Qua bài học các em hiểu được sự đối lập giữa cái thiện và cái ác trong đoạn thơ, nhận biết được thái độ tình cảm và lòng tin của tác giả gửi gắm với những người lao động bình thường. Thấy được giá trị nghệ thuật ngôn ngữ trong đoạn trích.
Hoàn cảnh của Lục Vân Tiên: tiền hết, mù loà, bơ vơ nơi đất khách.
Trịnh Hâm đã "giúp đỡ" Lục Vân Tiên. "Đêm khuya lặng lẽ như tờ…Cho người thức dạy lấy lời phui pha".
→ Việc làm có sự sắp xếp, chuẩn bị, mưu tính trước sau.
⇒ Trịnh Hâm: độc ác, bất nhân (đang tay hãm hại con người đang cơn hoạn nạn…), bất nghĩa (Vân Tiên là bạn của hắn), mưu mô, xảo quyệt.
Được Giao Long "dìu đỡ".
Được ông Ngư và gia đình cứu sống.
"Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ mụ hơ mặt mày".
Từ ngữ mộc mạc, trau chuốt, kể lại sự việc.
⇒ Cả nhà dường như nhốn nháo, hối hả lo chạy chữa để cứu sống Vân Tiên, mỗi người một việc. Đó chính là tình cảm chân thành của gia đình ông Ngư đối với người bị nạn.
"Ngư rằng: Người ở cùng ta
Hôm nay hẩm hót với già cho vui".
"Ngư răng: Lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn"
→ Tấm lòng bao dung, nhân ái, hào hiệp của ông Ngư đối lập với tính ích kỉ, nhỏ nhen, độc ác của Trịnh Hâm.
→ Lời thơ thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm.
⇒ Cuộc sống phóng khoáng, hoà nhập bầu bạn với thiên nhiên. Đó là cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi, hoàn toàn xa lạ với những toan tính nhỏ nhen, ích kỉ, mưu danh, trục lợi, sẵn sàng trà đạp lên đạo đức, nhân nghĩa.
⇒ Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm khát vọng vào niềm tin về cái thiện vào con người lao động bình thường, bộc lộ quan điểm nhân dân tiến bộ. Ông hiểu cái xấu, cái ác thường lẩn khuất sau những mũ cao, áo dài của bọn ngời có địa vị cao sang, nhưng vẫn còn những cái đẹp, đáng kính trọng, đáng khao khát, tôn tại bền vững nơi những con người nghèo khổ mà nhân hậu, vị tha, trọng nghĩa khinh tài.
Đề: Phân tích nhân vật Ngư ông trong đoạn trích "Lục Vân Tiên gặp nạn" của Nguyễn Đình Chiểu.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
“Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Hối con vầy lửa một giờ,
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”
“Ngư rằng : Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhân nghĩa, há chờ trả ơn”.
→ Thái độ tác giả ở đây cũng rất rõ ràng: Ông hết lòng thương yêu những con người có nhân cách cao thượng như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Ông Ngư,... và ông cũng ghét cay ghét đắng những kẻ xấu, kẻ ác như bọn cướp, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm,...Nhà thơ đã hết lòng tin tưởng nơi nhân dân lao động, những người tuy nghèo khổ nhưng đầy lòng nhân hậu, vị tha, trọng nghĩa khinh tài.
3. Kết bài
Đoạn thơ Lục Vân Tiên gặp nạn một lần nữa cho thấy tư tưởng nhân nghĩa được tỏa sáng trong Truyện Lục Vân Tiên và thể hiện niềm tin của nhà thơ mù đất Đồng Nai đối với nhân dân giữa thời loạn lạc. Để dễ dàng nắm được những nội dung về bài thơ này, các em có thể tham khảo bài soạn văn tại đây: Bài soạn Lục Vân Tiên gặp nạn.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn sẽ giúp các em cảm nhận được lòng đố kị, ganh ghét, ác độc của Trịnh Hâm đối với Vân Tiên. Đồng thời, các em cũng sẽ thấy được tấm lòng nhân từ và cách sống của Ông Ngư trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn ngời sáng như thế nào? Để thấy được những điều đó, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích sự đối lập thiện - ác trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn
- Phân tích nhân vật Ngư Ông trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn
- Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn của Nguyễn Đình Chiểu
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ xuất sắc, nhà yêu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Ông dùng ngòi bút sắc bén của mình để chiến đấu chống cái xấu, cái ác trong xã hội, mong ước xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ. Lục Vân Tiên là nhân vật lý tưởng, được ông trau chuốc và gửi gắm vào nhân vật này biết bao tình cảm và khát vọng lớn lao. Phẩm chất anh hùng và hiệp nghĩa của Lục Vân Tiên thể hiện rõ nét qua lời giải bày với Kiều Nguyệt Nga khi nàng có nguyện vọng báo đáp ơn cứu giúp của chàng:
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Từ nghĩa khí của chàng Lục Vân Tiên, chúng ta suy nghĩ về lối sống của con người thời nay thật khó phân giải.
Khi ra tay đánh tan bọn cướp hung bạo Phong Lai, Lục vân Tiên chỉ nghĩ đến việc giải nguy cứu người và dạy cho bọn cướp một bài học đích đáng, bảo vệ dân lành chứ không hề nghĩ đến chuyện ơn nghĩa đáp đền. Lục Vân Tiên là đại diện cho công lí, đại diện của lý tưởng sáng ngời về lẽ công bằng ở đời. Đối với chàng “giữa đường gặp chuyện bất bình chẳng tha”. Chàng đại diện cho những bậc anh hùng trong xã hội phong kiến, đề cao dũng khí, cam trường ra tay hành hiệp trượng nghĩa cứu người yếu đuối trừng phạt kẻ hung bạo:
“Kiến ngãi bất vi vô dũng giả
Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”.
Với nhân vật Lục Vân Tiên nhà thơ đã xây dựng một mẫu người lý tưởng trong xã hội phong kiến đương thời trên nền tảng đạo đức Nho giáo. Cũng qua nhân vật này, ông muốn xây dựng một xã hội lý tưởng. Ở đó, cái tốt đẹp được coi trọng và ngưỡng mộ, người tài đức được trọng dụng, các oan khuất được giải minh.
Bằng việc khắc họa hành động anh hùng, hiệp nghĩa của Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình chiểu mạnh mẽ khẳng định rằng muốn xây dựng một xã hội lý tưởng phải tiêu diệt những hạng người xấu xa, độc ác. Tác phẩm thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời thông qua kết thúc có hậu của tác phẩm là thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà. Lục Vân Tiên là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa, xem thường danh lợi, vì nhân dân mà hành động.
Ngày nay, tinh thần hiệp nghĩa ấy vẫn còn tỏa sáng trong cuộc sống, trở thành tấm gương điển hình của hành động dũng cảm cứu người khi lâm nguy, hoạn nạn, được nhân ca ngợi và đề cao.
Báo chí đã đưa tin rất nhiều về hành động cứu giúp người hoạn nạn, bảo vệ tài sản của người gặp nạn của các “hiệp sĩ” ở Bình Dương. Họ xuất thân là những người chạy xe thồ, những người lao động bình thường. Họ không có chức năng thi hành pháp luật, cũng không có trách nhiệm phải bảo vệ người khác được nhà nước quy định.
Thế nhưng, bất bình trước hành động ngang ngược, phạm pháp của bọn cướp, các anh đã ra tay trấn áp chúng, bảo vệ tính mệnh và tài sản trước nhân dân. Không những thế, các anh còn tham gia đuổi bắt và truy tố chúng trước pháp luật để kẻ ác bị trừng trị, dân lành được bảo vệ, công lí được thực thi. Nhiều lần, bị bọn cướp hăm dọa, thậm chí là tấn công gây thương tích nhưng các anh vẫn giữ vững lí tưởng. Các anh chính là những Lục Vân Tiên can trường, dũng khí, quyết chiến đấu để bảo vệ lẽ công bằng trong thời đại mới.
Chúng ta cũng không quên hình ảnh của MC Phan Anh rong ruổi trên khắp nẻo đường, tìm đến và hỗ trợ, cứu giúp đồng bào các vùng thiên tai lũ lụt. Ở đâu có người khó khăn, anh đều tìm cách giúp đỡ họ vượt qua hoạn nạn. Không những thế, anh còn kêu gọi, vận động các mạnh thường quân, các nhà hảo tâm, các tổ chức từ thiện, các doanh nghiệp, cá nhân có chung nguyện vọng cùng chung tay giúp sức tạo nên một phong trào tương trợ nhân ái rộng lớn trên khắp cả nước.
Nhiều khi, các chương trình hành động của anh bị nhiều người soi mói, chỉ trích, vu khống, cố tình bôi nhọ danh dự và nhân phẩm của anh nhưng Phan Anh đã dũng cảm vượt qua. Anh đã đứng vững và tiếp tục hành động. Phan Anh xứng đáng được ca ngợi như một Lục Vân Tiên trong thời đại ngày.
Thế nhưng, trong cuộc sống vẫn còn lắm người thờ ơ trước nghịch cảnh khổ đau của người khác. Cuộc sống tiện nghi khiến họ ngày càng trở nên vô cảm, vô tình. Họ chỉ biết lợi ích của bản thân mà bỏ rơi người khác trong khó khăn hoạn nạn. Thậm chí là còn tiếp tay cho kẻ ác.
Trong thời gian qua, báo chí cũng đưa tin rất nhiều về những vụ “hôi của” của nhân dân khi các xe hàng gặp tai nạn trên địa bàn. Vụ tai nạn xảy ra khiến cho nhiều hàng hóa trên xe đổ ra đường. Người dân vô tình vô cảm, không những không chung tay cứu giúp mà còn thản nhiên lấy đi hàng hóa mặc cho tài xế van nài thảm thiết. Đến khi lực lượng chức năng đến hỗ trợ người bị nạn, họ vẫn cứ tiếp tục hành động mà không chút xấu hổ. Đó là một thực trạng đau lòng, đáng tủi nhục.
Cũng có nhiều vụ tai nạn giao thông xảy ra để lại cho ta nhiều suy nghĩ. Khi nạn nhân bất tỉnh, nhiều kẻ cơ hội cũng vây quanh nạn nhân, tranh thủ lấy đi những đồ vật đáng giá rồi bỏ mặt nạn nhân trong thương tích, không cần quan tâm họ sống chết thế nào. Đó là một hành vi tàn nhẫn, vô nhân đạo.
Cũng có nhiều bạn trẻ, chỉ vì một xích mích nhỏ mà kéo bè kéo đảng đi đánh một người, gây cho họ nhiều thương tích nghiêm trọng hoặc thậm chí là mất mạng. Đó là hành động hèn hạ của kẻ tiểu nhân, ỷ mạnh hiếp yếu thật không đáng mặt anh hùng.
Cũng có nhiều bạn trẻ không chăm lo học hành mà lêu lổng, sống cuộc sống buông thả, hèn kém, trụy lạc trong các tệ nạn xã hội, thiếu ý chí, thiếu lý tưởng trong sáng. Họ chỉ biết đến bản thân, thậm chí là sống bản năng, tàn ác, dẫm đạp lên các giá trị đạo đức chuẩn mực của xã hội để thỏa mãn đời sống thấp kém của mình. Đó là những ung nhọt trong xã hội cần phải sớm được gỡ bỏ để xây dựng một cuộc sống trong sạch, vững mạnh, tiến bộ.
Xã hội càng văn minh, con người cần phải biết tôn trọng và thực hiện những nguyên tắc chung, biết sống vì mọi người, đề cao lòng nhân ái và tinh thần hiệp nghĩa. Phải tuân thủ và bảo vệ pháp luật, hướng đến bảo vệ cộng đồng.
Tuổi trẻ cũng cần nỗ lực rèn luyện mình, ra sức học tập và nâng cao bản lĩnh sống. Biết đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, cái bất công, bảo vệ lẽ phải hướng đến lý tưởng cao cả.
Không còn nghi ngờ gì nữa, để bảo vệ chính mình, bảo vệ cuộc sống của chúng ta, để công lí được thực thi và kẻ ác không có cơ hội gây ra điều ác thì mỗi người phải tự hoàn thiện bản thân mình, tăng cường đoàn kết tạo nên nguồn sức mạnh to lớn kiên quyết quét sạch cái xấu xa ra khỏi cộng đồng. Mỗi các nhân hãy là một Lục Vân Tiên đem sức mình xây dựng quê hương đất nước.
Câu trả lời của bạn
Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu trong giai đoạn sáng tác trước khi thực dân Pháp xâm lược. Cuộc đời và tính cách Lục Vân Tiên có những nét trùng hợp với cuộc đời và tính cách của tác giả. Điểm nổi bật trong tính cách Lục Vân Tiên là tính nghĩa hiệp. Lục Vân Tiên là điển hình của con người nghĩa hiệp trong một xã hội đang suy thoái. Muốn hiểu con người nghĩa hiêp Lục Vân Tiên, ta cùng nhau phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga.
Đang trên đường lên kinh đô dự thi thấy dân tình than khóc thảm thiết, Lục Vân Tiên đã dừng lại hỏi han. Nghe dân tình kể: có một bọn cướp nhóm ở Sơn Đài không ai đương nổi hiện đang xuống cướp thôn hương "gặp con gái tốt qua đường bắt đi" Lục Vân Tiên bèn "ghé lại bên đàng"
"Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô."
Một người trong tay không có khí giới lại đơn độc vẫn bẻ cây làm gậy xông vào đánh bọn cướp. Chỉ riêng điều đó đã nghĩa hiệp lắm rồi. Vân Tiên không hề đắn đo, tính toán. Người khác chắc phải nghĩ ngợi suy tính truớc khi hành động. Nên nhớ là chàng đang đi thi. Công danh phú quý đang đợi chàng ở phía trước. Bọn cướp lại rất đông, ai ai cũng đều khiếp sợ chúng. Thế mà chàng quyết định một cách nhanh chóng. Điều đó chứng tỏ hành động vì việc nghĩa đã trở thành bản chất tốt đẹp của chàng.
Gặp bọn cướp, Lục Vân Tiên mắng ngay vào mặt chúng:
Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ,Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân".
Lời mắng của chàng càng chứng minh cụ thể hơn tính cách nghĩa hiệp ấy. "Hại dân" là việc làm bất nghĩa. Vì dân diệt trừ lũ "hại dân" là việc làm nhân nghĩa. Chính nhận thức được điều đó mà Lục Vân Tiên đã "tả đột hữu xông"
"Khác nào Triệu Từ mở vòng Đương Dang."
Hình ảnh so sánh này càng làm nổi bật tính cách nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên. Tài năng của chàng được ví với Triệu Tử Long - một danh tướng thời Tam quốc. Một mình chống lại bọn cướp cứu giúp dân lành, Lục Vân Tiên là hiện thân của con người luôn hành động vì nghĩa lớn.
Tính cách nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên còn được biểu hiện qua cử chỉ từ chối việc trả ơn của Kiều Nguyệt Nga - người mà chàng đã cứu thoát khỏi tay bọn cướp, Nguyệt Nga rất biết ơn chàng. Nàng muốn tạ ơn để đáp lại hành động nghĩa hiệp của chàng:
"Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.
Gặp đây đang lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi."
Lời lẽ của Kiều Nguyệt Nga rất phù hợp với đạo lý. Người chịu ơn bao giờ cũng mong muốn được trả ơn. Đó là tấm lòng thành của nàng. Nhưng "Vân Tiên nghe nói liền cười". Nụ cười của chàng thât vô tư, hồn nhiên. Và chúng ta hãy nghe chàng giải thích với nàng:
"Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng."
Nếu làm ơn mà trông người khác hoặc buộc người khác trả ơn, theo Lục Vân Tiên thì không phải là con người nghĩa hiệp. Chàng không chấp nhận những lẽ như vậy. Chàng hành động không phải để được đền đáp. Việc từ chối sự đền ơn của Kiều Nguyệt Nga càng tô đẹp thêm con người nghĩa hiệp Lục Vân Tiên. Chàng vốn trọng nghĩa khinh tài. Cử chỉ ấy của chàng càng làm cho chúng ta thêm khâm phục và yêu mến. Quan niệm của chàng cũng chính là quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu. Sách xưa nói: "kiến ngãi bất vi vô dũng giã" Lục Vân Tiên coi đó là phương châm sống của chàng. Vì thế thấy việc nghĩa chàng không hề đắn đo, cân nhắc, đã lao vào đánh tan bọn cướp cứu Kiều Nguyệt Nga, mang lại cuộc sống bình yên cho dân lành.
Có thể nói qua đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa khá đầy đủ chân dung người anh hùng lí tưởng. Lục Vân Tiên là con người nghĩa hiệp mà hành động một mình với chiếc gậy thô sơ, đã đánh tan bọn cướp Phong Lai là một minh chứng. Hình ảnh Lục Vân Tiên sống mãi trong lòng người dân Việt Nam qua các thế hệ như một tấm gương về tính cách nghĩa hiệp của chàng.
Câu trả lời của bạn
Đạo lý thương người như thể thương thân, thấm nhuần và toả rạng trong hành động của Vân Tiên. Tình thương người đã nâng cao chí khí và lòng dũng cảm cho chàng thư sinh họ Lục. Bọn cướp đông đặc, gươm giáo sáng ngời, bừng bừng sát khí. Còn Vân Tiên chỉ có một vũ khí thô sơ “cây gậy bên đàng ”. Thế mà trong cuộc chiến không cân sức ấy:
Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dương.
Không tả tỉ mỉ trận chiến, chỉ bằng mấy dòng thơ ngắn gọn mà đặc sắc cùng nghệ thuật so sánh, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh một dũng tướng đánh nhanh, kín võ, sánh ngang Triệụ Tử Long thời Tam Quốc trong trận phá vây quân Tào bảo vệ ấu chúa. Việc làm của Vân Tiên cao đẹp hơn bởi nó xuất phát từ lòng nhân từ, từ tư tưởng cứu dân diệt ác nên giản dị, vô tư mà trong sáng, cao đẹp vô cùng. Cuộc chiến của chàng giống hệt thuở xưa Thạch Sanh diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của chàng là kết tinh sức mạnh của nhân dân, của điều thiện nên nó vô địch:
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Lời thơ chân chất, thô mộc song hồn thơ thì chan chứa dạt dào. Nó nêu bật một chân lý: kẻ bất nhân độc ác thì thảm bại, người anh hùng làm việc nghĩa sẽ chiến thắng.
Tự nguyện dấn thân vào nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ…Tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi Vân Tiên không hề kiêu ngạo. Trái lại chàng thật khiêm nhường, chính trực, chân thành mà dung dị. Cuộc kỳ ngộ giữa người đẹp và trang anh hùng diễn ra thật cảm động. Nguyệt Nga tha thiết muốn mời chàng hiệp sĩ qua miền Hà Khê để nàng báo đức thù công, “Vân Tiên nghe nói liền cười” – nụ cười đáng yêu đáng kính của một tâm hồn vô tư hào hiệp. Chàng cười bởi chàng quan niệm:
Làm ơn há dễ trong người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Đúng là giọng nói, cách nói của chàng trai Nam Bộ – nôm na, giản dị mà chất phác vô cùng. Đằng sau những lời giản dị ấy là ngọt ngào, thơm thảo một quan niệm nhân sinh, một tấm lòng nhân ái, hào hiệp. Với chàng, ơn nghĩa là việc thông thường của người sống có văn hoá, đang theo đòi kinh sử, hướng về nghĩa khí, lấy chữ nhân làm động cơ, làm mục đích cho mọi hành động. Chàng hành động vì lòng nhân, vì nghĩa lớn, trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện. Chàng quan niệm:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Lời nói chắc nịch vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường vừa đẻ khẳng định việc làm đúng đắn, tất yếu thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sống của mình. Đó là lẽ sống của những hiền nhân quân tử thời xưa, của con người chân chính ngày nay.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu, nhân vật Lục Vân Tiên mang cốt cách của tráng sỹ thời loạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trọng nghĩa khinh tài, sống và hành động theo phương châm: “Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”. Dẫu còn bị ảnh hưởng bởi quan niệm phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân” song ngôn ngữ, cử chỉ, hành động của chàng rất đẹp, rất anh hùng. Lòng thương người, chí quả cảm và tinh thần vị nghĩa của chàng đậm màu sắc đạo lý của dân tộc ta.
Bằng giọng thơ phóng khoáng, chân mộc và ngôn từ bình dị, đoạn trích đã hoàn thiện một cách xuất sắc hình ảnh chàng Lục Vân Tiên anh hùng, nghĩa hiệp. Có thể nói, Lục Vân Tiên đúng là nhân vật lí tưởng mà Nguyễn Đình Chiểu muốn gửi gắm ước mơ, khát vọng cứu nước giúp đời của mình. Đọc thơ càng thêm trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của nhà nho yêu nước, yêu đạo lý mà người dân Nam Bộ vẫn trìu mến gọi là Đồ Chiểu.
Câu trả lời của bạn
Gửi gắm khát vọng vào niềm tin về cái thiện, vào con người động bình thường. Từng trải đời, Nguyễn Đình Chiểu hiểu rất rõ cái xấu, cái ác thường lẩn khuất sau những mũ cao, áo dài của bọn người có địa vị cao sang (như Thái sư đương trào, Võ Công, Trịnh Hâm, Kiệm...) nhưng vẫn còn những cái tốt đẹp, đáng kính trọng, đáng khát, tồn tại bền vững nơi những con người nghèo khổ mà nhân hậu, vị tha, trọng nghĩa khinh tài (những ông Ngư, ông Tiều, chú tiểu đồng, bà dệt vải trong rừng,...).
Câu trả lời của bạn
Cuộc sống lao động của ông Ngư: Đây là một cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi ô trọc; một cuộc sống tự do phóng khoáng giữa trời cao rộng, hòa nhập bầu bạn với thiên nhiên, thảnh thơi giữa sông nước, gió trăng, và do thế cũng đầy ắp niềm vui, bởi con người lao động tự do, tự làm chủ mình, có thể ứng phó với mọi tình thế. Cuộc sống hoàn toàn xa lạ với những toan tính nhỏ nhen, ích kỷ, mưu danh, tư lợi, sẵn sàng chà đạp lên cả đạo đức, nhân nghĩa...
Câu trả lời của bạn
- Cảnh ông Ngư vớt Vân Tiên lên và cả gia đình chạy chữa cho chàng một cách ân cần, chu đáo (ông, bà, con). Cả nhà dường như nhốn nháo, hối hả lo chạy chữa đế cứu sống Vân Tiên.
- Tấm lòng bao dung, nhân ái, hào hiệp của ông Ngư: Sau khi sống Vân Tiên, biết tình cảnh khốn khó của chàng, ông Ngư sẵn lò cưu mang chàng, dù chỉ là chia sẻ một cuộc sôang đói nghèo “hẩm hút tương rau, nhưng chắc chắn sẽ đầm ấm tình người “Hôm mai hẩm hút với già cho vui”. Ông cũng chẳng hề tính toán đến cái ơn cứu mạng Vân Tiên.
Câu trả lời của bạn
- Hành động độc ác, bất nhân, bất nghĩa:
+ Độc ác, bất nhân vì hắn dang tâm hãm hại một con người tội nghiệp, đang cơn hoạn nạn, không nơi nương tựa, không có gì để chông đỡ.
+ Bất nghĩa vì Vân Tiên vốn là bạn của hắn, từng “trà rượu” và làm thơ với nhau, lại đã có lời nhờ cậy: "tình trước ngãi sau - Có thương xin khá giúp nhau phen này”, và hắn cũng từng hứa hẹn: “Người lành nỡ bỏ người đau sao đành”.
- Hành động có toan tính, có âm mưu, kế hoạch sắp đặt khá kĩ lưỡng, chặt chẽ.
+ Thời gian gây tội ác: giữa đêm khuya, khi mọi người đã yên ngủ trên thuyền.
+ Không gian: giữa khoảng trời nước mênh mông (giữa vời “mịt mờ sương bay).
+ Người bị xô ngã xuống “vời” thì bất ngờ không kêu lên một tiếng. Đến lúc biết không ai còn có thể cứu được Vân hắn mới “giả tiếng kêu trời”, la lối um sùm lên, rồi "lấy lời phôi pha” kể bịa đặt để che lấp tội ác của mình. Kẻ tội phạm, nhờ gian ngoa xảo quyệt đã phủi sạch tay, không mảy may cắn rứt lương tâm.
=> Chỉ có tám dòng thơ để kể về một tội ác tày trời và lột tả tâm một kẻ bất nghĩa, bất nhân. Nguyễn Đình Chiểu đã thành công ở sắp xếp các tình tiết hợp lý, diễn biến hoạt động nhanh gọn, lời thơ vẫn giữ được vẻ mộc mạc, giản dị vốn có của tác phấm.
Câu trả lời của bạn
Chủ đề ở đoạn thơ này là sự đối nghịch giữa thiện và ác, tác giả thể hiện niềm tin vào những điều tốt đẹp ở đời.
- Cái ác: Do ganh ghét, đố kỵ tài năng của Lục Vân Tiên nên khi Vân Tiên đang bơ vơ nơi đất khách quê người lại tàn tật, Trịnh Hâm đã trở thành một kẻ độc ác, nhẫn tâm hãm hại Lục Vân Tiên ngay cả khi Vân Tiên đã không còn có thé đe dọa đến bước đường công danh của hắn.
- Cái thiện: Vân Tiên được ông Ngư cứu. Đó là việc làm nhân đức cùng cuộc sống trong sạch, nhân cách cao cả của ông Ngư.
Câu trả lời của bạn
Đoạn thơ nói lên sự đối lập giữa thiện và ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn, đồng thời thể hiện thái độ quý trọng và niềm tin của tác giả đối với nhân dân lao động.
Câu trả lời của bạn
“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ,
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang”.
Đoạn thơ có ý tứ phóng khoáng mà sâu xa, lời lẽ thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm. Một khoảng thiên nhiên cao rộng, khoáng đạt được mở ra với những doi, vịnh, chích, đầm, bầu trời, đất, gió, trăng,... Con người hòa nhập trong cái thế giới thiên nhiên ấy, không chút cách biệt hứng gió, chơi trăng, tắm mưa, chải gió... và niềm vui sống cũng dường như đầy ắp cái “cõi thế'’ của con người ấy (tác giả dùng rất nhiều từ chỉ trạng thái tâm hồn thanh thản, vui sống ấy: vui vầy, thong thả, nghêu ngao, vui thầm, thung dung, vui say...). Có cảm giác như chính Nguyễn Đình Chiểu đang nhập thân vào nhân vật để nói lên khát vọng sống và niềm tin yêu cuộc đời của mình.
Câu trả lời của bạn
+ Trong Truyện Lục Vân Tiên, những nhân vật có thể xếp vào cùng một loại với ông Ngư là: giao long, Du thần, ông Tiều, Hớn Minh.
+ Những nhân vật ấy đều là những người có nhân cách cao cả, có lòng tốt, sẵn sàng cứu giúp người khác trong cơn hoạn nạn.
+ Thông qua những nhân vật này, tác giả gửi gắm tư tưởng nhân đạo, niềm tin vào công lý và chính nghĩa, niềm tin vào tấm lòng nhân ái của con người trong cuộc sống.
Câu trả lời của bạn
Bố cục: 2 phần
- Phần 1: 8 câu đầu: Tội ác của Trịnh Hâm.
- Phần 2: Các câu còn lại: Việc làm nhân đức và nhân cách cao cả của ông ngư.
Phân tích nhân vật ông Ngư trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn.
Câu trả lời của bạn
"Chở bao đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà"
Với quan điểm sáng tác văn chương tiến bộ, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã đem đến cho nền văn học trung đại Việt Nam các tác phẩm có giá trị về những bài học đạo lí. Truyện thơ "Lục Vân Tiên" là một trong những sáng tác tiêu biểu thể hiện rõ điều này. Được xây dựng trên nền tảng luân lí cổ truyền bao gồm những phẩm chất như "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín", tác phẩm đã truyền tải nhiều bài học lớn về tư tưởng nhân nghĩa tỏa sáng. Bên cạnh nhân vật trung tâm là Lục Vân Tiên, Ngư ông cũng là một nhân vật để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Thông qua đoạn trích "Lục Vân Tiên gặp nạn", Ngư ông hiện lên với vẻ đẹp nhân nghĩa thông qua việc làm nhân nghĩa cùng nhân cách cao cả và cuộc sống vô cùng thanh cao.
Mặc dù rơi vào hoàn cảnh mù lòa và bơ vơ nơi đất khách quê người nhưng Lục Vân Tiên vẫn tiếp tục rơi vào kiếp nạn khi bị Trịnh Hâm hãm hại. Do lòng đố kị, ghen ghét và tâm địa độc ác, bất tín, bất nhân và bất nghĩa Trịnh Hâm đã mưu tính và lên kế hoạch xô ngã Vân Tiên "ngay xuống vời". Nhân vật Ngư ông đã xuất hiện và cứu Vân Tiên thoát khỏi kiếp nạn đầy nguy hiểm này:
"Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ
Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày"
Những hành động cứu người đầy khẩn trương và dứt khoát, không chút đắn đo, suy tính của Ngư ông và gia đình như "vớt ngay lên bờ", "Hối con vầy lửa", "Ông hơ bụng dạ" và "mụ hơ mặt mày" đã thể hiện tình cảm chân thành, không hề vụ lợi của những người cứu giúp đối với người gặp nạn. Không chỉ dừng lại ở đó, hành động cứu giúp Vân Tiên của gia đình Ngư ông còn cho thấy đó là sự tự nguyện và xuất phát từ tấm lòng yêu thương con người - một truyền thống mang tính nhân đạo vô cùng tốt đẹp của dân tộc ta. Hành động "Cứu một mạng người hơn xây bảy tòa tháp" đó đã được miêu tả chân thực và mộc mạc qua lớp ngôn từ giản dị, không trau chuốt và mang đậm phong vị Nam Bộ. Và rồi khi hiểu rõ hơn nữa hoàn cảnh của Lục Vân Tiên, dù chỉ là một gia đình quanh năm sống với nghề chài lưới nhưng Ngư ông vẫn mở lòng để cưu mang một con người trong cảnh hoạn nạn:
Ngư rằng: "Ngươi ở cùng ta
Hôm mai hẩm hút với già cho vui"
Hành động cứu người diễn ra đầy dứt khoát thì câu nói chan chứa sự cưu mang đối với một con người mù lòa như Lục Vân Tiên đã một lần nữa khẳng định nhân cách cao đẹp của người ngư phủ này. Đó còn là sự tự nguyện, sẵn sàng chăm sóc những mảnh đời đang hoạn nạn mà không hề mong nhận lại điều gì:
Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn
Nước trong rửa sạch ruột trơn
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây"
Câu nói về quan niệm nhân nghĩa của ngư ông khiến chúng ta liên tưởng đến nụ cười hồn nhiên và vô tư của Lục Vân Tiên khi Kiều Nguyệt Nga muốn lạy tạ đền ơn cứu mạng:
Vân Tiên nghe nói liền cười:
"Làm ơn há dễ trông người trả ơn"
Câu nói "Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn" của Ngư ông và "Làm ơn há dễ trông người trả ơn"của Lục Vân Tiên có sự tương đồng và gặp gỡ nhau ở tư tưởng "trọng nghĩa khinh tài": Giúp đỡ người khác không mưu cầu được đền đáp, như thế mới xứng đáng với bậc trượng phu.
Qua những hành động cứu người dứt khoát và đồng cảm, muốn cưu mang Lục Vân Tiên, chúng ta có thể phần nào hiểu được cuộc sống thanh cao của người ngư phủ lương thiện:
"Rày dai mai vịnh vui vầy
Ngày kia hứng gió, đêm này chơi trăng
Một mình thong thả làm ăn
Khỏe quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm"
Tuy chỉ là người ngư dân nhưng Ngư ông lại hiện lên trong tâm thế của một ẩn sĩ với lối sống vô cùng thanh cao, hòa hợp cùng thiên nhiên với những thú vui tao nhã "hứng gió" và "chơi trăng". Cuộc sống của người lao động lương thiện cứ thế trôi qua trong sự ung dung "Khỏe quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm". Trên chiếc thuyền nan nhỏ bé, cuộc sống cần cù, tự chủ, thanh bạch cứ thế diễn ra và gắn bó chặt chẽ với những tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp.
Như vậy, nhân vật Ngư ông đã được khắc họa và tái hiện thông qua hành động và ngôn ngữ - cách miêu tả nhân vật quen thuộc trong thi pháp văn học trung đại, tạo nên một hình tượng nhất quán và đẹp đẽ về tính cách: Hành động cứu người mạnh mẽ dứt khoát, không chút do dự và lời nói thẳng thắn, cương trực cùng cuộc sống thanh cao cùng thiên nhiên, sông nước, không toan tính thiệt - hơn, được - mất. Bức chân dung của Ngư ông còn được tái hiện nhờ ngôn ngữ thơ giản dị và mộc mạc, rất gần gũi với ngôn ngữ trong ca dao, dân ca và mạng đậm "chất Nam Bộ".
Thông qua vẻ đẹp về nhân cách cao cả và cuộc sống thanh cao của nhân vật Ngư ông, chúng ta càng hiểu rõ hơn về quan niệm sáng tác và tâm hồn của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Tuy sống trong hoàn cảnh mù lòa, nhưng ông vẫn giữ được và ngời sáng cốt cách cao đẹp. Qua hình tượng nhân vật Ngư ông, chúng ta cũng thấy được thái độ quý trọng và niềm tin của nhà thơ vào nhân cách của những người dân lao động thật thà, chất phác trong thời buổi loạn li và lưu lạc.
Phân tích đoạn thơ: Lục Vân Tiên gặp nạn.
Câu trả lời của bạn
Chiếc thuyền nan nhỏ bé, mỏng manh trôi nổi giữa dòng sông lớn rộng mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời ngư ông gắn với chiếc thuyền ấy. Chẳng những ông không sợ, trái lại lúc nào cũng ung dung, lấy nước mưa để tắm rửa thân mình, mượn gió mát để chải tóc, vuốt râu.
Phải chăng, để định hướng cho người đọc tập trung chú ý vào nhân vật chính của cuốn truyện thơ “Lục Vân Tiên" các tác giả sách giáo khoa đặt tên cho đoạn trích từ câu 938 (Đêm khuya...) đến câu 976 (... trong vời Hàn Giang) là "Lục Vân Tiên gặp nạn"? Nếu được phép góp ý, tôi chọn tên khác: "Gặp nạn, Lục Vân Tiên được thần và dân cứu giúp ", "Người hiền gặp người hiền", hoặc "Ngư ông cứu giúp Lục Vân Tiên". Gọi bằng những tên ấy vì tôi cảm nhận thật rõ ràng, ở đoạn truyện này hình tượng Lục Vân Tiên mờ đi chút ít. Trái lại, hai nhân vật phụ: Trịnh Hâm - tượng trưng cho kẻ ác và ngư ông - tiêu biểu cho người thiện - đậm nét hơn. Tại đây, cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác diễn ra không sôi động như đoạn Vân Tiên đánh cướp. Nó nhẹ nhàng mà thấm thía, đẹp như trong truyện cổ tích, trong những giấc mơ, vẻ đẹp nhẹ nhàng và thơ mộng đó tỏa ra từ nhân vật ngư ông. “Thuyền nan một chiếc ở đời"... cả gia đình, cuộc sống, việc làm, những nỗi niềm buồn vui, tâm sự của người bình dân ấy thu lại trên một chiếc thuyền nan nhỏ bé, đơn sơ mà sao nhân cách con người, quan niệm về cuộc sống của ông rộng lớn, thanh cao đến thế.
Trời vừa sáng, thấy người bị nạn, ông Chài nhanh nhẹn “vớt ngay lên bờ", rồi:
"Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”
Cả gia đình ông lão quây quanh nạn nhân. Mỗi người một việc, gấp gáp, khẩn trương, hết mình vì sự sống của nạn nhân. Khung cảnh ấy mới cảm động làm sao. Việc làm ấy mới đẹp đẽ làm sao. Chưa biết nạn nhân là ai, chưa rõ nguyên cớ thế nào, nhưng thấy việc là làm, thấy người là cứu. Đó là bản tính của những con người lương thiện, những người lao động bình thường. Vì vậy, khi Vân Tiên - người bị nạn – tỉnh dậy, xúc động kể mọi sự tình, tỏ lòng biết ơn, ngư ông đáp luôn:
"... lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa, há chờ trả ơn".
Lời ông lão dứt khoát, bộc trực, đúng cách nói của người lao động, đúng giọng điệu của vùng quê Nam Bộ, nghe thấm thía tận cõi lòng. "Lòng lão chẳng mơ" là ông không ham muốn, ước mơ, mộng mị chút nào về tiền bạc, của cải. Ông chỉ "dốc lòng nhân nghĩa", thương người, cố hết sức cứu giúp con người, luôn tìm việc nghĩa, hướng về điều thiện, thật hào hiệp, vô tư. Thấy Vân Tiên sống lại, nghe chàng kể những nỗi khổ đau, ông lão vừa vui mừng, vừa thương xót. Do đó lời ông mới chân thành cảm động đến thế. Cứu được Lục Vân Tiên, ngư ông đã giành lại sự sống cho một người lương thiện, đã làm một việc nhân nghĩa. Việc làm ấy hoàn toàn trái ngược với việc làm và dã tâm của Trịnh Hâm. Hành động của ông tuy lặng lẽ, âm thầm, trên một chiếc thuyền nan mỏng manh, nhưng có ý nghĩa lớn lao. Ông đã giúp cho điều thiện, người thiện chiến thắng cái ác, bọn người độc ác. Đáng kính, đáng trọng xiết bao!
Đáng kính đáng trọng hơn nữa là, cũng vẫn trên chiếc thuyền nan ấy, ngư ông đã sống một cuộc sống, và nghĩ suy, quan niệm về cách sống thật đẹp đẽ. Chúng ta hãy xuống thuyền cùng Lục Vân Tiên chuyện trò, tâm sự với người dân bình thường làm nghề vạn chài, sông nước ấy. Ngỡ như không phải ông nói, mà đang ngân nga cất tiếng hát. Trong âm thanh nhịp điệu của lời thơ, nghe như có tiếng phách tre, tiếng đàn kìm thong thả đệm theo. Hát rằng:
"Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày doi mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió, đêm này chơi trăng..."
Rũ bỏ mọi danh lợi, tìm về sông nước để "rửa ruột sạch trơn", nay vào vịnh, mai ra khơi, ngày hứng gió mát, đêm bè bạn với trăng thanh, ngư ông đã chọn được một phong cách sống thật phóng khoáng, tự do. Tấm lòng ông trong sạch. Gia đình, nhà cửa, cả hình hài, thể xác lẫn tâm hồn như hòa nhập với biển trời, sông nước. Cặp từ "hứng gió", "chơi trăng" dựng một hình ảnh con người đang mơ mộng, hệt như một thi sĩ vậy. Mơ mộng, nhưng không mơ hồ, tùy tiện. Trái lại ông rất chủ động, ung dung:
"Một mình thong thả làm ăn,
Khỏe quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm".
Câu thơ ngắt nhịp 2/2/2 (dòng lục) và 4/4 (dòng bát) như những nhát chèo khua nước, nhặt khoan, khi mạnh mẽ, khi nhẹ nhàng. Lúc khỏe thì quăng chài, kéo lưới, mệt mỏi thì túc tắc buông câu. Thật là một tấm gương lao động cần cù, chăm chỉ, luôn luôn làm chủ công việc, làm chủ cuộc sống. Sống trong sạch, phóng khoáng, làm chủ trong mọi công việc, tha hồ hưởng gió mát, trăng thanh, bồng bềnh trên sông nước. Cuộc sống ấy hạnh phúc biết bao, vui sướng biết bao. Trò chuyện với Vân Tiên, ba lần ông chài nói đến chữ "vui", "vui vầy", "vui thầm" rồi "vui say". Lúc nào cũng vui, mỗi lúc một vui. Đi đây đó, ra khơi vào vịnh, gặp bè bạn thì "vui vầy", giữa trời đất thanh vắng, chỉ có một mình vẫn "vui thầm", ý thức sâu sắc về lẽ sống đúng đắn của mình trong trời đất, giữa thế gian này, để "vui say", sống lạc quan hơn, yêu sự sống hơn, dám say, mơ mộng hơn. Càng về cuối, khúc hát cuộc đời của ngư ông càng bay bổng. Men rượu đã ngấm, hồn thơ đã cất cánh. Ngư ông hóa thành tiên ông, thành nghệ sĩ, nghệ sĩ dân gian của đất chín rồng, nhiều sông nước:
"Kinh luân đã sẵn trong tay
Thung dung dưới thể, vui say trong trời
Thuyền nan một chiếc ở đời
Tắm mưa, chải gió trong vời Hàn Giang".
Chiếc thuyền nan nhỏ bé, mỏng mành trôi nổi giữa dòng sông lớn rộng mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời ngư ông gắn với chiếc thuyền ấy. Chẳng những ông không sợ, trái lại lúc nào cũng ung dung, lấy nước mưa để tắm rửa thân mình, mượn gió mát để chài tóc, vuốt râu. Hình ảnh chiếc thuyền nan, cũng như hình tượng nhân vật ông Chài, đến đây, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn, cảm hứng của nhân vật cũng là sự hứng khởi của tâm hồn nhà thơ. Dường như nhà thơ đã nhập thân vào nhân vật, vừa kể chuyện, ngợi ca vừa dãi bày tất cả những suy nghĩ, quan điểm, cảm xúc của mình về cuộc sống, về cách sống. Đó là cuộc sống thanh cao, trong sạch, cần cù lao động, tự chủ, tự tin, vui say hòa hợp với đất trời. Càng về cuối, âm điệu thơ càng dào dạt, sóng sánh như trăng hòa nước, như nước được mái chèo khua động rung rinh.
Đọc truyện thơ "Lục Vân Tiên", ngoài những con người trẻ tuổi biết sống hiếu, trung, tiết, nghĩa, chúng ta bắt gặp rất nhiều nhân vật cao niên. Đó là những ông quán, ông tiều, ông ngư - những tấm gương nhân nghĩa, tượng trưng cho bản chất người lao động, chân dung cụ thể của đạo lí truyền thống dân tộc Việt Nam. Nhân vật - nhất là nhân vật tích cực - bao giờ cũng là những mảnh tâm hồn của tác giả. Tâm hồn Nguyễn Đình Chiểu chan chứa tình cảm nhân nghĩa. Ngư ông - nhân vật đẹp nhất trong đoạn trích "Lục Vân Tiên gặp nạn" phải chăng chính là một mảnh tâm hồn của nhà thơ?
"Thuyền nan một chiếc ở đời...".
Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu cũng mỏng manh, trôi nổi như chiếc thuyền của ngư ông. Song cuộc đời ấy không phút nào ngơi nghỉ truyền bá đạo lí làm người, đấu tranh chống xâm lược. "Chở bao nhiêu đạo, thuyền không khẳm. Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà". Trong bài "Than đạo", ông đã viết như vậy. Truyện Lục Vân Tiên phải chăng là chuyến mở đầu trên con thuyền chở đạo cần cù, kì diệu ấy. "Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Vẫn thơ Nguyễn Đình Chiểu là như vậy".
Qua sự việc Lục Vân Tiên gặp nạn, đoạn thơ đã làm nổi bật sự đối lập của những lực lượng nào và đại diện cho mỗi phía là những nhân vật nào? Thái độ của tác giả ra sao khi thể hiện sự đối lập ấy?
Câu trả lời của bạn
Đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” kể lại sự việc cụ thể nào?
Câu trả lời của bạn
Lục Vân Tiên bị Trịnh Hâm đẩy xuống sông và được ông chài vớt.
Bình giảng đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn trong Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
Câu trả lời của bạn
Với quan niệm “Văn dĩ tải đạo” đã trở thành chức năng phản ánh của văn học. Điều này đã hiện thực hóa trong quá trình sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Trong hệ thống thi phàm của mình mà cụ thể là Truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu xây dựng hai tuyến nhân vật: Thiện và ác, đạo đức và gian tà. Ông Quán, Ông Ngư, chú tiểu đồng, Hớn Minh… đều được Nguyễn Đình Chiểu trân trọng đề cao. Họ là những con người lương thiện, giàu lòng thương người, trọng nghĩa khinh tài. Mặt khác, ông cùng kịch liệt lên án vạch mặt bọn người có tâm địa đón tôi, xảo quyệt như cha con Võ Thế Loan, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm… Trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn nổi bật lên hai hình tượng đối lập giữa cái thiện và cái ác: ông Ngư – Trịnh Hâm.
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Đình Chiểu khắc họa chân dung Trịnh Hâm là điển hình của cái xấu, cái ác:
Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghênh ngang sao mọc núi mờ sương bay
Trịnh Hâm khi ấy ra tay
Vân Tiên bị ngã xô ngay xuống vời
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời
Cho người thức dậy lấy lời phui pha.
Ghen ghét, đố kị là thói xấu của con người. Nhưng sự ghen ghét, đố kị, độc ác như Trịnh Hâm thì cũng thật là hiếm. Hắn đan tâm hãm hại một con người đang lúc mù lòa, ốm đau, không nơi nương tựa, không có gì để chống đỡ. Hành động tàn ác của hắn cốt do trả thù cho nỗi hận rất nhỏ nhen, thỏa mãn lòng ghen ghét, đố kị cái tài của Lục Vân Tiên trong một cuộc hội ngộ uống rượu giữa bốn người gồm có: Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm.
Một con người cũng mang danh sĩ tử, theo nghiệp bút nghiên cũng đọc sách thánh hiền như Trịnh Hâm mà lại có mưu đồ đen tối ngay cả khi Vân Tiên đã không còn có thể đe dọa đến bước đường công danh của hắn thì ắt sẽ nguy hiểm hơn rất nhiều. Để thể hiện hành động đen tối của mình, hắn đã nghĩ “Hại Tiên phải dạng mưu này mới xong”. Trước đoạn truyện này, hắn đã lập mưu trói tiểu đồng vào gốc cây cho hổ ăn thịt. Rồi sau đó giả bộ thương xót đưa Vân Tiên xuống thuyền, khi ra đến giữa “vời”, trong đêm tối mịt mùng “nghênh ngang sao mọc, mịt mờ sương bay”, hắn mới “ra tay” hành động.
Hai chữ “ra tay” ở câu trên ứng với hai chữ “xô ngay” ở câu dưới đã thực sự tố cáo hành động gian ác, trắng trợn của hắn. Hành động kiên quyết đó lại được che đậy trong một cái ác xảo quyệt của loại người “ném đá giấu tay” bằng cách “giả tiếng kêu trời”. Cái hành động “giả tiếng kêu trời” đã khái quát được cái chân tướng của kẻ giả nhân giả nghĩa. Hắn là hiện thân của cái ác, cái lưu manh trong xã hội thời ấy. Một con người được coi là kẻ có học như hắn mà có cái ác trú ngụ thì thật là nguy hiểm và ghê tởm. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh cùng có nhận xét: “Mỗi oán thù nhân một câu chuyện gọi bằng văn chương trong tâm địa của một tiểu nhân đã dẫn đến những chuyện không ngờ”.
Đối lập với cái ác của Trịnh Hâm là nhân vật ông Ngư, một con người giàu lòng nhân đức và cao thượng. Sau khi được Giao Long dìu Vân Tiên vào bờ, ông Ngư ra tay cứu vớt kịp thời và hết lòng tận tình cứu chữa.
Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Câu thơ mộc mạc, chân thành, không chút đèo gọt, chỉ thuần túy là kể lại sự việc một cách tự nhiên, giản dị, trong việc cứu chữa bằng phương thức dân dã “vầy lửa”, “hơ bụng”, “hơ mặt mày” tất cả gợi lên sự chân thành, tự nguyện, thương yêu của cả gia đình đối với người bị nạn. Họ là hình ảnh đẹp đẽ của quần chúng nhân dân lao động, những người luôn đứng về phía chính nghĩa. Trong bức tranh thư đậm màu sắc dân gian này, ta thấy ở họ không chỉ có tấm lòng và niềm vui trong lúc cứu người bị nạn mà còn là hành động vô tư không còn tính toán, không cần trả ơn.
Hiểu được hoàn cảnh của chàng, ông Ngư có lời đề nghị Vân Tiên ở lại, sẵn sàng giúp đỡ chàng.
Ngư rằng: người ở cùng ta
Hôm mai, hâm hút một nhà cho vui.
Cuộc sống “hâm hút” của ông Ngư thì có gì là thoải mái về vật chất, ông phải vật lộn với biển cả để giành lấy cuộc sống, giành lấy phần đời trước những bão giông của cuộc đời khốn khó. Ông giúp người không đòi sự trả ơn, bởi ông lấy việc nhân nghĩa làm lẽ sống:
Dốc lòng nhân nghĩa chẳng nhờ trả ơn.
Tư tưởng nhân nghĩa không chỉ có một lần Nguyễn Đình Chiểu, đề cập ở đoạn truyện này mà nó bao trùm lên toàn bộ tác phẩm ở một đoạn chuyện khác, Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi anh hùng hảo hán Lục Vân Tiên đã ra tay cứu giúp Kiều Nguyệt Nga ra khỏi cơn hoạn nạn mà không hề chút tính toán.
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Hoặc ông Tiều sau khi cứu Vân Tiên ra khỏi hang cũng đáp lời tạ ơn chàng: “Làm ơn mà lại trông người hay sao”.
Đối với ông Ngư, quan niệm về nhân nghĩa căn bản giống với quan niệm của Lục Vân Tiên, nhưng có điều hơi khác là ở chỗ là, khi quan niệm ấy gắn với người dân lao động như ông Ngư thì ý nghĩa của quan niệm này lại càng mang tính nhân dân sâu sắc.
Thấy việc nghĩa là làm, là nét đẹp nhân cách của ông Ngư. Nhân cách ấy còn được biểu hiện trong cuộc đời lao động của ông mà Nguyễn Đình Chiểu đã cảm nhận bằng cả trái tim và khối óc của mình. Đó là cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi.
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi cho sờn lòng đây.
Ông Ngư là người không một chút bận tâm đến cái vòng danh lợi giữa cuộc đời đầy ô trọc, ông dành phần đời của mình để vui với cái nghề chài lưới, tự do giữa thiên nhiên cao rộng, hòa nhập với thiên nhiên, bầu bạn với thiên nhiên, cho nên đối với ông không gì hơn là:
Rày doi mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng
Một mình thong thả làm ăn,
Khỏe quơ chài kéo; mệt quăng câu dầm,
Nghêu ngao nay chích mai đầm,
Một bầu trời đất vui thầm ai hay
Kinh luân đã sẵn trong tay,
Thung dung dưới thế vui say trong trời
Thuyền nan một chiếc ở đời,
Tắm mưa trải gió trong vời Hàn Giang
Phải nói rằng, thi nhân có những trăn trở, gắn bó với cuộc đời nay lắm mới có cái cảm hứng ngợi ca dạt dào những hình ảnh con người có cái “thung dung dưới thế” lại có cái “vui say trong đời” như ông Ngư, với ông Ngư có cuộc sống thoải mái “ngày hứng gió, đêm chơi trăng” nghêu ngao nay chích mai dầm”… và cuối cùng là một hình ảnh rất đẹp: “Thuyền nan một chiếc ở đời – Tắm mưa trải gió trong vời Hàn Giang”. Những hình ảnh được nói đến trong thơ đều nhằm tôn lên vẻ đẹp nhân cách và quan niệm sống của ông Ngư.
Đây là đoạn thơ hay của tác phẩm, bởi Nguyễn Đình Chiểu muốn gửi gắm một quan niệm sống, một niềm mơ ước thiết tha của mình qua nhân vật ông Ngư và qua đó, Nguyễn Đình Chiểu cùng muốn nói lên một sự thực của xã hội thời ông đang sống – bên cạnh những cái xấu cái ác thường lẩn khuất sau những mũ cao, áo dài của bọn người có địa vị cao sang như thái sư đương triều, Võ Công, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Cũng còn rất nhiều mái tóc, đáng kính trọng, đáng khao khát, tồn tại bền vững nơi những con người nghèo khổ mà nhân hậu, vị tha, trọng nghĩa khinh tài như ông Ngư, ông Tiều, tiểu đồng, bà lão dệt vải trong rừng,., Nhà thơ Xuân Diệu đã nói rất đúng: “Cái ưu ái đối với người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm của tâm hồn Hô Chiêu" (dẫn theo SGV, tập 1 – Nhà xuất bản Giáo dục).
Đoạn truyện đã xây dựng thành công hai tính cách nhân vật đối lập, một kẻ lòng lang dạ thú dưới cái bộ mặt kẻ sĩ và một người có tâm hồn cao thượng trong cuộc đời bình dị. Nhân vật được miêu tả qua hành động, ngôn ngữ bình dị dân dã. Đặc biệt sự thành công của Nguyễn Đình Chiểu là ông đã để lại một ấn tượng đẹp về nhân vật ông Ngư. Một hình tượng nghệ thuật mang quan điểm trần thuật của tác giả.
Phân tích hai câu thơ: Hối con vầy lửa.... mụ hơ mặt mày để làm rõ tấm lòng nhân từ của ông Ngư và gia đình.
Câu trả lời của bạn
→Việc cứu người của gia đình Ngư ông như một lẽ tự nhiên, không chút đắn đo tính toán, điều đó cho thấy lòng nhân từ thương người như thể thương thân đã là bản chất tự nhiên trong những con người ấy
Phân tích ý nghĩa của chi tiết giao long cứu Vân Tiên đưa vào bãi sông.
Câu trả lời của bạn
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *