Qua bài Cố hương giúp các em hiểu được những đóng góp của Lỗ Tấn vào nền văn học Trung Quốc và văn học nhân loại. Tinh thần phê phán sâu sắc xã hội cũ và niềm tin vào sự xuất hiện tất yếu của cuộc sống mới, con người mới.
Lúc nhỏ tên là Chu Chương Thọ, sau đổi thành Chu Thụ Nhân.
Là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc.
Hiểu biết sâu sắc về người dân Trung Quốc, có tư tưởng tiến bộ muốn thay đổi xã hội Trung Quốc.
Bài thơ được chia làm 3 phần
→ Khung cảnh làng quê tàn tạ, buồn, nghèo khó.
→ Tâm trạng "tôi": buồn bã, đau xót, cô đơn, chấp nhận chia tay với quê.
→ Tác giả yêu quê đến độ xót xa cho sự nghèo khó đó. Buồn xen lẫn bâng khuâng, thương kính cho cố hương. Đó là nỗi buồn của người sắp phải rời xa nơi mình sinh ra và lớn lên, từng gắn bó niềm vui buồn trong cuộc đời mà chưa hẹn ngày gặp lại. Nỗi buồn không nói thành lời. Qua đó ta thấy được sự thành công trong việc miêu tả, biểu cảm tâm lí nhân vật.
→ Sự chân thành của tình bạn không phân chia đẳng cấp.
→ Tàn tạ, khốn khổ, hèn kém, tự ti. Lí do: con đông, mất mùa, cường hào, thuế má,...
→ "Tôi": đợi chờ mong gặp → buồn hơn khi gặp bạn, xót xa cho cảnh ngộ của người bạn xưa.
→ Cảnh nghèo và xã hội bần cùng đã làm thay đổi bản chất con người.
→ Thay đổi đến mức thê lương, nghèo khó, cùng cực
⇒ Phơi bày, lên án xã hội phong kiến đang xuống cấp, suy thoái → cần thay đổi.
Thông qua việc tường thuật chuyến về quê lần cuối của nhân vật "Tôi", những rung cảm của "Tôi" trước sự thay đổi của quê hương, đặc biệt là của Nhuận Thổ, tác giả đã phản ánh hiện trạng của xã hội phong kiến Trung Quốc đồng thời đặt ra vấn đề đường đi của người nông dân, của toàn xã hội để mọi người suy ngẫm.
Đề: Phân tích truyện ngắn Cố hương của Lỗ Tấn
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
3. Kết bài
Lỗ Tấn (1881 - 1936) là nhà văn cách mạng nổi tiếng của Trung Quốc. Truyện “ Cố hương" là một truyện ngắn tuyệt hay và xúc động. Nó man mác một tình quê vơi đầy. Nó ghi lại một cách chân thực, cảm động ký ức tuổi thơ. Nó phản ánh số phận những con người quê hương với bao nỗi buồn thương và hi vọng. Để nắm được toàn bộ nội dung chính của bài, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Cố hương.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Nhà văn Lỗ Tấn sinh năm 1881 và mất năm 1936. Ông nổi tiếng là một nhà văn cách mạng Trung Quốc. Lỗ Tấn đã để lại cho nền văn học Trung Hoa nhiều tác phẩm đình đám, tạo nên dấu ấn và tên tuổi của ông. Cố hương của Lỗ Tấn - gắn với những kí ức của chính nhà văn về quê hương của mình. Suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật tôi trong tác phẩm hướng về những người dân quê, tạo nhận thức về thực trạng đáng buồn của xã hội Trung Hoa trước cách mạng. Để nắm vững nội dung bài học cũng như dễ dàng phân tích tác phẩm này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Cảm nhận về hình bóng quê nhà và con người quê hương trong tác phẩm Cố hương
- Hình ảnh con đường cuối truyện ngắn Cố hương của Lỗ Tấn
- Phân tích tâm trạng nhân vật Tôi trong tác phẩm Cố hương của Lỗ Tấn
- Phân tích truyện ngắn Cố hương của Lỗ Tấn
- Phân tích nhân vật Nhuận Thổ trong Cố hương của Lỗ Tấn
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Tên thật là Chu Thụ Nhân, tên chữ là Dự Tài, bút danh là Lỗ Tấn. Ông sinh năm 1881 và mất năm 1936. Quê ở Chiết Giang, sinh trưởng trong một gia đình quan lại đã thất thế.
Thuở nhỏ học rất giỏi, được tuyển chọn sang Nhật học Đại học. Học Hàng hải rồi học Địa chất, sau chuyển sang Y học. Cuối cùng ông bỏ Đại học và chuyển sang viết văn với ý định sâu xa lấy văn nghệ làm vũ khí để nâng cao tinh thần dân tộc.
Về nước, ông vừa viết văn vừa giảng dạy Đại học. Lúc đầu dạy Đại học Bắc Kinh; 1926, làm giáo sư văn học Hạ Môn; 1927 dạy Đại học Tôn Trung Sơn tại Quảng Châu, cuối năm đó, ông đến Thượng Hải hoạt động văn nghệ. Lỗ Tấn đã sống gần gũi với cần lao, đã "Bú được sữa sói rừng" mà lớn lên, dần dần trở thành "đứa con bất hiếu" của giai cấp thân sĩ. Ông là nhà văn cách mạng nổi tiếng của Trung Quốc. Năm 1936, ông qua đời tại Thượng Hải, quan tài ổng được phủ một lá cờ thêu ba chữ "Dân tộc hồn" có hàng nghìn người đi đưa tang ông.
Tác phẩm gồm có: "Nhật kí người điên", "Gào thét", "Bàng hoàng", "Chuyện cũ viết lại" và hàng loạt bài Tạp văn lên án chủ nghĩa đế quốc, chế độ phong kiến và chính quyền phản động.
Câu trả lời của bạn
Sau hai mươi năm xa cách quê hương, bây giờ Tấn mới có dịp trở lại thăm quê cũ. Lần về thăm này đã xáo động trong anh biết bao suy nghĩ: vui có, buồn có, ước mơ xa xôi… khiến anh vô cùng khó xử khi gặp lại người thân nơi quê nhà.
Trên đường về, ngồi trên thuyền, trong anh rộn lên bao cảm xúc xốn xang, mừng vui. Gần đến nơi: “Tấn nhìn thấy xa xa thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều, hoang vắng nằm im lìm dưới vòm trời màu vàng lá”, lòng anh chợt buồn bởi lẽ làng quê anh vẫn chẳng khác xưa chút nào, vẫn xơ xác, tiêu điều, hiu quạnh. Nhưng trong đáy lòng mình anh lại thấy rất đỗi gần gũi. Đã bao năm qua, dù xa quê hương những hai nghìn dặm nhưng hình ảnh về quê hương vẫn luôn ngự trong anh, vẫn in đậm trong anh những dấu ấn đẹp đẽ về nơi làng cũ.
Ở lại quê chín ngày, Tấn không đi thăm hết được bà con, vì anh thấy buồn và lo lắng, anh chỉ biết cùng mẹ và đứa cháu nhỏ bán đồ đạc, thu dọn nhà cửa để thời gian trôi nhanh di, mặc dù trước đấy anh rất mừng khi trở về quê cũ. Anh nhận ra nỗi buồn mênh mông của mình xuất phát từ ngoại cảnh chung quanh. Mọi người chung quanh dọn đi hết, cảnh tượng hiu vắng.
Thời gian này sống lại trong anh bao kỉ niệm thời thơ ấu. Hình ảnh Nhuận Thổ -người bạn cùng lứa với anh -suốt bao năm rồi nhưng vẫn luôn sáng đẹp và sống mãi trong anh. Hai người bạn cùng lứa, dễ tâm đầu ý hợp đã sống hồn nhiên bên nhau trong thuở thiếu thời với biết bao trò chơi vô tư. Hình ảnh cậu bé da ngăm đen, tay cầm cái đinh ba đang rình một con tra để bảo vệ ruộng dưa luôn in đậm trong tâm tư của Tân. Tân bồn chồn ngóng đợi Nhuận Thổ, ngóng đợi người bạn thân thiết của anh thuở còn để chỏm. Nhưng bao sự vui mừng đang xốn xang trong lòng đợi giờ phút hai người gặp mặt thì lại trở thành nỗi buồn mênh mông. Sự hụt hẫng vô bờ xuất hiện khi Tấn gặp lại bạn cũ. Với vẻ khúm núm và câu chào: “Bẩm ông!” của Nhuận Thổ đã khiến khoảng cách giữa hai người càng trở nên xa thẳm. Đau đớn, xót xa, Tấn chỉ biết đứng im nhìn người bạn thân từ thuở nhỏ. Tình cảm đẹp đẽ giữa hai người giờ đây bị bức tường xã hội ngăn cách. Lỗ Tấn muốn nói với Nhuận Thổ bao điều nhưng cổ họng anh nghẹn đắng, lòng anh xót xa không thể nói gì mà chỉ biết đứng im nhìn bạn.
Nghe chuyện gia đình của bạn, Tấn chỉ biết thương cảm vô cùng chứ anh cũng không giúp được gì. Và sự an ủi của Tấn, phần nào cũng làm vơi đi nỗi buồn trong lòng Nhuận Thổ. Bây giờ trong Tấn còn đâu nữa gương mặt tròn trĩnh với nước da bánh mật phản chiếu ánh lấp lánh của những chiếc vòng bạc đeo nơi cổ bé Nhuận Thổ thông minh, nhanh nhẹn…;mà giờ đây, thay vào đó là gương mặt già nua vì tuổi tác, in hằn trên mỗi vết nhăn là nỗi vất vả, khó khăn của cuộc sống đời thường. Càng nghĩ về dĩ vãng đẹp đẽ, kí ức Tấn bỗng sáng lên trong chốc lát rồi lại vụt tắt luôn. Quê hương nào mà chẳng đẹp trong kí ức mỗi người. Quê hương đối với Tấn cũng vậy. Vậy mà giờ đây cái hoang tàn, xơ xác của làng quê anh đã dập tắt bao kỉ niệm đẹp trong anh.
Không chỉ riêng Nhuận Thổ mà những người khác cũng cằn cỗi đi trong cách nghĩ. Phải chăng do cuộc sống vất vả, họ phải bon chen nhau mà tất cả mọi người đều trở thành những con người hoàn toàn khác. Giữa Tấn và mọi người hình thành một bức tường vô hình ngăn cách họ. Giờ đây Tấn chỉ biết ngậm ngùi suy nghĩ về điều đó.
Khi biết về tình bạn giữa đứa cháu mình và con của Nhuận Thổ thì Tấn cầu mong cho tình bạn giữa chúng không có sự ngăn cách như tình bạn giữa anh và Nhuận Thổ. Một lần trở lại cố hương đã nhen lên trong lòng Tấn bao nỗi suy tư, buồn bã đến day dứt.
Tất cả mọi điều đến như xuất phát từ sâu thẳm đáy lòng yêu quê hương của anh. Hình ảnh làng quê tuổi thơ sẽ chẳng bao giờ phai nhạt trong tâm trí anh – một con người luôn mong ước cho người khác được ấm no hạnh phúc.
Câu trả lời của bạn
Truyện ngắn "Cố hương" của Lỗ Tấn là câu chuyện kể về một chuyến trở về thăm lại quê nhà, thăm lại con người của tác giả sau bao nhiêu năm xa cách. Ông nhận ra nhiều sự đổi thay, cũng nhân ra những tư tưởng quá lạc hậu bám riết lấy con người và mảnh đất nơi đây. Truyện ngắn khép lại với câu triết lý vô cùng ý nghĩa khi ông nhắc đến con đường. Và có lẽ hình ảnh con đường là hình ảnh để lại trong tâm trí người đọc nhiều suy nghĩ và trăn trở nhất.
Câu chuyện khép lại và mở ra nhiều tư tưởng mới chỉ bằng câu nói "Trên đời làm gì có đường người ta đi mãi thì thành đường thôi". Con đường mà Lỗ Tấn nhắc đến ở đây có mang ý nghĩa nào không, hay đơn giản chỉ là câu nói vu vơ của tác giả.
Thực ra con đường trong câu nói của tác giả vừa mang ý nghĩa thực vừa là hình ảnh biểu tượng cho những suy nghĩ của tác giả.
Với những dòng tâm sự, biểu cảm khi được trở về nhà, ông nhận ra làng quê của mình đang trì trệ, chậm phát triển, loay hoay trong một con đường cũ kì, dường như là không có lối thoát với nhiều hủ tục vô cùng nặng nề. Quê hương ông cần có "con đường" mới để có thể đổi mới, để có thể phát triển hơn nữa, không còn như bây giờ.
Những người dân Trung Hoa đang đắm chìm trong tư tưởng quá lạc hậu và u ám, không có lập trường và không có chính kiến cho chính cuộc sống của mình. Có lẽ con đường mà Lỗ Tấn muốn nhắc đến chính là con đường tự do, con đường hạnh phúc, con đường có niềm vui và hi vọng. Con đường đó không phải do một người tạo nên mà do nhiều người cùng góp phần xây dựng nên. Đó là điều mà tác giả nhắn gửi.
Ông đã khẳng định rằng "trên đời vốn làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi". Một sự khẳng định chắc nịch rằng không có con đường nào tự nó sinh ra và tự nó mất đi được. Do con người đi nhiều, đi mãi thì sẽ thành đường mà thôi. Sự khẳng định này cũng chính là tin vào sự xuất hiện một con đường mới do chính con người tạo ra. Con đường ấy sẽ là một cuộc sống mới, một xã hội mới với nhiều điều tiến bộ và văn minh hơn hết. Có lẽ đây chính là điều mà Lỗ Tấn muốn nhắn gửi đến những người dân Trung Hoa đang chìm vào u mê, lạc hậu.
Như vậy, chỉ một câu nói, một hình ảnh nhưng lại có tầng tầng lớp lớp ý nghĩa như vậy. Con đường trong truyện Lỗ Tấn khép lại một câu chuyện nhưng lại mở ra rất nhiều chân trời mới cho nhân dân Trung Hoa và cho chính người đọc.
Câu trả lời của bạn
Lỗ Tấn (1881 – 1936) là nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc, sinh trưởng trong một gia đình quan lại sa sút. Từ khi còn trẻ, ông đã từ giã gia đình, quyết tâm đi tìm đường lập thân mới. Ông lần lượt theo học các ngành hàng hải, địa chất, rồi y học. Nhưng cuối cùng, ông đã quyết định chuyển sang hoạt động văn học, vì nghĩ rằng văn học là vũ khí lợi hại để “biến đổi tinh thần” dân chúng đang ở tình trạng “ngu muội” và “hèn nhát”. Ông đã để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ và đa dạng. Cố hương là một truyện ngắn xuất sắc thể hiện một cách sinh động về cuộc sống khổ cực cũng như trạng thái tinh thần của nông dân Trung Quốc dưới chế độ nửa phong kiến, nửa thuộc địa dưới cái nhìn và suy ngẫm của nhân vật “tôi”.
Cố hương của Lỗ Tấn mang cả một nỗi buồn thê lương. Nét thê lương từ cảnh vật đến con người. Hai mươi năm xa cách, tôi phải vượt qua chặng đường những hai ngàn dặm trở về thăm làng củ giữa một ngày mùa đông lạnh giá. Trên đường về gần đến làng trời lại càng u ám, lòng “tôi” bồi hồi, nao nao về những hình ảnh làng quê xa xưa vẫn còn nguyên trong ký ức. Nhìn qua các khe hở của mui thuyền hiện ra trước mắt “tôi” xa gần thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều, hoang vắng, nằm im lìm dưới vòm trời vàng úa. Nhìn cảnh vật mà lòng “tôi” se lại. Hình ảnh làng cũ trong kí ức “tôi” không giống hẳn như thế này – làng cũ đẹp hơn kia. Tôi tự hỏi: “chẳng qua là tâm tình mình đổi khác, bởi vì về thăm chuyến này, lòng mình vốn không vui”, về để bán nhà, giao lại cho chủ mới. về để từ giã ngôi nhà cũ thân yêu, nơi cả đại gia đình “chúng tôi” đời đời ở chung với nhau. Và cũng là để từ giã làng, nơi chôn nhau cắt rốn, để đem cả “gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn, sinh sống”.
Về đến nhà vào một buổi sáng tinh mơ, tôi nhìn trên mái ngói, mấy cọng tranh khô phất phơ trước gió “đủ rõ nhà không đổi chủ không được”. Thấy tôi mẹ rất mừng rỡ, nhưng nét mặt vẫn ẩn một nỗi buồn thầm kín. Có lẽ mẹ buồn vì tình cảnh nhà ta sa sút, buồn vì xóm làng hiu quạnh, thê lương, và cũng có thể là buồn vì chuyện phải bán nhà… Mẹ “tôi” vẫn như xưa, ân cần, săn sóc, coi “tôi” như hồi còn thơ bé. Bà còn nhắc “tôi” đi thăm các nhà bà con xóm giềng và còn nhắc đến anh Nhuận Thổ. Và bà đã báo tin cho anh ấy biết chừng nào thì “tôi” về.
Nhắc đến Nhuận Thổ, kí ức “tôi” bỗng hiện ra một cảnh tượng thần tiên, kỳ dị: “Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lững lờ trên nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu xanh rờn. Giữa ruộng dưa, một đứa bé trạc mười một, mười hai, cổ đeo vòng bạc, tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba, đang cố sức đâm một con trai.” dù đã là hơn hai mươi năm xa cách, nhưng “tôi” cũng còn nhớ rõ như in về ngày đầu tiên Nhuận Thổ đến nhà – Hắn sinh tháng nhuận, ngũ hành khuyết thổ nên bố hắn đặt tên hắn là Nhuận Thổ. Bấy giờ hắn có “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí teo, cố đeo vòng bạc sáng loáng”. Hắn thấy ai cũng bẽn lẽn, chỉ không bẽn lẽn với một mình “tôi” thôi. Hắn nói lên tỉnh hắn mới được trông thấy những điều hắn chưa bao giờ trông thấy cả. Cũng như “tôi” chưa bao giờ được nghe thấy về những chuyện về bẫy chim sẻ đồng, chào mào, bột cô, sẻ xanh lưng; chưa hề biết đến vỏ sò, nào là sò “mặt quỷ”, sò “tay Phật”. Và cũng chưa biết con tra là con gì, chỉ tưởng tượng nó như con chó con nhưng dữ tợn hơn.
Nhuận Thổ biết được nhiều điều mới lạ, vì trong khi đó Nhuận Thổ sống ở bờ biển, còn “bạn bè tôi”, cũng như “tôi” chỉ nhìn mảnh trời vuông trên bốn bức tường bao bọc lấy cái sàn thế thôi.
Đã qua bao nhiêu năm rồi, bây giờ mẹ “tôi” nhắc đến Nhuận Thổ, kí ức “tôi” bỗng như bừng sáng lên, “tôi” cảm thấy tựa hồ tìm được quê hương của mình đẹp ơ chỗ nào rồi. Tuổi thơ gắn liền với quê hương mỗi con người sinh ra ai cũng có một quê hương đế yêu và để nhớ dù chỉ là một miền quê nho nhỏ, một góc phố thân thương… Hình ảnh Nhuận Thổ ấu thơ là hình ảnh của quê hương mà “tôi” cũng có một mảnh đời trong đó.
Hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại là nỗi đau, sự tàn tạ đến thê lương của một con người, là nỗi buồn quê hương sau hơn hai mươi năm xa cách của nhân vật tôi. Nhuận Thổ trong hiện tại nước da trở thành “vàng sạm”, lại có thêm những nếp nhăn “sâu hoắm”, mí mắt “viền đỏ húp mọng lên”. Đầu đội một cái mũ lông chiên “rách tươm”, mặc một chiếc áo bông “mỏng dính”, người “co ro cúm rúm”, tay cầm một bọc giấy và một tẩu thuốc lá dài. Bàn tay không còn là bàn tay hồng hào, lanh lẹ, mập mạp, cứng rắn như trước kia mà “vừa thô kệch, vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông”. Thời gian và sự nghèo khó, vất vả đã làm thay đổi diện mạo tinh thần của con người. Gặp lại “tôi” nét mặt Nhuận Thổ “vừa hớn hở vừa thê lương”, môi mấp máy, nói không ra tiếng. Sau đó, với dáng điệu cung kính, cất lời chào: “Bẩm ông!”. Thật là một điều rất bất ngờ, “tôi” như điếng người đi, vì trong lòng “tôi” đang sửa soạn cho một cuộc gặp gỡ của tình thân ái một thời mà tuôn ra như nước chảy, những gì mà họ khát khao tâm sự và lưu giữ những gì ở quá khứ để làm hành trình cho mai sau. Nhưng rồi mọi cái đều bị chọn lại, có lẽ tôn ti trật tự và lễ giáo phong kiến đã tạo ra “một bức từng khá dày ngăn cách” giữa đôi bạn ngày nào, “tôi” hỏi thăm gia đình anh, “anh cứ lắc đầu”. Những nếp nhăn khắc sâu trên mặt anh “tuyệt nhiên không động đậy”, trông anh phảng phất như “một pho tượng đá” vô hồn.
Nhuận Thổ khổ vì “con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào” đày đọa thân anh khiến anh trở thành “đần độn, mụ mẫm”. Song Nhuận Thổ còn đau đớn vì gánh nặng tinh thần, vì mê tín, vì quan niệm cũ kĩ về đẳng cấp. Nhuận Thổ là hiện thân của những khổ đau, bi kịch của tầng lớp nhân dân Trung Quốc dưới chế độ phong kiến thối nát, là hình ảnh của làng quê xơ xác, tiêu điều. Qua đó, tác giả đã cực lực lên án tội ác của chế độ đương thời, từ đó đặt ra vấn đề quyền sống và hạnh phúc của người dân trên con đường đi tới. Điều này đã được nói tới trong bài tạp văn Vì sao tôi viết tiểu thuyết, Lỗ Tấn nói rõ ông hay chọn những người bất hạnh làm đề tài. Chọn như vậy, trong điều kiện lịch sử đương thời có thể làm một công đôi việc, vừa có điều kiện vạch trần ung nhọt của “xã hội bệnh tật”, vừa có điều kiện “lôi hết bệnh tật” của chính những người lao động ra “làm cho mọi người chú ý tìm cách chạy chữa”, (dẫn theo Sách giáo viên – Ngữ văn 9, tập 1 – NXB Giáo dục).
Sự tàn tạ về diện mạo tinh thần cũng phải nói đến nhân vật thím Hai Dương – “nàng Tây Thi đậu phụ”, ngày xưa “phấn son” nên nhiều người đắm đuối vì sắc đẹp của chị. Ngày nay “lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính” lại có những lời nói năng xoi mói; những hành động bỉ ổi, lúc thì lấy đôi bít tất, lúc thì lấy cái “câu khi sát”… thím Hai Dương cũng là hiện thân của sự bần cùng hóa của tầng lớp nông dân đương thời. Còn Thủy Sinh là hình ảnh của Nhuận Thổ hơn hai mươi năm về trước, chỉ có điều khác là Nhuận Thổ trong quá khứ “cổ đeo vòng bạc”, Thủy Sinh trong hiện tại “cổ không đeo vòng bạc”; Nhuận Thổ trong quá khứ “khuôn mặt tròn trĩnh”, Thủy Sinh trong hiện tại: “vàng vọt, gầy còm…”
Với biện pháp nghệ thuật hồi ức và đối chiếu, Lỗ Tấn đã phản ánh tình cảnh sa sút về mọi mặt của xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX, đồng thời chỉ ra những nguyên nhân và lên án các thế lực phong kiến đã tạo nên tình cảnh đau thương lên từng số phận con người từ những miền quê xơ xác, tiêu điều mà tiêu biểu là nhân vật Nhuận Thổ. Và cũng phải nói thêm rằng, trong đời sống tinh thần, tính Cách của người lao động bấy giờ cũng quá nặng về lễ giáo phong kiến, những tôn ti trật tự lỗi thời cũng là nguyên nhân đẩy họ vào con đường bế tắc, luẩn quẩn, không có khả năng tìm đường như Lỗ Tấn đã lựa chọn ngay từ buổi thiếu thời.
Những ngày ở quê, lòng “tôi” không khỏi phải xót xa, trăn trở vì phải chứng kiến cảnh tàn lụi của quê hương, sự bần cùng hóa của người dân ở đó. Vì hoàn cảnh đói nghèo, vất vả, nên con người ở quê nhân tính phần nào đã thay đổi, đó là sự tham lam, nhó nhen, thậm chí có những hành động bỉ ổi như thím Hai Dương. Thật ra họ là những con người cũng đáng được chia sẻ, thương cảm, đặc biệt là Nhuận Thổ.
Gần tối, “gia đình tôi” xuống thuyền để rời quê, về nơi ở mới. Trong hoàng hôn, những dãy núi, hai bên bờ sông “đen sẫm lại”, nối tiếp nhau chạy lùi về phía sau lái, ngôi nhà cũ xa dần, phong cảnh làng cũ cũng mờ dần. Tồi ngồi trong khoang thuyền cảm thấy mình “vô cùng lẻ loi, ngột ngạt”. “Tôi” nghĩ bụng: “Tôi và Nhuận Thổ tuy cách bức đến như thế này, nhưng con cháu chúng tôi vẫn còn thân thiết với nhau. Chẳng phải là cháu Hoàng đang mơ tưởng nhớ đến Thủy Sinh đó ư? Tôi mong ước chúng nó sẽ không giống chúng tôi, không bao giờ phải cách bức nhau cả… Nhưng tôi cũng không muốn chúng nó vì thân thiết với nhau mà phải vất vả, chạy vạy như tôi..... chúng nó cần phải sống một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống”. Đó là những khát khao, trăn trở lẫn niềm hy vọng cô hương sẽ được đổi mới.
Kết thúc tác phẩm, hình ảnh con đường hiện ra sẽ được đổi mới suy ngẫm của “tôi”: “Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Hình ảnh “con đường” là một tín hiệu biểu hiện niềm tin vào sự đổi thay xã hội, tìm một đường đi mới cho nhân dân Trung Quốc, trong những năm đầu của thế kỉ XX, con đường học tập sáng tạo, tìm tòi cái mới. Và cũng có thể là con đường tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, con đường của cách mạng.
Truyện ngắn Cố hương có một kết cấu đầu cuối tương ứng phù hợp với diễn biến cảm xúc và suy tư của nhân vật tôi. Từ chỗ phảng phất buồn của tôi trên đường về quê và kết thúc là niềm hy vọng trên đường rời quê. Đó là dụng ý nghệ thuật mà Lỗ Tấn muốn thể hiện tình cảm yêu mến quê hương của nhân vật xưng “tôi” một cách chân thực, sinh động và hợp lý.
Cố hương là truyện ngắn có tính hồi kí. Thuật lại chuyến về quê lần cuối cùng của nhân vật “tôi”, những rung cảm của “tôi” trước sự thay đổi của cô hương, đặc biệt là Nhuận Thổ, Lỗ Tấn đã phê phán xã hội phong kiến, lễ giáo phong kiến, đồng thời đặt ra con đường đi của người dân Trung Quốc vào những năm đầu thế kỉ XX để mọi người suy ngẫm.
Truyện có phương thức biểu đạt tự sự là chính nhưng có sự kết hợp một cách sinh động với các yếu tố miêu tả, biểu cảm và nghị luận tạo cho truyện giàu màu sắc hiện thực cùng những thái độ, suy tư của tác giả trước hiện thực của cố hương.
Câu trả lời của bạn
"Cố hương” của Lỗ Tấn là một câu chuyện của nhân vật tôi kể về chuyến thăm quê hương sau hai mươi năm xa cách với những thay đổi bất ngờ.
Sau hai mươi mấy năm trở về quê hương, bây giờ nhân vật “tôi” mới có dịp trở lại quê hương mình để thăm. Lần về thăm này nhân vật cảm thấy xúc động, tâm trạng lẫn lộn xen nhau, vui có, buồn có, và những ước mơ xa xôi cũng có khiến cho nhân vật tôi vô cùng khó xử khi nghĩ đến cảnh gặp lại những người thân nơi quê nhà, nơi có người bạn thân thủa thơ ấu.
Trên đường về quê ngồi trên chiếc thuyền lòng của nhân vật tôi rộn lên biết bao nhiêu là cảm xúc mừng vui, xốn xang. Gần đến nơi thì “tôi nhìn thấy xa gần thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều, hoang vắng nằm im lìm dưới vòm trời màu vàng úa” lúc này lòng của nhân vật tôi bỗng buồn bởi quê hương chẳng thay đổi được diện mạo chút nào, vẫn xơ xác, tiêu điều và hiu quạnh biết bao nhưng trong lòng của nhân vật tôi lại thấy rất gần gũi,rất thân quen với cái thời thơ ấu của mình
Ở lại quê tận những chín ngày nhưng nhân vật tôi không đi thăm hết bà con được, tôi chỉ biết cùng mẹ và đứa cháu nhỏ buôn bán đồ đạc và thu dọn nhà cửa để cho thời gian có thể trôi nhanh đi, mặc dù trước đây nhân vật rất muốn về thăm quê hương nhưng khi tôi trở về thì bỗng nhân ra rằng mọi người xung quanh đã dọn đi hết, cảnh tượng hiu vắng lại hiện ra trước mắt. Hình ảnh người bạn thời thơ ấu lại hiện ra trước mắt đó chính là Nhuận Thổ, suốt mấy chục năn trôi qua nhưng tình bạn ấy, hình ảnh ấy vẫn đẹp đẽ và trong sáng biết bao nhiêu.
Đó là hình ảnh hai người bạn dễ tâm đầu ý hợp sống hồn nhiên vô tư thời ấy với nhiều những trò chơi. Hồi nhỏ Nhuận Thổ là một cậu bé có nước da ngăm đen, tay cầm đinh ba đang rình con tra để bảo vệ ruộng lúa ,ruộng dưa vẫn còn in đậm trong trái tim của nhân vật tôi. Lúc này tôi bồn chồn và lo lắng trông ngóng người bạn của mình, người bạn đã từng kề vai sát cánh một thời đó là Nhuận Thổ. Khi Nhuận Thổ xuất hiện thì nhân vật tôi hết sức hụt hẫng bởi người bạn nhìn ông và chào có vẻ khúm núm “Bẩm ông!”, Nhuận Thổ đã khiến cho nhân vật tôi đau đớn có, xót xa có và bây giờ là một khoảng cách vô định, vô hình nào đó. Nhân vật muốn tâm sự, muốn nói với Nhuận Thổ bao điều nhưng mà cổ họng ông lại nghẹn đắng lại chỉ biết đứng im lặng nhìn bạn mình.
Tôi chỉ biết thương cho gia đình của Nhuận Thổ chứ không giúp được gì và sự an ủi của nhân vật tôi cũng đã phần nào vơi đi được nỗi buồn trong lòng của Nhuận Thổ.
Bây giờ trong đầu của nhân vật tôi không còn hình bóng của một cậu bé có nước da bánh mật, thông minh nhanh nhẹn, mà thay vào đó là cả một khuôn mặt già nua vì in hằn tuổi tác,in hằn nỗi vất vả và khó nhọc của cuộc sống đời thường.
Đối với nhân vật tôi bây giờ quê hương nào mà chẳng đẹp trong kí ức của mỗi người, và quê hương đối với nhân vật tôi cũng vậy nhưng giờ đây cái hoang tàn và xơ xác của chốn làng quê đã dập tắt bao kỉ niệm đẹp trong lòng của nhân vật tôi. Không những là người bạn Nhuận Thổ mà trong lòng người khác cũng cằn cỗi trong suy nghĩ. Phải chăng do cuộc sống quá vất vả và bon chen làm cho tất cả mọi người trở thành một con người hoàn toàn khác.
Giờ đây nhân vật tôi và mọi người như một bức hình có sự ngăn cách và nhân vật tôi chỉ biết ngậm mùi, khi biết tình bạn giữa cháu mình và con của Nhuận Thổ thì nhân vật tôi đã cầu mong cho tình bạn của chúng không có sự ngăn cách như mình và Nhuận Thổ.
Một lần về thăm quê hương đã nhen nhóm trong lòng nhân vật tôi bao nhiêu nỗi suy tư và phiền muộn đến day dứt nhưng quê hương trong lòng mỗi người có lẽ chẳng bao giờ phai nhạt trong trái tim.
Câu trả lời của bạn
Trong tiến trình phát triển của nền văn học Trung Quốc, ta không thể không nhắc đến một nhà văn đặc biệt với quan điểm "Văn chương là phương thuốc chữa căn bệnh tinh thần cho quốc dân" - Lỗ Tấn. Ông đã để lại cho đời biết bao công trình nghiên cứu cũng như các tác phẩm văn chương có giá trị, trong đó hai tập truyện ngắn xuất sắc là Gào thét và Bàng hoàng. Trong tập Gào thét, nổi bật nhất là tác phẩm Cố hương, ở đó hiện lên hình ảnh một cố hương của bao năm xa cách và những con người nơi ấy với bao nỗi buồn thương, hy vọng.
Mở đầu tác phẩm, Lỗ Tấn đã tái hiện lại hình ảnh quê nhà sau 20 năm xa cách. Theo lẽ thường, sau thời gian cách xa quê hương như vậy nay đã trở về thì có lẽ phải là sự hồi hộp, vui mừng phấn khởi, mong ngóng ấy thế nhưng tâm trạng của tác giả lúc này có gì đó khác thường. Ngồi trên thuyền mà nhìn ra thấy "thôn xóm, tiêu điều, hiu hắt, nằm im lìm dưới nền trời vàng úa" vì thế "lòng tôi se lại". Phải rồi! Không buồn, không đau lòng sao được khi quê hương nay đâu còn như trước. Và tác giả nghĩ "Tuy chưa tiến bộ hơn xưa những vị tất đến nỗi thê lương". Bên cạnh đó, "lòng tôi se lại" còn vì một lẽ khác nữa. Đó là lần này về quê không phải là thăm quê, thăm nhà mà là để "vĩnh biệt ngôi nhà thân yêu và từ giã làng cũ thân yêu đem gia đình đến nơi đất khách làm ăn sinh sống". Lòng đã buồn và lại cộng thêm cái ảm đạm, tiêu điều hiu hắt của quê hương thế nên lòng càng trĩu nặng và thảng thốt "làng cũ tôi đẹp hơn kia". Trong quá khứ của tác giả, quê hương gắn với bao kỉ niệm tuổi thơ êm đềm, tươi đẹp. Đó là những ngày mà "thầy tôi hãy còn", cảnh nhà sung túc. Năm ấy nhà tôi đến lượt lo giỗ tổ. Giỗ vào tháng giêng. Lễ vật rất nhiều, các đồ tế rất sang, người đến lễ cũng rất đông. Kẻ ra người vào tấp nập. Cố hương còn là nơi có một tình bạn đẹp với Nhuận Thổ với biết bao chuyện kỳ lạ của một cậu bé xuất thân từ vùng biển. Nhắc đến Nhuận Thổ là cả một kí ức về một miền quê thanh bình tuyệt đẹp hiện về: "Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lơ lửng trên nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu xanh rờn". Những kỉ niệm ấy theo mãi trong tâm trí của tác giả để rồi hằn sâu vào kí ức về một quê nhà thật đẹp, thật hạnh phúc. Như vậy ta thấy hình bóng quê nhà được tác giả gợi lên ở hai thời điểm quá khứ và hiện tại. Quê hương trong kí ức là những điều tươi đẹp còn trong hiện tại là sự tiêu điều, thê lương đầy xót xa.
Quê hương đã đổi thay, đâu còn như trước. Vậy người dân quê thì sao? Họ như thế nào, có thay đổi không? Người đầu tiên đón "tôi" đó là mẹ "Mẹ tôi mừng rỡ nhưng ẩn một nỗi buồn thầm kín". Niềm vui của mẹ không trọn. Vui vì con đã về nhưng buồn vì cảnh nhà sắp phải dời đi, lìa xa quê nhà, rồi bỏ quê cha đất tổ. Việc li hương mẹ đã biết và đã chuẩn bị sắp đặt mọi thứ nhưng phải xa nơi chôn nhau cắt rốn không buồn sao được. Mặc dù vậy mẹ vẫn chu đáo, ân cần, hiền từ " mẹ bảo tôi ngồi xuống, nghỉ ngơi, đi thăm các nhà bà con". Mẹ còn nói đến chuyện Nhuận Thổ và động lòng. Mẹ vẫn vậy, vẫn thương con và thương người. Nếu có khác thì là bây giờ trong lòng mẹ đang chất chứa nỗi buồn xa quê.
Con người nơi cố hương trong hồi ức của "tôi" hằn sâu hơn cả ấy là Nhuận Thổ. Chẳng thế mà khi nghe mẹ nhắc đến Nhuận Thổ lập tức ký ức tôi bỗng dưng sáng bừng lên trong chốc lát. "Tôi cảm thấy tựa hồ tôi đã tìm ra được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi". Trong tâm trí "tôi" là hình ảnh cậu bé trạc mười một, mười hai tuổi, khuôn mặt bầu tròn trĩnh, nước da bánh mật, đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng". Cậu bé ấy mang đến bao câu chuyện kì thú mà tôi chưa bao giờ được nghe. Nào là chuyện bắt Tra vào ban đêm để trồng ruộng dưa đến kỳ thu hoạch, nào là sự kì thú của việc bẫy chim trên tuyết, rồi đến cả việc đi nhặt vỏ sò trên biển với đủ loại kỳ lạ. Những câu chuyện trẻ thơ ấy khiến cho tôi và Nhuận Thổ "thân nhau lắm", gọi nhau là anh em. Chẳng thế mà khi hết vụ, Nhuận Thổ phải theo cha về mà chúng tôi đã khóc, buồn lắm, chỉ mong đến vụ sau để được gặp nhau. Trong ký ức thơ bé của tôi, Nhuận Thổ là một phần tươi đẹp của cố hương. Đó là Nhuận Thổ trong quá khứ. Còn Nhuận Thỏ trong hiện tại thì sao. Biết tin gia đình "tôi" chuyển nhà, Nhuận Thổ đến chơi. Sau bao nhiêu năm xa cách nay gặp lại, Nhuận Thổ thay đổi quá nhiều. Nước da bánh mật mạnh khỏe trước kia nay đã "vàng sạm" đi và điểm thêm trên đó là những nếp nhăn trên mặt "sâu hóm''. Cặp mắt, mí mắt "viền húp đỏ mọng lên". Vì yêu quý mà cha Nhuận Thổ đội cho cậu chiếc mũ lông chiên tươm tất, đeo vòng bạc nhưng nay là chiếc mũ lông chiên "rách tươm". Trên người anh chỉ mặc một cái áo bông "mỏng dính" giữa lúc trời rét dữ. Cái vẻ nhanh nhẹn đâu còn thay vào đó là dáng người "co ro cúm rúm". Vì vất vả nên đôi bàn tay giờ đây "vừa thô kệch, vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông". Ngoại hình, dáng vẻ của Nhuận Thổ khác xưa quá! Gặp lại bạn cũ, Nhuận Thổ lẽ ra phải vui mừng khôn xiết thế nhưng đan xen vào đó có cả sự "thê lương". Anh mấp máy đôi môi nói không ra tiếng, sau mới "cung kính" nói được hai tiếng: "Bẩm ông!". Hai tiếng "Bẩm ông" nghe sao nhói lòng, xa cách quá đỗi làm ''tôi như bị điếng người". Trong tư tưởng của Nhuận Thổ, "tôi" không còn là người bạn thuở niên thiếu nữ, không phải là anh em nữa mà là bề trên, người trên, hạng trên. Cách xưng hô ấy mới đúng tôn ti trật tự xã hội phong kiến. Nhân vật tôi nhìn người và nghe Nhuận Thổ nói cảm thấy nặng trĩu, chua xót trong lòng. Không chỉ vậy, có thể vì đói nghèo mà Nhuận Thổ còn giấu bát đĩa vào đống tro để ít sữa mang về như lời thím Hai Dương nói. Nhuận Thổ của trước kia đâu còn nữa, thay vào đó là một Nhuận Thổ khốn khổ, đói nghèo, bé nhỏ. Đẩy Nhuận Thổ vào tình cảnh như thế, đó là "mất mùa, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào...chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả". Như vậy, Nhuận Thổ là nạn nhân đau khổ của xã hội phong kiến đầy bất công, bóc lột người nông dân đến tận xương tủy.
Nhân vật thứ hai do hoàn cảnh mà thay đổi tâm tính, đó là Thím Hai Dương - nàng Tây Thi đậu phụ với dáng người compa trông đến lạ. Trước kia thím "hay bế tôi". Nay gặp lại thím tôi thấy lạ bởi cái giọng "the thé, lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính, hai tay chống nạnh, chân đứng chạng ra giống hệt cái compa, hai chân bé tí". Tôi càng lạ và buồn hơn khi thím xin các đồ gỗ không được thì lẩm bẩm và khi ra về "tiện tay giật luôn đôi bít tất tay của mẹ tôi dắt vào lưng quần". Có lần thím tự ý lấy cái" cẩu khí sát rồi chạy biến". Người phụ nữ này cũng đã đổi khác có lẽ do họ nghèo quá, bần cùng quá mà sinh ra những "tàn nhẫn". Thím hai Dương cũng là một nạn nhân nữa của xã hội phong kiến.
Sự thay đổi của quê nhà và của những con người nơi đây - Nhuận Thổ và thím Hai Dương đã làm tôi rất đau lòng, xót xa. Từ đây "tôi" đặt ra một niềm hi vọng về một xã hội tốt đẹp hơn, cuộc sống của người nông dân đỡ cực nhọc hơn. Niềm hi vọng ấy được đặt vào Bé Hoàng và Thủy Sinh "tôi muốn chúng không phải khốn khổ...chúng cần một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống". Niềm hi vọng ấy được tôi nâng lên thành một niềm tin " Cũng giống như trên mặt đất làm gì có đường, kì thực người ta đi mãi thì thành đường thôi".
Như vậy có thể nói, Cố hương đã thuật lại chuyến về quê lần cuối của nhân vật tôi. Qua đó ta thấy được những cảm xúc rất thật, rất tinh tế của tôi trước sự đổi thay của làng quê và những con người nơi đây. Từ sự đổi thay đó, Lỗ Tấn muốn lên án, phê phán xã hội phong kiến nhiều bất công, ngang trái và đặt ra một con đường đi mới cho người nông dân.
Câu trả lời của bạn
Truyện kể lại chuyến về quê lần cuối cùng của nhân vật người kể chuyện (tôi) để dọn nhà đi nơi khác làm ăn sinh sống. Nhân vật tôi đau xót nhận ra những thay đổi ghê gớm của làng quê, đặc biệt là sự tàn tạ, đần độn của Nhuận Thổ, người bạn thân thiết của “tôi” thời thơ ấu. Từ đó, người kể chuyện đã lật xới lên những vấn đề bức xúc của xã hội Trung Hoa trì trệ lúc bấy giờ. Từ đó, ông chỉ cho mọi người thấy xã hội phân chia giai cấp là do con người tạo ra. Để không còn thảm cảnh ấy nữa nhất thiết phải xây dựng một xã hội mới, trong đó con người với con người là bình đẳng.
Khi cùng gia đình tạm biệt làng quê cũ, nhân vật tôi hi vọng mọi người sẽ có một tương lai sáng sủa hơn.
Chuyến về thăm quê sau 20 năm xa cách của nhân vật “tôi” để bán nhà, đưa gia đình đi nơi khác sinh sống. Đó là vào một buổi chiều ảm đạm. Ngồi trên thuyền, nhân vật “tôi” nhận ra một điều rất đáng buồn là quê hương mình đã đổi thay quá nhiều so với 20 năm trước. Nhưng đó là sự đổi thay khiến người ta đau lòng. Làng quê giờ đây xơ xác, tiêu điều. Con người già đi, xấu thêm và trở nên đần độn hoặc chua ngoa đanh đá (như Nhuận Thổ và thím Hai Dương). Đem theo gia đình, nhân vật “tôi” rời quê hương trong một buổi chiều muộn với niềm hi vọng và tin tưởng vào thế hệ tương lai: “Kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi.”
Giúp tớ bài này với, tớ cảm ơn nhìu :
Đề ''Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất, kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi. Hãy viết 1 bài văn nghị luận.''
Câu trả lời của bạn
Khó quá
Câu trả lời của bạn
- Trên đường về quê: Bộc lộ tâm trạng buồn se sắt, chua xót, hụt hẫng, thương cảm. Cảm xúc chủ đạo của nhân vật “tôi” là niềm mong mỏi và nỗi buồn phảng phất khi nhận ra những nét đổi thay theo hướng tiêu điều của quê hương. Nhân vật Tôi cảm thấy ngạc nhiên, không tin là làng mình, mấy thôn xóm tiêu điều, hoang vắng, nằm im lìm dưới vòm trời màu vàng úa. Qua đó thể hiện tâm trạng hụt hẫng, thất vọng vì làng xóm tiêu điều, xơ xác
- Tâm trạng lúc rời xa quê: là sự đan xen cả nỗi buồn thấm thía, chua xót vì quê hương quá bi đát, thê lương và niềm mong mỏi sự đổi thay cho các thế hệ tương lai (qua hình ảnh cháu Hoàng và hồi ức về Nhuận Thổ hồi nhỏ). Cuối cùng là niềm hi vọng, lời kêu gọi và quyết tâm hành động để tìm một con đường mới cho xã hội Trung Hoa đương thời.
Câu trả lời của bạn
- Thể loại: truyện ngắn.
Câu trả lời của bạn
Lỗ Tấn - một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc, có tư tưởng tiến bộ và muốn thay đổi bộ mặt xã hội Trung Quốc. Truyện ngắn "Cố hương" in trong tập "Gào thét" tường thuật lại chuyến về thăm quê lần cuối của ông với những rung cảm trước cảnh quê và con người quê. Ẩn trong bức tranh quê hương ấy là thực trạng xã hội phong kiến Trung Quốc đương thời với những bế tắc, lầm than, suy đồi và xuống cấp, cần phải thay đổi. Lỗ Tấn đã hiểu bản chất của xã hội, ông đặt ra vấn đề cần tìm con đường mới cho người nông dân nói riêng và toàn xã hội nói chung bởi: "Kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi".
Câu nói của Lỗ Tấn "Kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi" ngoài mang ý nghĩa thực ám chỉ một con đường để đi lại, thực ra nó mang đậm ý nghĩa biểu tượng, "con đường" ở đây là hướng đi của suy nghĩ, tư tưởng và lối sống mới. Lỗ Tấn không nói về những con đường vốn đã sẵn có, bởi kỳ thực chẳng có con đường nào vốn có, chỉ có tự mình tìm ra con đường mới mà đi thì đó chính là con đường của khai hóa văn minh, mở mang văn hóa. Đối với hoàn cảnh cuộc sống của con người nơi quê hương Lỗ Tấn, rất cần có con đường mới khai sáng cho họ, dẫn dắt họ ra khỏi những u mê, ấu trĩ và sai lệch, đó là một con đường tư tưởng mới.
Khi nghĩ về số phận và tương lai của những đứa trẻ như Thủy Sinh, chúng còn quá ngây thơ, Lỗ Tấn khao khát có một con đường mở ra tương lai tươi sáng hơn, cuộc sống tốt đẹp hơn cho chúng, là cách thức để giải quyết những vấn đề trong đời sống xã hội, con đường của văn minh và với Lỗ Tấn đó chính là con đường cách mạng. Nếu không có cách mạng sẽ không có cách nào có thể thay đổi nếp suy nghĩ cổ hủ, thói quen lạc hậu của lễ giáo phong kiến, không thay đổi được tư duy của Nhuận Thổ và thím Hai Dương thì đến đời Thủy Sinh vẫn chìm đắm trong u mê. Con đường đó không thể trông cậy vào ai khác ngoài chính những con người nơi đây, chính họ là người hắt hủi chiến sĩ cách mạng, coi thường họ, coi họ là giặc, là thằng khốn thì chính họ phải thay đổi suy nghĩ đó. Họ phải tự xây dựng tư duy cho mình tạo thành lối suy nghĩ mới, rồi dần dần để suy nghĩ đó ăn sâu, bám rễ vào trong tâm thức, giống như việc lối đi mòn nhiều rồi cũng thành con đường. Cứ "đi mãi thì thành đường thôi", không có lối đi nào chỉ một lần đã thành đường, muốn có đường phải có ý chí quyết tâm, kiên trì và nhất quán sẽ thành công. Khi đã có đường, con đường đó sẽ phục vụ cho chính người dân nơi đây, sẽ dẫn dắt họ đi tới hạnh phúc, ấm no, thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Tác giả tin rằng, chỉ cần người dân quê hương ông nói riêng và người dân Trung Hoa nói chung muốn thay đổi thì sẽ làm được, bởi vốn chẳng có gì là bất biến nhưng tư tưởng và suy nghĩ lại là thứ có thể thay đổi, chỉ cần họ tin vào sự đổi mới của con đường cách mạng tư tưởng, văn hóa, tri thức. Chỉ có thoát ra khỏi được những lối mòn suy nghĩ u mê kia, thoát khỏi lạc hậu mới xóa sổ được những hình ảnh nàng "Tây Thi đậu phụ" hay Nhuận Thổ.
Câu trả lời của bạn
Lỗ Tấn (1881-1936), là nhà văn nổi tiếng người Trung Quốc, từng học nhiều ngành nghề khác nhau, thế nhưng qua một sự kiện khi ông học tập ở Nhật, Lỗ Tấn đã nhận ra một chân lý rằng chữa bệnh cho con người ở thể xác không bằng chữa bệnh cho con người ở tinh thần. Từ đó ông đã đổi hướng từ học y khoa sang làm văn chương để thay đổi tư tưởng cổ hủ, lạc hậu đậm chất phong kiến của người dân Trung Quốc giai đoạn bấy giờ, nhằm thay đổi xã hội một cách triệt để, nhằm cách mạng hóa đất nước. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông bao gồm tập truyện ngắn như AQ chính truyện, Bàng hoàng, Gào thét,... Các đề tài chính của Lỗ Tấn chủ yếu xoay quanh người nông dân, người lao động trong xã hội Trung Quốc cũ. Truyện ngắn Cố hương là một tác phẩm nằm tập truyện ngắn Gào thét in năm 1923. Trong tác phẩm ngoài sự xuất hiện của nhân vật chính còn có một nhân vật khác góp phần làm nên nội dung chính của câu chuyện ấy là Nhuận Thổ, người bạn từ thuở tấm bé của nhân vật "tôi". Mà trong lần trở về sau hai mươi năm xa cách quê hương, nhân vật "tôi" đã đặt rất nhiều những hy vọng, mộng tưởng về cuộc hội ngộ tốt đẹp, thì sự thay đổi của Nhuận Thổ khi trưởng thành đã khiến anh vô cùng thất vọng và buồn rầu.
Sau hai mươi năm sinh sống học tập và làm việc ở nơi xa, nhân vật "tôi" trở về quê hương để bán đi ngôi nhà cũ và đưa cả gia đình đến nơi ở mới. Cuộc trở về ấy đối với tác giả không hề vui vẻ gì, bởi nốt lần này nữa thôi có lẽ anh sẽ không còn quay lại đây nữa, nơi vốn đã gắn bó với nhân vật "tôi" trong suốt những ngày thơ ấu. Cảnh vật quê hương xơ xác tiêu điều, hoang vắng, im lặng dưới vòm trời vàng úa, một thực cảnh in dấu sự thê lương. Và tại đây tác giả không chỉ chứng kiến sự thay đổi của cảnh vật mà còn phải chứng kiến cả sự thay đổi mạnh mẽ của con người, trong đó nhân vật Nhuận Thổ chính là nhân tố làm nên cái hồn của tác phẩm. Khi nghe tin Nhuận Thổ sẽ đến thăm, vốn tâm trạng đang buồn rầu của tác giả trước thực cảnh của quê hương lại trở nên phấn khởi và vui mừng, trong lòng nhân vật "tôi" vô cùng háo hức mong chờ cái lúc được hội ngộ với người bạn từng thân thiết năm nào. Trong lúc ấy ký ức của nhân vật chính liên tục tràn về những ngày gia đình còn khá giả sung túc, vào cái ngày giỗ tổ linh đình 30 năm mới có một lần và cuộc gặp gỡ giữa hai đứa trẻ ngây thơ. Trong ký ức của nhân vật "tôi" Nhuận Thổ khi ấy là một đứa trẻ có ngoại hình đáng yêu, tràn đầy sức sống "khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bí tí teo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng", rồi thì bàn tay "hồng hào, lanh lẹn, mập mạp". Tác phong thì nhanh nhẹn, hay nói hay cười, hiểu nhiều biết nhiều, biết bẫy cả chim khổng tước, lại biết cả bờ biển có những vỏ sò tuyệt đẹp, hay việc canh tra khỏi vào ăn dưa hấu,... Tất cả những điều ấy khiến cho một cậu thiếu gia cả ngày chỉ sống trong 4 bức tường bọc vuông lấy cái sân như nhân vật "tôi" vô cùng thích thú, và hai đứa trẻ con mau chóng trở nên thân thiết mà không hề có khoảng cách. Điều đó thể hiện rõ nhất thông qua cái cách mà nhân vật Nhuận Thổ xưng hô "anh-em" với nhân vật chính, thân thiết gần gũi vô cùng. Đặc biệt lúc hai đứa trẻ phải chia tay, Nhuận Thổ cứ khóc mãi mà không chịu về, sau đó ở dưới quê cậu còn nhờ bố gửi lên cho người anh em của mình mấy cái lông chim và một bọc vỏ sò, để nhắc nhở về tình cảm thân thiết đáng quý giữa cả hai. Một điểm sáng nữa ở nhân vật Nhuận Thổ lúc bé mà nhân vật "tôi" nhớ mãi và trân trọng ấy chính là cái vẻ thông minh lanh lợi, tự tin toát ra từ trong lời nói, tác phong và hành động của nhân vật này. Ngoài ra còn đáng quý ở chỗ Nhuận Thổ tuy là một cậu bé thế nhưng rất biết giữ lời hứa, trân trọng tình bạn dẫu chỉ ngắn ngủi có một tháng tròn.
Tất cả những hồi ức tốt đẹp về người bạn bé thơ đã xa nhau hơn hai chục năm đang tràn đầy trong tâm trí, khiến nhân vật "tôi" trở nên mong chờ và háo hức với cuộc hội ngộ của cả hai thì hiện thực lại đem đến cho nhân vật này những sự thất vọng và buồn bã, đó là sự thay đổi hoàn toàn của Nhuận Thổ khi trưởng thành về tất cả mọi mặt. Nhuận Thổ đã không còn là Nhuận Thổ khi xưa, có lẽ rằng cuộc sống khó khăn đã mài dũa bào mòn khiến anh dường như biến thành một người khác. Không còn là một cậu bé mập mạp, tràn đầy sức sống như xưa, Nhuận Thổ trở thành một người đàn ông trưởng thành với thân hình cao lớn "nước da vàng sạm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm, ...mi mắt viền đỏ húp mọng lên", "anh đội một cái mũ lông chiên rách rưới, mặc một chiếc áo lông mỏng dính, người co ro cúm rúm, tay cầm một bọc giấy và một chiếc tẩu thuốc lá dài", "bàn tay vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông". Tác phong thì trở nên co ro, khúm núm, mất hẳn cái vẻ linh hoạt nhanh nhẹn lúc bé, "dáng người phảng phất như một pho tượng đá", trở nên trầm ngâm và lặng lẽ không còn hay nói hay cười như khi còn bé. Tuy nhiên tất cả những thay đổi ấy mới chỉ làm cho tác giả hụt hẫng và buồn rầu đôi chút vì giấc mộng bị sụp một góc nhỏ, thế nhưng chính những thay đổi về tình cảm, thái độ của Nhuận Thổ mới lại chính là cái khiến nhân vật "tôi" trở nên bằng hoàng, khiến tác giả "như điếng người đi" bởi hai tiếng "Bẩm ông!" khuôn phép, khúm núm của Nhuận Thổ. Như vậy đã không còn một Nhuận Thổ suốt ngày líu lo, xưng anh em với nhân vật chính nữa rồi, điều đó khiến ông thấy buồn bã và nuối tiếc vô cùng, không khí trở nên gượng gạo và tất cả những điều nhân vật "tôi" muốn nói dường như nghẹn bứ lại ở cổ, không cách nào nói tiếp được, chỉ còn cách im lặng, nhạt nhẽo. Bên cạnh đó dưới cái nhìn của nhân vật "tôi" tính cách của Nhuận Thổ cũng không còn như xưa mà trở nên biến đổi dữ dội qua hai mươi năm của cuộc đời sóng gió, khó nhọc và nghèo túng. Sự nhanh nhẹn hoạt bát đã biến mất thay vào đó là sự nhu nhược, sống cam chịu, mất hẳn cái khí thế xông pha, tay cầm đinh ba sẵn sàng đâm con tra ăn trộm dưa lúc nhỏ. Giờ đây người ta chỉ thấy ở người đàn ông khốn khổ cái sự chậm chạp, trầm lặng, ngu độn bởi bị cái nghèo đói đày đọa. Và rồi điều khiến tác giả buồn bã hơn cả ấy là không chỉ trở nên đần độn mà Nhuận Thổ giờ đây lại còn sinh ra cả tính gian dối, khi vùi mấy chục bát vào đống tro bếp để toan khi xúc tro mang đi thì lấy luôn.
Như vậy nguyên nhân chính dẫn tới sự ngăn cách giữa nhân vật tôi và Nhuận Thổ có lẽ bước đầu xuất phát từ sự khác nhau giữa người tri thức và người lao động, do chế độ phân biệt đẳng cấp trong xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Bên cạnh đó sự thay đổi hoàn toàn của nhân vật của Nhuận Thổ lại chính là bắt nguồn từ chế độ phong kiến của Trung Quốc đã khiến cho con người ta trở nên tha hóa, đánh mất dần hết những vẻ đẹp nguyên sơ, thiên chân của một con người.
Cố hương đã đem lại cho người đọc những trang văn mang hơi hướng hồi ký, không chỉ đơn thuần là thuật lại chuyến hồi hương cuối cùng của tác giả, mà bên cạnh đó qua việc kể lại sự thay đổi của người bạn thuở nhỏ Nhuận Thổ, tác giả còn gián tiếp lên án phê phán xã hội phong kiến, đồng thời đặt ra vấn đề về con đường đi của người nông dân như Nhuận Thổ và xã hội lúc bấy giờ để độc giả cùng suy ngẫm.
Câu trả lời của bạn
Hình ảnh con đường trong Cố hương của Lỗ Tấn với ý nghĩa tượng trưng cho một suy nghĩ mới, cách sống mới, qua đó thể hiện quan niệm của tác giả: Có những con đường xa, đường gần, con đường khổ đau, con đường trắc trở nhưng ta cứ dũng cảm đi thì mọi con đường đều trở nên tốt đẹp và hạnh phúc.
Câu trả lời của bạn
- Nội dung: Cố hương là bức tranh xơ xác, tiêu điều về xã hội Trung Quốc những năm cuối thế kì XIX đầu thế kỉ XX.Thông qua việc tường thuật chuyến về quê lần cuối của nhân vật Tôi, những rung cảm của “Tôi” trước sự thay đổi của quê hương, đặc biệt là của Nhuận Thổ, tác giả đã phản ánh hiện trạng của xã hội phong kiến Trung Quốc đồng thời đặt ra vấn đề đường đi của người nông dân, của toàn xã hội để mọi người suy ngẫm.
- Nghệ thuật:
+ Truyện Cố hương có bố cục chặt chẽ, cách sử dụng sinh động những thủ pháp nghệ thuật: hồi ức, hiện tại, đối chiếu, đầu cuối tương ứng.
+ Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật độc đáo, góp phần khắc họa tính cách nhân vật và chủ đề tác phẩm.
Câu trả lời của bạn
- Các nhân vật xuất hiện trong truyện: người mẹ, nhân vật tôi, cháu Hoàng, Nhuận Thổ, thím Hai Phương, Thuỷ Sinh.
- Truyện có hai nhân vật chính: Nhuận Thổ và tôi (anh Tấn) - người bạn thời ấu thơ của Nhuận Thổ. Nhân vật tôi là nhân vật trung tâm vì thông qua nhân vật này đã miêu tả mọi thay đổi của làng quê và nhân vật Nhuận Thổ.
Câu trả lời của bạn
Bố cục 3 phần:
- Phần 1 (Từ đầu đến “ Làm ăn sinh sống”): Nhân vật Tôi trên đường về quê
- Phần 2 (Tiếp đó đến “ Sạch trơn nh quét”): Nhân vật Tôi những ngày ở quê.
- Phần 3 (Còn lại): Nhân vật Tôi trên đường xa quê.
Câu trả lời của bạn
- Cố hương là một trong những truyện ngắn tiêu biểu nhất của tập Gào thét (1923).
Câu trả lời của bạn
- Phương thức biểu đạt: Tự sự, miêu tả và biểu cảm.
Câu trả lời của bạn
Những lời đối thoại với các nhân vật khác.
Câu trả lời của bạn
Nhân vật “tôi”.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *