Qua bài học giúp các em ghi nhớ cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh. Các em cần viết được một bài văn thuyết minh cụ thể và có sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản thuyết minh thêm hấp dẫn và sinh động.
Đề: Thuyết minh giới thiệu một tác giả văn học
Gợi ý làm bài
Mở bài:
Thân bài:
Kết bài
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
hãy viết một đoạn văn ngắn thuyết minh về một con vật nuôi có sử dụng biện pháp nghệ thuật, gạch chân các biện pháp nghệ thuật
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Thuyết minh về cây viết
Mở bài: giới thiệu chung về cây viết
Thân bài:
- nguồn góc xuất xứ
- cấu tạo của cây viết
- cách sử dụng
- giá trị của cây viết
- cách bảo quản
Kết bài: nêu cảm nghĩ, tầm quan trọng của cây viết
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Văn biểu cảm là : miêu tả , diễn tả rồi phát biểu cảm nghĩ suy nghĩ về sự vật sự việc hoặc trong một hoàn cảnh nào đó
Văn tự sự là : tái hiện lại sự việc mà miêu tả nhân vật trong các mối quan hệ nhằm gửi gắm tương tư tình cảm
Câu trả lời của bạn
Sự tích hoa cúc trắng
Ngày xưa, có một gia đình nghèo gồm hai mẹ con sống nương tựa vào nhau, cuộc
sống của họ bình yên trong một ngôi nhà nhỏ. Người mẹ hàng ngày tần tảo làm lụng
nuôi con. Người con thì cũng hiếu thảo, biết vâng lời mẹ và chăm chỉ học hành.
Một ngày kia, người mẹ bỗng lâm bệnh nặng, mặc dù người con rất thương mẹ, chạy
chữa biết bao thầy lang giỏi trong vùng cũng không chữa khỏi cho mẹ. Em buồn lắm,
ngày ngày đều cầu phúc cho mẹ. Thương mẹ, người con quyết tâm đi tìm thầy nơi khác
về chữa bệnh. Người con đi mãi, qua bao nhiêu làng mạc, núi sông, ăn đói mặc rách vẫn
không nản lòng.
Đến một hôm, khi đi ngang qua một ngôi chùa, em xin nhà sư trụ trì được vào thắp
hương cầu phúc cho mẹ. Lời cầu xin của em khiến trời nghe cũng phải nhỏ lệ, đất nghe cũng
cúi mình. Lời cầu xin đó đến tai đức Phật từ bi, Người cảm thương tấm lòng hiếu thảo đó của
em nên đã tự mình hóa thân thành một nhà sư. Nhà sư đi ngang qua chùa và
tặng em một bông hoa trắng rồi nói:
– Bông hoa này là biểu tượng của sự sống, là bông hoa chứa đựng niềm hi vọng, là
ước mơ của loài người, là thần dược để chữa bệnh cho mẹ con, con hãy mang nó về chăm sóc.
Nhưng phải nhớ rằng, cứ mỗi năm sẽ có một cánh hoa rụng đi và bông hoa có bao nhiêu cánh
thì mẹ con chỉ sống được bấy nhiêu năm.
Nói rồi nhà sư biến mất.
Em nhận bông hoa, cảm tạ Đức Phật, lòng em rất đỗi vui mừng. Nhưng khi đếm
những cánh hoa, lòng em bống buồn trở lại khi biết rằng bông hoa chỉ có năm cánh, nghĩa là
mẹ em chỉ sống được thêm với em có năm năm nữa.
Thương mẹ quá, em nghĩ ra một cách, em liền liều xé nhỏ những cánh hoa ra thành
nhiều cánh nhỏ, nhiều đến khi không còn đếm được bông hoa có bao nhiêu cánh nữa.
Nhờ đó mà mẹ em đã khỏi bệnh và sống rất lâu bên người con hiếu thảo của mình.
Bông hoa trắng với vô số cánh nhỏ đó đã trở thành biểu tượng của sự sống, là ước
mơ trường tồn, là sự hiếu thảo của người con đối với mẹ, là khát vọng chữa lành mọi bệnh tật
cho mẹ của người con. Ngày nay, bông hoa đó được người đời gọi là hoa cúc trắng.
Câu hỏi: Nêu các phương thức biểu đạt trong văn bản trên
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, là người gắn bó am hiểu văn hóa dân tộc, văn chương Trung Quốc, cuộc đời từng trải. Nguyễn Du có một vốn sống phong phú, niềm thương cảm sâu sắc với nhân dân lao động. "Truyện Kiều" là một tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du và của văn học trung đại Việt Nam.
Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820 tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc có truyền thống khoa bảng và văn chương. Cuộc đời của ông gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIX. Nguyễn Du từng sống phiêu bạt mười năm trên đất Bắc sau đó về ở ẩn tại quê nội Hà Tĩnh rồi ra làm quan bất đắc dĩ với triều Nguyễn. Chính những biến động lịch sử đó đã tác động đến tâm hồn và tư tưởng của Nguyễn Du.
Nguyễn Du đã để lại sự nghiệp văn học đồ sộ với những tác phẩm có giá trị lớn, tiêu biểu là "Truyện Kiều". "Truyện Kiều" là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyện thơ nôm theo thể thơ lục bát gồm 3254 câu. "Truyện Kiều" dựa vào cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc), bằng tài năng của mình, Nguyễn Du đã sáng tạo nên "Truyện Kiều" của người Việt. "Truyện Kiều" lấy bối cảnh năm Gia Tĩnh triều Minh (Trung Quốc) để phản ánh xã hội phong kiến Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIX. Truyện kể về mười lăm năm lưu lạc đầy đau khổ, tủi nhục của người con gái tài hoa tuyệt sắc Thúy Kiều do bị các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến bất công đầy đọa. Nguyễn Du đã lược bỏ các chi tiết về mưu mẹo, về sự báo oán tàn nhẫn và một số chi tiết dung tục trong tác phẩm của Thanh Tâm tài nhân, thay đổi thứ tự kể và sáng tạo thêm một số chi tiết mới để tạo ra một thế giới nhân vật sống động như thật, biến các sự kiện chính của tác phẩm thành đối tượng để bộc lộ cảm xúc, tình cảm của nhân vật và người kể, chuyển trọng tâm của truyện từ việc kể sự kiện sang biểu hiện nội tâm nhân vật làm cho các nhân vật sống hơn, sâu sắc hơn và tác phẩm trở thành một bách khoa toàn thư của muôn vàn tâm trạng.
Giá trị của truyện Kiều được thể hiện trên hai phương diện chủ yếu là giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. Giá trị nội dung được thể hiện qua giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Giá trị hiện thực của tác phẩm là bức tranh hiện thực về xã hội phong kiến bất công của những thế lực đen tối, sức mạnh ma quái của đồng tiền đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người đặc biệt là người phụ nữ. "Truyện Kiều" tố cáo các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến, từ bọn sai nha, quan xử kiện cho đến "họ Hoạn danh gia", "quan Tổng đốc trọng thần" rồi là bọn ma cô, chủ chứa,... đều ích kỷ, tham lam, tàn nhẫn, coi nhẹ sinh mạng và phẩm giá con người. "Truyện Kiều" còn cho thấy sức mạnh ma quái của đồng tiền đã làm cho tha hóa con người. Đồng tiền làm đảo điên "Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì", đồng tiền giẫm lên lương tâm con người và xóa mờ công lý "Có ba trăm lạng việc này mới xuôi".
Giá trị nhân đạo của "Truyện Kiều" thể hiện ở chỗ tác phẩm là tiếng nói thương cảm cho số phận bi kịch của người phụ nữ đồng thời trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp, tài năng, ước mơ, khát vọng chân chính của con người. "Truyện Kiều" là tiếng nói thương cảm, là tiếng khóc đau đớn trước số phận bi kịch của con người. Thúy Kiều là nhân vật mà Nguyễn Duy yêu quý nhất. Khóc Thúy Kiều, Nguyễn Du khóc cho những nỗi đau đớn của con người: tình yêu tan vỡ, cốt nhục lìa tan, nhân phẩm bị chà đạp, thân xác bị đọa đày. Tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng là tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy đã phá vỡ những quy tắc thánh hiền về sự cách biệt nam nữ. Qua hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du gửi gắm ước mơ anh hùng "đội trời đạp đất", làm chủ cuộc đời, trả ân báo oán, thực hiện công lí, khinh bỉ những "phường giá áo túi cơm".
"Truyện Kiều" còn là một tác phẩm mang giá trị nghệ thuật đặc sắc. "Truyện Kiều" là "tập đại thành" của nền văn học trung đại, kết tinh những thành tựu nghệ thuật, văn hóa dân tộc cả về ngôn ngữ và thể loại. Ngôn ngữ dân tộc đạt tới đỉnh cao rực rỡ. Ngôn ngữ "Truyện Kiều" rất trong sáng. Trong tác phẩm có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân, cả hai đều được sử dụng có chọn lọc, hợp lý, đúng chỗ đúng lúc. Ngôn ngữ dành cho nhân vật được cá thể hóa cao độ, lời nhân vật nào phù hợp với nhân vật ấy làm rõ tính cách nhân vật. Ngôn ngữ dân tộc được nâng lên thành ngôn ngữ nghệ thuật, đủ sức diễn tả những biến thái tinh vi của cảnh sắc thiên nhiên và những biểu hiện tinh tế trong tâm hồn con người. Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc được sử dụng hết sức điêu luyện và vận dụng ý nghĩa một cách tối đa, đủ sức diễn tả nhiều sắc thái cuộc sống và những biểu hiện tinh tế trong đời sống tâm hồn con người. Nguyễn Du đã thành công trong việc xây dựng được một tiểu tiểu thuyết bằng thơ lục bát. Cả một thiên tiểu thuyết không một câu nào gượng ép. Nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc. Nghệ thuật miêu tả nhân vật đến mức độ điêu luyện. Với nhân vật chính diện, tác giả dùng bút pháp ước lệ tượng trưng là chủ yếu, lấy vẻ đẹp thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp con người. Còn với nhân vật phản diện, tác giả chủ yếu tả thực, đi sâu và khắc họa vẻ xảo trá, ranh mãnh của chúng. Có thể nói với mỗi nhân vật dù là phản diện hay chính diện, Nguyễn Du thường tìm được nét thần thái của nhân vật để miêu tả dù chỉ đôi dòng hay vài chữ mà lột tả được cả bản chất của nhân vật. Nghệ thuật kể chuyện trong "Truyện Kiều" cũng là một thành công đáng kể. Tác phẩm là mẫu mực của nghệ thuật kể chuyện và trữ tình bằng thơ lục bát với bút pháp trần thuật và miêu tả nhân vật độc đáo. Bút pháp miêu tả tinh tế nhất là bút pháp tả cảnh ngụ tình, mượn cảnh để đi sâu khai thác nội tâm nhân vật.
"Truyện Kiều" là một kiệt tác của dân tộc Việt Nam, là di sản văn học của nhân loại tiêu biểu cho cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa, vừa là niềm thương cảm sâu sắc, là tấm lòng nghĩ tới muôn đời vừa là thái độ nâng niu, trân trọng những giá trị nhân văn cao đẹp của con người.
"Truyện Kiều" đã được lưu truyền phổ biến rộng rãi ở trong và ngoài nước có một sức lôi cuốn với mọi tầng lớp người đọc. Tác phẩm đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của mỗi người dân Việt Nam. Chẳng thế mà khi nhận xét về Nguyễn Du và "Truyện Kiều", Mộng Liên Đường đã nói: "Ông là người có con mắt trông thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ tới nghìn đời. Ông viết "Truyện Kiều" như có máu rỏ đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua giấy,...". "Truyện Kiều" của Nguyễn Du sẽ sống mãi với dân tộc và trở thành linh hồn dân tộc Việt Nam.
Khi kể về những tác giả, tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học trung đại Việt Nam, chúng ta không thể nào không nói đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du cùng tác phẩm Truyện Kiều của ông. Với những kiến thức uyên thâm của mình cùng tài năng văn học xuất chúng, ông đã sáng tác ra tác phẩm có giá trị bằng chữ Nôm và chữ Hán. Trong đó nổi bật lên tác phẩm Truyện Kiều.
Nguyễn Du sinh năm 1765, mất năm 1820, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan, có truyền thống văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, cũng là người giỏi văn chương. Ông thi đỗ tiến sĩ và làm quan Tể tướng. Mẹ là bà Trần Thị Tân, người con gái Bắc Kinh cũng văn hay chữ tốt. Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng làm quan từ dưới thời Lê Trịnh. Tuy gia cảnh xuất thân danh giá nhưng cuộc đời của ông toàn những nỗi đau. Năm 13 tuổi, ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải sống với Nguyễn Khản. Nhưng khi ông 15 tuổi, Nguyễn Khản bị khép tội mưu phản, ông lại phải nương nhờ nhà họ hàng xa,, Có thể nói cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử giai đoạn của thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX. Đây là giai đoạn đầy biến động khi mà giai cấp cai trị thối nát, tham lam, không quan tâm nhân dân, họ chém giết lẫn nhau để tranh giành quyền lực. Có thể nói chế độ phong kiến Việt Nam lúc này đã khủng hoảng trầm trọng và những người dân khốn khổ lúc này đã nổi dậy đấu tranh và tiêu biểu nhất là khởi nghĩa Tây Sơn của Nguyễn Huệ. Trong cảnh ấy, Nguyễn Du đã sống phiêu bạt nhiều nơi, lúc ở Thăng Long, lúc ở quê nội Hà Tĩnh, có lúc lại ở quê với Thái Bình. Không may khi mà Nguyễn Anhs lên ngôi năm 1802, Nguyễn Du phải bất đắc dĩ làm quan. Trước khi ông phụng sự nhà Lê nên giờ đây, khi làm quan nhà Nguyễn ông lại rụt rè, ông được cử sang Trung Quốc hai lần nhưng lần hai vào băm 1820 chưa kịp đi thì ông bị bệnh và mất tại Huế. Cuộc đời ông ba chìm bảy nổi nhưng chính vì thế ông có được vốn kiến thức sâu rộng cùng nỗi lòng thương cảm xót xa với số phận bi đát của người dân.
Nguyễn Du là một thiên tài văn học với nhiều tác phẩm có giá trị gồm ba tập thơ bằng chứ Hán gồm Thanh Hiên Thi tập, Bắc Hành tạp lục, Nam Trung tạp ngôn và tác phẩm chữ Nôm xuất sắc nhất là Truyện Kiều.
Truyện Kiều tên trước kia là “Đoạn trường Tân Thanh” là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại truyện Nôm trong văn học trung đại Việt Nam. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du có dựa trên truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm tài nhân Trung Quốc nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du là rất lớn khi tác phẩm của ông được viết bằng thể thơ lục bát gồm 3254 câu thơ gồm ba giai đoạn: Gặp gỡ và đính ước, Gia biến và lưu lạc, Đoàn tụ, truyện được tóm tắt như thế này:
Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, sinh trưởng trong gia đình trung lưu lương thiện họ Vương, nhà có ba chị em: Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan. Trong một lần du xuân Kiều gặp gỡ Kim Trọng, họ đã yêu nhau, sau đó đi tới đính ước. Khi Kim Trọng về Liêu Dương để tang chú, gia đình Kiều gặp biến cố, Kiều phải bán thân chuộc cha. Nàng bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Lần đầu, Thúc Sinh chuộc Kiều và cưới nàng làm vợ lẽ, nhưng nàng bị Hoạn Thư đánh ghen. Nàng trốn khỏi nhà Thúc Sinh nhưng lại rơi vào tay Bạc Hà, Bạc Hạnh phải vào lầu xanh lần hai. Tại đây Kiều gặp Từ Hải – một anh hùng “đội trời đạp đất” chàng chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, giúp Kiều báo ân, báo oán. Kiều lại mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị chết đứng, Kiều bị ép lấy viên quan thổ quan. Nhục nhã, đau đớn nàng nhảy xuống sông Tiền. Nàng được sư Giác Duyên cứu và Thúy Kiều đi tu. Kim Trọng trở lại kết duyên với Thúy Vân nhưng vẫn không quên được Kiều, chàng đi tìm. Gặp được sư Giác Duyên nhờ đó mà gặp được Kiều. Hai người đoàn tụ nhưng duyên đôi lứa cũng đã hết.
Có thể nói đây là một tuyệt tác với nội dung sâu sắc cùng nghệ thuật thành công. Đây là một bức tranh của một xã hội tàn bạo bất công, chà đạp lên những con người nghèo khó, đặc biệt là người phụ nữ. Qua đó lên án các thế lực xấu xa. Đồng thời đề cao vẻ đẹp ngoại hình, tài năng cùng nhân phẩm và khát vọng chân chính của con người về tự do hạnh phúc, chân lí. Nguyễn Du là một nhà thiên tài văn học, doanh nhân, văn hóa, nhà nhân chủ nghĩa có ảnh hưởng tới sựu phát triển của nền văn học Việt nam. Nguyễn Du và Truyện Kiều sẽ sống mãi trong lòng người đọc, sống mãi với dân tộc.
Câu trả lời của bạn
Cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã qua đi như những dư âm của chúng vẫn còn vang mãi. Lập nên công lao to lớn ấy không thể kể đến công lao to lớn của những người lính đã góp phần không nhỏ trong cuộc kháng chiến. Nhà thơ chính Hữu cũng thế ông đã góp tiếng lòng mình và trong kho tàng văn học Việt Nam thời kì kháng chiến với nhiều tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu. Mà có lẽ ấn tượng hơn cả là bài thơ Đồng Chí bài thơ đã ca ngợi và đề cao tinh thần đồng chí đồng đội sâu sắc.
Chiến ngưu Sinh năm 1926 mất năm 2007 tên thật là Trần Đình Đắc quê ở huyện Cam Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Ông vừa là nhà thơ vừa là người chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chính Hữu chủ yếu viết về đề tài người lính và chiến tranh. Thơ của ông mộc mạc giản dị giàu chất hiện thực cảm xúc dồn nén hình ảnh và ngôn ngữ có chọn lọc hàm xúc. Năm 2000 ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật các tác phẩm tiêu biểu như "Đầu súng trăng treo", "Ngọn đèn đứng gác",..
Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào đầu năm 1948 khi tác giả cùng đồng đội của mình tham gia vào Chiến dịch Việt Bắc Thu Đông đã đánh bại cuộc chiến công với quy mô lớn của Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ được in trong tập thơ Đầu Súng Trăng Treo 1966.
Về bố cục bài thơ có thể chia làm 2 phần. Phần thứ nhất gồm 7 câu thơ đầu nói lên cơ sở hình thành tình đồng chí và phần thứ hai gồm 13 dòng thơ còn lại là biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí. Các câu thơ đã phản ánh chân thực và sâu sắc nội dung của bài thơ.
Bài thơ đã thể hiện tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ là những người nông dân từ miền quê nghèo có ra đi cùng chung nhiệm vụ mục đích và lý tưởng chiến đấu cùng chia sẻ những khó khăn gian khổ với nhau. Bên cạnh đó vượt lên trên những gian khổ khó khăn thiếu thốn là tình đồng chí đã vượt lên để chiến thắng kẻ thù.
Thêm vào đó bài thơ cũng thành công bởi sự phối hợp nghệ thuật một cách đặc sắc. Đó là thể thơ tự do hình ảnh thơ chân thực giản dị ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc sử dụng các thành ngữ câu thơ sóng đôi đối xứng và một loạt các biện pháp liệt liệt kê ẩn dụ.
Có thể nói đồng chí là thành công sớm nhất của thơ ca cách mạng và kháng chiến. Nó đã góp phần mở ra phương hướng khai thác rất thương và vẻ đẹp của người lính trong cái bình dị đời thường chân thật.
Gắn với tên tuổi của nhà thơ chính Hữu Chính là bài thơ Đồng Chí. Kháng chiến đã đi xa có những người phải vùi mình ở nơi đất khách quê người cũng có những người sống sót trở về Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì những người lính vẫn sẽ hướng về với nhau hướng về tình đồng đội cao đẹp năm nào. Bởi lẽ đó mà dù thời gian có trôi nhanh thế nào thì bài thơ Đồng chí vẫn sẽ để lại trong lòng bạn đọc dấu ấn khó phai.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Facebook trở nên phổ biến nhờ những lợi ích của nó. Trước hết, facebook có thể coi là một cây cầu. Facebook là cây cầu dẫn đưa con người đến với thế giới. Những thông tin của chính trị, văn hóa, xã hội đều được mọi người cập nhật trên facebook để chúng ta có thể nắm bắt. Bên cạnh đó, ta còn đọc được những bình luận, những ý kiến trái chiều của mọi người liên quan đến một sự kiện, để mở rộng thêm hiểu biết và tư duy về một vấn đề, sự việc. Facebook đưa chúng ta tới gần với mọi người hơn. Chúng ta biết được bạn bè mình đang làm gì, những người thân của mình đang nghĩ gì, họ có vấn đề gì không qua những dòng chia sẻ trạng thái của họ. Và nhờ đó chúng ta biết xung quanh mình, cuộc sống đang diễn ra như thế nào, ra sao dù ở nơi cách xa chúng ta nửa vòng trái đất. Facebook còn là cây cầu kết nối mọi người với nhau. Mọi người có thể kết bạn với nhau, nói chuyện và chia sẻ mọi chuyện với nhau dù chưa gặp mặt, chỉ cần có chung sở thích và tính cách. Facebook chính là một thể giới để mọi người được sống là chính mình. Đó là nơi những người tự ti về ngoại hình có thể tự tin kết bạn với mọi người mà không phải e ngại. Đó là nơi những người rụt rè, ít giao tiếp nhưng nhạy cảm có thể giãi bày những tâm tư ra ngoài; là nơi mọi người có quyền tự do ngôn luận về vấn đề, cùng nhau lan tỏa những việc tốt đẹp và lên án những chuyện xấu. Những đứa bé, gia đình khó khăn đã được trợ giúp nhờ đưa lên facebook, những chuyện cướp bóc, hôi của được đưa lên facebook mà giáo dục, tránh xa. Và như thế, facebook làm cho cuộc sống này tốt hơn.Nhưng nếu không sử dụng đúng cách, nó lại là một con dao hai lưỡi. Mọi người đang dùng quá nhiều thời gian vào một thế giới ảo để bỏ quên đi thế giới thực này. Thế giới sau màn hình quá hấp dẫn khiến họ không thể ngẩng mặt lên nhìn trời lấy một lần. Lúc nào cũng cúi mặt và lướt. Những sự việc diễn ra trên facebook thì thuộc làu còn hôm nay bố mẹ mình ốm, xã hội có việc gì, họ không quan tâm. Chưa kể, những thông tin trên face không phải lúc nào cũng chính xác và đáng tin. Rất nhiều thông tin đưa lên chỉ để câu like, để tăng lượt thích. Dành quá nhiều thời gian cho facebook khiến cho việc học hành của học sinh bị ảnh hưởng. Họ sống trong facebook. Họ luôn muốn biết mọi người đang làm gì vì không muốn bị bỏ lỡ. Họ thấp thỏm làm sao để có nhiều lượt like, theo dõi, để đợi tin nhắn từ người mình thích. Họ dành hàng giờ để nói chuyện trên facebook nhưng một ngày lại không nói quá mấy câu. Vì quyền tự do ngôn luận nên những “anh hùng bàn phím” bắt đầu bàn sâu vào đời tư, bới móc những chuyện của người khác và làm chủ đề bàn tán của mọi người. Chưa kể có những thanh niên kết thúc cuộc đời của mình chỉ để được nổi tiếng trên facebook. Những vụ tự thiêu, nhảy cầu vì “muốn giữ lời hứa”: “nếu được … like, tôi sẽ tự thiêu/ nhảy cầu…”. Những nông nổi nhất thời mà bỏ lại sau lưng niềm thương tiếc của người thân và bạn bè. Khi sử dụng không đúng cách, thế giới ảo đang dần giết chết cuộc sống của bạn.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
kHÔNG CHÉP MẠNG
Dựa theo dàn ý của bài văn thuyết minh về cái quạt điện ở dưới.Em hãy viết một đoạn văn trong phần THÂN BÀI ( đoạn văn nói về nguồn gốc,cấu tạo,phân loại của quạt điện v.v...) trong đó có sử dụng một số NGHỆ THUẬT (như so sánh,dùng số liệu,phân tích v.v...)
I. Mở bài
Dẫn dắt và giới thiệu về đối tượng cần thuyết minh: quạt điện
II. Thân bài
Nguồn gốc quạt điện: Người sáng tạo ra chiếc quạt điện đầu tiên là Omar- Rajeen Jumala vào năm 1832
Đặc điểm và hình dáng quạt điện
Chất liệu: Bền như nhựa, kim loại,…
Cấu tạo 4 phần:
+ Động cơ điện
+ Cánh quạt
+ Vỏ quạt
- Phân loại các loại quạt điện:
+ Quạt trần
+ Quạt treo
+ Quạt cây
- Các động cơ sử dụng trong quạt điện
+ Điện một pha
+ Điện ba pha
Bảng điều khiển
Cơ chế hoạt động
Bật công tắc tại bảng điều khiển, Cánh quạt chạy, thổi gió về phía trước quạt. Nhiều loại quạt, hãng quạt với những thiết kế và giá cả khác nhau: senko, electronic, thống nhất,…
Các lưu ý khi sử dụng và cách bảo quản
+ Không được tháo dời lồng quạt tránh bị cánh quạt cứa vào cơ thể
+ Không nên bật tắt liên tục gây cháy quạt
+ Không nên dẻ quạt hoạt động quá năng suất, quạt sẽ kém bền
+ Cánh bảo quản: Lau rửa quạt, tránh để quạt nơi có nhiều bụi, nước…
Vai trò và ý nghĩa của quạt điện:
+ Làm mát, phục vụ nhu cầu con người
+ Ngoài ra còn có các chức năng khác như phun sương, quạt sưởi ,,…
+ Quạt đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống con người nhất là mùa hè
III. Kết bài
Khẳng định lại vai trò và ý nghĩa của quạt điện trong cuộc sống.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
- Bài văn thuyết minh gồm 3 phần:
Mở bài:
Thân bài:
Kết bài:
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *