Qua bài thơ Ánh trăng các em nắm được kỉ niệm về một thời gian lao nhưng nặng nghĩa tình của người lính. Sự kết hợp các yếu tố tự sự, nghị luận trong một tác phẩm thơ Việt Nam hiện đại.
Bài thơ được chia làm 3 phần
→ Điệp từ “với” tô đậm thêm sự gắn bó chan hòa của con người với thiên nhiên, với những tươi đẹp của tuổi thơ.
→ Phép liên tưởng đầy tính nghệ thuật “trần trụi với thiên nhiên”, so sánh độc đáo “hồn thiên như cây cỏ” → Cho ta thấy rõ hơn vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, trong sáng, rất đỗi vô tư, hồn nhiên của vầng trăng. Đó cũng chính là hình ảnh con người lúc bấy giờ: vô tư, hồn nhiên, trong sáng.
⇒ Vầng trăng đã gắn bó thân thiết với con người từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành, cả trong hạnh phúc và gian lao. Trăng là vẻ đẹp của đất nước bình dị, hiền hậu,của thiên nhiên vĩnh hằng, tươi mát, thơ mộng. Vầng trăng không những trở thành người bạn tri kỉ, mà đã trở thành “vầng trăng tình nghĩa” biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình.
Hoàn cảnh sống:
Đất nước hòa bình.
Hoàn cảnh sống thay đổi: xa rời cuộc sống giản dị của quá khứ, con người được sống sung túc trong “ánh điện cửa gương” - cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong những căn phòng hiện đại,xa rời thiên nhiên.
“Vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”
→ Rõ ràng, khi thay đổi hoàn cảnh, con người có thể dễ dàng quên đi quá khứ, có thể thay đổi về tình cảm. Nói chuyện quên nhớ ấy, nhà thơ đã phản ánh một sự thực trong xã hội thời hiện đại.
⇒ Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài. Chính cái khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc của nhà thơ. Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng khiến nhà thơ ngỡ ngàng, bối rối, gợi cho nhà thơ bao kỉ niệm nghĩa tình.
Từ “mặt” được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển – mặt trăng, mặt người – trăng và người cùng đối diện đàm tâm.
Với tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” người đọc cảm nhận sự lặng im, thành kính và trong phút chốc cảm xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái gì rưng rưng”. Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái “rưng rưng”,cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính.
Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng- biểu tượng đẹp đẽ của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng, “như là đồng là bể, như là sông là rừng”. Đồng, bể, sông, rừng,những hình ảnh gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm.
→ Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”,đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc.
Kết hợp giữa tự sự và trữ tình, tự sự làm cho trữ tình trở nên tự nhiên mà cũng rất sâu nặng.
Đề: Phân tích Ánh trăng của Nguyễn Duy.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
⇒ Qua Ánh trăng nhà thơ nói về đạo lí "Uống nước nhớ nguồn" mà không cao giọng, trái lại như một lời chân thành và do đó đầy sức ám ảnh.
3. Kết bài
Bài thơ “Ánh trăng” in trong tập thơ cùng tên, được Nguyễn Duy sáng tác vào nãm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh. Bài thơ ca ngợi vầng trăng tri kỉ của tuổi thơ, của người lính một thời trận mạc, đồng thời gợi nhắc mọi người biết sống ân nghĩa thủy chung, giữ tròn đạo lí tốt đẹp. Để nắm được những kiến thức cần đạt khi học tác phẩm này, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Ánh trăng.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Nhắc đến thơ Nguyễn Duy, có nguời nhận xét: “Thơ Nguyễn Duy sâu lắng, tha thiết cái hồn, cái vía của dân ca, ca dao Việt Nam. Những bài thơ của ông không cố gắng tìm những hình thức mới mẻ mà đi sâu vào cái nghĩa, cái tình muôn đời của con nguời Việt Nam. Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Duy cũng không bóng bẩy mà gần gũi, dân dã, đôi khi còn hơi “bụi” phù hợp với ngôn ngữ thường nhật. Quả đúng như vậy! Chỉ qua bài Ánh trăng, ta cũng đủ để thấy được tài hoa trong nghệ thuật viết thơ của Nguyễn Duy. Để nắm được cách triển khai một bài văn viết hoàn chỉnh về tác phẩm này này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu sau:
- Suy ngẫm về triết lí sống của nhà thơ Nguyễn Duy qua bài thơ Ánh trăng
- Phân tích biểu tượng của hình ảnh đầu súng trăng treo trong Đồng chí - Chính Hữu và hình ảnh ánh trăng trong Ánh trăng - Nguyễn Duy
- Cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng
- Phân tích 2 khổ thơ đầu bài thơ Ánh trăng
- Cảm nhận 4 khổ thơ cuối bài Ánh trăng
- Suy nghĩ về khổ thơ kết thúc bài Ánh trăng của Nguyễn Duy
- Bài học làm người trong hai tác phẩm Ánh trăng của Nguyễn Duy và Bến quê của Nguyễn Minh Châu
- Đóng vai người lính trong bài thơ Ánh trăng kể lại câu chuyện
- Phân tích bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Bố cục (3 phần):
- Đoạn 1 (3 khổ thơ đầu): Kí ức về vầng trăng trong quá khứ của tác giả và vầng trăng trong hiện tại.
- Đoạn 2 (Khổ 4): Tình huống bất ngờ khiến kí ức ùa về.
- Đoạn 3 (2 khổ cuối): Sự hối hận của tác giả vì đã lãng quên vầng trăng.
Câu trả lời của bạn
- Bài thơ viết theo thể thơ năm chữ bố cục rõ ràng, mạch lạc.
- “Ánh trăng” có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và tự sự, hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa sinh động vừa khát, giàu tính biểu cảm, giọng điệu tâm tình tự nhiên như lời tâm sự của nhân vật trữ tình.
Câu trả lời của bạn
Lượm.
Câu trả lời của bạn
Thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Câu trả lời của bạn
Người bạn rất thân, hiểu rõ lòng mình.
Câu trả lời của bạn
Trái ngược nhau.
Câu trả lời của bạn
Thể hiện khát vọng và niềm tin thắng giặc Mĩ.
Câu trả lời của bạn
Con người có thể vô tình, lãng quên tất cả, nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn trong đầy, bất diệt.
Câu trả lời của bạn
- Thái độ đối với quá khứ.
- Thái độ với con người đã khuất.
Câu trả lời của bạn
Không có tình nghĩa, không có tình cảm.
Câu trả lời của bạn
Hình ảnh ánh trăng đẹp đẽ, vẹn nguyên tình nghĩa không phải mờ.
Câu trả lời của bạn
Biểu tượng của sự hồn nhiên, trong sáng của tuổi thơ.
Câu trả lời của bạn
Nghĩ.
Câu trả lời của bạn
Bài thơ có bố cục ba phần, ở mỗi phần có sự thay đổi giọng thơ:
- Phần 1: Ba khổ thơ đầu, giọng kể, nhịp thơ trôi chảy bình thường.
- Phần 2: Khổ thơ thứ tư: Giọng thơ đột ngột rất cao, ngỡ ngàng với bước ngoặt của sự việc, của sự xuất hiện vầng trăng.
- Phần 3: Khổ năm và sáu: Giọng thơ thiết tha rồi trầm lắng cùng với những cảm xúc, suy tư lặng lẽ.
Câu trả lời của bạn
* Kết cấu:
- Hai khổ thơ đầu là hình ảnh vầng trăng thở nhỏ và những ngày ở rừng trong chiến tranh. Những ngày ấy khắc ghi đinh ninh trong lòng mối tình với vầng trăng tình nghĩa, vầng trăng tri kỷ.
- Khổ thơ thứ ba : Hòa bình, về thành phố, quen với ánh sáng điện, với tiện nghi hiện đại. Vầng trăng đã trở thành người dưng, quá khứ nghĩa tình đã rơi vào lãng quên.
- Khổ thơ thứ tư : Sự việc bất thường : Mất điện, tối om, bật tung cửa bỗng lại thấy vầng trăng tròn. Vậy là gặp khó khăn gian khổ mới nhớ về quá khứ nghĩa tình. Khổ thơ này tạo bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc.
- Hai khổ thơ sau : Lời thơ khi ngân nga thiết tha, rưng rưng xúc động gặp lại tri kỷ bị lãng quên, khi trầm lắng nặng trĩu suy tư như một sự hối hận, sự tự vấn.
* Giọng điệu:
- Giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ, nhịp thơ khi tuôn chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo nhịp kể, khi ngân nga, khi trầm lắng suy tư. Tất cả những điều đó góp phần quan trọng trong việc bộc lộ những cảm xúc sâu xa của một người lính khi nghĩ về chiến tranh, về quá khứ.
Câu trả lời của bạn
- Khổ thơ cuối thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tính triết lý của tác phẩm". "Trăng cứ tròn vành vạnh" như tượng trưng cho quá khứ đẹp dẽ, nguyên vẹn chẳng thể phai mờ. Quá khư đẹp đẽ vĩnh hằng trong vũ trụ : "ánh trăng im phăng phắc" như một người bạn, một nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc. Cái im lặng ấy như đang nhắc nhở nhà thơ, nhắc nhở tất cả chúng ta. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên nghĩa tình, quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt, hồn hậu và rộng lượng.
Câu trả lời của bạn
- Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng lớp ý nghĩa.
+ Vầng trăng trước hết là trăng của thiên nhiên, của đất trời.
+ Trăng là biểu tượng cho những gì gắn bó với con người lúc gian khổ.
+ Trăng là tình cảm quá khứ hồn nhiên, tươi đẹp.
+ Trăng cũng là phần trong sáng, phần tốt đẹp trong con người luôn soi rọi, chiếu sáng những góc khuất, góc tối mới nảy sinh khi con người sống với nhà lầu, cửa gương, với những tiện nghi vật chất.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Trong dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư chính là bước ngoặt để từ đó tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề của tác phẩm. Từ đây, hai khổ năm và sáu có sự chuyển đổi giọng điệu: tha thiết rồi trầm lắng cùng cảm xúc suy tư lặng lẽ.
Câu trả lời của bạn
- Nguyễn Duy (1948).
- Tên khai sinh: Nguyễn Duy Nhuệ
- Quê: Thanh Hoá.
- Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì khỏng chiến chống Mỹ cứu nước.
- Đến năm 1966 ông bắt đầu nhập ngũ và trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin và tham gia chiến đấu ở nhiều mặt trận. Sau chiến dịch biên giới phía Bắc năm 1979 ông giải ngũ và làm việc tại Tuần báo Văn Nghệ Hội nhà văn Việt Nam.
- Nguyễn Duy đã theo con đường làm thơ từ rất sớm, khi ông còn đang là một học sinh trường cấp 3 Lam Sơn. Ông được coi là một trong những cây bút tài hoa không chỉ bởi ở ngôn ngữ thơ mà còn ở hình tượng sáng tác gợi cảm, chân quê.
- Năm 1973, nhà thơ Nguyễn Duy đã đạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Giọt nước mắt và nụ cười, Tre Việt Nam. Ngoài thơ, ông còn viết nhiều tiểu thuyết và bút ký.
- Từ năm 1977 ông là đại diện thường trú của báo Văn nghệ tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Được nhận giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1972 -1973.
- Năm 2007, nhà thơ Nguyễn Duy được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *