Bài học này giúp các em tổng kết và hệ thống hóa những vấn đề về lí thuyết Tập làm văn đã được học trong chương trình ngữ văn trung học cơ sở từ lớp 6 đến lớp 9.
Để nắm được những nội dung kiến thức về thể loại văn học trung đại và hiện đại, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Tổng kết phần văn học.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
tacs dungj cuar phep diep ngu laf nhan manh que huongw dep de tinh nghia
phân tich phẩm chất đáng quý của ông hai thể hiện trong truyện ngắn làng của kim lân: 4 phẩm chất : hồn hậu chất phác,chăm chỉ,yêu làng,yêu nước
Câu trả lời của bạn
Câu 1 : "Ngọc còn có vết" có nghĩa là gì ạ? Câu 2 : Nếu nói về Thúy Vân thì nên nói như thế nào theo câu "Ngọc còn có vết" ạ?\
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Thể thơ: Tự do
PTBĐ: biểu cảm
Câu trả lời của bạn
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi sau:
Có người hỏi:
- Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?
- Ẩy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to:
- Hà, nắng gớm, về nào...
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư lên cứ vẫn dõi theo. Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú:
- Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!
Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi.Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.
Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay có vẻ khác, len lén đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau.
Nhìn lũ con tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu... Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên:
- Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.
( Ngữ văn 9 – tập 1 – Nhà xuất bản Giáo Dục )
1. Xác định ngôn ngữ độc thoại và độc thoại nội tâm có trong đoạn trích trên? Vì sao em xác định như vậy? Các hình thức ngôn ngữ ấy có tác dụng thế nào trong việc thể hiện diễn biến tâm lí nhân vật ông Hai?
2. Trong hai lời thoại được in đậm sau, phương châm hội thoại nào đã không được tuân thủ? Vì sao?
“Có người hỏi:
- Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?
- Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to:
- Hà, nắng gớm, về nào...
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. [...]
Câu trả lời của bạn
các thể thơ lớp 9 thường gặp khi phân biệt thể thơ là j
Câu trả lời của bạn
Đó là thơ năm chữ,song thất lục bát,lục bát,đường luật,.Thơ bốn chữ , thơ sáu chữ, thơ bảy chữ, thơ tám chữ, tự do
các thơ thường gặp ở lớp 9 là thơ kiều
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Tác phẩm "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du không chỉ để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả bởi số phận truân chuyên, chìm nổi của Thúy Kiều - người phụ nữ tài hoa bạc mệnh trong xã hội phong kiến mà còn chứa đựng những giá trị nghệ thuật đặc sắc, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Điều này đã được thể hiện rõ qua trích đoạn "Cảnh ngày xuân". Thông qua bốn câu thơ đầu của tác phẩm, chúng ta có thể thấy được bức tranh mùa xuân hiện lên tươi đẹp, thanh khiết và tràn trề sức sống dưới ngòi bút tài hoa của tác giả.
"Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Ở hai câu thơ đầu tiên, tác giả đã phác họa bức tranh mùa xuân dựa trên hai phương diện về không gian và thời gian. Vào thời điểm tháng ba, những cánh én đua nhau chao liệng trên bầu trời trong xanh và cao vời vợi. Hình ảnh "con én đưa thoi" còn là một ẩn dụ đặc sắc, khiến bước đi nhanh vội và sự trôi chảy trừu tượng, vô hình của thời gian hiện lên một cách cụ thể như những cánh chim vụt bay đi trên bầu trời, đồng thời gợi liên tưởng đến những câu ca dao quen thuộc trong nền văn học dân gian:
"Thời gian thấm thoắt thoi đưa
Nó đi đi mãi có chờ đợi ai"
Khung cảnh ngày xuân tiếp tục được làm nổi bật ở sắc màu rực rỡ của những ánh nắng ban mai tháng ba - "thiều quang". Đây là thời điểm sắc xuân đạt đến độ rực rỡ và tươi sáng nhất nhớ những tia nắng lấp lánh. Như vậy, tác giả đã miêu tả bức tranh thiên nhiên sinh động qua chuyển động của những cánh én và vẻ đẹp của những tia nắng. Dường như ẩn sau bức tranh đó là tâm trạng tiếc nuối của con người trước bước đi của thời gian.
Trên nền không gian đó, một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp tiếp tục được phác họa qua những gam màu sắc nổi bật là xanh và trắng:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Hai câu thơ của Nguyễn Du gợi lên những câu thơ quen thuộc trong thơ cổ Trung Quốc:
"Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa"
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa)
Tuy nhiên, nếu hai câu thơ cổ nhấn mạnh sắc thơm của cỏ thì Nguyễn Du chỉ tiếp thu ý thơ và nhấn mạnh vào sắc xanh của cỏ cùng bổ sung vào bức tranh thiên nhiên sắc trắng của hoa lê. Hai gam màu chủ đạo xuất hiện trong mối quan hệ hài hòa qua bút pháp chấm phá. Giữa không gian ngập tràn sắc xanh của cỏ non đến "tận chân trời" xa tít tắp, những cành hoa lê trắng xuất hiện. Nếu như màu xanh non của cỏ làm nổi bật sức xuân và sắc xuân mơn mởn thì sắc trắng của hoa lê tô điểm cho bức tranh xuân vẻ tinh khôi, thanh khiết. Đặc biệt, tác giả đã vận dụng linh hoạt biện pháp đảo ngữ, đưa tính từ "trắng" lên trước động từ "điểm" để tái hiện sự sống động của bức tranh xuân, khiến cảnh vật hiện lên trong trạng thái vận động. Như vậy, dù miêu tả không nhiều, nhưng với những đường nét tạo hình mang tính chọn lọc và hết sức mềm mại, hài hòa, đại thi hào Nguyễn Du đã tái hiện thành công một bức tranh thiên nhiên với vẻ đẹp riêng và tràn trề sức sống.
Qua những câu thơ trên, chúng ta có thể thấy được tình yêu đối với thiên nhiên, cỏ cây của nhà thơ. Đồng thời, đoạn thơ còn thể hiện tài năng của tác giả Nguyễn Du trong việc sử dụng từ ngữ, lựa chọn hình ảnh, thi liệu và sử dụng các biện pháp nghệ thuật để tạo dựng một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp với những sắc màu, đường nét mang đậm tính hội họa.
Câu trả lời của bạn
Để có thể vững bước trên con đường đời, hành trang thiết yếu nhất mà mỗi người chúng ta đều phải có đó là tri thức. Bởi cuộc sống là những điều kỳ diệu mà con người không bao giờ có thể biết hết được. Chỉ có những tri thức mới giúp chúng ta vượt qua được tất cả những điều trong cuộc sống mà bước tới thành công của chính mình. Chẳng thế mà một nhà khoa học người Anh đã phát biểu rằng: “Tri thức là sức mạnh”.
Câu nói ngắn gọn nhưng đã khẳng định vai trò, tầm quan trọng của tri thức. Tri thức, theo nghĩa hẹp, là kiến thức tích lũy được về các lĩnh vực khác nhau của mỗi người nhờ học tập, rèn luyện và suy nghĩ. Theo nghĩa rộng, tri thức có thể hiểu là vốn hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con người,… của nhân loại nói chung. Sức mạnh của tri thức là khả năng làm thay đổi thế giới của tri thức thông qua sự vận dụng tri thức của con người trong các hoạt động nghiên cứu, lao động và sản xuất. Sức mạnh của tri thức còn có thể được hiểu là khả năng sáng tạo ra cái mới, cái tiến bộ, tạo động lực cho sự phát triển của xã hội. Nhờ biết tích lũy tri thức mà con người có thể hiểu được bản chất của thế giới khách quan, vận dụng tri thức từng bước làm chủ tự nhiên và cuộc sống của mình.
Không ai có thể phủ nhận sức mạnh làm thay đổi thế giới của tri thức. Nhờ có tri thức mà con người có thể tách mình ra khỏi thế giới loài vật hoang dã trở thành loài người văn minh thông qua hệ thống chữ viết, văn hóa trong xã hội loài người. Nhờ có tri thức mà cuộc sống của con người không ngừng phát triển theo từng thời kỳ. Năm 1860 ý tưởng đầu tiên về chiếc điện thoại được Johann Philipp Reis nghĩ ra Vài năm sau đó, cuộc gọi đầu tiên được thực hiện giữa nhà phát minh Alexander Graham Bell và người trợ lí của ông ngồi cách đó 4,5 m vào ngày 10/3/1876 với mẩu hội thoại ngắn ngủi: "Watson, anh đến đây nhé, tôi có việc cần!" là sự kiện lịch sử đánh dấu chính thức sự ra đời của chiếc điện thoại liên lạc .Năm 1879 lần đầu tiên Thomas Edison phát minh ra chiếc bóng đèn sợi đốt làm thay đổi diện mạo nhân loại, khi mà con người không phải sinh hoạt phụ thuộc vào nguồn ánh sáng tự nhiên của mặt trời nữa. Nhờ có đèn điện, năng suất lao động của thời bấy giờ cũng tăng lên đáng kể nhờ làm thêm ca đêm. Năm 1897 J.J. Thompson chính là người đã phát hiện và chứng minh được sự tồn tại của electron mặc dù ông chưa thể nhìn thấy hay tách được chúng ra. Electron là hạt hạ nguyên tử đầu tiên được phát hiện và được xác nhận là loại hạt đầu tiên cấu tạo nên vật chất nhỏ hơn cả nguyên tử. Khám phá này đã cung cấp cho chúng ta bằng chứng về một đơn vị mang điện cơ bản và miêu tả về nó. Những thí nghiệm và phát hiện của J.J. Thompson đã mở ra một lĩnh vực khoa học mới – Vật lý hạt.
Tất cả những thành tựu đó đều nhờ vào sức mạnh vô hạn của tri thức mà có. Sức mạnh tri thức làm con người có thể đảo lộn các trật tự tưởng như nghìn năm bất dịch, làm được bao điều phi thường trong trong cuộc sống. Trải qua thời gian, bằng tri thức con người đã xây dựng một xã hội loài người văn minh, tiến bộ tột bậc. Dường như, tham vọng khuất phục hoàn toàn hoàn cảnh sống là tham vọng bất tận của con người.
Chính vì thế mà con người không bao giờ ngừng học hỏi, nghiên cứu và sáng tạo ra những tri thức mới. Mỗi người trong xã hội luôn phải tự trau dồi kiến thức của bản thân thông qua hoạt động học tập. Học tập phải diễn ra đều đặn, lâu dài và xuyên suốt cuộc đời người. Học tập ở mọi nơi, mọi lúc và mọi thứ cần thiết. Thực tế cũng chứng minh, những người đạt đến đỉnh cao của vinh quang đều có vốn sống, vốn hiểu biết phong phú và nhu cầu cầu thị lớn. Học tập kĩ lưỡng và thực hành tỉ mỉ là bí quyết thành công của các nhà khoa học. Mỗi lượng tri thức đều phải được kiểm chứng qua trải nghiệm thực tế mới có thể được khẳng định.
Tri thức giúp chúng ta hoàng thiện mình, dũng cảm và tự tin hơn khi tham gia vào các hoạt động xã hội. Không có tri thức thì không có thành công. Chính vì thế chính là sức mạnh giúp con người hoàn thiện bản thaan cũng như hoàn thiện xã hội. Đây là một khẳng định đúng đắn và cũng là chân ly vĩnh hằng được con người khẳng định qua thời gian.
Câu trả lời của bạn
Câu hỏi là gì vậy bạn????????
Câu trả lời của bạn
Tham khảo tại đây:
=> https://cungdocsach.vn/tom-tat-review-kheo-an-noi-se-co-duoc-thien-ha/
Câu trả lời của bạn
1. Tóm tắt Rô-bin-xơn Cru-xô
Rô-bin-xơn là một thanh niên cường tráng, dũng cảm ưa mạo hiểm, khao khát đi tới những miền đất lạ, thích vượt trùng dương. Chàng đi xuống tàu tại thương cảng Hơn, theo bạn đi Luân Đôn. Tàu bị đắm tại Yác-mao. Chẳng nhụt chí trước tai họa, chẳng mềm lòng trước lời kêu khốc của mẹ cha, Rô-bin-xơn làm quen với một thuyền trưởng tàu buôn đi sang Ghi-nê. Chuyến đầu tốt đẹp, chuyến thứ hai gặp cướp biển, bị bắt làm nô lệ ở Xa-lê. Hai năm sau trốn thoát, lưu lạc sang Bra-xin lập đồn điền. Có một tí vốn, 4 năm sau tại cùng bạn xuống tàu buôn đi Ghi-nê. Tầu gặp bão, bị đắm. Hầu hết đều chết, chỉ còn Rô-bin-xơn may mắn sống sót. Tàu đắm dạt vào một nơi gần đảo hoang. Chàng tìm cách lên đảo, làm lán trại, chuyên chở mọi thứ còn lại trên tàu đắm, từ khẩu súng, viên đạn đến lương thực lên đảo. Chàng săn bắn, kiếm ăn, trồng trọt, nuôi dê, làm đủ nghề như đan lát, nặn gốm v.v ... để duy trì cuộc sống đơn độc trên đảo hoang.
Đến năm thứ 25, Rô-bin-xơn do tình cờ cứu được một tù binh da đen bị thổ đân đưa lên đảo toan hành hình. Chàng đặt tên cho nạn nhân là Thứ Sáu. Ít lâu sau, chàng lại cứu được 2 tù binh, một người Tây Ban Nha và một da đen chính là người cha của Thứ Sáu, khi bọn thổ dân sắp hành hình. Hoang đảo đã có 4 người, cuộc sống đỡ cô đơn.
Một hôm có một chiếc tầu ghé đến đậu ở cái vịnh nhỏ gần đảo hoang. Bọn thủy thủ nổi loạn trói thuyền trưởng thuyền phó giải lên bờ định cho chết trên đảo. Chàng cứu giúp vị thuyền trưởng thu hồi được tàu. Chàng trở về Tổ quốc có Thứ Sáu cùng đi. Tính ra đã 28 năm, hai tháng, 19 ngày Rô-bin-xơn đã sống trên hoang đảo.
2. Ý nghĩa, giá trị
"Rô-bin-xơn Cru-xô" là một cuổn tiểu thuyết phiêu lưu viết dưới hình thức tự truyện của nhân vật Rô-bin-xơn. Rô-bin-xơn là một mẫu người lý tưởng rất đẹp như thích mạo hiểm, nhiều hoài bão có nghị lực phi thường, có tinh thần quả cảm, có khả năng và sức mạnh lao động sáng tạo để tự làm chủ cảnh ngộ, khắc phục khó khăn, chiến thắng thiên nhiên. Tình yêu thương đồng loại là một nét rất đẹp trong tâm hồn con người bất hạnh này.
Qua nhân vật Rô-bin-xơn, nhà văn Điphô muốn khẳng định một ý tưởng: Bản lĩnh phi thường nhất đinh phát huy sức manh và trí tuệ để cải tạo hoàn cảnh, bất thiên nhiên phục vụ cuộc sống con người. Trước cảnh ngộ kkhắc nghiệt, phải biết sống và sống lạc quan.
Rô-bin-xơn là một thanh niên cường tráng, dũng cảm ưa mạo hiểm, khao khát đi tới những miền đất lạ, thích vượt trùng dương. Chàng đi xuống tàu tại thương cảng Hơn, theo bạn đi Luân Đôn. Tàu bị đắm tại Yác-mao. Chẳng nhụt chí trước tai họa, chẳng mềm lòng trước lời kêu khốc của mẹ cha, Rô-bin-xơn làm quen với một thuyền trưởng tàu buôn đi sang Ghi-nê. Chuyến đầu tốt đẹp, chuyến thứ hai gặp cướp biển, bị bắt làm nô lệ ở Xa-lê. Hai năm sau trốn thoát, lưu lạc sang Bra-xin lập đồn điền. Có một tí vốn, 4 năm sau tại cùng bạn xuống tàu buôn đi Ghi-nê. Tầu gặp bão, bị đắm. Hầu hết đều chết, chỉ còn Rô-bin-xơn may mắn sống sót. Tàu đắm dạt vào một nơi gần đảo hoang. Chàng tìm cách lên đảo, làm lán trại, chuyên chở mọi thứ còn lại trên tàu đắm, từ khẩu súng, viên đạn đến lương thực lên đảo. Chàng săn bắn, kiếm ăn, trồng trọt, nuôi dê, làm đủ nghề như đan lát, nặn gốm v.v ... để duy trì cuộc sống đơn độc trên đảo hoang.
Đến năm thứ 25, Rô-bin-xơn do tình cờ cứu được một tù binh da đen bị thổ đân đưa lên đảo toan hành hình. Chàng đặt tên cho nạn nhân là Thứ Sáu. Ít lâu sau, chàng lại cứu được 2 tù binh, một người Tây Ban Nha và một da đen chính là người cha của Thứ Sáu, khi bọn thổ dân sắp hành hình. Hoang đảo đã có 4 người, cuộc sống đỡ cô đơn.
Một hôm có một chiếc tầu ghé đến đậu ở cái vịnh nhỏ gần đảo hoang. Bọn thủy thủ nổi loạn trói thuyền trưởng thuyền phó giải lên bờ định cho chết trên đảo. Chàng cứu giúp vị thuyền trưởng thu hồi được tàu. Chàng trở về Tổ quốc có Thứ Sáu cùng đi. Tính ra đã 28 năm, hai tháng, 19 ngày Rô-bin-xơn đã sống trên hoang đảo.
Câu trả lời của bạn
Dàn ý bức họa mùa xuân qua 4 câu thơ đầu bài Cảnh ngày xuân
1. Mở Bài
Giới thiệu 4 câu thơ đầu trong đoạn trích "Cảnh ngày xuân" của Nguyễn Du.
2. Thân Bài
Bức họa mùa xuân được miêu tả qua hai yếu tố thời gian và không gian:
- Thời gian được tác giả miêu tả: Gần cuối mùa xuân.
- Không gian mùa xuân:
+ Không gian rộng lớn, bát ngát.
+ Không gian khoáng đạt, nổi bật với những gam màu tươi sáng, giàu sức sống.
→ Đó là bức họa đẹp, có màu sắc, đường nét và điểm nhấn.
→ Bức họa mùa xuân hài hòa, sinh động, gợi cho con người cảm giác vui tươi, hòa mình vào vẻ đẹp của thiên nhiên.
- Tác giả sử dụng bút pháp gợi, tả và các từ ngữ giàu tính tạo hình để khắc họa bức tranh mùa xuân một cách đầy tinh tế.
3. Kết Bài
Cảm nhận về bức tranh mùa xuân qua 4 câu thơ đầu của đoạn trích.
Nguyễn Du không chỉ là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật mà ông còn là cây bút tài hoa trong việc khắc họa những bức tranh về thiên nhiên. Có không ít cảnh thiên nhiên được miêu tả trong "Truyện Kiều" nhưng cảnh thiên nhiên gây được nhiều ấn tượng với bạn đọc nhất có lẽ là cảnh ngày xuân:
"Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".
Chỉ với bốn câu thơ lục bát ngắn gọn, Nguyễn Du đã phác họa nên bức tranh mùa xuân ở cả hai yếu tố thời gian và không gian. Mùa xuân luôn được coi là mùa đẹp nhất, tràn đầy sức sống nhất trong năm nên dù cho đã đi hết hai phần ba quãng đường thì vẻ đẹp của mùa xuân cũng không kém sự hấp dẫn. Ngoài những dấu hiệu đặc trưng là hoa đào và hoa mai thì chim én cũng được coi là tín hiệu của mùa xuân. Vào những ngày xuân, chim én bay theo từng đàn nghiêng đôi cánh chao liệng trên bầu trời. Cánh én đã mang mùa xuân về với đất trời để xua tan đi mùa đông lạnh giá. Những đàn chim én bay đi bay lại rộn ràng được tác giả so sánh như thoi đưa. Đồng thời, chi tiết này còn ngụ ý về sự chảy trôi của thời gian trong thơ ông. Một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Thời gian tồn tại của mỗi mùa là ba tháng. Nguyễn Du miêu tả bức họa mùa xuân vào thời điểm mùa xuân đang ở tháng thứ ba và đó cũng là lúc nó sắp kết thúc hành trình của mình. Giọng thơ như ẩn chứa sự nuối tiếc mà đến thời kì văn học hiện đại về sau chúng ta mới bắt gặp trạng thái cảm xúc ấy trong thơ Xuân Diệu:
"Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già"
(Vội vàng)
Phải chăng Nguyễn Du cũng đang tiếc nuối, lo sợ vẻ đẹp mùa xuân sẽ bị những bước đi vô tình của thời gian làm cho tàn phai, héo úa? Phải chăng ông cũng muốn níu giữ vẻ xuân sắc của bức tranh thiên nhiên ấy ở lại? Thời gian trôi đi rất nhanh tựa như một dòng chảy không ngừng nghỉ. "Thời gian thấm thoắt thoi đưa", mới ngày nào mùa xuân còn ở trong giai đoạn bắt đầu vậy mà giờ đây nó đã đi qua sáu mươi ngày của tháng giêng và tháng hai. Tuy mùa xuân được tác giả miêu tả đang ở tháng thứ ba nhưng không vì thế mà bức tranh thiên nhiên trở nên úa rụng. Ánh sáng của ngày xuân vẫn đẹp đẽ, ánh nắng của ngày xuân vẫn ấm áp và rực rỡ.
Dưới ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du, bức họa mùa xuân hiện lên thật hài hòa và sinh động:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".
Đây là mùa cây cối phát triển tươi tốt nhất nên cỏ xanh đến tận chân trời cũng là điều dễ hiểu. Màu xanh nõn nà, mơn mởn của cỏ kết hợp với màu xanh biếc của bầu trời tạo nên một bức tranh xuân ngập tràn gam màu tươi mát. Những cánh đồng cỏ nối tiếp nhau trải dài đến bất tận, vượt xa khỏi tầm mắt của người quan sát. Đó là không gian khoáng đạt được bao trùm bởi màu xanh của sự sống căng tràn, màu xanh của niềm lạc quan, yêu đời. Bạn đọc chưa hết choáng ngợp trước không gian ngập tràn sắc xanh ấy thì đã bị thu hút bởi những bông hoa lê trắng tinh khôi, thanh khiết. Tuy chỉ có "một vài bông hoa" nhưng bấy nhiêu thôi cũng đủ làm bức họa mùa xuân ngập tràn sức sống. Phép đảo ngữ "trắng điểm" khiến bức tranh trở nên có hồn và sống động hơn. Dường như những bông hoa lê đã chủ động điểm xuyết vẻ đẹp của mình vào không gian ấy để người thưởng thức có cơ hội được chiêm ngưỡng một tác phẩm hội họa tuyệt mĩ. Trắng và xanh là hai gam màu sáng và sự kết hợp của chúng là một sự kết hợp hoàn hảo. Ta có thể hình dung được tâm trạng vui tươi và sự hòa mình vào thiên nhiên của chị em Thúy Kiều khi đi du xuân.
Một bức họa mùa xuân hài hòa về đường nét, màu sắc và thể hiện được cái hồn của cảnh vật đã cho thấy sự tài hoa của người cầm bút. Bút pháp gợi tả và các từ ngữ giàu tính tạo hình được Nguyễn Du sử dụng triệt để đã mang đến cho bạn đọc những ấn tượng về bức tranh xuân khó phai mờ. Có thể nói đã có rất nhiều vần thơ viết về mùa xuân ra đời trước và sau khi Nguyễn Du sáng tác "Truyện Kiều" nhưng bức họa mùa xuân trong bốn dòng thơ trên của ông vẫn luôn chiếm một vị trí nhất định trong kho tàng văn học nước nhà.
"Cảnh ngảy xuân" là đoạn trích tiêu biểu cho tài năng và bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du, để củng cố kiến thức bài học, bên cạnh bài Bức họa mùa xuân qua 4 câu thơ đầu bài Cảnh ngày xuân, các em có thể tham khảo: Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân, Bức tranh thiên nhiên trong đoạn trích Cảnh ngày xuân, Kể lại cuộc đi chơi của chị em Thuý Kiều qua Cảnh ngày xuân, Phân tích sáu câu thơ cuối trong đoạn trích Cảnh ngày xuân.
Câu trả lời của bạn
Đầu năm 2001, trước thềm thế kỉ mới, nguyên phó Thủ tướng chính phủ Vũ Khoan đã có bài viết nổi bậc Chuẩn bị hành trang in trên tạp chí Tia sáng nhằm nhắc nhở thanh niên Việt Nam trước khi bước ra hội nhập với thế giới. Trong đó, đáng chú ý nhất, tác giả chỉ rõ những điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam, từ đó xác định mục tiêu, nhiệm vụ cần phải cấp bách thực hiện. Điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam dưới góc nhìn của Vũ Khoan thực sự hết sức rõ ràng, chân thực, đánh thức nhận thức của con người về bản thân mình.
Không hề dài dòng, sau khi nêu rõ tình hình thế giới, cơ hội và thách thức đối với đất nước, tác giải Vũ Khoan đề cập ngay đến điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam.
Cái mạnh của con người Việt Nam không chỉ chúng ta nhận biết mà cả thế giới thừa nhận là thông minh, nhạy bén với cái mới. Bản chất trời phú ấy rất có ích trong xã hội ngày mai mà sự sáng tạo là yêu cầu hàng đầu. Sự thông minh và nhạy bén của con người Việt Nam đặc biệt chú ý.
Lý Quang Diệu, nhà lãnh đạo kiệt xuất Singgapor đã ngợi khen khi nói về con người Việt Nam: “Việt Nam là một tộc người Do Thái thứ hai của châu Á”. “Họ là một dân tộc thông minh và đầy nghị lực”. “Tài năng của người Việt Nam trong việc sử dụng và cải tiến các khí tài của Liên Xô thời kỳ chiến tranh nhắc nhở chúng ta về những phẩm chất tuyệt vời của dân tộc này”.
Sự thông minh của con người Việt Nam được chứng thực trong các cuộc thi quốc tế. Việt nam luôn nằm trong tóp dẫn đầu về thành tích các cuộc thi toán học, vật lý và robocon thế giới. Năng lực tư duy và chỉ số IQ của người Việt cũng rất cao, được thế giới ngưỡng mộ.
Thế nhưng, vì thông minh và nhạy bén với cái mới nên người Việt Nam thường hay vội vã, hấp tấp và nông cạn. Cái thông minh của người Việt Nam chúng ta nó không hoàn chỉnh và chưa bao giờ được khuyến khích đúng mức.
Trong lịch sử, chúng ta ngại dùng từ thiên tài, nhà thông thái, triết gia, nhà tư tưởng,… Vì sao? Vì cái thông minh của người Việt Nam chỉ là cái thông minh nhất thời. Người ta gọi là khôn lỏi. Giỏi ứng biến nhưng không khoa học. Cho nên dân tộc ta coi trọng cái khôn và cái khéo, khôn một cách khéo léo. Khéo này là khéo làm hài lòng người khác chứ không phải hướng đến tính khoa học chắc chắn.
Cái khôn, cái khóe ấy thể hiện rất rõ qua Trạng Quỳnh, Trạng lợn. Họ thông minh nhưng chỉ là khôn lỏi, giỏi ứng biến nhất thời chứ không phát huy đến đỉnh cao. Họ chỉ khéo chứ chưa hẳn đã khôn.
Người Việt ta có nhạy bén với cái mới thật. Nhưng cũng có rất nhiều trường hợp vì tính tò mò. Nó cũng mang tính nhất thời chứ không chắc chắn. Từ đó, tác giả Vũ Khoan cũng chỉ ra là nó tạo ra lỗ hổng về kiến thức cơ bản, kém khả năng thực hành.
Vì sao? Vì ta có thiên hướng chạy theo những môn học thời thượng, nhất là kĩ năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề. Đối với người Việt Nam thì cái gì cũng biết. Nhưng lại không nắm vững một cái gì cả. tác giả cũng nhấn mạnh: “không nhanh chóng lấp đầy những lỗ hổng này thì thật khó bề phát huy trí thông minh vốn có và không thể thích ứng với nền kinh tế mới chứa đựng đày tri thức căn bản và biến đổi không ngừng.
Một điểm mạnh khác nữa của người Việt Nam là tính siêng năng, cần cù, sáng tạo. Điều đó thật hữu ích trong một nền kinh tế đòi hỏi tinh thần kỉ luật cao và thái độ nghiêm túc đối với công cụ và quy trình lao động với những máy móc và thiết bị rất tinh vi.
Siêng năng, cần cù vốn là một phẩm chất của con người Việt Nam từ bao đời nay vốn gắn chặt với các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Nước ta nằm trong vùng khí hậu khắc nghiệt, nhiều thiên tai, địch họa, việc sản xuất gặp nhiều khó khăn. Để phát triển đời sống, con người Việt Nam đã không ngừng nỗ lực. Bởi vậy, siêng năng, cần cù trở thành bản tính của con người.
Đối diện với những khó khăn trong đời sống lao động sản xuất và chống xâm lăng, họ không ngừng sáng tạo. Sức sáng tạo của họ thể hiện ngay trong công cuộc chinh phục thiên nhiên và khuất phục kẻ thù xâm lược. Những trang sử vẻ vang là minh chứng thuyết phục cho sức mạnh ấy.
Trong thời đại mới, con người Việt Nam không ngừng khẳng định cái mạnh ấy. Sự sáng tạo của người Việt Nam không thua kém bất kì một dân tộc nào trên thế giới. Ông Đỗ Đức Cường phát minh ra máy ATM làm nên cuộc cách mạng trong hệ thống ngân hàng thế giới. Anh Đặng Hoàng Sơn, một thợ máy đã sáng chế ra bộ tiết kiệm xăng cho xe máy. Ông Nguyễn Quốc Hào cần mẫn tự nghiên cứu chế tạo thành công tàu ngầm mini. Ông Trần Quốc Hải kiên trì chế tạo máy bay. Dù có những công trình chưa đạt đến hoàn hảo nhưng nó là minh chứng cho tinh thần sáng tạo mãnh liệt của người Việt Nam. Họ là niềm tự hào Việt Nam.
Lịch sử đã chứng minh điều đó. Việc cải tiến vũ khí trong thời kì chiến tranh đã khẳng định điều đó rất rõ ràng. Tiếc rằng ngay trong mặt mạnh này của chúng ta cũng lại ẩn chứa những khuyết tật không tương tác chút nào với một nền kinh tế công nghiệp hóa chứ chưa nói tới nền kinh tế tri thức.
Người Việt Nam ta cần cù thì đúng thật nhưng lại thiếu đức tính tỉ mỉ. Người Nhật họ thông minh không kém gì ta, nhưng họ làm tỉ mỉ lắm. Khi muốn xây chiếc cầu, họ tính tỉ mỉ đến từng dây thép buộc, từng cái đinh, cái vít. Sẵn sàng rồi họ làm. Còn người Việt làm đến đâu mua đến đó.
Ngay trong việc học sẽ thấy rõ. Nếu một học sinh Nhật nhận bài tập về Nhật, thì học sinh Nhật sẽ hoạch định kế hoạch và luôn hoàn thành kế hoạch trước thời hạn. Còn học sinh Việt Nam thì ngược lại, Họ ỷ lại tính tháo vát cảu mình đợi “nước đến chân mới nhảy”, “liệu cơm gắp mắm”.
Do xuất phát từ nền sản xuất nông nghiệp và cách sống chậm rãi nơi thôn dã vốn rất thoải mái và thanh thản nên người Việt nam ta chưa có được những thói quen tôn trọng những quy định nghiêm ngặt của công việc là cường độ khẩn trương. Lại thêm nền văn hóa lắm lễ hội, trọng tình nghĩa, thói lề mề trở thành một bản chất khó bỏ.
Ngay bản tính sáng tạo một phần nào đó cũng có mặt trái ở chỗ hay loay hoay cải tiến, làm tắt, làm ẩu, chủ quan nóng vội, duy ý chí, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ.
Khát khao khám phá, say mê nghiên cứu là một việc tốt. Nhưng sao lại đi sáng tạo ra cái máy bay trong khi máy bay trên thế giới đã hoàn thiện. Tàu ngầm mini thì các nước cũng có rồi, cần gì mất công nghiên cứu nữa. Bộ tiết kiệm xăng thì tiết kiệm thật đấy nhưng có tốt cho tuổi thọ của máy không. Còn với trường hợp ông Đỗ Đức Cường, ông ấy học ở Nhật rồi làm việc ở Mỹ. Về căn bản, ông ấy sớm được giáo dục trong một môi trường tiên tiến rồi.
Không nên phủ nhận niềm say mê của họ, nhưng sản phẩm của họ tạo ra không thể đáp ứng được yêu cầu thực tế. Đó là một sự sáng tạo ngược, không hữu ích. Tác giả cũng khẳng định, trong xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp, những khuyết tật ấy quả là sự cản trở ghê gớm.
Chúng ta tự hào nhân dân ta có truyền thống lâu đời biết đùm bọc, đoàn kết với nhau cùng một lòng nồng nàn yêu nước. Lúc đất nước hòa bình, nó là sức mạnh hăng say lao động, dựng xây đất nước. Lúc đất nước có chiến tranh, nó biến thành nguồn sức mạnh to lớn, quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Không có gì mạnh hơn tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Nhưng đáng tiếc rằng, phẩm chất cao quý ấy lại không thể hiện được sức mạnh trong công việc làm ăn với quy luật cạnh tranh trong cơ chế thị trường hiện nay. Xã hội Việt Nam vốn bị ảnh hưởng năng nề lễ giáo phong kiến, tính cấp bậc xã hội, tính gia trưởng, cửa quyền vốn còn rất sâu đạm trong tâm lí và cung cách ứng xử.
Người Việt thiếu tính cộng đồng trong làm ăn. Cái thói “trâu buộc ghét trâu ăn”, đố kỵ lẫn nhau khiến cho tinh thần đoàn kết bị triệt tiêu trong cộng đồng. Lúc khó khăn còn tìm đến nhau, lúc giàu có thì ganh tỵ, so đo tính toán thiệt hơn.
Con người Việt ta thích ứng nhanh với những yêu cầu mới của công việc. Bản tính thích ứng nhanh sẽ giúp ta tận dụng được những cơ hội, ứng phó với những thách thức do tiến trình hội nhập đem lại. Tính ứng biến là một trong những nhân tố sống còn trong sự vận động mãnh liệt của nền kinh tế ngày nay.
Tính thích ứng nhanh thể hiện rất rõ trong tính cách người Việt. Trước những thách thức trong công việc, người Việt Nam nhanh chóng tìm ra giải pháp và tiến hành công việc thành công. Ví như trường hợp thần đèn Nguyễn Cẩm Lũy đã khiến thế giới phải kinh ngạc. Thế nhưng, nó lại sản sinh ra cái tật hay chế, thói khôn vặt, “bóc ngắn cắn dài”, đắp đổi vụn vặt.
Chẳng hạn như khi làm bài kiểm tra môn văn, mình mà không làm được là mình chế à. Chế bài viết khi làm bài là giải pháp luôn được nhiều học sinh ưu thích và lựa chọn. Mình chế mà trúng ý thầy thì may quá. Mình chế mà không đúng thì hậu quả thật khó lường.
Lại thêm tâm lí người Việt thích bài ngoại hoặc sùng ngoại quá mức. Không thích thì họ kiên quyết từ bỏ dù nó tốt hay không tốt. Ngược lại, khi đã thích rồi thì nó thế nào họ cũng vui vẻ chấp nhận, chào đón.
Người Việt ta lại không coi trọng chữ tín. Điều này sẽ gây ra hậu quả lớn trong kinh doanh và hội nhập. Bởi làm cái gì cũng phải biết giữ chữ tín, phải có đạo đức. Nhất là khi hội nhập kinh tế thế giới với quy mô và mức độ hợp tác sâu rộng.
Người Việt nam có tinh thần tự chủ, tự cường dân tộc mạnh mẽ. Trong khó khăn, họ không ngừng tự lực vươn lên. Người Việt dựa vào sức mình là chính, kiên trì trong hành động. Thế nhưng, họ lại thường sống ích kỉ, cá nhân vì tự tin vào bản thân. Quan trọng hơn hết là do cái tính tự ái, tự trọng quá cao. Nếu làm việc cá nhân, người Việt Nam làm việc rất xuất sắc. Nhưng trong nhóm, họ tỏ ra rất vụng về. Bởi thế, trong nền sản xuất hiện đại, người Việt Nam yếu kém về tinh thần hợp tác nhóm, cùng giải quyết chung một nhiệm vụ. Đó là một trở ngại rất lớn khi mức độ công việc đòi hỏi phải hợp tác cao độ như hiện nay.
Dù điểm mạnh hay điểm yếu nó đều thuộc về con người Việt Nam ta.Chúng ta không thể nào phủ nhận hay chối bở những điểm yếu của mình dù mình không thích nó. Bước vào thế kỉ mới, con người Việt Nam sẽ tiếp tục khẳng định sức mạnh truyền thống của mình. Bổn phận của chúng ta là phải nhận thấy được những điểm mạnh, điểm yếu của người Việt Nam, hình thành những đức tính và thói quen tốt khi đất nước đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thế kỉ mới như lời tác giả đã nói ở đầu bài. Góp sức mình xây dựng đất nước, làm cho đất nước ta ngày càng giàu đẹp hơn, Tôi và các bạn lúc nào cũng phải sẵn sàng cho điều đó. Và tuổi trẻ ngày nay cần rèn luyện mình như thế nà để sẵn sàng bước vào thế kỉ mới, các bạn hãy tự tìm câu trả lời ở chính mình nhé. Chúc các bạn có một giờ học thật vui vẻ và ý nghĩa.
Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới là một bài văn nghị luận sâu sắc. Trong tác phẩm đó tác giả đã nêu bật lên quan điểm của mình về con người Việt Nam. Trong đó có hai ý kiến như sau: Mặt mạnh thông minh, nhạy bén với cái mới mặt yếu là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề. Chúng ta hãy cùng nhau bàn luận vấn đề trên.
Vũ Khoan đã rất đúng đắn khi nhận xét về con người Việt Nam. Đúng vậy mặt mạnh của con người Việt Nam là thông minh, nhạy bén với cái mới vì con người Việt Nam rất mau quen với những thứ mới mẻ cho dù chúng có là những thứ xa xỉ và khó sử dụng đến mấy, đó chính nhờ vào bộ óc thông của mình nhưng bên cạnh đó có yếu điểm của người Việt Nam là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế. Vậy nguyên nhân từ đâu? Đó chính là lối học chay, học vẹt nặng nề. Vậy học chay, học vẹt do đâu mà ra? Xin thưa rằng do từ nhỏ khả năng học của đa số lớp trẻ rất kém, thường thì họ thiên về lí thuyết hơn là thực hành, hơn nữa người Việt Nam luôn thụ động nên đầu óc sáng tạo hầu như không có.
Để đưa đất nước đi lên, chúng ta cần phát huy những điều mạnh, khắc phục những điểm yếu, hình thành những thói quen tốt ngay từ bây gìơ. Hãy là người Việt sống theo phong cách Việt.
Câu trả lời của bạn
Viếng lăng Bác.
Câu trả lời của bạn
Trong những thời điểm quan trọng nhất của cuộc sống chúng ta đều tòm đến điểm tựa tin thần, những điểm tựa này sẽ vực chúng ta dậy khỏi những khó khăn, vấp váp của cuộc đời này. Một trong những điểm tựa vừng chắc chất, xoa dịu hết những nỗi đau của chúng ta đó chính là gia đình. Tình cảm gia đình có sức mạnh vô cùng to lớn mà không ai có thể phủ nhận được.
Gia đình hiểu theo nghĩa hẹp là sự gắn kết giữa những người có cùng máu mủ, huyết thống cùng một nhà. Đó chính là tình cảm đẹp đẽ thiêng liêng nhất ai cũng nâng nui trân trọng bằng cả trái tim. Hay nếu như chúng ta mở rộng ra thì nó chính là sự gắn kết giữa người với người trong người trong xã hội. Tình cảm gia đình là quan hệ giữa những người cùng huyết thống máu mủ mà không ai có thể phủ nhận được. Tình cảm gia đình chính là điểm tựa thiêng liên nhất giúp chúng ta vượt qua được mọi rào cản về không gian và thời gian để đem đến cho mỗi cá nhan sự sống tốt đẹp nhất. Tình cảm gia đình không bó hẹp trong phạm vị huyết thống và nó có thể hiểu rộng ea mà toàn xã hội, là tình cảm giữa con người với nhau.
Tình cảm gia đình trước hết là tìn cảm giữa những người trong ia đình với nhau, đó là tình cảm vợ chồng, anh em, cha mẹ và con cái… Mỗi mỗi quan hệ thì đều chứa những tình cảm vô cùng bền vững, có sâu nặng thì tình cảm gia đình mới thuwjxc sự mang ý nghĩa của nó. Tình cảm gia đình có rất nhiều cách thể hiện đôi khi những sự quan tâm rất lại làm nên những điều vô cùng to lớn.
Sự quan tâm mà con người dành cho cha mẹ có thể làm cho cha mẹ ấm lòng hơn biết bao nhiêu. Trong những lần cha mẹ đi làm vất vả không cần phải điều hòa mới làm dịu đi cơn mệt mỏi và chỉ cần một cốc nước của con cũng khiến cho người cha mẹ cảm thấy mát lòng. Đây là một hành động vô cùng nhỏ xua tan đi những vất vả trong cuộc sống.
Tình cảm gia đình có khiến cho con người luôn cảm thấy gần nhau hơn cho dù khoảng cách có bao xa đi nữa. Điều này có được vì chúng ta gửi gắm những tình cảm chân thành nhất, gắn bó với nhau bằng cả tấm lòng của mình luôn nghĩ đến nhau, đó chính là khi tình cảm gia đình được thể hiện một cách thầm kín nhất. Chính khoảng cách xa xôi, những khó khăn trong cuộc sống sẽ khiến cho con người chúng ta gần nhau hơn. Kể cả có cách nhau nửa vòng trái đất thì chúng ta vẫn vậy, vẫn luôn dành cho nhau những tình cảm quý báu nhất. Bức thư của người cha Đỗ Xuân Thảo gửi con Nguyễn Nhật Nam được đăng tải trên mạng internet là minh chứng rõ ràng về tình yêu thương vô bờ bến mà cha dành cho con. Nó không những là tình yêu mà còn là niềm tự hào của người cha đối với con.
Tình cảm gia đình là thứ tình cảm đẹp , tồn tại vĩnh hằng vì nó thuộc về thế giới tinh thần là những gì cao quý bền vững nhất. Cuộc sống luôn tiềm ẩn những giá trị tốt đẹp và nó không bao giờ mất đi. Tình cảm ấy sẽ là nơi chúng ta thấy được niềm tin trong cuộc sống. Tình cảm gia đình là tình cảm gắn kết diệu kỳ nhất mà cuộc sống đem lại cho mỗi con người giúp con người vượt qua được những khó khăn thử thách.
Trong xã hội hiện nay, vòng xoáy tranh đua tiền bạc ngày càng cuốn con người đi đến những mối quan hệ phong phú trong xã hội. Có những chúng ta quên mất đi tình cảm gia đình. Nhưng dù có là vậy thì nó chính là những thứ tình cảm vô giá nhất, quan trọng nhất không gì có thể thay thế được. Nó đặt cạnh những thứ tình cảm khác nhưng nó chính là điểm tựa tinh thần cho tất cả chúng ta. Nếu không có gia đình thì tâm hồn chúng ta sẽ trở nên khô cằn, đánh mất hẳn phần quan trọng nhất trong cuộc sống. cho nên để giữ vững được tình cảm này thì chúng ta cần nhận thức được tầm quan trọng của tình cảm gia đình. Tình cảm gia đình là thứ vô cùng cao quý, vô cùng bền vững nhưng nếu như không biết trân trọng thì chúng ta cũng đánh mất đi thứ tình cảm cao đẹp đó.
Để tình cảm gia đình luôn bền vững thì mỗi người cần ý thức trau bồi, bồi đắp từ những điều nhỏ nhặt nhất. Những sự quan tâm nhỏ nhất sẽ làm cho tình cảm gia đình tốt đẹp hơn nhân văn hơn. Nếu như tình cảm gia đình vượt qua tình cảm huyết thống thì nó là tình cảm cao đẹp nhất. Nếu như có lúc nào bạn cảm thất bấn mãn chán nản với gia đình của mình thì hãy nghĩ đến những đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa, họ muốn cất lên một tiếng gọi cha mẹ nhưng cũng không được, thèm khát tình yêu thương nhưng không có. Những người an hem những gia đình không phải quan hệ máu mủ mà biết quan tâm chia sẻ cho nhau là điều cần thiết nhất cho sự phát triển của xã hội. Bởi vì chỉ khi con người biết nghĩ về người khác thì con người ta mới có thể chân thành với nhau, xã hội mới có thể phát triển được.
Trong xã hội hiện đại, quan hệ xã hội được mở rộng nhiều thang đó các giá trị ngày càng bị đảo lộn hoặc bị thay thế bằng các thang đo khác thì tình cảm gắn kết giữa con người với con người trong xã hội là mắt xích quan trọng để hắn kết con người lại với nhau, xã hội này ngày càng tốt đẹp hơn.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Tuyệt tác "Truyện Kiều" của Nguyễn Du không chỉ mang những giá trị xã hội sâu sắc mà còn làm say lòng người đọc ở những đoạn thơ tả cảnh tuyệt bút. Một trong số đó là đoạn trích "Cảnh ngày xuân" (trích Truyện Kiều, sách Ngữ văn 9, tập một - NXB Giáo dục, 2008).
Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm. Vào ngày Tết Thanh minh, chị em Thúy Kiều đi tảo mộ. Thiên nhiên và con người ngày xuân hiện lên tươi tắn, xinh đẹp đông vui nhộn nhịp dưới đôi mắt "xanh non biếc rờn" của những chàng trai, cô gái tuổi đôi tám.
Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng:
" Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quan chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"...
Không gian mùa xuân được gợi nên bởi những hình ảnh những cánh én đang bay lượn rập rờn như thoi đưa. Sự mạnh mẽ, khỏe khắn của những nhịp cánh bay cho thấy rằng mùa xuân đang độ viên mãn tròn đầy nhất. Quả có vậy: "Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi" có nghĩa là những ngày xuân tươi đẹp đã qua đi được sáu chục ngày rồi, như vậy bây giờ đang là thời điểm tháng ba.
Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được hoạ nên bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra bao la: "Cỏ non xanh tận chân trời", sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn mềm mượt êm ái. Huống chi cái sắc ấy trải ra "tận chân trời" khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Có lẽ chính hình ảnh gợi cảm ấy đã gợi ý cho Hàn Mặc Tử hơn một thế kỉ sau viết nên câu thơ tuyệt bút này: "Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời". Trên nền xanh tươi, trong trẻo ấy điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ là "vài bông" bởi những bông hoa lê đang thì chúm chím chưa muốn nở hết. Hoa như xuân thì người thiếu nữ còn đang e ấp trong ngày xuân. Chữ điểm có tác dụng gợi vẻ sinh động, hài hoà. ở đây, tác giả sử dụng bút pháp hội hoạ phương Đông, đó là bút pháp chấm phá.
Hai câu thơ tả thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du có thể khiến ai đó liên tưởng đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: hương thơm của cỏ non, màu xanh mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cành lê có điểm một vài bông hoa. Nhưng cảnh trong hai câu thơ này đẹp mà tĩnh tại. Trong khi đó gam màu nền cho bức tranh mùa xuân trong hai câu thơ của Nguyễn Du là thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời. Trên cái màu xanh của cỏ non ấy điểm xuyết một vài bông lê trắng (câu thơ cổ Trung Quốc không nói tới màu sắc của hoa lê). Sắc trắng của hoa lê hoà hợp cùng màu xanh non mỡ màng của cỏ chính là nét riêng trong hai câu thơ của Nguyễn Du. Nói gợi được nhiều hơn về xuân: vừa mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống lại vừa khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết.
Thiên nhiên trong sáng, tươi tắn và đầy sức sống, con người cũng rộn ràng, nhộn nhịp để góp phần vào những chuyển biến kì diệu của đất trời.
Sáu câu thơ tiếp của bài thơ tái hiện phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh) trong tiết Thanh minh. Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bởi hàng loạt các từ ghép tính từ, danh từ, động từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức. Chúng được đặt cạnh nhau dồn dập gợi nên không khí đông đúc, vui tươi sôi nổi. Đó không chỉ là không khí lễ hội mà còn mang đậm màu sắc tươi tắn, trẻ trung của tuổi trẻ:
"Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm".
Nhưng hội họp rồi hội phải tan. Sau những giây phút sôi nổi, chị em Thúy Kiều phải rời buổi du xuân trở về:
"Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang" ...
Bên cạnh vẻ thanh thoát, dịu nhẹ của mùa xuân như ở những câu thơ trước, khung cảnh mùa xuân đến đây đã mang một sắc thái khác với bức tranh lễ hội rộn ràng, nhộn nhịp. Cảnh vật toát lên vẻ vương vấn khi cuộc du xuân đã hết. Các từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ vừa gợi tả sắc thái cảnh vật vừa gợi ra tâm trạng con người. Dường như có cái gì đó đang mơ hồ xâm lấn, cảnh vật đã nhuốm sắc thái vương vấn, man mác của tâm trạng con người, ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để mượn cảnh vật mà diễn tả những rung động tinh tế trong tâm hồn những người , thiếu nữ. Những từ láy được sử dụng trong đoạn thơ đểu là những từ láy có tính giảm nhẹ. "Tà tà" diễn tả bóng chiều đang từ từ nghiêng xuống; "thơ thẩn" lại diễn tả tâm trạng bâng khuâng dịu nhẹ không rõ nguyên nhân (nó gần với nỗi buồn "tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn" của Xuân Diệu sau này) "thanh thanh" vừa có ý nghĩa là sắc xanh nhẹ nhàng vừa có ý nghĩa là thanh thoát, thanh mảnh; từ "nao nao" trong câu thơ diễn tả thế chảy của dòng nước nhưng đồng thời diễn tả tâm trạng nao nao buồn và từ "nho nhỏ" gợi dáng nhỏ xinh xắn, vừa vặn với cảnh với tình. Khung cảnh thiên nhiên cũng theo đó mà nhỏ đi để phù hợp với tâm trạng con người: "ngọn tiểu khê" - dòng suối nhỏ, phong-cảnh thanh thoát, dịp cầu "nho nhỏ" lại nằm ở "cuối ghềnh" ở phía xa xa,... Cảnh và người như có sự tương liên để giao hòa trong bầu không khí bâng khuâng, lưu luyến, khe khẽ sầu lay. Có thể mớ hồ cảm nhận được cảnh vật đang tạo ra dự cảm về những sự việc sắp xảy ra.
Đoạn trích Cảnh ngày xuân có bố cục cân đối, hợp lí. Mặc dù không thật rõ ràng nhưng cũng có thể nói đến kết cấu ba phần: mở đầu, diễn biến và kết thúc. Nguyễn Du đã cho thấy một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên điêu luyện, sắc sảo. Trong đoạn trích, mặc dù chủ yếu là miêu tả cảnh ngày xuân nhưng vẫn thấy sự kết hợp với biểu cảm và tự sự (diễn biến cuộc tảo mộ, du
Tuyệt tác "Truyện Kiều" của Nguyễn Du không chỉ mang những giá trị xã hội sâu sắc mà còn làm say lòng người đọc ở những đoạn thơ tả cảnh tuyệt bút. Một trong số đó là đoạn trích "Cảnh ngày xuân" (trích Truyện Kiều, sách Ngữ văn 9, tập một - NXB Giáo dục, 2008).
Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm. Vào ngày Tết Thanh minh, chị em Thúy Kiều đi tảo mộ. Thiên nhiên và con người ngày xuân hiện lên tươi tắn, xinh đẹp đông vui nhộn nhịp dưới đôi mắt "xanh non biếc rờn" của những chàng trai, cô gái tuổi đôi tám.
Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng:
" Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quan chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"...
Không gian mùa xuân được gợi nên bởi những hình ảnh những cánh én đang bay lượn rập rờn như thoi đưa. Sự mạnh mẽ, khỏe khắn của những nhịp cánh bay cho thấy rằng mùa xuân đang độ viên mãn tròn đầy nhất. Quả có vậy: "Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi" có nghĩa là những ngày xuân tươi đẹp đã qua đi được sáu chục ngày rồi, như vậy bây giờ đang là thời điểm tháng ba.
Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được hoạ nên bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra bao la: "Cỏ non xanh tận chân trời", sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn mềm mượt êm ái. Huống chi cái sắc ấy trải ra "tận chân trời" khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Có lẽ chính hình ảnh gợi cảm ấy đã gợi ý cho Hàn Mặc Tử hơn một thế kỉ sau viết nên câu thơ tuyệt bút này: "Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời". Trên nền xanh tươi, trong trẻo ấy điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ là "vài bông" bởi những bông hoa lê đang thì chúm chím chưa muốn nở hết. Hoa như xuân thì người thiếu nữ còn đang e ấp trong ngày xuân. Chữ điểm có tác dụng gợi vẻ sinh động, hài hoà. ở đây, tác giả sử dụng bút pháp hội hoạ phương Đông, đó là bút pháp chấm phá.
Hai câu thơ tả thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du có thể khiến ai đó liên tưởng đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: hương thơm của cỏ non, màu xanh mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cành lê có điểm một vài bông hoa. Nhưng cảnh trong hai câu thơ này đẹp mà tĩnh tại. Trong khi đó gam màu nền cho bức tranh mùa xuân trong hai câu thơ của Nguyễn Du là thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời. Trên cái màu xanh của cỏ non ấy điểm xuyết một vài bông lê trắng (câu thơ cổ Trung Quốc không nói tới màu sắc của hoa lê). Sắc trắng của hoa lê hoà hợp cùng màu xanh non mỡ màng của cỏ chính là nét riêng trong hai câu thơ của Nguyễn Du. Nói gợi được nhiều hơn về xuân: vừa mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống lại vừa khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết.
Thiên nhiên trong sáng, tươi tắn và đầy sức sống, con người cũng rộn ràng, nhộn nhịp để góp phần vào những chuyển biến kì diệu của đất trời.
Sáu câu thơ tiếp của bài thơ tái hiện phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh) trong tiết Thanh minh. Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bởi hàng loạt các từ ghép tính từ, danh từ, động từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức. Chúng được đặt cạnh nhau dồn dập gợi nên không khí đông đúc, vui tươi sôi nổi. Đó không chỉ là không khí lễ hội mà còn mang đậm màu sắc tươi tắn, trẻ trung của tuổi trẻ:
"Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm".
Nhưng hội họp rồi hội phải tan. Sau những giây phút sôi nổi, chị em Thúy Kiều phải rời buổi du xuân trở về:
"Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang" ...
Bên cạnh vẻ thanh thoát, dịu nhẹ của mùa xuân như ở những câu thơ trước, khung cảnh mùa xuân đến đây đã mang một sắc thái khác với bức tranh lễ hội rộn ràng, nhộn nhịp. Cảnh vật toát lên vẻ vương vấn khi cuộc du xuân đã hết. Các từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ vừa gợi tả sắc thái cảnh vật vừa gợi ra tâm trạng con người. Dường như có cái gì đó đang mơ hồ xâm lấn, cảnh vật đã nhuốm sắc thái vương vấn, man mác của tâm trạng con người, ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để mượn cảnh vật mà diễn tả những rung động tinh tế trong tâm hồn những người , thiếu nữ. Những từ láy được sử dụng trong đoạn thơ đểu là những từ láy có tính giảm nhẹ. "Tà tà" diễn tả bóng chiều đang từ từ nghiêng xuống; "thơ thẩn" lại diễn tả tâm trạng bâng khuâng dịu nhẹ không rõ nguyên nhân (nó gần với nỗi buồn "tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn" của Xuân Diệu sau này) "thanh thanh" vừa có ý nghĩa là sắc xanh nhẹ nhàng vừa có ý nghĩa là thanh thoát, thanh mảnh; từ "nao nao" trong câu thơ diễn tả thế chảy của dòng nước nhưng đồng thời diễn tả tâm trạng nao nao buồn và từ "nho nhỏ" gợi dáng nhỏ xinh xắn, vừa vặn với cảnh với tình. Khung cảnh thiên nhiên cũng theo đó mà nhỏ đi để phù hợp với tâm trạng con người: "ngọn tiểu khê" - dòng suối nhỏ, phong-cảnh thanh thoát, dịp cầu "nho nhỏ" lại nằm ở "cuối ghềnh" ở phía xa xa,... Cảnh và người như có sự tương liên để giao hòa trong bầu không khí bâng khuâng, lưu luyến, khe khẽ sầu lay. Có thể mớ hồ cảm nhận được cảnh vật đang tạo ra dự cảm về những sự việc sắp xảy ra.
Đoạn trích Cảnh ngày xuân có bố cục cân đối, hợp lí. Mặc dù không thật rõ ràng nhưng cũng có thể nói đến kết cấu ba phần: mở đầu, diễn biến và kết thúc. Nguyễn Du đã cho thấy một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên điêu luyện, sắc sảo. Trong đoạn trích, mặc dù chủ yếu là miêu tả cảnh ngày xuân nhưng vẫn thấy sự kết hợp với biểu cảm và tự sự (diễn biến cuộc tảo mộ, du xuân của chị em Thúy Kiều, dự báo sự việc sắp xảy ra).
"Cảnh ngày xuân" là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức tranh thiên nhiên trong sáng vô ngần mà còn cảm nhận được vẻ đẹp trong một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông: tiết Thanh minh. Và qua đây, Nguyễn Du cũng thể hiện nét tài hoa trong việc dựng lên một bức tranh tả cảnh ngụ tình tinh tế,... Với những điều đó, "Cảnh ngày xuân" sẽ luôn sống lại trong lòng người yêu thơ vào mỗi dịp đầu năm khi chúa xuân về với đất trời.
xuân của chị em Thúy Kiều, dự báo sự việc sắp xảy ra).
"Cảnh ngày xuân" là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức tranh thiên nhiên trong sáng vô ngần mà còn cảm nhận được vẻ đẹp trong một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông: tiết Thanh minh. Và qua đây, Nguyễn Du cũng thể hiện nét tài hoa trong việc dựng lên một bức tranh tả cảnh ngụ tình tinh tế,... Với những điều đó, "Cảnh ngày xuân" sẽ luôn sống lại trong lòng người yêu thơ vào mỗi dịp đầu năm khi chúa xuân về với đất trời.
Nguyễn Du không chỉ là bậc thầy về ngôn ngữ trong việc miêu tả tâm lý nhân vật mà còn là "họa sĩ" vẽ tranh bằng chữ. Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" trích Truyện Kiều là một ví dụ điển hình. Người đọc phải khâm phục và ngưỡng mộ khả năng quan sát cũng như những nét vẽ tài hoa của Nguyễn Du. Bức tranh ngày xuân hiện lên với những nét đẹp tươi mới, tràn đầy sức sống nhất.
Có thể nói mùa xuân là đề tài bất tận trong thi ca, khơi nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ. Mỗi người có một cảm nhận riêng về mùa xuân. Đối với Nguyễn Du, mùa xuân gắn với cảnh vật và con người, với những ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bao trùm lên cả đoạn thơ này là một bức tranh thiên nhiên đẹp, hữu tình nhưng có nhuốm màu buồn khi ngày đã ngả về chiều hôm.
Những câu thơ đầu được sử dụng với chất liệu ngôn ngữ đẹp như tranh, sự mượt mà của câu chữ đã tạo nên sự mượt mà của cảnh sắc thiên nhiên khi xuân về:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Một không gian đầy chất thơ, thi vị và hữu tình biết bao nhiêu. Sự rộng lớn của đất trời khi mùa xuân về được diễn tả một cách tinh tế và tràn ngập niềm vui. Cánh én chính là báo hiệu cho mùa xuân về, một mùa gợi lên sự ấm áp, sự sống căng đầy và niềm vui trọn vẹn. Với từ ngữ "đưa thoi" vừa gợi lên khung cảnh bầu trời tràn ngập cánh én, vừa diễn tả sự trôi đi quá nhanh của thời gian. Có phải chăng ý niệm về thời gian của Nguyễn Du có phần giống với Xuân Diệu, thời gian trôi đi nhanh, mùa xuân và tuổi trẻ cũng trở nên chông chênh hơn. Đồng nghĩa với thời gian trôi đi, tuổi trẻ trôi đi thì đời người bỗng nhiên ngắn lại.
Trong lúc đấy, chỉ với hai nét vẽ Nguyễn Du như vẽ lên trang giấy một bức tranh thiên nhiên mùa xuân đẹp tuyệt vời. Nghệ thuật điểm xuyết chấm phá đã được sử dụng dứt điểm, khiến cho câu thơ trở nên mềm mại và căng tràn sức sống hơn. Màu xanh của cỏ non tạo nên sự tươi mới và tinh khiết của đất trời. Từ "rợn" vừa tả cái xa, vừa gợi cái rộng lớn của mùa xuân, của cảnh vật khi xuân về. Nó làm cho câu thơ như được ngân dài ra, bừng sáng lên sức sống tràn đầy. Trên nền xanh của cỏ, của bầu trời có điểm xuyết "một vài bông hoa" trắng tinh khiết. Chính sự điểm xuyết này khiến cho cả bài thơ như bừng lên một sức sống mãnh liệt, khó có thể dập tắt.
Có thể nói với chỉ 4 câu thơ này, Nguyễn Du như người họa sĩ tài hoa vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, có sự giao thoa và hòa quyện giữa đất và trời. Không khí mùa xuân, hương sắc mùa xuân và cả ý vị mùa xuân cứ thế tràn ra trong từng câu thơ đẹp như vậy.
Không khí mùa xuân như tươi đẹp hơn với lễ hội tảo mộ tháng Ba:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Có lẽ không khí vui tươi, tưng bừng, phấn khởi của con người trong dịp đi tảo mộ thật sự khiến cho người đọc như sống lại với không khí những ngày xuân tươi mới nhất. Con người cũng hiện lên như tô điểm thêm bức tranh ngày xuân tươi đẹp đó
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Mùa xuân là dịp để "tài tử giai nhân" được vui chơi, giãi bày tâm sự với nhau. Có vẻ như mùa xuân là thời điểm thích hợp cho chuyện tình yêu nảy nở, cho những yêu thương còn bỏ ngỏ được phép căng trào ra. Hình ảnh "ngựa xe", "áo quần" gợi lên sự tấp nập, nhộn nhịp và huyên náo. Nguyễn Du đã rất tài tình khi sử dụng một loạt hình ảnh có tính chất gợi hình ảnh khiến cho người đọc có cảm giác như đang bước vào không khí của mùa xuân.
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay
Những phong tục tập quán khi mùa xuân về, khi được đi tảo mộ đã được Nguyễn Du vẽ lên chân chất, mộc mạc, gợi nhớ và gợi thương. Đó chính là tấm lòng thành kính hướng về quá khứ với một sự biết ơn chân thành nhất. Hai câu thơ này thực sự khiến người đọc xúc động khi nhớ về những người đã khuất, những người tạo dựng nên cuộc sống hiện nay của chúng ta.
Tuy nhiên những câu thơ cuối dường như cảnh vật và con người trở nên buồn bã và đìu hiu hơn:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn phong khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nhịp thơ trở nên nhẹ nhàng, trầm bổng khiến cho tâm trạng của con người trở nên nặng nề và buồn rầu hơn. Với từ láy "tà tà" đã phần nào gợi tả thời gian đã xế chiều và không gian dường như tĩnh mịch và ảm đạm hơn. Mỗi bước chân cũng trở nên nặng nề hơn khi màn đêm sắp buông xuống, con người cũng cảm nhận được một nỗi buồn nào đó len vào trong trái tim. Tâm sự của con người như nhuốm vào cảnh sắc thiên nhiên, khiến cho nó trở nên tiêu điều và xơ xác hơn.
Có thể nói dù cảnh trong thơ Nguyễn Du buồn hay vui thì vẫn mang phong vị riêng của nhà thơ. Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" là một ví dụ điển hình như thế. Bức tranh ngày xuân vui tươi, rộn ràng, náo nức và có chút buồn phiền được Nguyễn Du khắc họa thành công với sự cảm nhận tinh tế cũng như sự tài hoa trong cách dụng công xây dựng ngôn ngữ.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *