư cũng phải "hồn lạc phách xiêu", sự hoảng loạn, sợ hãi thể hiện ran gay trong nét mặt.Tuy nhiên, Hoạn Thư cũng là người biết mình, biết ta, không buông xuôi mà có những hành động cụ thể để tự cứu lấy mình.
"Khấu đầu dưới trướng,liệu điều kêu ca"
Hành động "khấu đầu" này cho thấy Hoạn Thư đã vứt bỏ cái "tôi" kiêu hãnh để lạy lục dưới chân mà mình vô cùng căm ghét, từng coi là kẻ thù phải bị diệt bỏ. Tuy độc ác, bạo tàn nhưng Hoạn Thư cũng biết sợ hãi trước cái tử cần kề, làm mọi cách để duy trì được mạng sống.Hoạn Thư là một con người đầy linh hoạt, khéo léo.Biết sử dụng những lí lẽ của mình để thuyết phục Thúy Kiều. Hành động dã man đã đối xử với Thúy Kiều của Hoạn Thư đã quá rõ ràng, hơn nữa người trong cuộc cũng đã đích danh chỉ tội:
" Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư"
Tuy nhiên, Hoạn Thư biết cách để đánh động vào sự cảm thông,lòng trắc ẩn của Thúy Kiều khi đưa ra lí lẽ:
"Rằng: Tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình"
Lí lẽ Hoạn Thư đưa ra vô cùng sắc sảo mà cũng không kém phần hợp lí.Trong hoàn cảnh "ngàn cân treo sợi tóc" như vậy nhưng Hoạn Thư vẫn có thể nghĩ ra những lí do và sắp xếp nó hợp tình hợp lí như vậy,chứng tỏ nàng ta là một người vô cùng bản lĩnh và cũng vô cùng tin tưởng vào bản thân mình.Hoạn Thư đã giải thích những hành động của mình đối với Thúy Kiều vì mang "chút phận đàn bà", và đã là đàn bà thì ghen tuông là chuyện rất "thường tình", đáng thương hơn là đáng trách.
Khi đã "quy đồng" tội danh của mình vào thân thận đàn bà,Hoạn Thư không dừng lại ở đó mà tiếp tục "đánh đòn tâm lí" mạnh hơn đối với Thúy Kiều, khiến Kiều không chỉ cảm thông mà còn mang ơn với Hoạn Thư:
"Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo"
Hoạn Thư đã rất khéo léo khi nhắc tới những lần mình đã vô tình giúp Thúy Kiều,đó là khi cho Thúy Kiều ra Quan Âm các chép kinh thay vì cuộc sống khổ sai, bạo tàn ở nhà của Hoạn bà. Hơn nữa, Hoạn Thư cũng nhấn mạnh vào sự "từ bi" của mình khi không cho người đuổi theo khi Thúy Kiều bỏ trốn. Biết Thúy Kiều là con người trọng ân nghĩa, lại rất mực nhân hậu, vị tha nên Hoạn Thư đã kể nể đủ điều bởi nàng ta cũng biết mình đã phần nào khơi lên sự thương cảm của Kiều, đây chỉ là đòn quyết định để Thúy Kiều giảm nhẹ hình phạt đối với mình.
Khi Thúy Kiều còn đang lưỡng lự, suy nghĩ thì Hoạn Thư lại tiếp tục minh oan cho mình:
"Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai
Trót lòng gây việc chông gai
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?"
Hoạn Thư cũng kể ra nỗi khổ của mình khi sống cuộc sống "chung chồng", và cũng biện minh cho mình vì hồ đồ nên "trót" gây ra bao tai họa cho Thúy Kiều.
Ở đây Hoạn Thư nhận hết mọi lỗi lầm của mình, nhưng bằng những lí lẽ đưa ra thì những lỗi lầm ấy trở nên nhỏ bé hơn, Hoạn Thư từ có tội dần trở thành vô tội. Điều cuối cùng mà Hoạn Thư muốn đó là sự ban ơn của Thúy Kiều đối với mình. "Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?"
Sự khéo léo trong lời nói, lập luận chặt ché đánh động được vào tâm lí người nghe cùng với bản lĩnh, sự thông minh của người đàn bà lọc lõi lẽ đời đã khiến Hoạn Thư thoát khỏi án tử, bản án cũng trở nên vô hiệu. Chính Thúy Kiều cũng phải cất tiếng khen ngợi:
"Khen cho thật đã nên rằng
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời"
Câu trả lời của bạn
Thúy Kiều - người con gái bạc mệnh, trải qua bao gian nan, tai kiếp, cuối cùng nàng cũng đậu được một bến bờ vững chãi - Từ Hải. Từ Hải là người đã cứu vớt cuộc đời khổ đau của Kiều, đưa Kiều ra khỏi chốn thanh lâu, giúp nàng có một danh phận xứng đáng. Không chỉ vậy, Từ Hải còn là một tri âm tri kỉ, "tâm phúc tương tri" của nhau và chàng cũng giúp nàng trở lại nơi xưa báo ân báo oán với Thúc Sinh, Hoạn Thư. Ở đoạn trích "Thúy Kiều báo ân báo oán này", Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật miêu tả ngôn ngữ đối thoại thật độc đáo để khắc họa tính cách nhân vật Thúy Kiều, Hoạn Thư thật thành công.
Trải qua bao thăng trầm, cuối cùng Kiều cũng có được một danh phận chính thức, nàng trở thành phu nhân của Từ Hải, trở thành người có quyền có thế trong tay. Chính ở địa vị này, nàng mới có thể báo ân báo oán với những người xưa kia của mình. Đoạn trích là lời báo ân của Thúy Kiều đối với Thúc Sinh cũng là lời báo oán của nàng dành cho Hoạn Thư. Ở đây, Nguyễn Du đã tinh tế lồng vào trong từng câu chữ của từng nhân vật nghệ thuật miêu tả ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tâm lý cũng như tính cách của họ.
Nhân vật đầu tiên trong đoạn trích mà chúng ta có thể nhận ra Nguyễn Du đã dùng rất nhiều tâm sức để dựng lên màn đối thoại: đó là Thúy Kiều. Từng lời của nàng thốt ra đối với Thúc Sinh đều là những lời nói mang sức nặng của ân tình để báo đền cho người từng giúp đỡ mình lúc khốn khó. Nàng rằng:
"Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là
Vợ chàng quỷ quái tinh mà
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau
Kiến bò miệng chén chưa lâu
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa"
Đúng như tính cách của mình, Thúy Kiều chọn báo ân trước khi báo oán. Nàng muốn trả hết ơn nghĩa với người xưa trước khi báo những oán đền xưa kia. Vậy nên, nàng cho gọi Thúc Sinh vào trước. Thế nhưng, chàng ta vẫn là con người hèn nhát của năm nào, bước vào công đường mà tràn đầy run sợ "mình dường dẽ run". Thấy vậy, Thúy Kiều cất lời rằng:
"Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là"
Nàng lật lại những địa điểm năm xưa gợi nhớ trong lòng chàng, ân cần hỏi han chàng từng chút. Nàng biết ơn nghĩa nàng nợ Thúc Sinh không thể đếm được, nghĩa đó "nặng nghìn non". Chàng đã cứu nàng ra khỏi lầu xanh, cho nàng nơi ăn chốn ở, tuy chẳng cưu mang được nàng lâu dài, chẳng cho nàng được một danh phận đúng nghĩa nhưng chàng chung quy vẫn giúp nàng vượt qua một phần gian khổ. Vậy nên, nàng gọi nhắc chàng về "Sâm Thương", về "Lâm Tri" cốt để chàng nhớ lại người cũ năm nào để nàng có thể báo đền cho chàng chút ân tình ngày xưa. Tuy rằng đã bao thời gian trôi qua, nhưng nàng vẫn chưa bao giờ quên ơn nghĩa mà chàng đã trao cho nàng. Từng lời Kiều nói ra ở đây vô cùng thân mật, gần gũi, toàn là những câu hỏi nhẹ nhàng, những lời gợi nhớ. Nàng chẳng hề ra oai, tỏ vẻ dọa nạt gì chàng. Nguyễn Du đã khắc họa bằng ngôn ngữ một hình ảnh nàng Kiều vẫn như trước đây: thùy mị, nết na, lại vô cùng trọng nghĩa trọng tình.
Thế nhưng, trả ân cho chàng xong, nàng cũng không quên quay lại cảnh báo chàng:
"Vợ chàng quỷ quái tinh ma
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau
Kiến bò miệng chén chưa lâu
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa"
Chàng là vậy, giúp đỡ nàng, có ơn với nàng nhưng vợ chàng lại khiến cho Kiều phải chịu nhiều ủy khuất, uất hận. Thế nên giờ đây, Kiều liền ra lời cảnh báo cho chàng rằng lần này nàng sẽ không chịu để yên cho người vợ "quỷ quái tinh ma" của chàng nữa. Nàng sẽ quyết báo đền những gì mà nàng ta đã gây ra cho mình. Nhắc đến Hoạn Thư, những vết thương trong sâu thẳm tâm hồn nàng bắt đầu rỉ máu. Hoạn Thư đã không chỉ hành hạ về thể xác mà còn hành hạ về cả tâm hồn của nàng nữa. Ở đây, Nguyễn Du vẫn dẫn dắt người đọc bằng những lời đối thoại của nhân vật mà ở đây là Thúy Kiều. Nếu như ngày xưa, Kiều chỉ dám cúi đầu trước những đau khổ mà Hoạn Thư gây ra cho nàng thì giờ đây, bằng nghệ thuật miêu tả ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã cho ta thấy được những chuyển biến trong tâm lý và tính cách của Kiều. Giờ đây, Kiều đã trở thành một Thúy Kiều mạnh mẽ, một người phụ nữ uy quyền, hoàn toàn không còn nhu nhược, yếu đuối nữa. Vậy nên, nàng mới khảng khái nói với Thúc Sinh rằng: "Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau", rằng giờ đây, nàng cũng sẽ báo đền lại những tổn thương mà Hoạn Thư đã gây ra cho nàng.
Kết lại những lời báo ân dành cho Thúc Sinh, Thúy Kiều đã lên tiếng cảnh báo về sự trả thù, báo oán của mình dành cho Hoạn Thư - kẻ đã gây ra đau khổ cho nàng trước kia. Nguyễn Du, bằng tài năng của mình, thông qua màn đối thoại của Thúy Kiều - Thúc Sinh, ông đã dựng lên được tính cách của nàng Kiều. Nàng vẫn là người con gái thông minh, xinh đẹp, giàu lòng nhân hậu, thế nhưng nàng đã không còn yếu đuối, chịu đựng như trước nữa. Thế nên, khi đối diện với Hoạn Thư, không chờ để nàng ta cất lời, nàng đã cất lời trước:
"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây
Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều"
Lời vừa mở là một loạt những câu châm biếm, mỉa mai của Kiều dành cho Hoạn Thư. Thúy Kiều mỉa mai rằng chắc hẳn Hoạn Thư chưa từng nghĩ sẽ có ngày hai người đổi vai cho nhau, kẻ chủ thành tớ mà kẻ tớ thì thành chủ như hôm nay. Nàng cũng cảnh báo nàng ta rằng thói hồng nhan của Hoạn Thư sẽ khiến cho nàng ta chuốc thêm nhiều uất ức, đau khổ nữa mà thôi. Qua những lời nói ấy, chúng ta thấy rằng, tính cách của Kiều đã hiện thật rõ đằng sau mỗi câu chữ. Nàng đã chẳng còn là một cô tiểu thư mỏng manh nữa, nàng đã trở lên mạnh mẽ, một người phụ nữ với tính cách thật sắc sảo, khiến cho ai nấy cũng phải nể phục. Mỗi lần nàng cất giọng lên, thì đến Hoạn Thư kia cũng phải cúi đầu nhận tội. Nguyễn Du ở đây đã dùng những ngôn từ đối thoại thật sắc bén để làm hiện rõ lên tính cách của Kiều cũng như sự sắc sảo trong từng câu nói mà nàng đối thoại.
Kết lại đoạn trích, người ta lại một lần nữa được chứng kiến tâm lý, tính cách của Kiều được vẽ lên bằng những câu đối thoại. Nàng đã quyết định tha cho Hoạn Thư. Những câu nói cuối cùng, người ta vẫn nhận ngay rằng Kiều bởi lòng nhân hậu, tính cách dịu dàng, cũng như sự yếu mềm của một người phụ nữ. Bởi nàng hiểu, nàng cũng là phụ nữ, cũng hiểu được chút lòng dạ đàn bà.
Cũng trong đoạn trích này, bằng ngôn từ đối thoại, Nguyễn Du không chỉ dựng lên tính cách của nàng Kiều vừa nhân hậu, vừa sắc sảo mà còn dựng lên tính cách của một Hoạn Thư thông minh, khôn khéo cùng một chút xảo quyệt nữa.
Dưới trướng của Kiều, Hoạn Thư được Kiều vời đến để báo đền những oán hận mà nàng ta đã gây ra cho Kiều khi Kiều còn phải chịu kiếp làm tôi tớ ở phủ họ Hoạn. Thế nhưng, dù giật mình khiếp đảm trước sự uy nghiêm ấy, Hoạn Thư vẫn bình tĩnh đối đáp với Kiều:
"Rằng: tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình
Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo
Lòng riêng riêng những kính yêu
Chồng chung cho dễ ai chiều cho ai
Trót lòng gây việc chông gai
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng".
Khi Thúy Kiều lên tiếng buộc tội Hoạn Thư, đồng thời cũng cảnh báo nàng ta phải trả lại những gì đã gây ra cho Kiều thì tính cách nàng ta mới bộc lộ thật rõ. Quả không hổ là con của một viên quan lớn, những lời nói Hoạn Thư thốt ra đều vô cùng thấu tình đạt lý. Nó đã chạm tới trái tim yếu mềm của Kiều khiến Kiều phải suy nghĩ. Hoạn Thư nói rằng nàng ta có ghen tuông đấy, thế nhưng đó là thói thường của đàn bà, mấy ai chồng có nhân tình lại không ghen tuông. Đồng thời, nàng ta cũng nhắc tới những ân nghĩa mà nàng ta đã làm cho Kiều khi Kiều ở nhà họ Hoạn rằng nàng ta đã cho Kiều ra ở gác viết kinh và khi Kiều trốn chạy, nàng ta cũng bỏ qua, chẳng truy đuổi thêm nữa. Lời nói ấy thốt ra vừa thấu tình lại đạt lý khiến cho Thúy Kiều phải ngẫm nghĩ hồi lâu. Thế mới nói, Nguyễn Du đã thật tài hoa khi khắc họa tính cách của Hoạn Thư: một con người vừa khôn khéo, vừa thông minh, bình tĩnh, dù trong tình thế ngàn cân nguy hiểm tới tính mạng cũng không hề nao núng. Phải nói, nghệ thuật miêu tả ngôn ngữ đối thoại của Nguyễn Du để khắc họa tính cách nhân vật đã đạt tới đỉnh cao mà khó ai có thể sánh bằng.
Không chỉ thế, Hoạn Thư còn so sánh Kiều với "lượng bể" to lớn, đặt Kiều vào tình thế khó khăn. Nếu như Kiều chẳng tha cho nàng ta thì chẳng hóa ra nàng là một người nhỏ nhen hay sao. Thế mới biết, Hoạn Thư là một kẻ thật khôn khéo biết chừng nào! Và Nguyễn Du - ông cũng thật xuất sắc khi chỉ với vài ba câu thơ ngắn ngủi nhưng lại dựng lên được tính cách của một con người vừa khôn ngoan, vừa xảo quyệt lại thông minh, bình tĩnh vô cùng - Hoạn Thư.
Bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh đồng thời bằng bút pháp tài hoa của mình, Nguyễn Du chỉ với vài màn đối thoại ngắn ngủi giữa các nhân vật đã dựng lên được tính cách của từng nhân vật ấy trong đoạn trích Kiều báo ân báo oán. Thứ nhất, đó là đoạn đối thoại giữa Kiều - Thúc Sinh, Kiều hiện lên với tính cách vừa hiền dịu, lại nhẹ nhàng, ân cần, vừa thấu tình đạt lý, lại trọng tình trọng nghĩa. Còn khi đối thoại Kiều - Hoạn Thư, Thúy Kiều lại hiện lên là một con người sắc sảo, uy quyền. Còn với Hoạn Thư, chỉ bằng tám câu thơ ngắn, Nguyễn Du đã dựng lên một con người với tâm tư khôn ngoan, sắc bén, xảo quyệt nhưng thông minh, bình tĩnh trước nguy hiểm vô cùng. Có thể nói, Nguyễn Du đã vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tính cách nhân vật ở trong đoạn trích Kiều báo ân báo oán này.
Câu trả lời của bạn
3 Phần.
Câu trả lời của bạn
- Nàng gọi Thúc Sinh là người cũ mang sắc thái thân mật, gần gũi, gọi là cố nhân một cách trân trọng
- Nàng thấy mang nặng ân nghĩa với Thúc Sinh, không sao đền đáp được
Câu trả lời của bạn
- Điều đó chứng tỏ vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho Kiều còn nặng nề, đau xót
- Sử dụng lời ăn tiếng nói của người dân để nói về hành động trừng phạt kẻ ác theo quan điểm của nhân dân
Câu trả lời của bạn
Thúy Kiều xuôi lòng tha bổng cho Hoạn Thư, và còn khen ngợi Hoạn Thư “khôn ngoan”.
Câu trả lời của bạn
- Kết cục bất ngờ với người đọc nhưng logic với mạch tác phẩm
- Thúy Kiều là người phụ nữ đa sầu, đa cảm, nặng tình nặng nghĩa nên khó đối đầu với Hoạn Thư
- Vì Thúy Kiều dễ mủi lòng, nên có thể tha thứ cho Hoạn Thư
Câu trả lời của bạn
- Có yêu có ghét rõ ràng, lúc ôn hòa, khi cương quyết, cứng rắn
- Nàng đền ơn cho người cưu mang mình, tha tội cho Hoạn Thư- kẻ gây ra đau khổ cho nàng
- Thúy Kiều là người thấu hiểu đạo lý, cách cư xử, nhưng nàng cũng là người đa sầu đa cảm
Câu trả lời của bạn
Lợi dụng lòng đồng cảm của Thúy Kiều, tác động vào lòng thương người của Kiều để mong thoát tội.
Câu trả lời của bạn
Con người đau khổ sẽ có lúc vùng lên cầm cán cân công lí, ở hiền gặp lành.
Câu trả lời của bạn
- Hoạn Thư khéo léo đưa ra lập luận tránh tội cho mình
- Lý lẽ Hoạn Thư đưa ra luôn chính xác, khó lòng bác bỏ được
- Là người khôn ngoan, lọc lõi, Hoạn Thư đưa ra những lý lẽ xác đáng, khó lòng bác bỏ được
Câu trả lời của bạn
- Khi nói với Thúc Sinh nàng sử dụng nhiều từ Hán Việt: nghĩa, tòng, phụ, cố nhân,... kết hợp với điển cố Sâm Thương. Cách nói trang trọng phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc, đồng thời thể hiện được tấm lòng biết ơn trân trọng của Thúy Kiều.
- Khi nói về Hoạn Thư ngôn ngữ Kiều xuất hiện nhiều từ Thuần Việt: quỷ quái tinh ma, kẻ cắp bà già,... cách nói nôm na, binh dị phù hợp với đối tượng và mục đích giao tiếp.
Câu trả lời của bạn
Lí lẽ của Thuý Kiều rất rõ ràng: đây không phải là sự báo ân mà là sự trả nghĩa, đúng hơn là trả cái tình mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trước đây. Như vậy, đối với Thúc Sinh, Thuý Kiều đã không xử bằng lí mà bằng cái tình của nàng. Điều này có vẻ như không hợp với cách nghĩ thông thường, không thoả mãn được một số bạn đọc khó tính nhưng chính ở đây lại làm bật lên giá trị nghệ thuật của tác phẩm: Nguyễn Du đã không xây dựng nhân vật Thuý Kiều theo một công thức định sẵn. Ngược lại, ông đã tạo nên một nhân vật rất sinh động, rất đời thường. Kiều đã suy nghĩ, nói năng và hành động hoàn toàn hợp với phẩm chất và tính cách của nàng. Điều này càng được chứng minh rõ ràng hơn qua cảnh tiếp theo.
Câu trả lời của bạn
- Chàng Thúc Sinh khi được “gươm mời đến” thì “Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run”. Thúc Sinh run vì nhiều lẽ: trước cảnh ba quân gươm giáo sáng loà, run ; được chứng kiến Thuý Kiều đã trừng trị những kẻ đã gây bao đau khổ cho đời nàng như thế nào lại càng dễ run hơn nữa. Thúc Sinh không thể nghĩ rằng mình lại được trả ân bằng “gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” bởi trong thực tế, chàng ta chẳng có công lao gì nhiều với Thuý Kiều. Ngay cả khi chứng kiến vợ mình hành hạ Thuý Kiều, Thúc Sinh cũng chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, không biết bênh vực thế nào.
Vậy tại sao Thúc Sinh lại được Thuý Kiều “báo ân” hậu hĩnh như thế? Lí giải được điều này, chúng ta sẽ hiểu thêm về Thuý Kiều, từ đó càng hiểu thêm nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du. Nhân vật Thuý Kiều đã được xây dựng rất nhất quán từ đầu đến cuối tác phẩm. Dù khi phải dằn lòng trao duyên cho Thuý Vân, khi một mình đối cảnh ở lầu Ngưng Bích hay khi có đủ vị thế để báo ân báo oán sòng phẳng thì Thuý Kiều vẫn luôn là người nặng tình nặng nghĩa:
Nàng rằng: “Nghĩa nặng tình non
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân.
Tạ lòng, dễ xứng báo ân gọi là…”.
Câu trả lời của bạn
Đúng.
Câu trả lời của bạn
- Vị thế giữa hai người phụ nữ đã hoàn toàn đảo ngược. Trước đây, khi Hoạn Thư làm chủ tình thế, Thuý Kiều không những bị đánh đập mà còn bị làm nhục theo một cách thức rất riêng của Hoạn Thư. Nỗi đau tinh thần của Kiều lúc ấy còn lớn gấp hàng chục lần nỗi đau thể xác. Thế nhưng giờ đây, người làm chủ tình thế lại là Thuý Kiều. Chỉ cần nàng phẩy tay một cái, hẳn Hoạn Thư sẽ “thịt nát xương tan”.
Thuý Kiều đã khởi sự “báo oán” như thế nào?
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”.
- Ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du thật đáng nể phục. Nàng Kiều duyên dáng, thuỳ mị, “e lệ nép vào dưới hoa” ngày nào, giờ đối diện với kẻ thù, dường như đã hoá ra một con người khác. Nếu như Kiều ra lệnh trừng phạt Hoạn Thư ngay thì không có gì nhiều để bàn luận. Nhưng Kiều đang sung sướng hưởng thụ cảm giác của kẻ bề trên, đang tìm cách dùng lời nói để “rứt da rứt thịt” Hoạn Thư theo đúng cách mà trước đây mụ ta đã đối xử với nàng. Bằng giọng điệu đầy vẻ châm biếm, Kiều gọi Hoạn Thư là “tiểu thư”, cẩn thận báo cho mụ ta biết về “luật nhân quả” ở đời (“Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”). Kiều tin chắc vào chiến thắng đến mức sẵn sàng chấp nhận đấu khẩu!
- Khi nghe xong những lời “bào chữa” của Hoạn Thư, Thuý Kiều đã xuôi lòng mà tha bổng cho mụ, không những thế lại còn khen: “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời” và tự nói với mình rằng: “Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen”.
Câu trả lời của bạn
Kết cục đó có thể bất ngờ với người đọc nhưng lại rất hợp lí với lô gích của tác phẩm. Đoạn “báo ân” với Thúc Sinh đã cho thấy: dù thế nào đi nữa, nàng vẫn là người phụ nữ đa sầu đa cảm, nặng tình nặng nghĩa. Một người phụ nữ như thế, thật khó có thể đối đầu được với một kẻ gian ngoan, quỷ quyệt như Hoạn Thư.
Câu trả lời của bạn
- Thế nhưng Hoạn Thư thật xứng với danh tiếng “Bề ngoài thơn thớt nói cười – Mà trong nham hiểm giết người không dao”:
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu
Khấu đầu dưới chiếu, liệu điều kêu ca.
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình…”.
- Giữa dáng điệu bề ngoài với lời nói bên trong của Hoạn Thư có cái gì đó rất mâu thuẫn. Nếu quả thật đã “hồn lạc phách xiêu”, Hoạn Thư khó có thể biện hộ cho mình một cách khéo léo như vậy. Không những khẳng định “ghen tuông chỉ là thói thường của đàn bà”, Hoạn Thư còn kể đến những việc mà tưởng như mụ đã “làm ơn” cho Thuý Kiều: cho ra nhà gác để viết kinh, khi Thuý Kiều trốn đã không đuổi bắt. Đó là những lí lẽ rất khôn ngoan mà Kiều khó lòng bác bỏ được. Thì ra, vẻ “hồn lạc phách xiêu” chỉ là bộ điệu mà mụ ta tạo ra để đánh vào chỗ yếu của Thuý Kiều. Đứng trước cơ hội duy nhất để có thể thoát tội, mụ đã vận dụng tất cả sự khôn ngoan, lọc lõi của mình.
- Qua đó thấy được Hoạn Thư là người "sâu sắc nước đời", không những làm "chàng Thúc phải ra người bó tay" mà chính Kiều cũng ở vào hoàn cảnh khó xử: "Tha ra thì cùng may đời- Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen". Tuy nhiên, Kiều đã vượt qua hoàn cảnh khó xử bằng tấm lòng nhân hậu, tha cho Hoạn Thư.
Câu trả lời của bạn
Đoạn trích miêu tả cảnh báo ân báo oán đối với hai nhân vật là Thúc Sinh và Hoạn Thư, qua đó làm nổi bật tấm lòng nhân nghĩa, cao thượng của Thúy Kiều đồng thời thể hiện ước mơ công lí, chính nghĩa theo quan điểm của quần chúng nhân dân: con người bị áp bức sẽ đứng lên cầm cán cân công lí.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *