Qua bài thơ Viếng lăng Bác giúp các em cảm nhận được niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng tha thiết, thành kính của tác giả từ miền Nam vừa được giải phóng ra thăn Bắc hồ. Nắm được những đặc sắc trong hình ảnh và giọng điệu thơ.
Viễn Phương (1928 – 2005), tên khai sinh là Phan Thanh Viễn,
Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ , là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Namthời kì chống Mĩ cứu nước.
Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, giàu chất mộng mơ ngay trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến trường.
Tác phẩm tiêu biểu: Mắt sáng học trò (1970); Như mây mùa xuân (1978); Phù sa quê mẹ(1991);…
Bài thơ được chia làm 4 phần
Hình ảnh Bác trong lăng:
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên,
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền".
→ Cuộc đời của Bác như mặt trời, giấc ngủ của Bác như vầng trăng. Bác trở nên bất tử, hòa nhập với trời xanh. Tác giả sử dụng những hình ảnh kỹ vĩ: Vầng trăng, trời xanh nối tiếp nhau làm nỗi bật sự cao cả, vĩ đại của Người.
Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và của mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng bác.
Đề: Phân tích "Bài thơ Viếng Lăng Bác" của Viễn Phương.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
a. Khổ 1
b. Khổ 2
c. Khổ 3
d. Khổ 4
3. Kết bài
Viếng lăng Bác, bài thơ ngắn mà ý thơ, hình tượng thơ, cảm xúc thơ sâu lắng, hàm súc và đẹp. Viễn Phương đã chọn thể thơ mỗi câu tám từ, mỗi khổ bốn câu, toàn bài bốn khổ - một sự cân đối hài hòa để biểu hiện một giọng điệu thơ nghiêm trang, kính cẩn. Bài thơ là tấm lòng yêu thương, kính trọng và biết ơn Bác. Tâm tình của nhà thơ, của mỗi người Việt Nam và của cả dân tộc. Để nắm được nội dung kiến thức bài học được vững chắc, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Viếng lăng Bác.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
“Viếng lăng Bác” - bài thơ ngắn mà ý thơ, hình tượng thơ, cảm xúc thơ sâu lắng, hàm súc và đẹp. Viễn Phương đã chọn thể thơ mỗi câu tám từ, mỗi khổ bốn câu, toàn bài bốn khổ - một sự cân đối hài hòa để biểu hiện một giọng điệu thơ nghiêm trang, kính cẩn. Bài thơ là tấm lòng yêu thương, kính trọng và biết ơn Bác. Để nắm được nội dung bài học cũng như dễ dàng viết bài văn về tác phẩm đạt kết quả cao, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Viếng lăng Bác là bài ca ân tình cảm động của Viễn Phương
- Hình tượng Bác Hồ trong bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương
- Cảm nhận của em về hình ảnh hàng tre trong khổ thơ đầu bài thơ Viếng lăng Bác
- Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương
- Phân tích khổ thơ thứ ba trong bài Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương
- Phân tích hai khổ thơ đầu bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương
- Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Khổ 2: Bộc lộ tấm lòng thành kính, biết ơn sâu sắc của tác giả đối với Bác khi cùng dòng người vào lăng viếng Bác
2 câu đầu: Cảm xúc về Bác
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ"
2 câu thơ xây dựng hình ảnh sóng đôi: Mặt trời vừa mang nghĩa thực vừa mang nghĩa chuyển
Mặt trời trong câu 1: Mặt trời của thiên nhiên mang nghĩa thực được nhân hóa "đi, thấy" diễn tả sự gặp gỡ giữa cái kì vĩ của thiên nhiên vũ trụ với hình ảnh một co người vĩ đại để khẳng định hình ảnh của Bác trở nên đẹp đẽ trường tồn
Mặt trời trong câu 2: là hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo đọc đáo-> h/ả của Bác Hồ. Bác như mặt trời xua tan màn đêm tăm tối, đem ánh sáng tự do cho cả dân tộc Việt Nam
BP ẩn dụ một mặt muốn ca ngợi sự vĩ đại, công lao to lớn của Người đối với dân tộc Việt Nam. Mặt khác còn bộc lộ niềm tự hào của dân tộc Việt Nam khi có Bác Hồ
Hình ảnh mặt trời sóng đôi nhau-> sự tôn kính, khẳng định công lao to lớn của Bác Hồ với nhân dân cả nước
2 câu sau: Cảm xúc về dòng người vào lăng viếng Bác
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng 79 mùa xuân"
Từ láy ngày ngày đc sd như 1 điệp ngữ gợi quy luật của thời gian tuần hoàn vô tận, khẳng định tình cảm của mọi nguời đối với Bác cũng là vô tận.
Hình ảnh "dòng...nhớ" gợi sự xúc động, òng thành kính và trang nghiêm
Hình ảnh tràng hoa à h/ả ẩn dụ vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu tượng, tô đậm niềm tôn kính, biết ơn của toàn thể dân tộc VN đối vs Bác. Đây là h/ả ẩn dụ đẹp, sáng tạo. H/ả dòng người lúc này giống những bông hoa đẹp nhất của các dân tộc khác nhau trên mọi miền đất nước về đây viếng Bác. Mỗi người là một bông hoa bông hoa được kết tinh từ chính vẻ đẹp tâm hồn của mỗi người dâng lên Bác kính yêu.
H/ả hoán dụ 79 mùa xuân chỉ 79 tuổi của Bác, gợi cuộc đời của Bác đẹp tươi, tràn đầy sức sống như mùa xuân.
Dấu chấm lửng kết thúc khổ thơ mang sức nặng cho cả 2 đoạn, vừa tạo ra cảm giacsnhej nhàng bâng khuâng tha thiết, vừa nói lên t/c biết ơn vô bờ bến của dt VN đối vs Bác
Cả khổ thơ diễn tả sự thiêng liêng, thành kính, sự biết ơn chân thành sâu sắc của nhà thơ, nhân dân đối vs Bác.
Khổ 3: Cảm xúc tiếc thương, đau đớn của nhà thơ khi vào trong lăng
Khug cảnh, k.khí trong lăng:
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền"
2 câu thơ diễn ta chính xác, tinh tế sự tĩnh lặng, trang nghiêm và ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của khoog gian trong lăng Bác
H/ả ẩn dụ: "vầng trăng sáng dịu hiền" gợi ánh sáng dịu nhẹ trong trẻo của không gian trong lăng, tâm hồn trong sáng cao đẹp vfa những vần thơ đầy ánh trăng của Người
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
a. Mở bài:
b. Thân bài:
Khổ 1: Cảm xúc của tác giả khi đến thăm lăng Bác
Khổ 2: Sự tôn kính của tác giả, của nhân dân đối với Bác khi đứng trước lăng Người.
Khổ 3 - 4: Niềm xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác
c. Kết bài:
Viễn Phương là một trong những nhà thơ nổi bật trong nền văn học nước nhà. Thơ ông nhẹ nhàng, bình dị nhưng gieo vào lòng người đọc những nỗi niềm bâng khuâng, xúc động. Bài thơ "Viếng lăng Bác" là một bài thơ như thế, tác phẩm không chỉ là tiếng lòng của tác giả mà còn là nỗi lòng của muôn triệu nhân dân, con người Việt Nam gửi đến Bác tấm lòng kính yêu thiết tha , chân thành và tin yêu nhất.
" Còn ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng"
Nỗi niềm được gặp Bác luôn đau đáu trong lòng mỗi người Việt Nam. Bác đã hi sinh trọn đời mình cho nhân dân, cho dân tộc, ngày được gặp lại người thì cũng là lúc Bác đã đi xa. Thật đớn đau biết bao, nhưng bằng tấm lòng thành kính, con ra viếng lăng Bác trong một sớm mai sau ngày giải phóng. Đất nước lúc này đã yên bình, khung cảnh bên lăng thật đỗi đẹp đẽ, thanh bình. Hàng tre xanh ngát đứng hiên ngang như đang chở che, canh giữ giấc ngủ ngàn thu của Bác. Chúng con về đây cũng như những hàng tre ấy, muốn đến bên người, ôm người vào lòng cho thoả niềm chờ, nỗi nhớ mong. Hàng tre hiên ngang như những người con đất Việt vậy, sống bất khuất, kiên trung, qua bao cuộc đấu tranh gian khổ vẫn giữ vững tinh thần thép, mãi sáng ngời và đẹp đẽ.
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"
Với chúng con, Bác như ánh mặt trời rực rỡ, soi sáng con đường cách mạng. Ánh mặt trời mang sự sống cho dân tộc chúng ta. Bác mãi là nguồn sáng cao đẹp nhất với công lao vĩ đại và niềm thương vô bờ dành cho nhân dân, cho đất nước. Bởi vậy mà chúng còn luôn dành cho Bác niềm kính yêu khôn tả. Ngày ngày, từng dòng người đến bên Bác, thành kính dâng lên Người những tràng hoa tươi thắm nhất. Kết thành vòng hoa tuyệt diệu tưởng nhớ cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân của Bác. Bác nằm trong lăng với giấc ngủ ngàn năm không nghỉ. Ánh trăng dịu hiền thành người bạn tri âm cùng Người, bên Người qua bao tháng năm. Ánh trăng ấy như tâm hồn Bác vậy, dịu dàng, ân cần, đôn hậu của một vị cha già dành cho nhân dân. Dẫu biết rằng trời xanh là mãi mãi cũng như biết rằng hình bóng Bác mãi bất tử với non sông, mãi mãi in sâu trong lòng mỗi người con của dân tộc, nhưng không thể nguôi đi nỗi đau, nỗi đắng cay, xót xa khi Bác đã đi xa.
" Dẫu biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim"
Bác mãi là niềm thương, niềm tin yêu của nhân dân, gần gũi và thiết tha nhất. Khi phải trở về miền Nam thân yêu, lòng tác giả khôn thấu nỗi nghẹn ngào tiếc nuối. Viễn Phương cất lên tiêng thơ thấy cho lời tri ân của tất cả mọi người:
" Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này"
Dòng nước mắt tuôn rơi, nỗi xúc động, sóng lòng dâng trào khi phải tạm biệt Người. Niềm ước nguyện muốn hoá làm con chim hót vang, làm đoá hoa thơm ngát, làm cây tre trung hiếu để được gần Người, được bên Người nghệ sao nhói lòng đến vậy. Phải chăng đó là mong ước được làm Bác vui, được bên Người mãi mãi như con dân Việt Nam luôn trung hiếu , mãi vững bền với ý chí, vâng theo lời dạy của Người. Người con trở về miền Nam nhưng lòng ở lại, lòng vẫn nhớ về Bác khôn nguôi. Vị cha già kính yêu của đất nước trong sâu thẳm mãi là niềm tự hào nhất đối với mỗi người còn Việt Nam.
Bài thơ thật thắm thiết ân tình, là khúc ngân ngọt ngào và dung dị thể hiện tình thương, niềm kính yêu bao la dành cho Bác. Dòng người về bên Bác mãi sẽ chẳng bao giờ kết thúc, lớp lớp những thế hệ mai sau vẫn mãi sẽ về bên người, gửi đến người ân tình trọn vẹn nhất. Cảm ơn Bác suốt một đời đã dành trọn niềm thương cho chúng con.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
em có suy nghĩ gì về ước nguyện của nhà thơ qua khổ cuối
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Mặt trời lên cao dần và hình ảnh mặt trời lại gợi trong tác giả những liên tưởng mới:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Mặt trời thiên nhiên theo quy luật của nó, vận hành trong vũ trụ, ngày ngày đi qua trên lăng và thấy một mặt trời khác trong lăng rất đỏ. Mặt trời trong lăng là ẩn dụ chỉ Bác Hồ. Mặt trời thiên nhiên thì đem lại ánh sáng, ban ngày, sự sống: Còn mặt trời Bác cũng là ánh sáng soi đường, đem lại cuộc sống hạnh phúc ấm no. Chi tiết đặc tả “rất đỏ” gợi trái tim đầy nhiệt huyết vì Tố quốc, vì nhân dân, trái tim yêu thương vô hạn của Bác. Mặt trời Bác mãi tỏa sáng, tỏa ấm, tỏa thắm cho đời. Màu đỏ ấy làm ấm lại cả khung cảnh thương đau. Nhiều người đã ví Bác như mặt trời (Người rực rỡ một mặt trời cách mạng Tố Hữu), đặt mặt trời Bác sóng đôi và trường tồn cùng mặt trời thiên nhiên là sáng tạo riêng của Viễn Phương. Cách nói đó vừa ngợi ca sự vĩ đại, bất tử của Bác vừa thể hiện sự tôn kính, ngưỡng mộ, biết ơn đối với Bác.
Hình ảnh dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác cũng gợi bao xúc động trong lòng nhà thơ:
Ngày ngày dòng người đỉ trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Điệp ngữ “ngày ngày” vừa gợi ấn tượng về cõi trường sinh vĩnh viễn, vừa gợi tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác. Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” vừa thực vừa ảo. Nỗi nhớ thương vốn chỉ có trong lòng người nhưng ở đây nó bao trùm lên cả thời gian, không gian. Và mỗi người với lòng nhớ thương là một đóa hoa kết nên “tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” cuộc đời Bác một cuộc đời đã dâng cho đời bao hoa trái. Dòng người được tác giả ví như “tràng hoa” là một ẩn dụ độc đáo mà thích hợp. Dòng người vào viếng Bác đi thành vòng tròn dễ gợi liên tưởng đến tràng hoa. Nếu “vòng hoa” thì là viếng người đã khuất. Ở đây là “tràng hoa” để dâng “bảy mươi chín mùa xuân”. Bác không thể mất trong ý nghĩ, tình cảm của nhà thơ cũng như mỗi chúng ta. Lòng nhớ thương và những gì đẹp nhất ở mỗi người dâng lên Bác quả đúng là hoa của đời. Tràng hoa người ở đây hơn hẳn mọi tràng hoa của tự nhiên, nó được kết nên từ lòng ngưỡng mộ, thành kính, nhớ thương Bác. Nhịp thơ đoạn này chậm rãi, trải dài 8, 9 tiếng một dòng thơ, lặp lại từ ngữ, cấu trúc câu vừa diễn tả không khí thiêng liêng, thành kính trong lăng, vừa gợi bước đi chầm chậm của dòng người vào viếng Bác và lòng thành kính, thiết tha của nhân dân với Bác.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Con người ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã đem lại mùa xuân trường cửu cho đất nước, cho dân tộc. Quả thật, Viễn Phương đã rất khéo trong việc chọn lựa giọng điệu, ngôn ngữ và hình ảnh để diễn tả sâu sắc niềm kính yêu, ngưỡng mộ đối với Bác. Trong khuôn khổ của bốn câu thơ trên, Viễn Phương đã hai lần sử dụng điệp từ "ngày ngày": "Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng", "Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ". Hai câu thơ chí hai hiện tượng khác nhau: một về thiên nhiên, một về đời sống, nhưng ý nghĩa lại tương đồng, ý tứ bó kết lại với nhau. Đó là tình cảm của nhân dân ta đối với Bác Hồ cũng tự nhiên, gần gũi như đất trời, vĩnh hằng như quy luật của vũ trụ. Khổ thơ thật hàm súc và giàu sức khái quát.
Vào lăng viếng Bác, trong lòng nhà thơ nhói lên nỗi đau và niềm tiếc thương vô hạn vì mất mát, dù bản thân nhà thơ cũng như bao thế hệ vẫn cảm nhận là Bác không hề mất mà chỉ "nằm trong giấc ngủ bình yên" sau một chặng đường 79 năm chưa hề nghỉ ngơi. Con người tha thiết yêu trăng như vậy, thế mà chưa bao giờ được bình yên ngắm trăng, bởi lúc thì phải ngắm trăng qua song cửa chật hẹp của nhà tù, lúc thì “việc quân đang bận”... Nhà thơ Viễn Phương đã thật tinh tế và sâu sắc khi liên tưởng ánh trăng với vầng trăng tri kỉ của Bác. Nhịp điệu câu trở nên dồn dập với điệp ngữ "muốn làm" nhắc lại đến ba lần đã nhấn mạnh ước nguyện sâu sắc, chân thành của tác giả. Và hàng loạt hình ảnh ẩn dụ cụ thể hóa ước nguyện đó: "con chim" dâng tiếng hót, "bông hoa" dâng hương thơm, "cây tre trung hiếu" canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác. Tất cả đều ở bên lăng, quanh lăng. Tất cả đều nói lên tấm lòng kính yêu vô hạn của tác giả và cũng là của nhân dân đối với Bác.
Sau ngày Bác Hồ "đi xa", bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một trong những bài thơ viết về Bác đặc sắc nhất. Bài thơ diễn tả niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với lãnh tụ bằng một ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc sâu lắng. Nó đã được phổ nhạc, lưu truyền sâu rộng trong nhân dân. Câu thơ mở đầu cho thấy xuất xứ của bài thơ:
Mặc dù “Bác đã lên đường theo tổ tiên” nhưng trong lòng của tất cả những người dân Việt Nam, Bác vẫn còn sống mãi. Và toàn thể nhân dân Việt Nam quyết định lưu giữ lại thi hài của Người để mỗi ngày lớp lớp cháu con được vào lăng để ngắm nhìn, thăm viếng Người. Sau ngày hòa bình, non sông Việt Nam thu về một mối, trong số những người con vào lăng viếng Bác, có nhà thơ Viễn Phương. Quá xúc động, kính yêu, biết 'ơn, tự hào, đau xót trong những phút giây được ở bên Người, nhà thơ Viễn Phương đã viết bài thơ Viếng lăng Bác. Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Từ chiến trường miền Nam, nhà thơ Viễn Phương mang theo bao tình cảm thắm thiết của đồng bào và chiến ra viếng lăng Bác Hồ kính yêu. Đây là cuộc hành hương của người chiến sĩ. Từ xa, nhà thơ đã nhìn thấy hàng tre ẩn hiện trong sương khói trên quảng trường Ba Đình lịch sử. Màn sương trong câu thơ gợi lên một không khí thiêng liêng, huyền thoại. Cây tre, hàng tre "đứng thẳng hàng" trong làn sương mỏng, ẩn hiện thấp thoáng, mang màu sắc xanh xanh. "Hàng tre xanh xanh" vô cùng thân thuộc được nhân hóa, trải qua "bão táp mưa sa "vẫn "đứng thẳng hàng" như dáng đứng của con người Việt Nam kiên cường, bất khuất trong bốn nghìn năm lịch sử
Được viết năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương đã thể hiện niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ với Bác trong một lần vào lăng viếng Bác.
"Viếng lăng Bác" được viết trên một cảm hứng thơ cụ thể và xúc động. Bố cục bài thơ chặt chẽ, giọng điệu thơ khi nhanh khi chậm. Bài thơ mở đầu bằng câu thơ:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”
Câu thơ gợi một không khí ấm áp gần gũi. Và tác giả đã tăng sự gần gũi đó không phải chỉ bởi những câu thơ bình dị mà còn là việc sử dụng hình ảnh cây tre. Gắn bó với làng quê Việt Nam, tre đã trở thành một hình ảnh quen thuộc của làng người Việt. Tác giả đặt lăng Bác trong màu xanh của xứ sở nơi mà ở đó có những con người anh dũng, kiên cường "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Hình ảnh ẩn dụ trong khổ thơ thứ hai cũng rất độc đáo. Viễn Phương đã dùng hình ảnh mặt trời trên lăng để nói đến Mặt Trời trong lăng là Bác. Cái trường tồn, vĩnh cửu của Mặt Trời đã được nhà thơ sử dụng để nói sự bất diệt, vĩ đại của Bác.
Và đồng thời nó cũng thể hiện sự tôn kính của tác giả đối với Bác. Từ "rất đỏ” nói lên hình ảnh rực rỡ trái tim cách mạng của Bác.
Cùng với hình ảnh Mặt Trời - trong lăng là hình ảnh tràng hoa - dòng người đã diễn tả sâu sắc niềm tiếc thương vô hạn của nhân dân ta đối với sự ra đi của Bác:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”.
Lý trí bảo rằng Bác sẽ luôn sống với non sông như bầu trời xanh kia mãi mãi, nhưng Viễn Phương không thể không đau nhói trước sự ra đi ấy:
"Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Một chữ "nhói" mà nói lên được tấm lòng của đứa con ở miền Nam ra thăm lăng Bác - cũng là tấm lòng của miền Nam, của cả nước đối với Bác kính yêu.
Cảm xúc của tác giả lại dâng trào đến đỉnh điểm khi phải rời xa lăng Bác:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Giọng thơ trầm lắng thể hiện sự lưu luyến của Viễn Phương: chân thành và xúc động. Bỗng giọng thơ trở nên dồn dập bởi điệp từ “muốn làm”. Đó là tất cả ước nguyện của tác giả:
"Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này."
Những ước nguyện đó thật giản dị, mong muốn được mãi mãi gần gũi Bác, được mãi mãi đi theo lý tưởng của Người là tâm niệm không chỉ của riêng nhà thơ. Hình ảnh cây tre trung hiếu đã khép lại bài thơ, một kết nối vòng tròn rất hay. Tre là hình ảnh mở đầu và cũng là hình ảnh cuối cùng. Nó như khắc sâu phẩm chất người Việt Nam trung hiếu anh hùng.
Quả thật, Viễn Phương đã rất khéo trong việc chọn lựa giọng điệu, ngôn ngữ và hình ảnh để diễn tả sâu sắc niềm kính yêu, ngưỡng mộ đối với Bác. Trong khuôn khổ của bốn câu thơ trên, Viễn Phương đã hai lần sử dụng điệp từ "ngày ngày": "Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng", "Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ". Hai câu thơ chí hai hiện tượng khác nhau: một về thiên nhiên, một về đời sống, nhưng ý nghĩa lại tương đồng, ý tứ bó kết lại với nhau. Đó là tình cảm của nhân dân ta đối với Bác Hồ cũng tự nhiên, gần gũi như đất trời, vĩnh hằng như quy luật của vũ trụ. Khổ thơ thật hàm súc và giàu sức khái quát. Vào lăng viếng Bác, trong lòng nhà thơ nhói lên nỗi đau và niềm tiếc thương vô hạn vì mất mát, dù bản thân nhà thơ cũng như bao thế hệ vẫn cảm nhận là Bác không hề mất mà chỉ "nằm trong giấc ngủ bình yên" sau một chặng đường 79 năm chưa hề nghỉ ngơi. Con người tha thiết yêu trăng như vậy, thế mà chưa bao giờ được bình yên ngắm trăng, bởi lúc thì phải ngắm trăng qua song cửa chật hẹp của nhà tù, lúc thì “việc quân đang bận”
Lời thơ tự do khi nhanh, khi chậm cùng nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp đã tạo nên cho mạch cảm xúc chân thành sâu sắc của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là một sự đóng góp quý báu trong những bài thơ ngợi ca về Bác - vị Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam.
Mặc dù “Bác đã lên đường theo tổ tiên” nhưng trong lòng của tất cả những người dân Việt Nam, Bác vẫn còn sống mãi. Và toàn thể nhân dân Việt Nam quyết định lưu giữ lại thi hài của Người để mỗi ngày lớp lớp cháu con được vào lăng để ngắm nhìn, thăm viếng Người. Sau ngày hòa bình, non sông Việt Nam thu về một mối, trong số những người con vào lăng viếng Bác, có nhà thơ Viễn Phương. Quá xúc động, kính yêu, biết 'ơn, tự hào, đau xót trong những phút giây được ở bên Người, nhà thơ Viễn Phương đã viết bài thơ Viếng lăng Bác.
Câu trả lời của bạn
Năm 1969 Hồ chủ tịch, vị lãnh tụ kính yêu của cả dân tộc ta đã ra đi mãi mãi, nhân dân ta đau xót khóc thương người, nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”
Nỗi đau ấy sau 7 năm sau vẫn còn nguyên còn nguyên vẹn trong những vần thơ của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là tiếng khóc than đau xót, tiếc nuối của người con miền Nam sau một lần ra thăm lăng Bác năm 1976 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ giành được thắng lợi, lăng Bác vừa hoàn thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc và vào viếng lăng Bác, nhà thơ xúc động bồi hồi, từ những tình cảm đó đã sáng tác nên bài thơ này, tất cả cảm xúc có được chất chứa và tuôn trào.
Bài thơ được phát triển theo trình tự thời gian từ khi tác giả đến cho tới khi tác giả phải xa Bác. Mở đầu bài thơ là cảm xúc của tác giả vừa ngỡ ngàng vừa xúc động trước cảnh vật bên ngoài lăng:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.”
Câu thơ mở đầu như một lời thông báo. Ở câu thơ này tác giả đã tự xưng hô mình là “con” và “Bác”, đây là cách xưng hô thân thiết, gần gũi. Trên thực tế thì kiểu xưng hô của Viễn Phương không hề mới, trước ông thì đã có nhiều nhà thơ viết về Bác cũng có cách xưng hô như vậy, nhưng có lẽ chính khác biệt ở đây là con ở miền Nam, hai chữ “miền Nam” nó gợi ra khoảng cách rất xa xôi giữa miền Nam và miền Bắc, đồng thời cũng gợi lên mối quan hệ thân thiết, gắn bó giữa Bác Hồ và nhân dân miền Nam. Bởi thế mà nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
Với quan hệ thân thiết như thế, với cảm xúc mãnh liệt vì xa cách như vậy thì nhà thơ đã tới viếng lăng Bác. Nhà thơ đã sử dụng phép nói giảm, nói tránh đến viếng lăng nhưng ông lại dùng là “thăm”để cố kìm nén nỗi đau trong lòng.
Câu thơ giản dị đã bộc lộ được cảm xúc mãnh liệt của người con miền Nam xa sau bao nhiêu năm mong mỏi mà bây giờ mới được ra thăm lăng Bác. Với nỗi xúc động ấy thì hình ảnh đầu tiên mà tác giả nhìn thấy đó là hàng tre:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.”
Hình ảnh “hàng tre” vô cùng thân thuộc, bình dị ở mọi làng quê Việt Nam làm cho lăng Bác tự nhiên mà thật gần gũi, người ta không thấy ở đây những lăng tẩm xa hoa, tráng lệ như của vua chúa xưa mà lại giống như một ngôi nhà mà biết bao nhiêu ngôi nhà khác trên mọi miền quê của đất nước Việt Nam. Đó là hình tượng, biểu tượng của dân tộc, của sức sống bền bỉ và kiên cường, hàng tre hiên ngang trong bão táp mưa sa, tượng trưng cho sức sống và sức mạnh chiến đấu kiên cường, không khuất phục khó khăn của dân tộc ta. “Hàng tre” được miêu tả bằng các từ láy “bát ngát, xanh xanh”, hàng tre được trồng lớn lên một cách đầy đặn và tươi tốt, xanh tươi và thẳng tắp bên lăng Bác làm cho chúng ta tưởng tượng rằng như cả dân tộc Việt Nam đang sát cánh bên người cả những lúc người còn sống và ngay cả lúc người đã ra đi.
Nhìn thấy hàng tre thân thiết, tác giả đã không thể giấu được nỗi xúc động của mình, nó thể hiện rõ qua thán từ “ôi” bộc lộ được tình cảm và cảm xúc của tác giả trước cảnh vật nơi đây, nó là niềm thổn thức của nhà thơ bỗng được trào dâng một cách mãnh liệt.
Câu trả lời của bạn
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *