Qua bài học giúp các em biết Cách viết bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cho đúng với yêu cầu của kiểu bài và rèn luyện kĩ năng thực hành các bước khi làm bài nghị luận, cách tổ chức, triển khai các luận điểm. Rèn kĩ năng tư duy tổng hợp và phân tích khi viết văn nghị luận.
a. Đọc các đề bài và trả lời câu hỏi.
Đề 1: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương ở Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
Đề 2: Phân tích diễn biến cốt truyện trong truyệnngắn Làng của Kim Lân.
Đề 3: Suy nghĩ về thân phận Thuý Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều của Nguyễn Du.
Đề 4: Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng.
Các đề bài trên đã nêu ra những vấn đề nghị luận gì?
Các từ suy nghĩ, phân tích trong đề bài yêu cầu ở người đọc những thao tác làm bài khác nhau như thế nào?
Cho đề bài: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn "Làng" của Kim Lân.
Để biết Cách viết bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cho đúng với yêu cầu của kiểu bài, các em có thể tham khảo
bài soạn Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Viết về tâm trạng, nỗi lòng của người chính phụ, trong "Chính phụ ngâm khúc" Đặng Trần Côn có những câu thơ rất hay
“ Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau
Cảm nhận cái hay của đoạn thơ trên.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
- Nam Cao là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Truyện của Nam Cao nóng hổi chất hiện thực của thời đại và chan chứa tấm lòng yêu thương con người, đặc biệt là những người khốn khổ. Cùng với Chí Phèo, trăng sáng, đời thừa,... Lão Hạc là truyện ngắn đặc sắc. Nhân vật trung tâm của thiên truyện là lão Hạc, một người nông dân gặp nhiều nỗi khổ tâm và bất hạnh vì nghèo đói nhưng chất phác, đôn hậu, thương con.
Đọc vài dòng đầu của truyện, chúng ta chợt chạnh lòng trước tình cảnh đau thương của lão Hạc. Nhà nghèo, không có tiền cưới vợ cho đứa con trai duy nhất, lão Hạc rất buồn bã, khổ tâm, xót xa. Cậu con trai bi quan thất vọng trước cái xã hội mà người ta sống với nhau chỉ vì tiền, xem tình cảm chỉ là một món hàng nên xin vào miền nam làm phu đồn điền cao su. Nguyện vọng của cậu ta là vào đấy, cố gắng làm ra nhiều tiền để lấy được người cậu yêu. Thật ra, cậu ta suy nghĩ hãy còn nông cạn mà quên những câu ca dao này:
“Cao su đi dễ khó về,
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo”.
Hay:
“Cao su xanh tốt lạ đời,
Mỗi cây bón một xác người công nhân”.
Lão Hạc là người gặp bất hạnh chồng chất bất hạnh. Trước đây, lão Hạc bất hạnh vì vợ chết. Nay, lão rơi vào nỗi bất hạnh vì con ra đi biền biệt. Đối với lão “ngày cũng như đêm chỉ thui thủi một mình”. Bây giờ lão đành làm bạn với con chó Vàng. Lão và chó Vàng vui buồn có nhau. Dù đứa con ở phương xa nhưng lúc nào lão cũng nghĩ về con và lo cho con: “Ta bán vườn của nó, cũng nên để ra cho nó, đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn”.
Nhưng trên cõi đời này, không ai có thể dự đoán được tương lai của mình. Lão Hạc không phải là trường hợp ngoại lệ. Ôm đau do tuổi già đã cướp đi những ý nghĩ tốt đẹp của lão. Dân gian có câu “nhà sập bìm leo”- lão chưa khỏe hẳn thì tai họa do thiên nhiên ập đến. Những cơn bão nặng nề, dữ dội tàn phá làng mạc, thôn xóm cũng như cướp sạch sành sanh hoa màu của lão. Giá gạo trở nên đắt đỏ. Bởi thế, đói nghèo chồng chất đói nghèo. Lão Hạc rơi vào bế tắc. Con chó Vàng mà lão thương yêu bị bán đi. Đó là điều ngoài ý muốn, đồng thời là nỗi day dứt, tiếc nuối, xót xa của lão. Lão cất tiếng khóc chan chứa nỗi khổ đau: “Mặt lão tự nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẻo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít, lão hu hu khóc...”. Tiếng khóc của lão Hạc thể hiện trạng thái dồn nén đến cùng cực, cạn kiệt, khiến chúng ta liên tưởng đến một quả chanh bị vắt kiệt nước, chỉ còn cái vỏ bèo nhèo. Nỗi đau của lão Hạc không kém nỗi đau của lão Gôriô trong kiệt tác cùng tên của đại văn hào Balzac. Lão Gôriô và lão Hạc có điểm chung là cả hai lão đều gặp nỗi đau trong đoạn cuối của cuộc đời. Điểm khác nhau là nguyên nhân của mỗi nỗi đau do những hoàn cảnh khác nhau gây ra. Lão Gôriô đau đớn, bất hạnh vì bị ba cô con gái ruồng rẫy, bạc đãi khi lão già yếu. Còn lão Hạc có con trai hiếu thảo ở phương xa nhưng đau khổ vì đói nghèo do hoàn cảnh xã hội gây ra. Tiếng khóc của lão Hạc bơ vơ, lạc lõng giữa dòng người, dòng đời. May mắn thay, ông giáo chia sẻ với lão nhưng ông giáo cũng nghèo.
Việc bán con chó Vàng đi khiến lương tâm của lão ray rứt mãi: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!”. Tình thương yêu con vật có nghĩa khiến lão nghĩ mình là kẻ bạc bẽo, đánh lừa loài vật. Con người lừa dối con người đã xấu xa. Tồi tệ hơn khi con người lừa con vật. Vì lão Hạc nghĩ như thế nên lão cảm thấy hổ thẹn. Những lời nói giữa lão Hạc và ông giáo cho chúng ta thấy lão Hạc đang trên đường đi đến đỉnh điểm của nỗi khôn khổ và bất hạnh: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người may ra có sung sướng hơn một chút... Kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!...”. “Nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?” Chắc có lẽ, lão Hạc là người tín ngưỡng phật giáo nên gặp đau khổ, lão liên tưởng đến thuyết "nhân quả ba đời" của nhà phật. Những lời lão Hạc thốt ra thể hiện sự nhân từ lẫn mỉa mai, chua chát, thất vọng, bế tắc.
Tuy nghèo nhưng lão Hạc vẫn luôn nghĩ đến con. Lão đặt niềm tin trọn vẹn vào ông giáo cùng khổ. Lão giữ tất cả ba sào vườn và 30 đồng bạc để khi lão chết đi con trai lão vẫn còn chút tài sản làm kế sinh nhai. Ôi! Lòng cha thương con đến thế là cùng! Chắc có lẽ, sau này cậu con trai nếu may mắn sống sót trở về, khó có thể hiểu rằng, để có được chút của cải ấy, cha của cậu ta phải dè sẻn, hôm ăn chuối, hôm ăn sung luộc, bữa ăn rau má, củ ráy, bữa trai, bữa ốc, cho đến ... Bả chó! Ông giáo bất ngờ khi biết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư. Có lần, Binh Tư nói với ông giáo trong cái “bĩu môi”: “Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu!”. Ông giáo suýt chút nữa đã hiểu lầm phẩm chất “đói cho sạch, rách cho thơm” của lão Hạc nếu chỉ nghe lời của kẻ xấu như Binh Tư. Người ta thường nói rằng: Kẻ bất lương luôn có những ý nghĩ xấu xa. Thật đúng như vậy, Binh Tư chuyên hành nghề ăn trộm nên nghĩ lão Hạc xin bả chó là để cùng chung bước đường của hắn. Không! Lão Hạc là một đóa hoa sen trong sạch giữa bùn nhơ. Lão tự kết liễu cuộc đời mình bằng bả chó vì quá khốn cùng, vì muốn bảo toàn danh dự và nhân phẩm. Nếu trong kiệt tác chí phèo của Nam Cao, chí phèo tự kết liễu cuộc đời mình bằng nhát dao oan nghiệt thì lão Hạc cũng tự tìm đến cái chết nhưng bằng bả chó. Chí phèo đau đớn vì cả làng Vũ Đại ai cũng coi hắn là con quỷ dữ chứ không phải là con người. Còn lão Hạc may mắn hơn chí phèo ở chỗ lão Hạc được mọi người quý mến, đồng thời lão cũng là người cao thượng. Lão Hạc không muốn sống những chuỗi ngày tăm tối để ăn hết phần tiền dành dụm cho con, để làm phiền luỵ đến mọi người.
Nhưng xét cho cùng, lão Hạc là người vì con. Có thể xem cái chết của lão như một sự hi sinh, ôi! Tình thương con của lão Hạc vừa bao la, vừa toả sáng lung linh như viên ngọc trăm màu.
Tóm lại, cuộc đời lão Hạc là những trang đầy bất hạnh, đau khổ-. Nhưng chúng ta thấy, càng trong đau khổ, lão Hạc càng đẹp lạ thường. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp chung của những người nông dân bé nhỏ ở Việt Nam trước cách mạng tháng Tám?
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Phương Định
Trường Sơn là nguồn cảm hứng sáng tác cho biết bao thi nhân thời kháng chiến chống Mĩ, là nơi hội tụ biết bao tấm lòng yêu nước. Trường sơn không chỉ có những ngừoi lính lái xe “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” mà còn có những cô gái thanh niên xung phong với tính cách hồn nhiên, tâm hồn lãng mạn và mơ mộng. Họ mang đến cho chiến trường khốc liệt ấy sự tươi tắn và mộng mơ tuổi đôi mươi. Điển hình là PĐ – nhân vật chính trong truyện ngắn NNSXX của Lê Minh Khuê. Cô là một cô gái trẻ mơ mộng yêu đời có tinh thần chiến đấu dũng cảm, tinh thần trách nhiệm cao dù công việc có khó khăn, gian khổ. Phương Định đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Lê Minh Khuê là một cây bút nữ chuyên viết truyện ngắn. Bản thân là một thanh niên xung phong nên bà rất am hiểu về cuộc sống nơi tuyến đường Trường Sơn của những ngừoi lính và những cô gái tn xung phong. Truyện ngắn “những ngôi sao xa xôi” là một trong những tác phẩm đầu tay, được bà viết vào năm 1971 – lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra quyết liệt nhất. Truyện làm nổi bật hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong: Nho, Thao, Phương Định trên tuyến đường Trường Sơn với công việc trinh sát mặt đường đầy nguy hiểm. Hằng ngày, họ thay nhau đứng trên cao điểm đếm bom rơi rồi đo khối lượng đất, đã để san, lấp và phá những quả bom chưa nổ.
Nho, Thao, PĐ sống dưới chân một cao điểm trên một tuyến đường trọng điểm của Trường Sơn- nơi hứng nhiều nhất những trậm mưa bom, bão đạn dữ dội của quân thù. Sau mỗi trận bom, họ phải lao ra trọng điểm “đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bong chưa nổ và nếu cần thì phá bom” để bảo vệ con đường đưa bộ đội và đoàn xe hành quân ra mặt trận. Mỗi lần như thế, mặt các cô ai cũng “hai con mắt lấp lánh”, “cười thì hàm răng lóa lên khuôn mặt nhem nhuốc”, ai nấy cũng như “những con quỉ mắt đen”. Nhiệm vụ của họ thật quan trọng. Nó chứa đầy gian khổ, hi sinh, phản ánh hiện thực khắc nghiệt của Trường Sơn vào những năm kháng chiến chống Mĩ. Cuộc sóng giữa chiến trường khắc nghiệt và nguy hiểm là thế nhưng họ luôn vui vẻ, hồn nhiên và rất lạc quan. Cũng từ đó, chúng ta thấy sáng ngời lên tinh thần yêu nước, đầy quả cảm, nhanh nhẹn và quyết đoán của các cô gái, đặc biệt là Phương Định.
Phương Định, nhân vật chính của câu chuyện, là một cô gái Hà Nội, “một cô gái khá”. Cô có “hai bím tóc dày, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn” và đôi mắt “có cái nhìn sao mà xa xăm”. Cũng như các cô gái mới lớn, Phương Định rất quan tâm vẻ bề ngoài của mình, cô còn thích ngắm mắt mình trong gương. Cô cũng biết mình đẹp và được nhiều chàng trai để ý. Điều đó khiến cô vui và tự hào nhưng dù nhạy cảm cô cũng không để lòng xao động. Cô không “săn sóc vồn vã” với các anh bộ đội mà thường đứng ra xa khoanh tay trước ngực và nhìn đi nơi khác. Quả thật là một cô gái tự tin, không bộc lộ tình cảm của mình trước đám đông cô thích làm điệu và thường tỏ vẻ kiêu kì một cách đáng yêu.
Là một cô gái vừa bước qua tuổi học trò hồn nhiên, vô tư, Phương Định mang vào chiến trường Trường Sơn đầy ác liệt những nét hồn nhiên, đáng yêu của một cô gái tuổi mới lớn. Dù sống trong hoàn cảnh ác liệt của bom đạn, khói lửa, cô chưa bao giờ từ bỏ sở thích của mình. Cô “mê hát” lắm, “thường cứ thuộc một điệu nhạc nào đó rồi bịa ra lời mà hát”. Cô thích nhiều bài lắm, thích “những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt trận”, “thích dân ca quan họ mềm mại dịu dàng”, “thích ca-chiu-sa”, “dân ca ý trữ tình giàu có”. Cô hát trong những khoảnh khắc im lặng khi máy bay trinh sát rè rè trên đầu, khi cơn bão lửa sắp chụp xuống cao điểm. Cô hát để động viên đồng đội và cũng là để động viên chính bản thân mình, để gửi vào trong tiếng hát nỗi khát khao của tuổi trẻ, của ngừoi chiến sĩ, mong được trở về quê hương yêu dấu, được gặp lại những ngừoi thân yêu sau bao nhiêu nhớ nhung, xa cách.
Có những đoạn Phương Định hồi tưởng về tuổi học trò với tính cách hồn nhiên, vui tươi và một chút tinh nghịch của một thiếu nữ. Cô say sưa nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ giữa gia đình và thành phố Hà Nội thân yêu khi một trận mưa đá bất chợt vụt qua. Cô nhặt những viên đá để rồi bâng khuâng khi thấy nó tan biến bất ngờ, cũng nhanh như khi nó ập đến. “Tôi bỗng thở phào, tiếc không nói nổi” rồi “tôi nhớ một cái gì đấy, hình như mẹ tôi, cái cửa sổ hoặc những ngôi sao to trên bầu trời thành phố”. Tất cả kỉ niệm đẹp nhất ở thành phố HN, về mẹ, về tuổi học trò trong sáng, vô tư như ùa về trong lòng cô gái trẻ quả cảm. Chính những cái ấy xoa dịu tâm hồn cô trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh.
Ở Phương Định, ta thấy chứa chan một tình động đội thâ thương. Cô lo lắng cho chị Thao và Nho trinh sát trên cao điểm chưa về đến nỗi “nói như gắt vào máy” khi đội trưởng gọi điện hỏi tình hình. Khi nNho bị thương vì hầm trú ẩn sập lúc phá bom, cô ân cần chăm sóc, “rửa cho nho bằng nước đun sôi trên bếp thanh” “tiêm cho Nho” rồi pha sữa cho Nho uống.Phương Định còn dành tình cảm trân trọng, yêu mến cho những ngừoi chiến sĩ đnag cầm súng chiến đấu trên chiến trường, Vì đối với cô, “những ngừoi đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những ngừoi mặc quân phục có ngôi sao trên mũ”.
Vẻ đẹp của Phương Định càng ngời sáng hơn trong một lần làm nhiệm vụ cùng đồng đội. Phá bom – công việc mà ai nghe đến cũng phải “rùng mình”. Ấy vậy mà cô gái hà thành ấy phải đối diện hằng ngày. Để phá bom, Phương Định “dùng xẻng nhỏ đào đất dứoi quả bom” rồi “cẩn thận bỏ gói thuốc mìn vào cái lỗ đã đào”. Sau đó, cô châm ngòi rồi khỏa đất và chạy đến chỗ ẩn nấp của mình chờ bom nổ. Ở bên quả bom, kề sát với cái chết im lím và bất ngờ, mọi cảm giác của con người đều trở nên sắc nhọn “thỉnh thoảng lưới xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Khi cái chết im lim và đáng sợ kể bên, mọi cảm giác của Phương Định đều trở nên sắc nhọn. Tôi rùng mình và bỗng thấy sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một ti! Võ qua bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành". Người đọc chúng ta nghẹt thờ theo từng động tác của Phương Định. Không gian lúc đó vắng lặng đến phát sợ. Những lúc đổi mặt với quả bom sắt lạnh lùng, cô cũng có nghĩ đến cái chết. "Nhưmg một cái chết rất mờ nhạt, không cụ thể". Đó chỉ là một ý nghĩ thoáng qua. Còn điều mà cô quan tâm lúc này là "liệu mìn có nổ không, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để chẩm mìn lần thứ hai? ". Và cô gái ấy đã xem công việc như là một trách nhiệm của mình : “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần” Trong suy nghĩ của Định, cô luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ thật tốt dù có phải hi sinh, luôn cố gắng thực hiện các động tác nhanh gọn như thể chạy đua với thời gian nhưng vẫn cần trọng, nhẹ nhàng; vì chỉ cần một sơ suất nhỏ là bom sẽ nổ ngay lập tức. Chẳng phải vì cô sợ bom nổ cô sẽ chết, mà sợ rằng vì mình mà công việc bị chậm trễ, ảnh hưởng đến biết bao đồng đội. Suy nghĩ ấy đã khắc họa đậm nét bản lĩnh sống mạnh mẽ, một thái độ sống không sợ thử thách, gian khổ. Chính nhờ sự gan góc, dũng cảm và tinh thần trách nhiệm cao đã giúp Định thực hiện tốt công việc đầy sự nguy hiểm của mình. Qua những chi tiết trên, ta thấy được bên trong ngừoi con gái ủy mị ấy là thái độ bình tĩnh trước công việc, sự gan dạ, dũng cảm, không ngại hy sinh để cống hiến cho đất nước. Và ta tự hỏi: sự gan dạ, tinh thần trách nhiệm ấy xuất phát từ đâu? Phải chăng là từ ý thức trách nhiệm của cô trước vận mệnh của cả dân tộc, hay từ tấm lòng nồng nàn yêu nước?
Dù công việc nguy hiểm là thế những cô chưa bao giờ chùn bước. Trong khi làm nhiệm vụ, cô cảm thấy an tâm hơn khi biết được “các anh cao xạ” đang ở trên kia dõi theo từng động tác, cử chỉ của mình, để rồi lòng dũng cảm của cô như được kích thích bởi lòng tự trọng đáng khâm phục. Khi cô “đến gần quả bom. Cảm thấy ánh mắt các anh chiến sĩ dõi theo mình” Phương Định “không sợ nữa” bởi vì cô biết “các anh ấy không thích kiểu đi khom khi có thể đàng hoàng mà bước tới”. Đó là dáng đi của ngừoi chiến sĩ hiên ngang bước vào thử thách. Đó là dáng đi thể hiện lòng tự trọng, bộc lộ ý chí mạnh mẽ giúp cô dũng cảm bước vào thử thách đầy hiểm nguy. Có thể nói, tình đồng đội đồng chí thật thiêng liêng, cao cả và đáng quý khi nó tiếp thêm sức mạnh cho cô hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Mọi hành động, cử chỉ của cô càng truyền thêm cho ngừoi đọc tình cảm yêu quý và nể phục ngừoi con gái thanh niên xung phong – nhỏ bé nhưng lại rất đỗi anh hùng.
Với việc lựa chọn ngôi kể thứ nhất, Lê Minh Khuê đã thành công trong việc miêu tả một cách tự nhiên và sinh động những tâm trạng, cảm xúc của ngừoi nữ thanh niên xung phòng ở tiến đường Trường Sơn đầy khói lửa và bom đạn. Cùng với đó là cách miêu tả tâm lí nhân vật rất sinh động, sụ thể, tinh tế đến từng cảm giác, ý nghĩ. Lời kể thường dùng những câu văn ngắn, nhịp nhanh tạo không khi gấp gáp, khẩn trường ở chiến trường. Những đoạn hồi tưởng về quá khứ tươi đẹp gợi cho nhân vật nhớ về mẹ, về quê hương. Qua đó, đoạn trích đã làm sống lại hình ảnh tuyệt đẹp của những cô gái thanh niên xung phong thời kháng chiến chống Mĩ.
Phương Định là một cô gái thanh niên xung phong trẻ, không ngại hy sinh, chấp nhận mọi thử thách, gian khổ trên mặt trận khói lửa. Trường Sơn là nơi thử thách ý chí, khí phách con ngừoi Việt Nam. Cũng chính ở đó, biết bao anh hùng đã ngã xuống vì tương lai tốt đẹp của đất nước. Với tâm hồn trong sáng, tính cách dũng cảm, hồn nhiên, Phương Định là hình ảnh tiêu biểu cho một thế hệ trẻ đánh Mĩ trên con đường Trường Sơn đáng để ta ngưỡng mộ. Vậy nên, được sống trong hòa bình, ta phải sống sao cho thật xứng đáng với quá khứ hào hùng của ông cha ta để lại.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
"Lặng lẽ Sa Pa" là kết quả của chuyến đi thực tế lên Lào Cai của Nguyễn Thành Long. Đó là một câu chuyện nhẹ nhàng, tình cảm về cuộc sống của anh thanh niên làm nghề khí tượng thủy văn ở Sa Pa. Với ngòi bút tinh tế, trữ tình đầy cuốn hút, tác giả đã khéo léo dẫn dụ người đọc lạc vào xứ sở sương mù Sa Pa. Hình ảnh anh thanh niên có thể xem là hình ảnh nổi bật, neo giữ lại trong lòng người đọc nhiều tình cảm về những người đang lặng thầm cống hiến cho đất nước.
Lặng lẽ Sa Pa giống như một câu chuyện không có cốt truyện với nhịp kể đều đều, không gấp gáp như chính mảnh đất nơi đây. Truyện kể về cuộc sống rất đỗi bình lặng, giản dị của anh thanh niên làm nghề đo gió, đo mưa, đo nhiệt độ, quanh năm làm bạn với mây trời hiu quanh và cô độc. Nhưng cuộc sống này không hề khiến anh thấy nhàm chán mà ngược lại anh luôn sống hết mình, làm việc hết mình. Đây là điều mà tác giả muốn gửi gắm đến người đọc qua từng trang viết.
Công việc của anh rất gian khổ nhưng ai hỏi anh cũng bảo không sao, anh quen rồi. Sự kiên trì, nhẫn nhịn để cống hiến là đức tính của một người thanh niên cần phải có. Và anh đã khiến người đọc khâm phục vì đức tính này.
Anh lặng lẽ kể cho ông họa sỹ già và cô kỹ sư trẻ về cuộc sống hằng ngày của mình. Qua lời kể chúng ta thấy sự gian khổ, vất vả, nhọc nhằn "gian khổ nhất là phải ghi và báo lúc 1 giờ sáng, ở đây nhiều khi còn có tuyết nữa..." nhưng lại được kể với giọng điệu vui tươi và say mê. Anh sống và cống hiến hết mình cho đất nước, không ngại khó, ngại khổ. Có một điều chắc hắn người đọc sẽ ngạc nhiên và khâm phục khi anh thanh niên kể "Công việc vất vả là vậy nhưng khi cất nó cháu buồn lắm". Một sự chia sẻ chân thành và đầy ý nghĩa, cả cuộc đời anh gắn bó với công việc này, cả cuộc đời anh xem nó như lẽ sống, bởi vậy dù khó khăn nhưng xa thì sẽ nhớ và buồn biết bao.
Có lẽ không phải vô tình mà Nguyễn Thành Long không đặt tên cho nhân vật của mình, chắc chắn rằng đó là dụng ý nghệ thuật. Ông chỉ gọi là "anh thanh niên" gần gũi nhưng thân mật như vậy. Bởi cuộc đời, bởi công việc, bởi lý tưởng của anh luôn bình lặng đến như vậy. Ông đã tạo nên phong thái riêng cho nhân vật của mình.
"Anh thanh niên" tạo cho mình một cuộc sống hòa nhập với thiên nhiên và nhờ có nó để sống và cống hiến. "Trước vườn anh trồng rất nhiều loại hoa đủ màu sắc, anh còn nuôi gà đẻ trứng ăn mãi không hết...". Một cuộc sống bình dị, chân chất đến nhường nào. Cuộc sống ấy đã phần nào nói lên cuộc đời thầm lặng, không ganh đua với ai.
Dù sống một mình nhưng cuộc sống của anh không cô độc như người ta vẫn nghĩ, anh "thèm người", bởi vậy nên anh rất hiếu khách, nói chuyện với họa sỹ già và cô kỹ sư trẻ một cách say sưa. Đây là một đức tính không phải ai cũng có được. Anh mừng rỡ khôn xiết khi có người lên thăm, niềm vui ấy dù nhỏ nhưng với anh thật lớn lao và cao đẹp biết bao.
Qua ngòi bút của Nguyễn Thành Long, anh còn là một người rất tâm lý khi tặng hoa cho người con gái lần đầu tiên mà anh quen, trà cho họa sỹ già. Một con người như vậy sống giữa núi rừng bao la, hiểm trở thật khiến người khác ngưỡng mộ.
Với câu từ đẹp đẽ, nhịp điệu chậm rãi, nhẹ nhàng và tình cảm tha thiết, Nguyễn Thành Long đã vẽ nên một cuộc sống bình lặng nhưng đẹp tuyệt vời về anh thanh niên. Đó là người sống và cống hiến không ngừng cho đất nước. Hình ảnh nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều suy nghĩ và bài học làm người cho thế hệ trẻ.
Trong mưa bom lửa đạn, trong chất cay xè của mùi thuốc súng, tình cảm cao đẹp nhất của tình đồng chí đồng đội trào dâng. Những bùi ngùi dấu tận đáy lòng của những người cha lên đường chiến đấu gởi lại quê hương đứa con thân yêu nhất của mình để rồi trong giờ phút hiếm hoi giữa cuộc hành quân nỗi nhớ con không còn dấu được. Tình cảm thiêng liêng ấy càng mãnh liệt hơn trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.
Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau năm 1945, tập kết ra Bắc Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học. Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng thuộc nhiều thể loại: Truyện ngắn có “Con chim vàng”, “Người quê hương”, “Chiếc lược ngà”, “Người đàn bà đức hạnh”, “Vẽ lại bức tranh xưa”…
Các tiểu thuyết “Đất lửa”, “Mùa gió chướng”, “Dòng sông thơ ấu” được nhiều độc giả biết đến và đặc biệt là kịch bản phim nổi tiếng “Một thời để nhớ một thời để yêu”. Có lẽ vì sinh ra, lớn lên và hoạt động chủ yếu ở chiến trường miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình.
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử .
“Chiếc lược ngà ” được viết vào năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Nội dung văn bản trong là cuộc gặp gỡ của anh Sáu – một người xa nhà đi kháng chiến. Mãi khi con gái lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu – con gái anh không nhận cha , trái lại đã đối xử lạnh nhạt, có lúc vô lễ với cha. Điều đó làm anh Sáu đau lòng, nhưng anh vẫn yêu thương con bằng tình cha con ruột thịt. Sau vài ngày ngắn ngủi sum họp gia đình, anh Sáu phải ra đi.
Đến lúc ấy Bé Thu bỗng thay đổi thái độ. Em ôm chặt lấy cha không muốn cha con phải xa nhau .Mọi người ngỡ ngàng sửng sốt. Thì ra mấy ngày trước do nhìn thấy trên mặt anh Sáu có vết sẹo lớn, bé Thu thấy anh không giống cha chụp chung ảnh với mẹ. Nhờ bà ngoại giảng giải, Thu đã hiểu ra mọi chuyện, em cất tiếng gọi “Ba…ba!..” và hẹn “Ba mua cho con một cây lược nghe!”. Ở khu căn cứ, anh Sáu dồn hết tình cảm yêu quý nhớ con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để mang về tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng trong một cuộc chiến đấu anh đã ngã xuống. Trước lúc nhắm mắt anh còn kịp trao cây lược cho người bạn, gửi về tận tay cho con. Truyện được viết theo lời kể qua cái nhìn của ông Ba – nhân vật xưng tôi. Tuy đây là một đề tài khá phổ biến trong văn chương nhưng chính vì thế mà giá trị nhân văn của truyện càng trở nên sâu sắc.
Chi tiết “vết thẹo” xuất hiện 3 lần: lần 1, phút đầu bé Thu gặp ba; lần 2, qua cuộc trò chuyện với bà ngoại; lần 3, Thu nhận ra ba, hôn cùng khắp, hôn cả vết thẹo.
Vết thẹo trên gương mặt ông Sáu là chi tiết nghệ thuật độc đáo, vừa thắt nút truyện, đẩy mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm, lại vừa mở nút truyện. Vì vết thẹo mà bé Thu không nhận ra ba, đối xử với ba một cách lạnh lùng, cự tuyệt. Khi được bà ngoại giải thích về vết thẹo trên gương mặt ba, mối nghi ngờ của bé Thu về ông Sáu đã được giải toả, khiến bé Thu nhận ra ba. Khi nhận ra ba, tình cảm, thái độ của em đã thay đổi hoàn toàn. Như vậy, chi tiết vết thẹo đã tạo nên kịch tính, tình huống truyện làm nên sức hấp dẫn, lôi cuốn của tác phẩm.
Chi tiết nghệ thuật vết thẹo góp phần quan trọng thể hiện tính cách và tình cảm của nhận vật bé Thu – một em bé có bản lĩnh và có tình yêu ba sâu sắc.
Chi tiết nghệ thuật vết thẹo còn thể hiện sự tàn khốc của chiến tranh và là lời tố cáo chiến tranh nhẹ nhàng mà thấm thía. Chiến tranh không chỉ khiến vợ phải xa chồng, con phải xa cha. Chiến tranh không chỉ tàn phá thể xác mà còn làm tổn thương tinh thần, khiến con không nhận ra cha. Chiến tranh khiến người ta phải xa cách và phải xa cách trong chính lúc gặp mặt.
“Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”, cời chi tiết nghệ thuật đặc sắc: vết thẹo, tác phẩm “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa tính cách nhân vật bé Thu, đồng thời góp phần tạo nên sự lôi cuốn hấp dẫn người đọc. Chi tiết cũng góp phần làm cho tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng sống mãi cùng thời gian.
Chi tiết “vết thẹo” đã thắt nút và mở nút câu truyện về chính vết thẹo đã làm bé Thu không nhận ra cha nên em đã lạnh nhạt và xa lánh ông Sáu, kiên quyết không gọi ông Sáu là “ba”. Nhưng trong thái độ đó ta lại nhận ra một tình cảm thuỷ chung, sâu sắc mà bé Thu dành cho cha của nó. Và cũng chính “vết thẹo” ấy, sau khi đã hiểu được ngọn nguồn của nó lại làm cho bé Thu càng yêu cha nhiều hơn. Ngoài ra, “vết thẹo” còn là chứng tích của chiến tranh gây ra bi kịch trong tình cảm của cha con ông Sáu, gợi cho người đọc nghĩ đến những mất mát đau thương éo le của chiến tranh. Vì vậy, chi tiết “vết thẹo” còn mang ý nghĩa tố cáo chiến tranh. Từ đó, ta thấy chi tiết “vết thẹo” đã thể hiện sự già dặn trong ngòi bút của Nguyễn Quang Sáng.
Câu trả lời của bạn
Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình.Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng, theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu .
Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách. Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc. Từ phòng thông tin ra, đang phấn chấn, náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư,nghe nhắc đến tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt lành, nào ngờ biết tin dữ: "Cả làng Việt gian theo Tây ". Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn : "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại,da mặt tê rân rân ,ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi "nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật. Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư,ông tìm cách lảng về. Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái :"cha mẹ tiên sư nhà chúng nó, đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương, cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát".
Về đến nhà ông chán chường "nằm vật ra giường", nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra " chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?". Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: "chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này ". Niềm tin, nỗi ngờ giằng xé trong ông. Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả "có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy ". Ông đau xót nghĩ đến cảnh "người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước".Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu,"chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình", lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán đến cái chuyện làng mình. Nỗi ám ảnh, day dứt, nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông đau đớn, tủi hổ như chính ông là người có lỗi...
Tình thế của ông càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian. Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy,ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi "về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ là "cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây".
Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt. Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát: "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!". Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương. Bởì thế mà ông càng xót xa,đau đớn...
Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ. Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng mình. Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời:"Thế nhà con ở đâu?", "thế con ủng hộ ai ?". Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị:"Nhà ta ở làng Chợ Dầu","ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !". Những điều ấy ông đã biết, vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm. Ông mong "anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy,có bao giờ dám đơn sai,chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ". Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt. Ông xúc động, nước mắt "chảy ròng ròng trên hai má". Tấm lòng của ông với làng,với nước thật sâu nặng,thiêng liêng. Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến,với Cụ Hồ .
May thay, tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính. Ông Hai sung sướng như được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về "cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên ". Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã,lật đật đi khoe với mọi người. Đến đâu cũng chỉ mấy câu"Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ !Đốt sạch !Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính. Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà. Láo!Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả." "Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người". Ông khoe nhà mình bị đốt sạch, đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất sung sướng,hạnh phúc. Bởi lẽ,trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là một niềm vui kỳ lạ,thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.
Cách miêu tả chân thực, sinh động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng, tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng, dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.
Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược: Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm "Làng " xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
Dựa vào đoạn trích cảnh ngày xuân hãy viết bài văn kể cảnh ngày xuân ở quê hương em( có sử dụng yếu tố miêu tả )
Câu trả lời của bạn
Quê em là một làng cổ ven sông Đuống, thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Mùa xuân đến, khung cảnh quê em đẹp như một bức tranh được vẽ bởi bàn tay của một hoạ sĩ tài hoa.
Sau rằm tháng Giêng, tuỳ Tết đã hết nhưng không khí Tết cùng sức sống của mùa xuân vẫn rạo rực, xôn xao trong lòng người và vạn vật. Dưới mưa xuân lất phất bay, cây cối đâm chồi nảy lộc xanh tươi. Những búp lá non màu ngọc bích rung rinh nhè nhẹ trước gió xuân hây hẩy. Trời rét ngọt. Xóm thôn thơm nức mùi hoa bưởi, hoa cau. Mùi hương dân dã, mộc mạc và vô cùng quen thuộc của làng quê như lắng đọng trong làn mưa bụi li ti rắc trên mái tóc, trên vai áo người qua kẻ lại và thấm đẫm trong từng câu quan họ, từng làn điệu chèo réo rắt ngân nga nơi bến nước, sân đình, khắp làng trên xóm dưới.
Ngoài đổng, lúa chiêm đang lên xanh mơn mởn. Một màu xanh trải rộng tới chân trời tím biếc, nhạt nhoà trong mưa xuân giăng giăng. Đôi ba cánh cò trắng phau phau chao liệng trên mặt ruộng thấp thoáng bóng người đang lúi húi làm cỏ, bón phân cho lúa.
Xa xa, dòng sông Đuống nước trong veo, êm đềm chảy qua những ruộng mía, nương dâu trải dài tít tắp. Mấy chiếc thuyền câu dập dềnh trên sóng. Từ trong mui, khói lam toả ra, la đà vấn vít trong sương chiều bảng lảng. Cảnh đẹp như trong một giấc mơ!
Mùa xuân là mùa của lễ hội, mùa quan họ giao duyên. Con người vùng Kinh Bắc quê em nổi tiếng là khéo tay, hát hay, làm giỏi; xứng danh Trai cầu vồng Yên Thế, Gái Nội Duệ cầu Lim. Các liền anh, liền chị say mê hát những làn điệu dân ca ngọt ngào, tình tứ, làm say đắm lòng người. Liền anh mặc áo the, quần trắng, đầu đội khăn xếp, tay cầm ô đen. Liền chị mặc áo tứ thân mớ bảy, mớ ba, đầu chít khăn mỏ quạ, nón quai thao che nghiêng gương mặt ửng hồng. Tiếng hát theo gió lan xa. Du khách dự hội Lim mải mê nghe hát, quên cả đường về.
Đêm đêm, tiếng trống chèo thì thùng rộn rã. Sân đình sáng rực ánh đèn và đông nghịt người xem. Những tích chèo cổ như Thị Mầu lên chùa, Xuý Vân giả dại, Trương Viên... do các diễn viên nghiệp dư trong dội văn nghệ của xã biểu diễn được bà con vỗ tay khen ngợi.
Mùa xuân đến, đất trời như trẻ lại, tràn đầy sức sống và lòng người cũng rạo rực, phơi phới cùng xuân. Đất nước đổi mới nhanh chóng từng ngày và quê hương em cũng dang thay da đổi thịt nhưng vẻ đẹp thanh bình vốn có tự ngàn đời chắc chắn sẽ mãi mãi vẹn nguyên trong tâm hồn của những rígười con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này.
Đây chỉ là 1 bài văn mẫu về tả bạn hãy dựa vào đây để tăng yếu tố kể lên nhé, Chúc bạn học tốt!
Trong văn bản "Tiếng nói văn nghệ", Nguyễn Đình thi có viết: "Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên đường ấy". Qua văn bản mùa xuân nho nhỏ của thanh hải, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên
Ai cho e xin cái dàn bài được không ạ TT
Câu trả lời của bạn
Gợi ý:
“Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta khiến chúng ta phải bước lên đường ấy” được trích ra “Tiếng nói của văn nghệ” do Nguyễn Đình Thi sáng tác đã khẳng định giá trị và tầm quan trong của văn hóa nghệ thuật đối với con người. Vậy, văn hóa nghệ thuật là gì?
Có thể hiểu, Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Còn “nghệ thuật” là những sản phẩm văn hóa, có giá trị tinh thần đối với con người. Con người cần có văn hóa nghệ thuật thì mới khẳng định sự tồn tại của dân tộc mình nói chung và bản thân mình nói riêng, vì nó là phần không thể thiếu đối với cuộc đời mỗi con người, góp phần tạo nên thế giới loài người, “Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta khiến chúng ta phải tự bước lên đường ấy” . Một dân tộc không được coi là dân tộc khi nó không có văn hóa
Văn hóa, nghệ thuật giúp con người vượt qua sự sợ hãi trong lúc khó khăn, giúp lưu lại những trí tuệ của cô nhân cho thế hệ mai sau. Giống như nó đã giúp anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long bớt cô đơn khi sống một mình trên đỉnh Yên Sơn, hay nó giúp những cô gái thanh niên xung phong làm việc phá bom trên tuyến đường Trường Sơn xa xôi(“Những ngôi sao xa xôi”-Lê Minh Khuê) quên đi khó khăn, cực nhọc, vất vả, gian lao, hiểm nguy trong công việc vào những phút giây rảnh rỗi. Thế nhưng, hiện nay vẫn có những sản phẩm văn hóa nghệ thuật xấu, góp phần hại chết đi cả một thế hệ, một quốc gia. Như đó là những bộ phim đen, những truyện đen, truyện ngôn tình xấu,…
Tuy văn hóa nghệ thuật luôn có ích lợi với con người nhưng đâu đó vẫn còn những kẻ lợi dụng văn hóa nghệ thuật để tạo ra những sản phẩm vật chất, tinh thần không lành mạnh, góp phần làm hủy hoại cả một quốc gia, một dân tộc. Hiện nay, đứng trước tình huống này, chúng ta cần phải chung tay góp sức để loại bỏ những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật xấu, đừng để “một con sâu làm rầu nồi canh”. Hy vọng những người tạo ra các sản phẩm văn hóa nghệ thuật có tâm hơn trong việc tạo ra các sản phẩm ấy.
Nói tóm lại, văn hóa nghệ thuật là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi con người. Là học sinh, tôi chỉ xem những sản phẩm của văn hóa nghệ thuật tốt, lên án những hành động tạo ra những sản phẩm văn hóa nghệ thuật xấu
Bn nhớ CM quá VB mùa Xuân Nho nhỏ nha
kể lại một trận chiến ác liệt mà em đã đọc,đã nghe hoặc đã xem trên màn ảnh
Câu trả lời của bạn
Mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789), quân của Nguyễn Huệ nước An Nam vượt sông Gián Thủy đánh bại quân phòng thủ của Lê Duy Kỳ (Lê Chiêu Thống), lại bắt toán quân Thanh tuần thám giết sạch. Ngày mồng hai, Tôn Sĩ Nghị được tin hoảng hốt ngự địch, ra lệnh Tổng binh Trương Triều Long mang ba ngàn quân tăng cường cho các đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi để chống cự, lại ra lệnh cho Ðề đốc Hứa Thế Hanh mang một ngàn năm trăm tên, tự đốc suất một ngàn hai trăm tên để tiếp ứng. Quân Nguyễn Huệ tiến tới đông như ong, vây đồn bốn phía, đánh nhau một ngày một đêm, quân Thanh bị đánh tan bèn bỏ chạy.
Vào canh năm ngày mồng 5 Nguyễn Văn Huệ mang đại binh tiến đánh, thân tự đốc chiến, dùng một trăm thớt voi khỏe làm tiên phong. Rạng sáng quân Thanh cho kỵ binh nghênh đón địch, ngựa bị voi quần kinh hãi bỏ chạy, quân rút lui vào trại cố thủ. Phía ngoài trại, lũy đầy chông sắt, bên trong bắn súng ra cự địch. Vào giờ Ngọ quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiễn tới tấp; lại dùng rạ bó to lăn mà tiến đều, khinh binh theo sau, trước ngã sau tiến lên một lòng quyết chiến, tại các trại quân Thanh đồng thời tan vỡ, quân Nguyễn thừa thắng chém giết, quân Thanh tử thương quá nửa.
Ðề đốc Hứa Thế Hanh thấy thế lực nhiều ít rõ ràng, bảo gia nhân đem ấn triện Ðề đốc mang đi, rồi ra sức đánh, bị chết tại trận. Lúc này quân địch càng bị giết càng nhiều, chia cắt quân Thanh từng nhóm rồi vây kín. Thống soái Tôn Sĩ Nghị mất liên lạc với Hứa Thế Hanh và các đại viên Ðề, Trấn; bèn ra lệnh Phó tướng Khánh Thành, Ðức Khắc Tinh Ngạch mang ba trăm quân đoạt vây chạy về phía bắc. Khi tàn quân của Tôn Sĩ Nghị chạy đến bờ sông, thì số quân Thanh ba ngàn tên trú đóng tại bờ phía nam đã được Tổng binh Thượng Duy Thanh mang đi tiếp ứng cho Hứa Thế Hanh, bèn ra lệnh cho Tổng binh Lý Hóa Long vượt qua cầu nổi chiếm cứ bờ phía bắc, để tiện việc yểm hộ qua sông. Không ngờ Lý Hóa Long đi đến giữa cầu, trượt chân rơi xuống nước chết, số quân mang đi kinh hãi không biết làm gì. Tôn Sĩ Nghị ra lệnh Khánh Thành yểm hộ mặt sau bằng cách bắn súng điểu thương vào quân Nguyễn Văn Huệ đang truy kích, riêng mình tự mang quân theo cầu nổi lui về bờ phía bắc; rồi lập tức cho chặt đứt cầu nổi, cùng với bọn Khánh Thành rút lui về sông Thị Cầu.
Quân Thanh tại phía nam sông thấy cầu đã bị đứt chìm, không có đường về, bèn đánh trở lại thành nhà Lê. Các Tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Phó tướng Na Ðôn Hành, Tham tướng Dương Hưng Long, Vương Tuyên, Anh Lâm đều tử trận. Tri châu Ðiền Châu Sầm Nghi Ðống không được viện binh đành tự tử, số thân binh tự tử cũng đến hàng trăm. Quốc vương An Nam Lê Duy Kỳ vào lúc binh thua tới dinh Tôn Sĩ Nghị họp bàn, thấy Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, bèn hoảng hốt vượt sông chạy lên phương bắc, đến đây nhà Lê diệt vong.
Nguyễn Văn Huệ xua quân tiến vào thành, chiến bào mặc trên người nhuốm đen, do bởi thuốc súng. Ðề đốc Ô Ðại Kinh mang đạo quân Thanh tại Vân Nam xuất phát từ Mã Bạch quan vào ngày 20 tháng 11 năm ngoái, đến Tuyên Quang vào ngày 21 tháng 12; khi đến sông Phú Lương thấy cầu nổi bằng tre đã bị chìm đứt, nhìn sang bên kia bờ thấy lửa rực bốn phía, bèn triệt hồi Tuyên Quang, rồi lập tức lui vào trong nước.
Cuộc chiến vẫn còn tiếp tục, nhưng rõ ràng rằng phần thắng sẽ thuộc về những lý tưởng chiến đấu vì chính nghĩa. Tinh thần hy sinh và tài năng của dân tộc ta một lần nữa được khẳng định với bạn bè năm châu khi một lần nữa nhắc lại chiến công oai hùng.
Trận chiến trên sông Bạch Đằng
Trong thế kỷ XIII, dân tộc Việt Nam đã lập nên những chiến công vĩ đại: ba lần chiến thắng giặc Nguyên Mông xâm lược.
Lần thứ nhất xảy ra vào tháng Giêng năm 1258. Bấy giờ, vua chúa Mông Cổ đang tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm Trung Quốc. Bên cạnh những đạo quân ồ ạt đánh vào đất Tống, một đạo quân khoảng bốn vạn người, gồm kỵ binh Mông Cổ và binh lính người Thoán Vân Nam, do tướng Ngột Lương Hợp Thai (Uryangquadai) chỉ huy, từ Vân Nam đánh xuống Đại Việt. Vua Trần là Thái Tông đã đem quân lên chặn giặc ở Bình Lệ Nguyên, bên sông Cà Lồ. Nhưng sau đó, quân ta rút lui để bảo toàn lực lượng trước thế mạnh ban đầu của giặc.
Quân ta rút lui, bỏ Thăng Long lại phía sau, nhưng Triều đình nhà Trần và quân dân vẫn không nao núng. Vua tôi nhà Trần đã bàn phương lược đánh giặc trên những con thuyền xuôi sông Hồng. Khi được Thái Tông hỏi ý kiến, Thái sư Trần Thủ Độ đã trả lời: ''Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo".
Giặc đóng ở Thăng Long, trong một tòa thành trống, đã khốn đốn vì thiếu lương thực. Chúng cố đánh ra xung quanh để cướp lương thực, nhưng ở đâu cũng gặp sức chống trả mãnh liệt của nhân dân. Vì vậy mà chỉ sau 9 ngày, chúng đã vô cùng hốt hoảng. Đó chính là thời cơ để quân ta phản công. Ngày 29-1-1258, Vua Trần Thái Tông đã đem binh thuyền ngược sông Hồng tiến về Thăng Long. Quân địch bị đánh bật khỏi Kinh thành, theo đường cũ, chạy về Vân Nam. Trên đường tháo chạy, chúng còn bị quân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi tập kích, đánh cho tan tác.
Sau lần thất bại đó, bọn vua chúa Mông Cổ vướng vào cuộc nội chiến (1259 -1264) và cuộc chiến tranh với Tống (1267-1279) nên chưa thể tiếp tục ngay cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mãi đến năm 1279, nhà Tống mất, toàn bộ đất Trung Quốc đã nằm dưới ách thống trị của nhà Nguyên, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt (Quibilai) mới chuẩn bị xâm lược nước ta bằng quân sự. Sau khi không thể khuất phục được Đại Việt bằng những sứ bộ ngoại giao, cuối năm 1284, đạo quân Nguyên Mông do Thoát Hoan (Toan), con trai Hốt Tất Liệt, và A Lý Hải Nha (Ariquaya) chỉ huy, đã lên đường, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ hai.
Lần này, ngoài cánh quân lớn của Thoát Hoan đánh vào mặt Lạng Sơn, Vua Nguyên còn sai Nạp Tốc Lạt Đinh (Nasirud Din) đem một cánh quân từ Vân Nam đánh vào mặt Tuyên Quang, và ra lệnh cho Toa Đô (Sogatu) đem đạo quân còn đóng ở Bắc Chămpa, đánh vào mặt Nam của Đại Việt.
Sau một vài trận đánh chặn giặc ở mặt Lạng Sơn và Tuyên Quang, trong tháng 2/1285, quân ta lại rút lui và lần nữa bỏ trống Thăng Long, kéo về mạn Thiên Trường và Trường Yên (Ninh Bình). Và để tránh cái thế bị kẹp vào giữa các gọng kìm của giặc, đại quân và Triều đình chờ cho cánh quân của ba Đô tiến đến Trường Yên (Ninh Bình) thì rút vào Thanh Hóa. Trong khi một bộ phận lớn quân chủ lực rút, thì khắp nơi, quân địa phương và dân binh các lộ, phối hợp với các cánh quân nhỏ của Triều đình để lại đã không ngừng tập kích, tấn công vào quân địch ở vùng bị chiếm đóng. Kế hoạch ''vườn không nhà trống" được toàn dân thực hiện. Giặc đóng quân phân tán, thiếu lương thực, có nguy cơ bị tiêu diệt. Mùa hè đến, lại giáng lên đầu chúng những tai họa mới. Sử Nguyên chép: "Bệnh dịch hoành hành... Nước lụt dâng to, ngập ướt doanh trại... ". Thời cơ phản công của quân ta đã tới. Tháng 5/1285, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn dẫn đại quân tiến ra Bắc. Kế hoạch diệt địch như sau: Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải và một số tướng lĩnh được giao nhiệm vụ diệt địch trên phòng tuyến sông Hồng, còn Hưng Đạo Vương, đem quân vòng qua vùng Hải Đông, tiến lên Vạn Kiếp, chặn đường tháo chạy của địch. Cục diện chiến tranh xảy ra đúng như dự liệu: cuối tháng 5-1285, Trần Quang Khải cùng với Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản đã đánh tan giặc ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, rồi tiến lên giải phóng Thăng Long. Thoát Hoan hoảng hốt, rút khỏi Thǎng Long, chạy về phía Vạn Kiếp. Đến đây, bọn giặc lọt vào trận địa mai phục của Trần Hưng Đạo, chúng bị thương vong rất nhiều. Đám tàn quân hoảng loạn cố mở đường máu tháo chạy. Nhưng đến biên giới Lạng Sơn, chúng lại bị quân ta chặn đánh. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng rồi bắt quân lính khiêng chạy về nước. Viên đại tướng Lý Hằng đi đoạn hậu, bị tên độc trúng đầu gối, về đến Tư Minh thì chết.
Trong khi cánh quân Thoát Hoan chạy về phía Lạng Sơn thì cánh quân Nạp Tốc Lạt Đinh tìm đường tẩu thoát về Vân Nam, cũng bị quân dân ta tập kích, đánh cho tơi bời. Không biết Thoát Hoan đã bỏ chạy, Toa Đô kéo ra Bắc, theo sông Hồng định về Thǎng Long, nhưng đến Tây Kết thì bị quân ta chặn đánh. Toa Đô bị chém. Thế là cuộc chiến tranh xâm lược của Nguyên Mông lần thứ hai hoàn toàn thất bại.
Ngay sau thất bại năm 1258, Hốt Tất Liệt đã ra lệnh chuẩn bị một cuộc chiến tranh xâm lược mới. Nhưng phải đến cuối năm 1287, các đạo quân viễn chinh mới có thể lên đường. Một đạo do Thoát Hoan và áo Lỗ Xích (Agurucxi) chỉ huy tiến vào Lạng Sơn. Một đạo khác, do ái Lỗ (Airuq) cầm đầu, từ Vân Nam đánh vào Tuyên Quang. Lần này, không còn cánh quân phía Nam, nhưng Vua Nguyên lại phái thêm một cánh thủy quân, sai ô Mã Nhi (Omar) chỉ huy, hộ tống đoàn thuyền tải lương của Trương Văn Hổ vào Đại Việt theo đường biển.
Tháng 12/1287, khi đoàn thuyền chiến của ô Mã Nhi tiến vào vùng biển An Bang (Quảng Ninh), Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đem thủy quân chặn đánh, nhưng không cản được giặc. ô Mã Nhi cho binh thuyền tiến thẳng vào cửa sông Bạch Đằng, không chú ý đến đoàn thuyền lương nặng nề chậm chạp ở sau. Mãi đến tháng 1/1288, đoàn thuyền lương của giặc mới tiến đến vùng đảo Vân Đồn. Trần Khánh Dư lại đem quân tập kích. Trương Văn Hổ chống đỡ không nổi, đổ cả lương thực xuống biển, trèo lên một chiếc thuyền nhỏ, trốn về Quỳnh Châu (Hải Nam). Bấy giờ, Thoát Hoan cũng đã tiến vào Lạng Sơn, hội quân với cánh quân thủy của ô Mã Nhi ở Vạn Kiếp. Thoát Hoan dừng lại ở đây gần một tháng, xây dựng Vạn Kiếp thành một căn cứ vững chắc, mãi đến cuối tháng 1/1288 mới chia quân tiến về Thăng Long.
Lần thứ ba, quân dân nhà Trần lại bỏ ngỏ Thăng Long. Quân Nguyên vào Thăng Long ngày 2/2/1288. Ngay sau đó, Thoát Hoan vội sai ô Mã Nhi đem chiến thuyền ra biển đón thuyền lương của Trương Văn Hổ. Nhưng thuyền còn đâu nữa. Không có lương thực, đạo quân Thoát Hoan đóng ở Thăng Long lâm vào tình thế khốn quẫn.Thoát Hoan phải ra lệnh rút quân về Vạn Kiếp. Trên đường rút về Vạn Kiếp, giặc bị quân ta chặn đánh ở cửa Ba Sông, vùng Phả Lại. Kéo về đóng ở Vạn Kiếp, đạo quân xâm lược vẫn bị quân ta tập kích ngày đêm. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, bọn tướng Nguyên đã nói với Thoát Hoan: ''ở Giao Chỉ, không có thành trì để giữ, không có lương thực đủ ăn, mà thuyền lương của bọn Trương Văn Hổ lại không đến. Vả lại khí trời đã nóng nực, lương hết, quân mệt, không lấy gì để chống đỡ lâu được, làm hổ thẹn cho triều đình, nên bảo toàn quân mà về thì hơn" Trước tình hình đó, Thoát Hoan quyết định rút quân về nước theo hai đường: cánh quân bộ rút qua vùng Lạng Sơn, còn cánh quân thủy sẽ rút ra biển theo sông Bạch Đằng.
Kế hoạch rút lui của giặc không nằm ngoài dự liệu của Trần Hưng Đạo. ông đã bố trí chặn giặc ở vùng biên giới và chuẩn bị cho một trận quyết chiến lớn trên sông Bạch Đằng. Từ tháng 3, quân sĩ và nhân dân đã đẵn gỗ lim, gỗ táu ở rừng về đẽo nhọn, đóng xuống lòng sông, làm thành những bãi cọc lớn. Thủy quân và bộ binh ta đã phục sẵn trong các nhánh sông và các khu rừng rậm ven sông Bạch Đằng, chờ ngày tiêu diệt địch.
Sáng ngày 9/4/1288, đoàn thuyền chiến của ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng. Khi đoàn thuyền giặc lọt vào trận địa mai phục của ta thì từ các nhánh sông, các thuyền nhẹ của ta lao ra, đánh tạt vào sườn giặc, dồn chúng vào các bãi cọc. Giặc định áp thuyền sát bờ, đổ quân chiếm lấy núi cao để yểm hộ cho đoàn thuyền rút, nhưng bị bộ binh ta đánh hắt xuống. Một trận kịch chiến ác liệt đã xảy ra. Nước triều xuống gấp, thuyền giặc to nặng, lao nhanh theo dòng nước, vướng cọc, tan vỡ rất nhiều. Cho đến giờ dậu (5-7 giờ tối), toàn bộ đạo quân thủy của giặc bị tiêu diệt. ô Mã Nhi bị bắt sống. Lần thứ ba trong lịch sử giữ nước của dân tộc, dòng Bạch Đằng lại ghi thêm một chiến công oanh liệt. Trong khi đó, đạo quân của Thoát Hoan cũng khốn đốn rút chạy ra biên giới. Sau khi bị phục kích ở cửa ải Nội Bàng, chúng bỏ con đường ra ải Khâu Cấp, vòng theo đường Đan Ba (Đình Lập), chạy tạt ra biên giới. Nhưng ở đây, chúng cũng bị quân ta chặn đánh, tướng giặc là A Bát Xích (Abaci) bị trúng tên. Mãi đến ngày 19/4/1288, đám tàn quân của Thoát Hoan mới về đến Tư Minh.
Chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt đã chôn vùi vĩnh viễn mộng xâm lược của Hốt Tất Liệt.
Em hiểu thế nào về câu văn sau:" Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng ta khiến chúng ta phải bước lên trên đường ấy". Chứng minh qua một tác phẩm em đã được học trong chương trình Văn 9. Trình bày bằng 1 đoạn văn khoảng 10-12 câu có sử dụng thành phần biệt lập
Câu trả lời của bạn
t gợi ý thôi nha
“Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta khiến chúng ta phải bước lên đường ấy” được trích ra “Tiếng nói của văn nghệ” do Nguyễn Đình Thi sáng tác đã khẳng định giá trị và tầm quan trong của văn hóa nghệ thuật đối với con người. Vậy, văn hóa nghệ thuật là gì?
Có thể hiểu, Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Còn “nghệ thuật” là những sản phẩm văn hóa, có giá trị tinh thần đối với con người. Con người cần có văn hóa nghệ thuật thì mới khẳng định sự tồn tại của dân tộc mình nói chung và bản thân mình nói riêng, vì nó là phần không thể thiếu đối với cuộc đời mỗi con người, góp phần tạo nên thế giới loài người, “Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta khiến chúng ta phải tự bước lên đường ấy” . Một dân tộc không được coi là dân tộc khi nó không có văn hóa
Văn hóa, nghệ thuật giúp con người vượt qua sự sợ hãi trong lúc khó khăn, giúp lưu lại những trí tuệ của cô nhân cho thế hệ mai sau. Giống như nó đã giúp anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long bớt cô đơn khi sống một mình trên đỉnh Yên Sơn, hay nó giúp những cô gái thanh niên xung phong làm việc phá bom trên tuyến đường Trường Sơn xa xôi(“Những ngôi sao xa xôi”-Lê Minh Khuê) quên đi khó khăn, cực nhọc, vất vả, gian lao, hiểm nguy trong công việc vào những phút giây rảnh rỗi. Thế nhưng, hiện nay vẫn có những sản phẩm văn hóa nghệ thuật xấu, góp phần hại chết đi cả một thế hệ, một quốc gia. Như đó là những bộ phim đen, những truyện đen, truyện ngôn tình xấu,…
Tuy văn hóa nghệ thuật luôn có ích lợi với con người nhưng đâu đó vẫn còn những kẻ lợi dụng văn hóa nghệ thuật để tạo ra những sản phẩm vật chất, tinh thần không lành mạnh, góp phần làm hủy hoại cả một quốc gia, một dân tộc. Hiện nay, đứng trước tình huống này, chúng ta cần phải chung tay góp sức để loại bỏ những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật xấu, đừng để “một con sâu làm rầu nồi canh”. Hy vọng những người tạo ra các sản phẩm văn hóa nghệ thuật có tâm hơn trong việc tạo ra các sản phẩm ấy.
Nói tóm lại, văn hóa nghệ thuật là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi con người. Là học sinh, tôi chỉ xem những sản phẩm của văn hóa nghệ thuật tốt, lên án những hành động tạo ra những sản phẩm văn hóa nghệ thuật xấu
Tả lại giấc mơ gặp Thúy Kiều
Đừng chép mạng nhé
Câu trả lời của bạn
Chưa đọc xong cho bà nghe một đoạn Kiều, tôi đã ngủ lúc nào không biết. Tôi thấy mình đang đứng giữa một vùng trời đất bao la rộng lớn trong một buổi sáng mùa xuân.
Cảm giác như hơi thở mùa xuân vương trên vạn vật. Bầu trời trong xanh, từng tia nắng xuân lấp lánh đậu trên những cành cây, sương long lanh treo trên từng ngọn biếc. Khí trời mát mẻ và trong trẻo. Từng đàn chim én ríu rít chao liệng giữa bầu trời như muốn tận hưởng hết sắc xuân. Tôi phóng tầm mắt ra xa và choáng ngợp trước một khung cảnh còn tuyệt diệu hơn. Một tấm thảm óng mượt như nhung được dệt từ muôn ngàn sợi tơ làm từ cỏ non trải rộng khắp mặt đất, hắt lên nền trời một sắc xanh bất tận. Trên cái nền xanh vô tận ấy, một vài bông hoa lê trắng muốt điểm xuyết khoe sắc cùng vạn vật. Có lẽ chỉ có khoảnh khắc này đây, mùa xuân mới đẹp đến thế, tươi tắn và tinh khôi đến thế. Buổi sáng mùa xuân diễm lệ và tươi sáng quá. Bất chợt, hai câu Kiều văng vẳng bên tai tôi :
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".
Tôi mải mê đi, mải mê ngắm cảnh, rồi không biết tự lúc nào chân đã lạc bước vào một khung cảnh lễ hội náo nức. Tiết thanh minh, người người, nhà nhà du xuân thưởng ngoạn cảnh đẹp ; viếng thăm, sửa sang phần mộ để tưởng nhớ những người thân đã khuất. Cảnh tượng nhộn nhịp, nô nức, ríu rít như chim oanh chim én mùa xuân. Nơi gặp lại linh hồn những người đã khuất cũng là nơi hội ngộ của những người đang sống, nơi tụ hội tuổi thanh xuân. Từng đoàn người trẻ tuổi, nam thanh nữ tú, trai tài gái sắc "ngựa xe như nước, áo quần như nêm" dập dìu gặp gỡ, hẹn hò... Tưởng như một mùa vui đang bao trùm cả nhân gian, trời đất.
Tôi như mê đi cùng với cảnh vật. Lòng mỗi lúc thêm xốn xang. Chân cuốn theo dòng người tảo mộ. Đâu đâu cũng thấy "thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay". Đang bước, tôi bỗng khựng lại. Không thể tin vào mắt mình, dường như..., không, chắc chắn rồi, kia là 3 chị em nàng Kiều của cụ Nguyễn Du: Vương Quan, Thuý Vân và Thuý Kiều. Tôi nhận ra Thuý Vân và Thuý Kiều giữa muôn người qua lại bởi vẻ đẹp mười phân vẹn mười không dễ thấy ở hai nàng. Này đây, rõ ràng là nét "trang trọng khác vời", "khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang", phúc hậu của nàng Vân. Còn đây đúng là vẻ đẹp "sắc sảo mặn mà" nghiêng nước nghiêng thành với "làn thu thuỷ, nét xuân sơn" chỉ có ở nàng Kiều. Quả thật, "mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười". Họ thướt tha, yêu kiều, e lệ trong những bộ xiêm y lộng lẫy. Họ rực rỡ trong ánh nắng xuân, nổi bật giữa dòng người du xuân trẩy hội đông đúc. Khi họ xuất hiện giữa lễ hội, thiên nhiên dường như càng đẹp hơn, bầu trời như trong xanh hơn, chim én thêm rộn ràng tung cánh và cỏ cây hoa lá cũng như muốn rung rinh, toả hương theo gót hai nàng. Họ đi đến đâu, những ánh mắt ngưỡng mộ, yêu mến đổ dồn theo đến đấy. Tôi bèn ráng hết sức, rẽ đám đông tiến lại gần chị em Thuý Kiều và cất tiếng chào :
- Em chào hai chị, chào anh. Hai chị và anh đi chơi có vui không ạ ?
Ba người nhìn tôi, mỉm cười thân thiện rồi nhẹ nhàng gật đầu :
- Chào em. Vui lắm em ạ... Chúc em đi chơi vui nhé...
Tôi chưa kịp đáp lại, dòng người đã đẩy tôi ra xa. Tôi đành tìm một nơi thoáng đãng đứng dõi mắt theo hai nàng. Mãi ngắm họ, tôi quên mất thời gian trôi qua, trời về chiều từ lúc nào không biết. Mặt trời ngả bóng về phía tây. Khắp không gian đang dần khoác lên mình tấm áo màu hoàng hôn vàng êm dịu. Rồi không khí nhộn nhịp, tưng bừng của buổi du xuân thưa vắng dần. Ngày vui đi qua trả lại sự yên lành và chút lặng lẽ vốn có nơi mộ địa.
May sao trên đường trở về tôi lại gặp chị em Thuý Kiều. Tôi định chạy tới tiếp tục chuyện trò với họ, nhưng có một cái gì đó ngăn tôi lại. Hai nàng Kiều dường như chưa muốn về. Họ bâng khuâng bước, vừa đi vừa tha thẩn ngắm cảnh lúc chiều buông. Hoàng hôn thường gợi trong lòng ta cảm giác buồn thương, tàn tạ. Cuộc du xuân thưởng cảnh vừa náo nức, tưng bừng là thế, giờ đã lặng lẽ chìm vào cô tịch. Tâm trạng hai nàng Kiều chắc không khỏi lưu luyến, hụt hẫng. Dù cảnh vẫn đẹp, vẫn nên thơ với "dòng nước uốn quanh", "nhịp cầu nho nhỏ" nhưng có cái gì đó đã mất, đã thiếu vắng. Bước chân thơ thẩn trên dặm đường về của hai nàng, đặc biệt trong cái dáng đăm chiêu thẫn thờ của Thuý Kiều như ẩn chứa nỗi bồi hồi khôn tả. Dường như nàng đang mong ngày vui đừng qua nhanh, những điều tốt lành luôn ở lại. Nhưng số phận Kiều thì tôi đã biết rồi.
Lòng tôi bỗng nao nao thương cảm. Tôi không thể hiểu được vì sao một người con gái tài sắc vẹn toàn bậc nhất như Thuý Kiều lại phải chịu định mệnh cay đắng oan khiên vào loại bậc nhất như vậỵ ? Liệu lúc này đây, nàng đã có linh cảm gì về cuộc đời hoa trôi, bèo dạt tan tác giữa dòng sau này hay chưa ... Không, tôi phải nói cho nàng biết, nhất định tôi phải nói cho nàng biết trước để nàng chống trả lại số phận. "Nàng Kiều ơi ! Nàng Kiều ơi !... ". Tôi cứ gọi, gọi mãi, còn hai nàng Kiều thì cứ đi, xa dần, xa dần rồi nhạt nhoà trong ánh chiều bảng lảng.
Tôi vùng chạy theo, nhưng bị vấp ngã.
- Mẹ cha mày, lại mơ phải không con ? - Bà tôi hỏi khi tôi choàng tỉnh giấc.
- Bà ơi, cháu đã mơ được gặp hai nàng Kiều trong tiết thanh minh. Cháu mơ thấy mùa xuân đẹp lắm, và hai nàng Kiều thì y hệt Nguyễn Du tả, nghiêng nước nghiêng thành! Cháu muốn chạy theo mách trước cho họ những điều tai ương sẽ gặp sau này, nhưng chạy mãi, chạy mãi mà không theo kịp...
Bà tôi an ủi :
- Cháu của bà ! Ở vào thời của Thuý Kiều, những đau khổ oan khiên kia khó có thể tránh được. Còn bây giờ, điều đó là có thể bởi người phụ nữ đã làm chủ được số phận của mình và được thông cảm, chia sẻ nhiều hơn.
Đề bài: Em hãy tưởng tượng và kể lại cuộc gặp gỡ trò chuyện với người anh hùng Quang Trung-Nguyễn Huệ
( Ở thân bài: - Tả lại ngoại hình của vua Quang Trung
- Em hỏi- vua Quang Trung trả lời
- Lời nhận xét của em về vua Quang Trung )
Câu trả lời của bạn
Mở bài: Tìm 1 cái lý do gì đó để có thể gặp và trò chuyện với ông Quang Trung (vì ổng ở quá khứ mà, thì cách dễ nhất là nằm mơ thấy, cái này dễ viết mà không sáng tạo lắm; muốn sáng tạo hơn thì có thể là một tối trên đường đi chơi về thì bị lạc, xong rồi trời mưa, em trượt chân té vô (hoặc chạy vô trốn) trong một cái đường hầm, không ngờ đó là cái đường đi về quá khứ (mà xong tới cuối bài em nhớ giải thích là khi qua lại cái đường này thì thời gian là đúng lại cái lúc em vô áh, mà cái đường này khi em về lại hiện tại thì nó biến mất luôn: vậy mới giống trong phim hìhì...) Hoặc là sấm sét đánh làm mở ra 1 cổng "năng lượng" gì đó đi về quá khứ được, hoặc là rơi vô "lỗ đen vũ trụ" sao đó... Tóm lại là tùy trí tưởng tượng của em mà tìm 1 lý do sao đó về được quá khứ gâp được ông Quang Trung.
Thì vô thân bài: Nên là trước thời điểm ổng đánh trận, vì đang đánh túi bụi thì không có thời giờ trò chuyện gì đâu. Lúc này thì em cứ kể ra thôi. Ví dụ lúc em rớt xuống đó thì có 2 người lính bắt em vô lều ông "chủ tướng" ai dè đó là Quang Trung, vì em có thấy hình trong sách và thấy trên Google nên biết mặt ổng. Em mới mừng rỡ kêu lên, bận đầu dĩ nhiên ổng không tin nhưng em nói 1 hồi thì ổng tin. Em mới xin được ở lại chứng kiến trận đánh mà em từng được học và rất khâm phục này. Rồi ổng mới dắt em đi lòng vòng, giới thiệu về binh lính, chiến thuật, vũ khí... (cái này em học em biết chứ chị quên hết rồi)... Rồi kể tới lúc đánh em được đứng nhìn từ xa xa, thấy khí thế hào hùng sao đó, lòng yêu nước sục sôi, em cũng nghe trong lòng mình trào dâng tình cảm yêu nước, chí khí sao đó thì "nổ" thêm vô.... Trận đấu xong thì em còn được dự tiệc nữa... Rồi em xin ổng đi về, ổng mới phái lính đưa em lại chỗ cũ.
(Nếu viết kiểu này khó, thì em viết lúc em tới là lúc ổng đã lên ngôi vua rồi, trận đánh đã xong từ trước đó 1 thời gian rồi. Em mới xin ổng được nghe kể lại, ổng biết em là khách từ tương lai nên rất quý, cho ngồi kế bên "đàm đạo", ổng mới kể em nghe về trận đại phá quân Thanh này. Viết kiểu này thì chỉ cần dạo đầu 1 chút rồi "phang" nguyên đoạn học về trận đánh vô (lấy trong sách lịch sử luôn). Chắc chắn là ổng sẽ tò mò hỏi về tương lai, nhưng em khéo léo không được nói nhiều vì lý do là có thể làm thay đổi lịch sử, em chỉ "tâng bốc" ổng 1 chút là ổng được đưa vô sách giáo khoa, được nhiều lớp người cảm phục, em cũng rất nể phục ổng v.v...)
Kết luận: Thì em nói về nhà, mọi người đều không biết có chuyện gì. Em thì rất vui trong lòng, muốn kể với mọi người nhưng không dám vì sẽ thay đổi trật tự lịch sử, thời gian (với lại cũng không ai tin, không chừng còn bị đưa vô trại tâm thần). Nên tối đó em vui không ngủ được, trong lòng cứ cảm phục người anh hùng yêu nước, kiên cường, bất khuất, mưu trí, thông minh... biết ơn cha ông (tùm lum hết, nói thêm vô) rồi em thấy cần phải viết lại chuyện này trên giấy. Viết xong em thấy thoải mái hơn, lòng vẫn rất vui vì chuyến "phiêu lưu" vừa qua, em chìm vào giấc ngủ.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *