Qua bài học giúp các em thấy được tấm lòng nhân nghĩa, vị tha của Kiều. Ý nguyện của Nguyễn Du mong ước cuộc sống công lý, chính nghĩa "ở hiền gặp lành".
⇒ Cách cư xử tế nhị, khôn khéo của Thúy Kiều khi báo ân Thúc Sinh. Nàng có bản chất vị tha, thái độ sống vì ân nghĩa. Thông minh, sáng suốt.
→ Hoạn Thư là người khôn ngoan, ranh ma, quỷ quyệt. Với bản lĩnh sắc sảo của mình đã biến nguy thành an, tìm mọi cách để giảm thiểu tội lỗi của mình và hạ bớt sự căm giận của Kiều để Kiều không thể chừng phạt nặng nề như dự định.
→ Kiều là người khoan dung, độ lượng, nhân hậu và có lòng vị tha.
Đề: Phân tích nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích "Kiều báo ân báo oán" của Nguyễn Du.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
→ Qua việc báo ân Thúc Sinh, ta thấy Thúy Kiều là một người nhân hậu, nghĩa tình “Ơn ai một chút chẳng quên”.
3. Kết bài
Thúy Kiều báo ân báo oán là một trong những đoạn trích thành công của Nguyễn Du khi sử dụng ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tính cách và con người nhân vật. Với bài soạn Thúy Kiều báo ân báo oán, các em sẽ thấy được những ân oán của Kiều được đền trả công bằng như thế nào. Chi tiết bài soạn, các em có thể tham khảo tại đây: Bài soạn Thúy Kiều báo ân báo oán.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Nguyễn Du đã sáng tạo nên những lời thoại biến hóa để nói lên chuyện ân oán, cái lẽ đời xưa nay, ca ngợi sự thủy chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh báo ân báo oán là một tình tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo của Truyện Kiều. Để thấy được những sự việc và thái độ của Thúy Kiều trong đoạn trích này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích nhân vật Hoạn Thư trong đoạn trích Kiều báo ân báo oán
- Đóng vai Thúy Kiều kể lại cho mọi người nghe việc báo ân báo oán
- Phân tích nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán
- Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
- Bị những lời bào chữa của Hoạn Thư làm cho thuyết phục.
- Nhưng quan trọng hơn cả là nàng có tấm lòng vị tha bao dung nên đã tha cho Hoạn Thư.
Câu trả lời của bạn
Qua đoạn trích có thể thấy:
- Thúy Kiều là người trọng ân nghĩa. Những ai đã giúp đỡ nàng đều được nhớ tới và đến ơn xứng đáng. Còn với Hoạn Thư, nàng kiên quyết trừng phạt. Nhưng trước thái độ khôn ngoan kêu ca "đến mực, phải lời", Kiều đã tha bổng. Nàng tha Hoạn Thư cho thấy Kiều là người không hẹp hòi, không nhỏ nhen, không cố chấp. Sự rộng lượng của nàng càng làm cho người ta, kể cả Hoạn Thư – kẻ thù, phải tâm phục, khẩu phục.
- Hoạn Thư là một người phụ nữ nham hiểm và hết mực khôn ngoan.
Câu trả lời của bạn
1. Thúy Kiều
Mọi biểu hiện đa dạng phức tạp trong tính cách Thúy Kiều đều làm nổi bật vẻ đẹp từ tấm lòng vị tha, nhân hậu của nàng.
- Với tấm lòng nhân hậu nàng đã thả Thúc Sinh, ban thưởng hậu hĩnh.
- Không những vậy nàng còn tha bổng cho Hoạn Thư, kẻ đã gây cho Kiều biết bao khổ đau.
2. Hoạn Thư
Mọi biểu hiện đa dạng phức tạp trong tính cách cho thấy nàng ta là người khôn ngoan, giảo hoạt. Điều này được thể hiện rõ qua lời lẽ tự bào chữa cho mình.
Câu trả lời của bạn
Bố cục đoạn trích: 2 phần
- Mười hai câu đầu: Thúy Kiều báo ân.
- Hai mươi hai câu còn lại: Thúy Kiều báo oán.
Câu trả lời của bạn
- Hình ảnh tội nghiệp của Thúc Sinh làm Kiều động lòng trắc ẩn và tạo nên sự bất ngờ trong việc trả ơn, báo oán tiếp theo.
- Qua lời nói của Kiều, có thể thấy nàng rất trọng tấm lòng và sự giúp đỡ mà Thúc Sinh dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:
+ Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Cùng với chàng Thúc, Kiều có những tháng ngày êm ấm trong cuộc sống gia đình. nàng gọi đó là "nghĩa nặng nghìn non". Trong hình thức của cách nói văn chương, sách vở lá tấm lòng biết ơn chân thật của Kiều. Hai chữ "người cũ" tiếng Việt mang sắc thái thân mật, gần gũi, khác với hai chữ "cố nhân" mang sắc thái trang trọng.
+ Vì gắn bó với Thúc Sinh mà đời Kiều một lần khổ với thân phận làm lẽ đau đớn hơn một kẻ tôi đòi. Tuy nhiên Kiều hiểu nỗi đau khổ của nàng không phải do Thúc Sinh gây ra mà thủ phạm là Hoạn Thư. Thúy Kiều thấu hiểu hoàn cảnh của Thúc Sinh: "Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?". Với Kiều thì dù có "Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân" cũng chưa dễ xứng với ân nghĩa của Thúc Sinh. Tấm lòng "nghĩa nặng nghìn non" thì gấm vóc, bạc vàng nào cũng có thể cân được.
+ Khi nói với Thúc Sinh, Kiều xưng hô là: Sâm Thương. thể hiện sự trân trọng của nàng Kiều.
- Trong khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư. Điều đó chứng tỏ vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho Kiều đang còn quá xót xa. Lúc cói về Hoạn Thư, ngôn ngữ của Kiều hết sức nôm na, bình dị. Nàng dùng những thành ngữ thuộc "kẻ cắp gặp bà già", "kiến bò miệng chén" với những từ Việt dễ hiểu. Hành động trừng phạt cái ác theo quan điểm của nhân dân phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Câu trả lời của bạn
- Khi nói với Thúc Sinh Kiều xưng hô : nghĩa, tòng, phụ, cố nhân,... kết hợp với điển cố Sâm Thương. Cách nói trang trọng.
- Khi nói về Hoạn Thư, nói với Hoạn Thư Kiều xưng hô: quỷ quái tinh ma ; kẻ cắp, bà già gặp nhau ; kiến bò miệng chén ; càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều,... Cách nói hết sức nôm na, bình dị, dễ hiểu này phù hợp với đối tượng và mục đích giao tiếp. Hành động trừng phạt cái ác theo quan điểm của nhân dân được diễn đạt bằng lời nói.
Câu trả lời của bạn
Chàng Thúc đã đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục, đem đến cho nàng những ngày tháng êm ấm của cuộc sống gia đình. Cùng với tấm lòng trọng ơn nghĩa, ở Thuý Kiều còn có lòng khoan dung. Không thấy được sự thống nhất giữa tinh thần trọng ơn nghĩa với lòng khoan dung ấy thì khó mà lí giải được những hành động đối lập nhau của Kiều xảy ra cùng một lúc. Qua lời nói, khi mỉa mai "Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây !", khi thẳng thừng : "Đàn bà dễ có mấy tay - Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!”,… có thể thấy Kiều đã xác định không lầm "Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư".
Phân tích đoạn thơ Thuý Kiều báo ân báo oán.
Câu trả lời của bạn
Trải qua hết nạn nọ đến nạn kia, Kiều đã nếm đủ mọi điều cay đắng. Có lúc tưởng chừng nàng buông xuôi trước số phận: Biết thân chạy chẳng khỏi trời, Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. Trong khi Kiều chới với, tuyệt vọng thì Từ Hải xuất hiện. Kiều gặp Từ Hải, một bước ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận của cô gái tài sắc họ Vương. Người anh hùng đội trời đạp đất chẳng những cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh nhơ nhớp mà còn đưa nàng từ thân phận con ong cái kiến bước lên địa vị một phu nhân quyền quý, cao hơn nữa là địa vị của một quan tòa.
Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác. Qua ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du, chúng ta thấy được tấm lòng nhân nghĩa vị tha của Kiều và ước mơ công lí của nhân dân: ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác.
Đoạn thơ chia làm hai phần. Mười hai câu đầu là cảnh Thuý Kiều báo ân. Những câu thơ còn lại là cảnh Thuý Kiều báo oán.
Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của Nguyễn Du rất đa dạng. Có khi ông dùng bút pháp ước lệ để miêu tả ngoại hình (đoạn Chị em Thuý Kiều); có khi lại dùng ngôn ngữ độc thoại, hoặc tả cảnh ngụ tình để miêu tả tâm trạng (đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích). Trong đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán, tính cách nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại. Bằng ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã khắc hoạ tính cách Thuý Kiều và Hoạn Thư thật tài tình.
Đúng với bản chất nhân hậu vốn có, Thuý Kiều nghĩ tới chuyện đền ơn trước rồi mới báo oán sau. Người được mời đầu tiên là Thúc Sinh: Cho gươm mời đến Thúc Lang. Trước cảnh uy nghiêm gươm lớn giáo dài, chàng Thúc hoảng sợ đến mức Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run, mất cả thần sắc, bước đi không vững. Hình ảnh tội nghiệp này hoàn toàn phù hợp với tính cách của Thúc Sinh, một con người tốt bụng, đa tình nhưng nhu nhược, dám yêu nhưng không đủ dũng cảm để bảo vệ người yêu.
Lời nói của Kiều chứng tỏ nàng thực sự trân trọng hành động nghĩa hiệp mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:
Nàng rằng: "Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?..."
Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Kiều đã có những tháng ngày tạm thời yên ổn trong cuộc sống chung với Thúc Sinh. Nàng gọi đó là nghĩa nặng nghìn non, nàng không bao giờ quên. Kiều ân cần hỏi han Thúc Sinh để trấn an chàng. Hai chữ người cũ mang sắc thái thân mật, gần gũi, biểu hiện tấm lòng biết ơn chân thành của nàng.
Khi nói với Thúc Sinh Kiều dùng ngôn ngữ trau chuốt và sử dụng cả những điển cố, điển tích trong văn chương. Cách nói ấy phù hợp với thư sinh họ Thúc và diễn tả được thái độ trân trọng của Kiều đối với chàng.
Vì muốn thoát khỏi cảnh: Sống làm vợ khắp người ta nên Kiều đã nhận lời làm lẽ Thúc Sinh. Nhưng cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều khốn khổ với thân phận tội đời khi rơi vào tay vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư. Nàng cho rằng nỗi đau đớn của mình không phải do Thúc Sinh gây ra. Thuý Kiều cũng thấu hiểu hoàn cảnh éo le và tâm trạng của Thúc Sinh: yêu nàng nhưng không đủ sức bảo vệ nàng. Nàng không oán trách mà đem Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân để đền đáp ơn nghĩa của Thúc Sinh và vẫn khiêm tốn bày tỏ: Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là. Điều đó khẳng định Thuý Kiều là người trọng nghĩa.
Trong khi trò chuyện với Thúc Sinh, Thuý Kiều đã động tới Hoạn Thư, bởi vết thương lòng mà hoạn Thư gây ra cho nàng vẫn còn rỉ máu làm cho nàng không những chỉ đau đớn về thể xác mà còn đau đớn gấp bội về tinh thần.
Cuộc đối đáp giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư ở cảnh báo oán là một màn kịch ngắn nhưng có đầy đủ nhân vật, lời đối thoại và kịch tính:
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.
Với Hoạn Thư, Kiều dùng cách nói nôm na, bình dị nhưng chứa đựng sự hả hê khó giấu. Những thành ngữ quen thuộc như kẻ cắp bà già gặp nhau, kiến bò miệng chén.., rất hợp với sự thay bậc đổi ngôi giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư. Hành động trừng phạt cái ác của Thuý Kiều theo đúng quan điểm công lí của nhân dân nên nó phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Mọi hành động, lời nói của Thuý Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai, chì chiết đối với Hoạn Thư. Vẫn một điều chào thưa, hai điều tiểu thư, vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm Hoa Nô cho nhà họ Hoạn nhưng chính điều đổ đã khiến Hoạn Thư giật mình sợ hãi nhớ tới những ngày đày đọa Kiều, gieo cho Kiều bao nhiêu tai họa. Cách xưng hô này còn là một đòn quất mạnh vào mặt ả đàn bà họ Hoạn có máu ghen ghê gớm.
Sự mỉa mai, đay nghiến của Kiều thể hiện khá rõ trong nhịp điệu thơ như dằn ra từng tiếng, trong những từ ngữ được lặp đi lặp lại với mục đích nhấn mạnh: dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời này, càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều... Phải nói như thế mới xứng với Hoạn Thư, con người xảo trá và tàn độc: Bề ngoài thơn thớt nói cười, bên trong nham hiểm giết người không dao.
Giọng điệu ấy cho thấy Thuý Kiều quyết trừng trị Hoạn Thư cho hả giận: Kiến bò miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
Lúc đầu, Hoạn Thư cũng hồn lạc phách xiêu, nhưng với bản chất khôn ngoan, lọc lõi, ngay trong hoàn cảnh ấy, Hoạn Thư vẫn đủ bình tĩnh để liệu điều kêu ca. Những điều Hoạn Thư kêu ca thực chất là lí lẽ để Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình.
Trước hết, Hoạn Thư đưa ra tâm lý chung của phụ nữ: Rằng: "Tôi chút phận đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. Với lý lẽ này, sự đối lập giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư đã bị xoá bỏ. Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người cùng chung chút phận đàn bà. Sau đó, Hoạn Thư kín đáo kể công đã chạnh lòng thương xót mà cho Kiều ra chép kinh ở Quan m Các: Nghĩ cho khi gác viết kinh và dẫu biết mà không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn: Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Ý Hoạn Thư muốn nói rằng nếu tôi có tội thì chẳng qua cũng xuất phát từ tâm lí của giới nữ: Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai. Thế là từ một tội nhân, Hoạn Thư đã ranh mãnh hoá giải tất cả để trở thành nạn nhân đáng thương của chế độ đa thê.
Cao tay hơn, cuối cùng Hoạn Thư nhận hết tội lỗi về mình: Trót lòng gây việc chông gai, Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng! Đòn hiểm này của tiểu thư họ Hoạn đã đánh trúng vào chỗ mạnh mà cũng là chỗ yếu của Kiều: lòng nhân hậu và khoan dung hiếm có.
Trước những lời lẽ của Hoạn Thư, Kiều phải thừa nhận rằng ả khôn ngoan đến mực nói năng phải lời. Hoạn Thư đẩy Kiều tới chỗ khó xử: Tha ra thì cũng may đời, Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen. Cho nên dù đã nghiêm khắc răn đe Hoạn Thư nhưng rồi Kiều lại tha bổng: Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay. Hoạn Thư đã biết lỗi, đã dập đầu xin tha thì Kiều cũng cư xử theo quan điểm của dân gian là Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại.
Qua những lý lẽ để gỡ tội của Hoạn Thư, chúng ta thấy ả là loại người sâu sắc nước đời và quỷ quái tinh ma. Tuy nhiên, việc Hoạn Thư được tha bổng không hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự bào chữa của ả mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều. Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán một lần nữa đã chứng minh tấm lòng vị tha, nhân hậu đáng quý của người con gái tài sắc họ Vương và cũng là của tác giả Truyện Kiều.
Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thuý Kiều đã trở thành vị quan tòa thực hiện công lí. Đoạn thơ phản ánh khát vọng và ước mơ công lí chính nghĩa sẽ chiến thắng của nhân dân thời đại Nguyễn Du.
Phân tích nghệ thuật miêu tả qua ngôn ngữ đối thoại nhằm khắc họa tính cách nhân vật trong đoạn trích Thuý Kiều báo ân, báo oán.
Câu trả lời của bạn
Kiều báo ân báo oán này", Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật miêu tả ngôn ngữ đối thoại thật độc đáo để khắc họa tính cách nhân vật Thúy Kiều, Hoạn Thư thật thành công.
Trải qua bao thăng trầm, cuối cùng Kiều cũng có được một danh phận chính thức, nàng trở thành phu nhân của Từ Hải, trở thành người có quyền có thế trong tay. Chính ở địa vị này, nàng mới có thể báo ân báo oán với những người xưa kia của mình. Đoạn trích là lời báo ân của Thúy Kiều đối với Thúc Sinh cũng là lời báo oán của nàng dành cho Hoạn Thư. Ở đây, Nguyễn Du đã tinh tế lồng vào trong từng câu chữ của từng nhân vật nghệ thuật miêu tả ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tâm lý cũng như tính cách của họ.
Nhân vật đầu tiên trong đoạn trích mà chúng ta có thể nhận ra Nguyễn Du đã dùng rất nhiều tâm sức để dựng lên màn đối thoại: đó là Thúy Kiều. Từng lời của nàng thốt ra đối với Thúc Sinh đều là những lời nói mang sức nặng của ân tình để báo đền cho người từng giúp đỡ mình lúc khốn khó. Nàng rằng:
"Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là
Vợ chàng quỷ quái tinh mà
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau
Kiến bò miệng chén chưa lâu
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa"
Đúng như tính cách của mình, Thúy Kiều chọn báo ân trước khi báo oán. Nàng muốn trả hết ơn nghĩa với người xưa trước khi báo những oán đền xưa kia. Vậy nên, nàng cho gọi Thúc Sinh vào trước. Thế nhưng, chàng ta vẫn là con người hèn nhát của năm nào, bước vào công đường mà tràn đầy run sợ "mình dường dẽ run". Thấy vậy, Thúy Kiều cất lời rằng:
"Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân
Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là"
Nàng lật lại những địa điểm năm xưa gợi nhớ trong lòng chàng, ân cần hỏi han chàng từng chút. Nàng biết ơn nghĩa nàng nợ Thúc Sinh không thể đếm được, nghĩa đó "nặng nghìn non". Chàng đã cứu nàng ra khỏi lầu xanh, cho nàng nơi ăn chốn ở, tuy chẳng cưu mang được nàng lâu dài, chẳng cho nàng được một danh phận đúng nghĩa nhưng chàng chung quy vẫn giúp nàng vượt qua một phần gian khổ. Vậy nên, nàng gọi nhắc chàng về "Sâm Thương", về "Lâm Tri" cốt để chàng nhớ lại người cũ năm nào để nàng có thể báo đền cho chàng chút ân tình ngày xưa. Tuy rằng đã bao thời gian trôi qua, nhưng nàng vẫn chưa bao giờ quên ơn nghĩa mà chàng đã trao cho nàng. Từng lời Kiều nói ra ở đây vô cùng thân mật, gần gũi, toàn là những câu hỏi nhẹ nhàng, những lời gợi nhớ. Nàng chẳng hề ra oai, tỏ vẻ dọa nạt gì chàng. Nguyễn Du đã khắc họa bằng ngôn ngữ một hình ảnh nàng Kiều vẫn như trước đây: thùy mị, nết na, lại vô cùng trọng nghĩa trọng tình.
Thế nhưng, trả ân cho chàng xong, nàng cũng không quên quay lại cảnh báo chàng:
"Vợ chàng quỷ quái tinh ma
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau
Kiến bò miệng chén chưa lâu
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa"
Chàng là vậy, giúp đỡ nàng, có ơn với nàng nhưng vợ chàng lại khiến cho Kiều phải chịu nhiều ủy khuất, uất hận. Thế nên giờ đây, Kiều liền ra lời cảnh báo cho chàng rằng lần này nàng sẽ không chịu để yên cho người vợ "quỷ quái tinh ma" của chàng nữa. Nàng sẽ quyết báo đền những gì mà nàng ta đã gây ra cho mình. Nhắc đến Hoạn Thư, những vết thương trong sâu thẳm tâm hồn nàng bắt đầu rỉ máu. Hoạn Thư đã không chỉ hành hạ về thể xác mà còn hành hạ về cả tâm hồn của nàng nữa. Ở đây, Nguyễn Du vẫn dẫn dắt người đọc bằng những lời đối thoại của nhân vật mà ở đây là Thúy Kiều. Nếu như ngày xưa, Kiều chỉ dám cúi đầu trước những đau khổ mà Hoạn Thư gây ra cho nàng thì giờ đây, bằng nghệ thuật miêu tả ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã cho ta thấy được những chuyển biến trong tâm lý và tính cách của Kiều. Giờ đây, Kiều đã trở thành một Thúy Kiều mạnh mẽ, một người phụ nữ uy quyền, hoàn toàn không còn nhu nhược, yếu đuối nữa. Vậy nên, nàng mới khẳng khái nói với Thúc Sinh rằng: "Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau", rằng giờ đây, nàng cũng sẽ báo đền lại những tổn thương mà Hoạn Thư đã gây ra cho nàng.
Kết lại những lời báo ân dành cho Thúc Sinh, Thúy Kiều đã lên tiếng cảnh báo về sự trả thù, báo oán của mình dành cho Hoạn Thư - kẻ đã gây ra đau khổ cho nàng trước kia. Nguyễn Du, bằng tài năng của mình, thông qua màn đối thoại của Thúy Kiều - Thúc Sinh, ông đã dựng lên được tính cách của nàng Kiều. Nàng vẫn là người con gái thông minh, xinh đẹp, giàu lòng nhân hậu, thế nhưng nàng đã không còn yếu đuối, chịu đựng như trước nữa. Thế nên, khi đối diện với Hoạn Thư, không chờ để nàng ta cất lời, nàng đã cất lời trước:
"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây
Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều"
Lời vừa mở là một loạt những câu châm biếm, mỉa mai của Kiều dành cho Hoạn Thư. Thúy Kiều mỉa mai rằng chắc hẳn Hoạn Thư chưa từng nghĩ sẽ có ngày hai người đổi vai cho nhau, kẻ chủ thành tớ mà kẻ tớ thì thành chủ như hôm nay. Nàng cũng cảnh báo nàng ta rằng thói hồng nhan của Hoạn Thư sẽ khiến cho nàng ta chuốc thêm nhiều uất ức, đau khổ nữa mà thôi. Qua những lời nói ấy, chúng ta thấy rằng, tính cách của Kiều đã hiện thật rõ đằng sau mỗi câu chữ. Nàng đã chẳng còn là một cô tiểu thư mỏng manh nữa, nàng đã trở lên mạnh mẽ, một người phụ nữ với tính cách thật sắc sảo, khiến cho ai nấy cũng phải nể phục. Mỗi lần nàng cất giọng lên, thì đến Hoạn Thư kia cũng phải cúi đầu nhận tội. Nguyễn Du ở đây đã dùng những ngôn từ đối thoại thật sắc bén để làm hiện rõ lên tính cách của Kiều cũng như sự sắc sảo trong từng câu nói mà nàng đối thoại.
Kết lại đoạn trích, người ta lại một lần nữa được chứng kiến tâm lý, tính cách của Kiều được vẽ lên bằng những câu đối thoại. Nàng đã quyết định tha cho Hoạn Thư. Những câu nói cuối cùng, người ta vẫn nhận ngay rằng Kiều bởi lòng nhân hậu, tính cách dịu dàng, cũng như sự yếu mềm của một người phụ nữ. Bởi nàng hiểu, nàng cũng là phụ nữ, cũng hiểu được chút lòng dạ đàn bà.
Cũng trong đoạn trích này, bằng ngôn từ đối thoại, Nguyễn Du không chỉ dựng lên tính cách của nàng Kiều vừa nhân hậu, vừa sắc sảo mà còn dựng lên tính cách của một Hoạn Thư thông minh, khôn khéo cùng một chút xảo quyệt nữa.
Dưới trướng của Kiều, Hoạn Thư được Kiều vời đến để báo đền những oán hận mà nàng ta đã gây ra cho Kiều khi Kiều còn phải chịu kiếp làm tôi tớ ở phủ họ Hoạn. Thế nhưng, dù giật mình khiếp đảm trước sự uy nghiêm ấy, Hoạn Thư vẫn bình tĩnh đối đáp với Kiều:
"Rằng: tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình
Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo
Lòng riêng riêng những kính yêu
Chồng chung cho dễ ai chiều cho ai
Trót lòng gây việc chông gai
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng".
Khi Thúy Kiều lên tiếng buộc tội Hoạn Thư, đồng thời cũng cảnh báo nàng ta phải trả lại những gì đã gây ra cho Kiều thì tính cách nàng ta mới bộc lộ thật rõ. Quả không hổ là con của một viên quan lớn, những lời nói Hoạn Thư thốt ra đều vô cùng thấu tình đạt lý. Nó đã chạm tới trái tim yếu mềm của Kiều khiến Kiều phải suy nghĩ. Hoạn Thư nói rằng nàng ta có ghen tuông đấy, thế nhưng đó là thói thường của đàn bà, mấy ai chồng có nhân tình lại không ghen tuông. Đồng thời, nàng ta cũng nhắc tới những ân nghĩa mà nàng ta đã làm cho Kiều khi Kiều ở nhà họ Hoạn rằng nàng ta đã cho Kiều ra ở gác viết kinh và khi Kiều trốn chạy, nàng ta cũng bỏ qua, chẳng truy đuổi thêm nữa. Lời nói ấy thốt ra vừa thấu tình lại đạt lý khiến cho Thúy Kiều phải ngẫm nghĩ hồi lâu. Thế mới nói, Nguyễn Du đã thật tài hoa khi khắc họa tính cách của Hoạn Thư: một con người vừa khôn khéo, vừa thông minh, bình tĩnh, dù trong tình thế ngàn cân nguy hiểm tới tính mạng cũng không hề nao núng. Phải nói, nghệ thuật miêu tả ngôn ngữ đối thoại của Nguyễn Du để khắc họa tính cách nhân vật đã đạt tới đỉnh cao mà khó ai có thể sánh bằng.
Không chỉ thế, Hoạn Thư còn so sánh Kiều với "lượng bể" to lớn, đặt Kiều vào tình thế khó khăn. Nếu như Kiều chẳng tha cho nàng ta thì chẳng hóa ra nàng là một người nhỏ nhen hay sao. Thế mới biết, Hoạn Thư là một kẻ thật khôn khéo biết chừng nào! Và Nguyễn Du - ông cũng thật xuất sắc khi chỉ với vài ba câu thơ ngắn ngủi nhưng lại dựng lên được tính cách của một con người vừa khôn ngoan, vừa xảo quyệt lại thông minh, bình tĩnh vô cùng - Hoạn Thư.
Bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh đồng thời bằng bút pháp tài hoa của mình, Nguyễn Du chỉ với vài màn đối thoại ngắn ngủi giữa các nhân vật đã dựng lên được tính cách của từng nhân vật ấy trong đoạn trích Kiều báo ân báo oán. Thứ nhất, đó là đoạn đối thoại giữa Kiều - Thúc Sinh, Kiều hiện lên với tính cách vừa hiền dịu, lại nhẹ nhàng, ân cần, vừa thấu tình đạt lý, lại trọng tình trọng nghĩa. Còn khi đối thoại Kiều - Hoạn Thư, Thúy Kiều lại hiện lên là một con người sắc sảo, uy quyền. Còn với Hoạn Thư, chỉ bằng tám câu thơ ngắn, Nguyễn Du đã dựng lên một con người với tâm tư khôn ngoan, sắc bén, xảo quyệt nhưng thông minh, bình tĩnh trước nguy hiểm vô cùng. Có thể nói, Nguyễn Du đã vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tính cách nhân vật ở trong đoạn trích Kiều báo ân báo oán này.
Khép lại những dòng thơ, người đọc chúng ta vẫn còn đọng lại trong tâm tưởng tính cách của nàng Kiều với những lời đối thoại vừa ân cần lại vừa sắc sảo. Chúng ta càng ấn tượng hơn với Hoạn Thư - một kẻ khôn khéo, xảo quyệt biết nhường nào. Phải nói, Nguyễn Du thực sự là một bậc thầy khiến người ta phải khâm phục khi dựng lên bức tranh chân dung tính cách của nhân vật chỉ bằng những lời thơ thật ngắn gọn, nhẹ nhàng. Ông xứng đáng là một thi nhân tài hoa bậc nhất Việt Nam.
Phân tích hình tượng nhân vật Hoạn Thư qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán trong tác phẩm Truyện Kiều.
Câu trả lời của bạn
Trước lời nói, thái độ của Kiều, lúc đầu Hoạn Thư cũng hồn lạc, phách xiêu nhưng vẫn kịp liệu điều kêu ca. Đây quả là con người khôn ngoan, giảo hoạt.
Trước hết Hoạn Thư dựa vào tâm lí thường tình của người phụ nữ để gỡ tội:
Rằng tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tinh.
Lí lẽ này đã xóa đi sự đối lập giữa Kiều và Hoạn Thư, đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người đồng cảnh, cùng chung chút phận đàn bà. Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lý chung của nữ giới:
Lòng riêng riêng những kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai.
Đã là phụ nữ thì không mấy ai dễ dàng chấp nhận chia sẻ chồng mình cho người khác và Hoạn Thư cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Từ tội nhân, Hoạn Thư đã biện bạch để mình trở thành nạn nhân của chế độ đa thê.
Tiếp đến nàng ta kể công với Kiều:
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Hoạn Thư đã khéo léo gợi lại chút ân tình ngày xưa: một là đã cho Kiều xuống Quan Âm Các giữ chùa chép kinh, không bắt làm thị tì nữa; hai là, khi Kiều bỏ trốn mang theo chuông vàng khánh bạc, đã bỏ qua không đuổi theo. Cách nói này rất khéo, chỉ gợi sự thật và chuyện cũ ra, chỉ người trong cuộc mới biết. Nghĩ cho là nhớ lại cho, suy nghĩ lại cho.
Cuối cùng Hoạn Thư nhận tất cả lỗi về mình, chỉ còn biết trông cậy vào tấm lòng khoan dung, độ lượng lớn rộng như trời biển của Kiều:
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
Tuy chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai nhưng trong thâm tâm, Hoạn Thư luôn kính yêu Thúy Kiều. Hoạn Thư tự nhận tội gây việc chông gai và xin Thúy Kiều rộng lượng. Qua các lí lẽ gỡ tội, có thể thấy Hoạn Thư là người sâu sắc nước đời đến quỷ quái tinh ma.
Đóng vai Thúy Kiều kể lại cho mọi người nghe việc báo ân báo oán.
Câu trả lời của bạn
Trong mười lăm năm lưu lạc, cuộc đời tôi tưởng bị chôn vùi trong những tháng ngày "thanh lâu hai lượt thanh y hai lần". Nhưng may mắn thay, đã có lúc tôi được cuộc đời nâng niu, ưu ái. Những thay đổi ấy có được là nhờ Từ Hài, một con người "đội trời đạp đất ở đời".
Về với chàng ít lâu, sau những chiến công lừng lẫy của chàng, tôi trở thành đệ nhất phu nhân. Chàng hỏi tôi về những người đã từng có ơn, những kẻ đã hãm hại, đẩy tôi vào bể khổ. Rồi chàng mời hết những người có ơn, bắt hết những kẻ gian ác ấy về cho tôi toàn quyền xử tội. Thế là hôm ấy, tôi và chàng ngồi trên điện xét xử: báo ân và báo oán. Đầu tiên là Thúc Sinh, người đã từng có ơn cứu tôi khỏi lầu xanh. Chàng Thúc bước vào, mặt đỏ như chàm, mình mẩy run run. Tôi nghĩ, chắc chàng quá sợ đây mà. Tôi biết chàng là người nhu nhược nhưng tôi không trách móc. Dù vợ cả chàng là Hoạn Thư luôn ghen tuông hành hạ tôi nhưng chuyện đó để khi khác! Giờ đây tôi phải đền ơn chàng. Tôi cất tiếng: "Chào chàng Thúc! Hôm nay mời chàng đến đây là để tôi bày tỏ chút lòng thành, xin được đền ơn chàng!".
Nghe đến đây dường đã đỡ sợ nên chàng lên tiếng: "Vâng..!". Tôi lại nói: "Nghĩa chàng dành cho tôi nặng đến nghìn non, trả làm sao hết. Đây có gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân để tạ lòng chàng gọi là có vậy. Mong chàng nhận cho". Người hầu bưng lễ ra, chàng lạy tạ lời nhận lễ. Nhưng tôi nghĩ: "Sao chàng phải lạy tạ, chàng còn sợ chăng? Thôi ta để chàng đi vì còn nhiều người phải báo ân nữa". Nhìn chàng, tôi lại chua xót nghĩ đến sự quỷ quyệt của Hoạn Thư. Tại sao hai con người ấy lại có thể chung chăn, chung gối được nhỉ! Tôi bèn mỉm cười nói thêm với chàng Thúc: "Vợ chàng quý quái tinh ma, phen này kẻ cắp bà già gặp nhau".
Chàng đi ra và tiếp đó tôi báo ân cho nhiều người khác: vãi Giác Duyên, cô a hoàn, mụ quản gia... những người đã yêu thương, giúp đỡ tôi trong những ngày khốn khó.
Sau đó là đến việc báo oán, người đầu tiên mà tôi phải trả thù, trả hết oán chính là Hoạn Thư - vợ cả của Thúc Sinh. Mụ vừa vào tới cửa tôi đã nói đón: "Tiểu thư cũng có thì giờ đến đây ư?". Rồi tôi lại dõng dạc hơn: "Đàn bà dễ có mấy tay. Từ xưa đến nay được mấy người nhiều mưu mô, tinh quái như bà?". Mụ vội vàng quỳ xuống, phần vì nhận ra tôi đang ngồi trên, phần vì thấy hàng hàng quân lính áo giáp, gươm đao đầy mình. Tôi nghĩ: "Chắc phen này mụ sẽ phát hoảng lên, sẽ lạy lục van xin vì biết mình có tội. Mụ sẽ biết thế nào là "gieo nhân nào được quả nấy”. Tôi lại dõng dạc hơn: "Dễ dàng là kiếp hồng nhan, ăn ở mà càng cay nghiệt thì sẽ càng chịu nhiều oan trái". Đến đây Hoạn Thư đã hiểu ra. Nhưng mụ tinh ranh quá, mụ còn bình tĩnh khấu đầu rồi xin thưa. Tôi biết mụ sẽ kêu ca, sẽ chữa tội cho mình, lúc này tôi có thể cho mụ từ giã cõi đời nhưng tôi vẫn muốn xem mụ sẽ nói gì, và cũng một phần vì tôi muốn xem mụ có hối cải không. Nếu có, tôi có thể mở lượng khoan hồng tha không giết mụ. Mụ bắt đầu thưa: "Thưa phu nhân, tôi đây là phận đàn bà hèn kém nên cũng như ai. Tôi ghen tuông thì cũng là chuyện thường tình, nghĩ lại ngày ấy kẻ hèn mọn này đã để phu nhân ra gác viết kinh ở, với lại khi phu nhân bỏ đi, tôi đâu đuổi theo bắt về mặc dù biết gác viện đã mất vài thứ đáng giá... Nhưng cũng tại kẻ hèn mọn này gây ra việc chông gai, giờ thì chỉ còn biết trông chờ vào tấm lòng bao dung rộng lớn như biển cả của phu nhân mà thôi. Xin phu nhân nghĩ cho mà thương cho kẻ hèn kém này".
Tôi bàng hoàng, khen cho mụ khôn ngoan đến mực mà nói năng phải lời. Mụ thật giảo hoạt, khôn ngoan, tinh quái, ranh mãnh. Nhưng lời nói của mụ có lý quá, tôi cũng là đàn bà thì cần hiểu được suy nghĩ chung của đàn bà là thói ghen tuông. Nhưng tha cho mụ thì may đời cho mụ còn làm ra thi lại là người nhỏ nhen, với lại tôi đã có ý khoan hồng nếu mụ biết hối cải. Dù chưa thấy hành động nhưng lời nói của mụ thì cũng có tình, có lý. Mụ đã nhận hết lỗi vào mình thì cũng khoan dung cho mụ và tôi chỉ nói thêm: "Hãy biết hối cải vì sống mà tạo nhiều ơn nghĩa thì sẽ gặp nhiều điều tốt đẹp. Nên nhớ câu ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ".
Sau đó tôi còn xử tội nhiều tên khác. Tất cả chúng đều là lũ gian ác, độc địa, bất nhân. Đã trải qua biết bao đắng cay, khổ nhục tôi càng thấm thía cái lẽ đời: "Hồng nhan bạc mệnh". Nhưng thôi, giờ đây tôi đã đoàn tụ với cá nhà, có cha, có mẹ, có anh em, có người yêu chung thuỷ thì cuộc sống còn gì không hạnh phúc? Cuộc sống cũng có quy luật: "Gặp nhiều tai ương rồi sẽ có được niềm hạnh phúc".
Phân tích đoạn trích Kiều báo ân báo oán trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Câu trả lời của bạn
Trải qua hết nạn nọ đến nạn kia, Kiều đã nếm đủ mọi điều cay đắng. Có lúc tưởng chừng nàng buông xuôi trước số phận: Biết thân chạy chẳng khỏi trời, Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. Trong khi Kiều chới với, tuyệt vọng thì Từ Hải xuất hiện. Kiều gặp Từ Hải, một bước ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận của cô gái tài sắc họ Vương. Người anh hùng đội trời đạp đất chẳng những cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh nhơ nhớp mà còn đưa nàng từ thân phận con ong cái kiến bước lên địa vị một phu nhân quyền quý, cao hơn nữa là địa vị của một quan tòa.
Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác. Qua ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du, chúng ta thấy được tấm lòng nhân nghĩa vị tha của Kiều và ước mơ công lí của nhân dân: ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác.
Đoạn thơ chia làm hai phần. Mười hai câu đầu là cảnh Thuý Kiều báo ân. Những câu thơ còn lại là cảnh Thuý Kiều báo oán.
Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của Nguyễn Du rất đa dạng. Có khi ông dùng bút pháp ước lệ để miêu tả ngoại hình (đoạn Chị em Thuý Kiều); có khi lại dùng ngôn ngữ độc thoại, hoặc tả cảnh ngụ tình để miêu tả tâm trạng (đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích). Trong đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán, tính cách nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại. Bằng ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã khắc hoạ tính cách Thuý Kiều và Hoạn Thư thật tài tình.
Đúng với bản chất nhân hậu vốn có, Thuý Kiều nghĩ tới chuyện đền ơn trước rồi mới báo oán sau. Người được mời đầu tiên là Thúc Sinh: Cho gươm mời đến Thúc Lang. Trước cảnh uy nghiêm gươm lớn giáo dài, chàng Thúc hoảng sợ đến mức Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run, mất cả thần sắc, bước đi không vững. Hình ảnh tội nghiệp này hoàn toàn phù hợp với tính cách của Thúc Sinh, một con người tốt bụng, đa tình nhưng nhu nhược, dám yêu nhưng không đủ dũng cảm để bảo vệ người yêu.
Lời nói của Kiều chứng tỏ nàng thực sự trân trọng hành động nghĩa hiệp mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:
Nàng rằng: "Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?..."
Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Kiều đã có những tháng ngày tạm thời yên ổn trong cuộc sống chung với Thúc Sinh. Nàng gọi đó là nghĩa nặng nghìn non, nàng không bao giờ quên. Kiều ân cần hỏi han Thúc Sinh để trấn an chàng. Hai chữ người cũ mang sắc thái thân mật, gần gũi, biểu hiện tấm lòng biết ơn chân thành của nàng.
Khi nói với Thúc Sinh Kiều dùng ngôn ngữ trau chuốt và sử dụng cả những điển cố, điển tích trong văn chương. Cách nói ấy phù hợp với thư sinh họ Thúc và diễn tả được thái độ trân trọng của Kiều đối với chàng.
Vì muốn thoát khỏi cảnh: Sống làm vợ khắp người ta nên Kiều đã nhận lời làm lẽ Thúc Sinh. Nhưng cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều khốn khổ với thân phận tội đời khi rơi vào tay vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư. Nàng cho rằng nỗi đau đớn của mình không phải do Thúc Sinh gây ra. Thuý Kiều cũng thấu hiểu hoàn cảnh éo le và tâm trạng của Thúc Sinh: yêu nàng nhưng không đủ sức bảo vệ nàng. Nàng không oán trách mà đem Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân để đền đáp ơn nghĩa của Thúc Sinh và vẫn khiêm tốn bày tỏ: Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là. Điều đó khẳng định Thuý Kiều là người trọng nghĩa.
Trong khi trò chuyện với Thúc Sinh, Thuý Kiều đã động tới Hoạn Thư, bởi vết thương lòng mà hoạn Thư gây ra cho nàng vần còn rỉ máu làm cho nàng không những chỉ đau đớn về thể xác mà còn đau đớn gấp bội về tinh thần.
Cuộc đối đáp giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư ở cảnh báo oán là một màn kịch ngắn nhưng có đầy đủ nhân vật, lời đối thoại và kịch tính:
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.
Với Hoạn Thư, Kiều dùng cách nói nôm na, bình dị nhưng chứa đựng sự hả hê khó giấu. Những thành ngữ quen thuộc như kẻ cắp bà già gặp nhau, kiến bò miệng chén.., rất hợp với sự thay bậc đổi ngôi giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư. Hành động trừng phạt cái ác của Thuý Kiều theo đúng quán điểm công lí của nhân dân nên nó phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Mọi hành động, lời nói của Thuý Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai, chì chiết đối với Hoạn Thư. Vẫn một điều chào thưa, hai điều tiểu thư, vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm Hoa Nô cho nhà họ Hoạn nhưng chính điều đổ đã khiến Hoạn Thư giật mình sợ hãi nhớ tới những ngày đày đọa Kiều, gieo cho Kiều bao nhiêu tai hoạ. Cách xưng hô này còn là một đòn quất mạnh vào mặt ả đàn bà họ Hoạn có máu ghen ghê gớm.
Sự mỉa mai, đay nghiến của Kiều thể hiện khá rõ trong nhịp điệu thơ như dằn ra từng tiếng, trong những từ ngừ được lặp đi lặp lại với mục đích nhấn mạnh: dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời này, càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều... Phải nói như thế mới xứng với Hoạn Thư, con người xảo trá và tàn độc: Bề ngoài thơn thớt nói cười, bên trong nham hiểm giết người không dao.
Giọng điệu ấy cho thấy Thuý Kiều quyết trừng trị Hoạn Thư cho hả giận: Kiến bò miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
Lúc đầu, Hoạn Thư cũng hồn lạc phách xiêu, nhưng với bản chất khôn ngoan, lọc lõi, ngay trong hoàn cảnh ấy, Hoạn Thư vẫn đủ bình tĩnh để liệu điều kêu ca. Những điều Hoạn Thư kêu ca thực chất là lí lẽ để Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình.
Trước hết, Hoạn Thư đưa ra tâm lí chung của phụ nữ: Rằng: "Tôi chút phận đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. Với lí lẽ này, sự đối lập giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư đã bị xoá bỏ. Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người cùng chung chút phận đàn bà. Sau đó, Hoạn Thư kín đáo kể công đã chạnh lòng thương xót mà cho Kiều ra chép kinh ở Quan Âm Các: Nghĩ cho khi gác viết kinh và dẫu biết mà không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn: Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Ý Hoạn Thư muôn nói rằng nếu tôi có tội thì chẳng qua cũng xuất phát từ tâm lí của giới nữ: Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai. Thế là từ một tội nhân, Hoạn Thư đã ranh mãnh hoá giải tất cả để trở thành nạn nhân đáng thương của chế độ đa thê.
Cao tay hơn, cuối cùng Hoạn Thư nhận hết tội lỗi về mình: Trót lòng gây việc chông gai, Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng! Đòn hiểm này của tiểu thư họ Hoạn đã đánh trúng vào chỗ mạnh mà cũng là chỗ yếu của Kiều: lòng nhân hậu và khoan dung hiếm có.
Trước những lời lẽ của Hoạn Thư, Kiều phải thừa nhận rằng ả khôn ngoan đến mực nói năng phải lời. Hoạn Thư đẩy Kiều tới chỗ khó xử: Tha ra thì cũng may đời, Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen. Cho nên dù đã nghiêm khắc răn đe Hoạn Thư nhưng rồi Kiều lại tha bổng: Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay. Hoạn Thư đã biết lỗi, đã dập đầu xin tha thì Kiều cũng cư xử theo quan điểm của dân gian là Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại.
Qua những lí lẽ để gỡ tội của Hoạn Thư, chúng ta thấy ả là loại người sâu sắc nước đời và quỷ quái tinh ma. Tuy nhiên, việc Hoạn Thư được tha bổng không hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự bào chữa của ả mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều. Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán một lần nữa đã chứng minh tấm lòng vị tha, nhân hậu đáng quý của người con gái tài sắc họ Vương và cũng là của tác giả Truyện Kiều.
Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thuý Kiều đã trở thành vị quan toà thực hiện công lí. Đoạn thơ phản ánh khát vọng và ước mơ công lí chính nghĩa sẽ chiến thắng của nhân dân thời đại Nguyễn Du.
Đền ơn trả oán là một mô típ rất quen thuộc trong văn học dân gian, đặc biệt là trong các câu chuyện cổ tích. Người có công lao khó nhọc, ăn ở hiền lành, hay làm điều tốt thì sẽ được đền bù, kẻ ác sẽ bị trừng trị đích đáng. Đó là mơ ước của nhân dân ta.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng dựng lên một cảnh báo ân báo oán. Thế nhưng, khác rất nhiều so với các câu chuyện cổ tích, cảnh báo ân báo oán trong Truyện Kiều không đơn giản là sự thể hiện khát vọng công lí của nhân dân. Sức hấp dẫn của đoạn trích thể hiện chủ yếu ở khả năng khắc hoạ tâm lí nhân vật của nhà thơ. Cả đoạn trích gồm 34 câu với ba nhân vật, rất ít lời miêu tả, hầu như chỉ có lời Thuý Kiều nói với Thúc Sinh, lời qua tiếng lại giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư, vậy mà không chỉ chân dung, từ giọng điệu, tính tình của từng nhân vật đều được bộc lộ hết sức sinh động.
Có thể dễ dàng nhận thấy trong đoạn trích có hai cảnh: báo ân và báo oán.
Cảnh báo ân.
Chàng Thúc Sinh khi được "gươm mời đến" thì "Mặt như chàm đổ, mình dường dễ run. Thúc Sinh run vì nhiều lẽ: trước cảnh ba quân gươm giáo sáng loà; được chứng kiến Thuý Kiều đã trừng trị những kẻ đã gây bao đau khổ cho đời nàng như thế nào lại càng dễ run hơn nữa. Thúc Sinh không thể nghĩ rằng mình lại được trả ân bằng "gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân" bởi trong thực tế, chàng ta chẳng có công lao gì nhiều với Thuý Kiều. Ngay cả khi chứng kiến vợ mình hành hạ Thuý Kiều, Thúc Sinh cũng chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, không biết bênh vực thế nào.
Vậy tại sao Thúc Sinh lại được Thuý Kiều "báo ân" hậu hĩnh như thế? Lí giải được điều này, chúng ta sẽ hiểu thêm về Thuý Kiều, từ đó càng hiểu thêm nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du. Nhân vật Thuý Kiều đã được xây dựng rất nhất quán từ đầu đến cuối tác phẩm. Dù khi phải dằn lòng trao duyên cho Thuý Vân, khi một mình đối cảnh ở lầu Ngưng Bích hay khi có đủ vị thế để báo ân báo oán sòng phẳng thì Thuý Kiều vẫn luôn là người nặng tình nặng nghĩa:
Nàng rằng: "Nghĩa nặng tình non,
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là...".
Lí lẽ của Thuý Kiều rất rõ ràng: đây không phải là sự báo ân mà là sự trả nghĩa, đúng hơn là trả cái tình mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trước đây. Như vậy, đối với Thúc Sinh, Thuý Kiều đã không xử bằng lí mà bằng cái tình của nàng. Điều này có vẻ như không hợp với cách nghĩ thông thường, không thoả mãn được một số bạn đọc khó tính nhưng chính ở đây lại làm bật lên giá trị nghệ thuật của tác phẩm: Nguyễn Du đã không xây dựng nhân vật Thuý Kiều theo một công thức định sẵn. Ngược lại, ông đã tạo nên một nhân vật rất sinh động, rất đời thường. Kiều đã suy nghĩ, nói năng và hành động hoàn toàn hợp với phẩm chất và tính cách của nàng. Điều này càng được chứng minh rõ ràng hơn qua cảnh tiếp theo.
Cảnh báo oán
Đối tượng báo oán ở đây là Hoạn Thư vợ Thúc Sinh. Mặc dù không trực tiếp đẩy Thuý Kiều vào lầu xanh nhưng Hoạn Thư cũng là kẻ đã gây không ít đau khổ cho cuộc đời Kiều. Con người đã trở thành hình tượng điển hình cho sự ghen tuông ấy đã lặng lẽ cho người đến bắt nàng về, đã dựng cảnh trớ trêu: bắt nàng hầu rượu Thúc Sinh để mà hả hê sung sướng khi tận mắt chứng kiến nỗi cực nhục của cả hai người. Thuý Kiều hẳn không thể quên nỗi nhục hôm ấy, theo đó thì tội của Hoạn Thư đáng chết một trăm lần.
Thế nhưng Nguyễn Du đã không để cho lí trí của mình dẫn dắt sự việc một cách giản đơn. Ông âm thầm chứng kiến cuộc đối đầu giữa hai người đàn bà (mà theo Thuý Kiều là "kẻ cắp, bà già gặp nhau"), thuật lại cuộc đấu khẩu của họ. Biệt tài của Nguyễn Du là khi chứng kiến và miêu tả cuộc đụng độ "nảy lửa" ấy, ông đã không thiên vị một ai, không đứng về phía nào. Ông để cho sự việc tự nó phát triển, từ đó đã tạo nên một trong những chi tiết nghệ thuật giàu chất sống, chất "tiểu thuyết" nhất của tác phẩm.
Vị thế giữa hai người phụ nữ đã hoàn toàn đảo ngược. Trước đây, khi Hoạn Thư làm chủ tình thế, Thuý Kiều không những bị đánh đập mà còn bị làm nhục theo một cách thức rất riêng của Hoạn Thư. Nỗi đau tinh thần của Kiều lúc ấy còn lớn gấp hàng chục lần nỗi đau thể xác. Thế nhưng giờ đây, người làm chủ tình thế lại là Thuý Kiều. Chỉ cần nàng phẩy tay một cái, hẳn Hoạn Thư sẽ "thịt nát xương tan".
Thuý Kiều đã khởi sự "báo oán" như thế nào?
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều".
Ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du thật đáng nể phục. Nàng Kiều duyên dáng, thuỳ mị, "e lệ nép vào dưới hoa" ngày nào, giờ đối diện với kẻ thù, dường như đã hoá ra một con người khác. Nếu như Kiều ra lệnh trừng phạt Hoạn Thư ngay thì không có gì nhiều để bàn luận. Nhưng Kiều đang sung sướng hưởng thụ cảm giác của kẻ bề trên, đang tìm cách dùng lời nói để "rứt da rứt thịt" Hoạn Thư theo đúng cách mà trước đây mụ ta đã đối xử với nàng. Bằng giọng điệu đầy vẻ châm biếm, Kiều gọi Hoạn Thư là "tiểu thư", cẩn thận báo cho mụ ta biết về "luật nhân quả" ở đời ("Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều"). Kiều tin chắc vào chiến thắng đến mức sẵn sàng chấp nhận đấu khẩu!
Thế nhưng Hoạn Thư thật xứng với danh tiếng "Bề ngoài thơn thớt nói cười Mà trong nham hiểm giết người không dao":
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.
Rằng: "Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình...".
Giữa dáng điệu bề ngoài với lời nói bên trong của Hoạn Thư có cái gì đó rất mâu thuẫn. Nếu quả thật đã "hồn lạc phách xiêu", Hoạn Thư khó có thể biện hộ cho mình một cách khéo léo như vậy. Không những khẳng định "ghen tuông chỉ là thói thường của đàn bà", Hoạn Thư còn kể đến những việc mà tưởng như mụ đã "làm ơn" cho Thuý Kiều: cho ra nhà gác để viết kinh, khi Thuý Kiều trốn đã không đuổi bắt,... Đó là những lí lẽ rất khôn ngoan mà Kiều khó lòng bác bỏ được. Thì ra, vẻ "hồn lạc phách xiêu" chỉ là bộ điệu mà mụ ta tạo ra để đánh vào chỗ yếu của Thuý Kiều. Đứng trước cơ hội duy nhất để có thể thoát tội, mụ đã vận dụng tất cả sự khôn ngoan, lọc lõi của mình.
Rốt cuộc, trong cuộc đấu trí, đấu khẩu đó người thua lại chính là Thuý Kiều. Bằng chứng là khi nghe xong những lời "bào chữa" của Hoạn Thư, Thuý Kiều đã xuôi lòng mà tha bổng cho mụ, không những thế lại còn khen: "Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời" và tự nói với mình rằng: "Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen".
Kết cục đó có thể bất ngờ với người đọc nhưng lại rất hợp lí với lô gích của tác phẩm. Đoạn "báo ân" với Thúc Sinh đã cho thấy: dù thế nào đi nữa, Kiều vẫn là người phụ nữ đa sầu đa cảm, nặng tình nặng nghĩa.
Đây là một đoạn trích rất hấp dẫn, một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du. Bằng cách để cho các sự việc tự vận động, nhân vật tự bộc lộ mình qua những lời đối thoại, Nguyễn Du đã đưa nghệ thuật miêu tả nhân vật của văn học trung đại tiến một bước rất dài. Miêu tả chân thực và sinh động đời sống như nó đang xảy ra, đó là một yếu tố quan trọng tạo nên "Chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du".
Đóng vai Thúy Kiều kể lại cảnh báo ân báo oán.
Câu trả lời của bạn
Sau khi bị gã Sở Khanh lừa đảo đưa vào cạm bẫy của Tú Bà và bị Tú Bà đánh đập dã man, không thể chịu đựng nổi nhục nhã, uất hận nên tôi đã tìm đến cái chết để giải thoát. Sợ mất cả vốn lẫn lời, mụ Tú Bà đành giở giọng nhân nghĩa dỗ dành, hứa sẽ tìm cho tôi một người chồng xứng đáng. Mụ đưa tôi ra ở lầu Ngưng Bích, bảo rằng để cho tôi bình tâm trở lại, Nhưng thực ra là mụ giam lỏng, chờ ngày bán tôi đi.
Cũng tại đây, tôi đã may mắn gặp được người anh hùng Từ Hải tiếng tăm lừng lẫy. Chàng đã hào phóng chuộc tôi ra khỏi lầu xanh và cưới tôi làm vợ. Từ thân phận của một kĩ nữ, tôi đã được chàng đưa lên vị thế của một bậc phu nhân quyền quý. Trong một lần tâm sự với chàng, tôi bày tỏ ý nguyện được báo ân báo oán cho vơi bớt nỗi khổ chất chứa trong lòng bấy lâu nay. Vốn là người hào hiệp, giữa đường thấy sự bất bằng chẳng tha, Từ Hải đồng ý giúp tôi thực hiện nguyện vọng đó.
Chàng cắt cử mấy đạo quân lập tức lên đường. Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri, mời những ân nhân của tôi và bắt những kẻ đã gây ra tội ác đối với tôi. Sáng hôm sau, Từ Hải mở phiên tòa. Giữa trung quân, chàng cùng tôi sánh vai nhau ngồi xử án. Khung cảnh phiên tòa vô cùng trang trọng. Quân lính dàn hàng hai bên, gươm lớn giáo dài lăm lăm trong tay, khiến cho kẻ yếu bóng vía phải run sợ Từ Hải giao cho tôi toàn quyền xét xử. Tôi quyết định báo ân trước, báo oán sau.
Khi Thúc Sinh được mời đến trước trướng hùm, tôi thấy mặt chàng xám như chàm đổ, chân tay run cầm cập, chẳng dám ngước mắt nhìn ai. Người đời thường nói: Một ngày nên nghĩa, chuyến đò nên quen, huống hồ tôi với chàng đã từng là vợ chồng, dẫu chẳng được bao lâu. Tôi cất tiếng nhẹ nhàng chào hỏi trước:
– Thiếp xin chào chàng! Ơn nghĩa của chàng đối với thiếp nặng tựa nghìn non. Thiếp là người cũ ở Lâm Tri, liệu chàng có nhớ?! Tại ai mà chúng ta phải chia lìa đôi ngả Sâm Thương? Tại ai mà thiếp đành phụ lòng chàng?! Thôi, chuyện cũ đã qua. May mà trời xanh có mắt, thiếp vượt được bước gian nan. Giờ đây, thiếp có chút quà mọn xin tạ lòng chàng!
Nói rồi, tôi sai lính đem ra trăm cuốn gấm quý và một ngàn lạng bạc để đền ơn Thúc Sinh. Tôi cũng không quên nhắc rằng sẽ bắt người vợ quỷ quái tinh ma của chàng phải trả giá cho những mưu mô và hành động nham hiểm, tàn nhẫn mà ả đã dùng để đày đọa tôi suốt mấy tháng trời.
Lần lượt, sư Tam Hợp, vãi Giác Duyên, bà quản gia, Kiều Nhi… tất cả ân nhân đã từng giúp đỡ tôi trong cơn hoạn nạn đều được trân trọng mời lên để tôi cảm tạ và báo đáp ân tình. Thấy tôi thoát khỏi cảnh trầm luân, ai cũng vui mừng. Tôi bảo mọi người nán lại để xem tôi báo oán.
Khi lính áp giải Hoạn Thư đến nơi, tôi cố kiềm chế cơn giận dữ đang trào dâng trong lòng, lấy giọng mỉa mai hỏi ả:
– Chào tiểu thư! Chắc tiểu thư không thể hình dung nổi có ngày lại đặt chân đến đây, phải không?! Trên đời, tôi thấy thật hiếm có người đàn bà nào ghê gớm như tiểu thư. Nhưng thói thường, càng cay nghiệt lắm thì càng oan trái nhiều mà thôi!
Nhận ra trước mặt chính là Hoa Nô đầy tớ ngày nào đã bị mình đọa đày đến mức cất đầu chẳng lên, Hoạn Thư đột nhiên biến sắc, hồn lạc phách xiêu, vội dập đầu van xin tha tội. Ả con quan Lại bộ thượng thư quả đúng là kiểu người: Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không dao. Tuy run sợ nhưng ả vẫn đủ bình tĩnh để liệu điều phân trần, thanh minh cho nhẹ tội:
– Thưa phu nhân! Tôi mắc tội xúc phạm đến phu nhân chẳng qua cũng vì ghen tuông là thói thường tình của nhi nữ. Suy cho kĩ, tôi cũng có chút thương tình đối với phu nhân. Như lúc cho phu nhân ra Quan Âm Các chép kinh, hay lúc biết phu nhân bỏ trốn mà chẳng sai người đuổi theo. Thật lòng, tôi rất mến mộ tài sắc của phu nhân. Còn chuyện chồng chung thì chưa dễ ai nhường cho ai. Nay biết mình trót gây việc chông gai, sóng gió, tôi chỉ xin phu nhân mở lượng hải hà mà tha cho!
Nghe ả trình bày, tội thấy ả đã nhận ra tội lỗi. Giết chết ả cho thỏa hận, điều ấy dễ biết bao! Nhưng thêm một kẻ nữa rơi đầu thì cũng chẳng ích gì, tôi bèn tha cho ả. Chắc chắn nỗi kinh hoàng ngày hôm nay sẽ đeo đẳng ả suốt đời khi chứng kiến cảnh lũ bán thịt buôn người như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh và lũ đầu trâu mặt ngựa Ưng, Khuyển, phải chịu tội chém đầu.
Thế là giữa thanh thiên bạch nhật, việc báo ân báo oán của tôi đã được giải quyết xong xuôi. Tôi quay sang cảm tạ ân nhân lớn nhất đời mình là người anh hùng Từ Hải. Chàng đáp lại bằng câu nói thật chân tình: “Việc của nàng cũng là việc của ta, có gì mà phải cảm ơn?! Ta chỉ mong từ nay trở đi, nàng sẽ sống vui vẻ, hạnh phúc vì đã cất được gánh nặng trong lòng!” Tôi xúc động vô cùng vì chàng dã nói giúp điều mà tôi đang nghĩ tới.
Trong mười lăm năm lưu lạc, cuộc đời tôi tưởng bị chôn vùi trong những tháng ngày “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”. Nhưng may mắn thay, đã có lúc tôi được cuộc đời nâng niu, ưu ái. Nhưng thay đổi ấy có được là nhờ Từ Hải, một con người “đầu đội trời chân đạp đất”
Về với chàng ít lâu, sau những chiến công lừng lẫy của chàng, tôi trở thành đệ nhất phu nhân. Chàng hỏi tôi về những người đã từng có ơn, những kẻ đã hãm hại, đẩy tôi vào bể khổ. Rồi chàng mời hết những người có ơn, bắt những kẻ gian ác ấy về cho tôi toàn quyền xử tội. Thế là hôm ấy, tôi và chàng ngồi trên điện xét xử: báo ân và báo oán. Đầu tiên là Thúc Sinh, người đã từng có ơn cứu tôi khỏi lầu xanh. Chàng Thúc bước vào, mặt đỏ như chàm, mình mẩy run run. Tôi nghĩ, chắc chàng quá sợ đây mà. Tôi biết chàng là người nhu nhược nhưng tôi không trách móc. Dù vợ cả chàng là Hoạn Thư luôn nghen tuông hành hạ tôi nhưng chuyện đó để khi khác! Giờ đây tôi phải đền ơn chàng.Tôi cất tiếng: “Chào chàng Thúc! Hôm nay mời chàng đến đây là để tôi bày tỏ chút lòng thành, xin được đền ơn chàng!”
Nghe đến đây dường như đã đỡ sợ nên chàng lên tiếng: “Vâng…!”. Tôi lại nói: “Nghĩa chàng dành cho tôi nặng đến nghìn non, trả làm sao hết. Đây có gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân để tạ lòng chàng gọi là có vậy. Mong chàng nhận cho”. Người hầu bưng lễ ra, chàng lạy tạ lời nhận lễ. Nhưng tôi nghĩ: “Sao chàng phải lạy tạ, chàng còn sợ chăng? Thôi tha để chàng đi vì tôi còn nhiều người phải báo ân nữa”. Nhìn chàng, tôi lại chua xót nghĩ đến sự quỷ quyệt của Hoạn Thư. Tại sao hai con người ấy lại có thể chung chăn chung gối được nhỉ! Tôi bèn mỉm cười nói thêm với chàng Thúc: “Vợ chàng quỷ quái tinh ma, phen này kẻ cắp bà già gặp nhau”
Chàng đi ra và tiếp đó tôi báo ân cho nhiều người khác: vãi Giác Duyên, cô a hoàn, mụ quản gia…những người đã giúp đỡ tôi trong những ngày khốn khó
Sau đó là đến việc báo oán, người đầu tiên mà tôi phải trả thù, trả hết oán chính là Hoạn Thư- vợ cả của Thúc Sinh. Mụ vừa vào tới cửa, tôi đã nói đón: “Tiểu thư cũng có thì giờ đến đây ư?”. Rồi tôi lại dõng dạc hơn: “Đàn bà dễ có mấy tay. Từ xưa đến nay được mấy người mưu mô, tinh quái như bà?”. Mụ vội vàng quỳ xuống phần vì nhận ra tôi đang ngồi trên, phần vì thấy hàng quân lính áo giáp, gươm đao đầy mình. Tôi nghĩ: “Chắc phen này mụ sẽ phát hoảng lên, sẽ lạy lục van xin vì biết mình có tội. Mụ sẽ biết thế nào là “gieo nhân nào được quả nấy”. Tôi lại dõng dạc hơn: “dễ dàng là kiếp hồng nhan, ăn ở mà càng cay nghiệt thì càng chịu nhiều oan trái”. Đến đây Hoạn Thư đã hiểu ra. Nhưng mụ tinh ranh quá, mụ còn bình tĩnh khấu đầu rồi xin thưa. Tôi biết mụ sẽ kêu ca, sẽ chữa tội cho mình, lúc này tôi có thể cho mụ từ giã cõi đời nhưng tôi vẫn muốn xem mụ có hối cải không. Nếu có, tôi có thể mở lượng khoan hồng tha không giết mụ. Mụ bắt đầu thưa: “Thưa phu nhân, tôi đây phận đàn bà hèn kém nên cũng như ai. Tôi ghen tuông thì cũng là chuyện thường tình, nghĩ lại ngày ấy kẻ hèn mọn này đã để phu nhân ra gác viết kinh ở, với lại khi phu nhân bỏ đi, tôi đâu đuổi theo bắt về mặc dù đã biết gác viện đã mất vài thứ đáng giá…Nhưng cũng tại kẻ hèn mọn này gây ra việc chông gai, giờ chỉ còn biết chông chờ vào tấm lòng bao dung rộng lượng như biển cả của phu nhân mà thôi. Xon phu nhân nghĩ cho mà thương cho kẻ hèn kém này”
Tôi bàng hoàng, khen cho mụ khôn ngoan đến mực mà nói năng phải lời. Mụ thật giảo hoạt, khôn ngoan, tinh quái, ranh mãnh. Nhưng lời nói của mụ có lý quá, tôi cũng là đàn bà thì cần hiểu được suy nghĩ chung của đàn bà là thói ghen tuông. Nhưng tha cho mụ thì may đời cho mụ còn làm ra thì lại là người nhỏ nhen, với lại tôi đã có ý nghĩ khoan hồng nếu như mụ biết hối cải. Dù chưa thấy hành động nhưng những lời nói của mụ cũng có tình, có lý. Mụ đã nhận hết lỗi vào mình thì cũng khoan dung cho mụ và tôi chỉ nói thêm: “Hãy biết hối cải vì sống mà tạo nhiều ơn nghĩa thì sẽ gặp nhiều điều tốt đẹp. Nên nhớ câu ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ”
Sau đó tôi còn xử tội nhiều tên khác. Tất cả chúng đều là lũ gian ác, độc địa, bất nhân. Đã trả qua biết bao đắng cay, khổ nhục tôi càng thấm thía cái lẽ đời: “Hồng nhan bạc mệnh”. Nhưng thôi, giờ đây tôi đã đoàn tụ với cả nhà, có cha, có mẹ, có anh em, có người yêu chung thủy thì cuộc sống còn gì không hạnh phúc? Cuộc sống cũng có quy luật: “Gặp nhiều tai ương rồi sẽ có được niềm hạnh phúc”.
Bình giảng cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán.
Câu trả lời của bạn
Một trong những đoạn trích nói lên tính cách và lòng người của nhân vật Thúy Kiều là đoạn trích"Thúy Kiều báo ân báo oán". Khi được Từ Hải cứu giúp khỏi phận long bong, bạc nổi thì cũng chính là lúc Kiều được cất lên tiếng nói của mình.
Để nói hết tấm lòng "uống nước nhớ nguồn" "ăn quả nhớ kẻ trồng cây" mà dân gian thường nói để tô điểm cho con người của Thúy Kiều. Khi như được hồi sinh lần nữa, Kiều đầu tiên đã nghĩ đến là phải báo ân cho những người đã giúp đỡ mình trong con đường chông gai mà Nàng đã trải qua.
Đó là sự báo ân đối với Thúc Sinh:
"Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non....
Tại ai, ai há phụ lòng cố nhân"
Nàng không đổ lỗi những gì mình trải qua, mình khó khăn, mình bị đày đọa thân xác là do Thúc Sinh. Hoàn toàn không, Nàng hiểu chuyện cuộc đời mình không phải do Thúc Sinh gieo bao cay đắng tủi nhục.
Vì thế, Nàng luôn giữ mực, tỏ thái độ biết ơn đối với người đã giúp mình giữa lưng bước đường cùng. Với cách suy nghĩ của Nàng "trọng nghĩa " là trọng những gì người đã làm vì Nàng không phải cứ nhất thiết không làm đến nơi đến chốn mà Nàng phủ sạch tất cả những công lao đó.
Khi đối thoại với Thúc Sinh, Nàng dùng ngôn ngữ xưa là "chàng" chứ không đặt quyền thế của nàng hiện tại mà ra vẻ. Qua đây, cho ta thấy được một Thúy Kiều không những nhan sắc hoàn mĩ mà có một tấm chân tình son sắt đối với những người giúp đỡ mình.
Báo ân đã xong, đến lượt Nàng nghĩ đến những gì mình đã trải qua; đó không chỉ là nỗi đau về thể xác mà còn là nỗi đau rỉ máu tận tâm hồn Nàng. Nàng báo oán đối với người phụ nữ độc ác, mưu mẹo không ai khác đó chính là Hoạn Thư:
"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây...
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều"
Vẫn là lối xưng cũ đối với Hoạn Thư, Nàng xưng với người phụ nữ đó hai chữ"tiểu thư". Thúy Kiều không những giữ đúng phép lịch sự trong đối thoại mà còn tỏ ra một cách tinh tế. Nàng nói đến nỗi cay nghiệt của người phụ nữ đó đã dấn thân lên con người Nàng, làm nhơ nhuốc vẻ đẹp vốn có của Nàng.
"Rằng: Tôi chút phận đàn bà...
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai"
Nhưng với sự toan tính, mưu mẹo cách đối thoại của Hoạn Thư làm cho Kiều không những trị tội mà còn tha tội. Bởi vì cách nói lươn lẹo của người phụ nữ nham hiểm đó đánh vào tâm trí của một cô gái bản tính lương thiện, dùng tình người để trị tình người chứ không phải một cách quá ác độc.
Nguyễn Du đã vẻ nên một Thúy Kiều mang đậm vẻ đẹp nhân hậu. từ bi của con gái Việt nam nói chung.
Đoạn trích đã làm rõ nên một Thúy Kiều với tấm lòng đầy nhân ái, một tấm lòng khoan dung vô cùng. Chỉ qua mấy câu thơ mà nói hết được vẻ đẹp tính cách của nhân vật chúng ta càng thán phục ngòi bút của Nguyễn Du
Trên hành trình lưu lạc của cuộc đời, Kiều đã phải nếm đủ mọi điều cay đắng, tủi nhục "hết nạn nọ đến nạn kia" đã đẩy nàng vào con đường tuyệt vọng. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã đó, Từ Hải xuất hiện như một làn gió mới làm thay đổi đời Kiều - Từ Hải, người anh hùng cái thế không những cứu Kiều thoát khỏi cuộc sống lầu xanh còn đưa nàng từ thân phận thấp hèn lên địa vị của một quan tòa cầm cán cân công lý để thực hiện việc "đền ơn trả oán". Đoạn trích miêu tả cảnh Thúy Kiều đền ơn những người đã cưu mang giúp đỡ nàng, đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác.
Cảnh "báo ân báo oán" là đỉnh điểm diễn biến của cốt truyện được kể trong một đoạn thơ dài 162 câu (từ câu 2289 đến câu 2450). Những đối tượng được đền ơn là Thúc Sinh, mục Quan gia, Sư vãi, Giác Duyên. Những tên báo oán là Hoạn Thư, Bạc Hà, Bạc Hạnh, Ưng Khuyến, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh. Đoạn trích giảng đã được lược bớt, chủ yếu nói rõ việc Thúy Kiều đền ơn Thúc Sinh và trả oán Hoạn Thư.
Nhân vật cuộc chuyện trò thân mật, Thúy Kiều kể hết mọi nỗi gian truân của mình. Từ Hải nổi giận cho quân đi bắt cóc các tên tội phạm, đồng thời cùng cho mời những người có ân nghĩa rồi giao cho Kiều tự đứng ra xét xử "đền ơn trả oán".
Phiên tòa được mở ra đầy đủ "ba quân" gươm lớn giáo dài tua tua, sáng quắc, hàng trong hàng ngoài, vệ nọ, cơ kia.. Trong quang cảnh oai nghiêm đó, Kiều được Từ Hải trao quyền chủ động xét xử theo một trình tự rõ ràng: đền ơn trước, báo oán sau.
Thúc Sinh được mời tới nơi xử án đầu tiên "cho gươm mời đến Thúc lang". Trước phong canh oai nghiêm của phiên tòa, Thúc Sinh hoảng hốt tới mức mất cả thần sắc "mặt như chàm đổ mình dường dè run''. Thúc Sinh sợ có lẽ vì tính khí của Thúc Sinh nhút nhát, ngay cả việc bảo vệ người mình yêu cũng không làm được để cho Hoạn Thư tha hồ ra tay hành hạ Kiều. Hơn ai hết, Thúc Sinh ý thức đầy đủ về vấn đề đó nên nỗi sợ hãi của chàng đã đẩy lên đến cao độ. Nhưng dù sao thì ở Thúc Sinh vẫn được xem là ân nhân của Kiều, vì Thúc Sinh đã cứu nàng ra khỏi bùn nhơ ở Thanh lâu để cưới nàng làm vợ lẽ và tạo cho Kiều có những ngày hạnh phúc của cuộc sống gia đình êm ấm. Với một con người phúc hậu như Kiều, nàng rất cảm thông nỗi bất lực của Thúc Sinh và không thể quên ơn chàng được. Thực ra Kiều không luận tội Thúc Sinh mà lại càng tỏ ra trân trọng chàng. Trong cuộc tình chồng vợ (dù là vợ lẽ) Thúy Kiều vẫn cho đó là "nghĩa nặng nghìn non" thì làm gì có chuyện phụ lòng. Nàng đặt mình vào những ngày xưa cũ trong quan hệ thân mật, trân trọng, thủy chung nên mới có cách dùng những từ "người cũ", "cố nhân", "nghĩa", "tạ lòng", và điển cố "sâm thương". Cách nói này phù hợp với tính cách của Thúy Kiều. Chính đó mới là vẻ đẹp của công bằng lý tưởng, của công lý nhân dân, kể cả việc đền ơn bằng "gấm trăm cuốn bạc nghìn cân" mà cho là: "tạ lòng để xứng báo ân gọi là". Đây là nét đẹp trong quan niệm của Kiều. Tấm lòng "nghĩa nặng nghìn non" thì gấm vóc, bạc vàng nào có thể cân đo được. Đối với Thúc Sinh, Kiều đặc biệt thông cảm, chia sẻ. Kiều hiểu rõ nỗi đau khổ của nàng không phải là do Thúc Sinh gây ra mà thủ phạm chính là Hoạn Thư. Chính vì vậy mà khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư. Điều đó chứng tỏ vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho nàng đang còn quá xót xa. Khi nói về Hoạn Thư giọng Kiều thay đổi hẳn, đó là giọng điệu của một quan tòa có hàm ý mỉa mai đe dọa:
"Vợ chàng quỷ quái tinh ma
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau"
Nguyễn Du cực kì khéo léo trong việc sử dụng một cách hiệu quả nhất những thành ngữ quen thuộc "kẻ cắp bà già gặp nhau", "kiến bò miệng chén" để thể hiện hành động trừng phạt cái ác theo quan điểm của nhân dân nên ngôn ngữ cũng thật nôm na, bình dị theo cách nói của nhân dân.
Tiếp đến là cảnh Thúy Kiều báo oán Hoạn Thư. Không khí phiên tòa đã thay đổi hẳn. Cái giọng ân tình, dịu hiền, đằm thắm của người con gái hiền lành, trung hậu, đốp chát, lạnh lùng của một thiếu phụ từng trải, nếm đủ mùi cay đắng hơn mười năm trời. Giờ đây đối diện với Hoạn Thư - chính danh thủ phạm, Kiều cũng đanh đá, sắc sảo như ai.
Đầu tiên là cách nói moi gan đối thủ:
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây.
Cách xưng hô cùng vẫn như ngày xưa "chào thưa", "tiểu thư", khi Thúy Kiều còn là thân phận của kẻ tôi đòi ở nhà họ Hoạn cách xưng hô này của Kiều vào thời điểm hiện tại đã thọc sâu vào con người "quỷ quái tinh ma" những đòn đau của kẻ đang bị thất thế. Nay Hoạn Thư không còn là con gái của nhà "họ Hoạn danh gia" nữa mà là kẻ tội phạm đã bị tóm cổ về đây để xử án mà Kiều là quan tòa quyết định đến tương lai, số phận của Hoạn Thư.
Tiếp theo là giọng điệu đay nghiến, đốp chát của Thúy Kiều.
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.
Phải nói là khi cần thiết, Thúy Kiều càng tỏ rõ mình là tay cũng chẳng vừa gì. Với cái giọng đay nghiến khiến câu thơ như dằn ra từng tiếng, khi từ ngữ được lặp lại: dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, đời xưa, đời này, mấy gan, càng cay nghiệt, càng oan trái. Cách nói này hoàn toàn phù hợp với con người "quỷ quái tinh ma" như Hoạn Thư "Bề ngoài thơn thớt nói cười - Bề trong nham hiểm giết người không dao".
Giọng nói của Kiều tỏ rõ nỗi căm giận cao độ cho thấy nàng quyết trừng trị Hoạn Thư theo đúng quan niệm "Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa". Thái độ của Kiều thì ta thấy rất rõ, nhưng có điều dường như Kiều đã bỏ rơi mất vai trò của người xử án và biến mình thành người đối thoại ngang hàng với kẻ thù của mình trong tư thế một người đàn bà mà chưa có cách luận tội cụ thể chỉ còn ở mức độ chung chung, hơn thiệt giữa đàn bà với nhau. Lợi dụng tình huống này mà Hoạn Thư đã tương kế tựu kế lấy chuyện đàn bà mà xoay xở. Trong phút giây đầu Hoạn Thư "hồn lạc phách xiêu" nhưng rồi Hoạn Thư cùng nhanh chóng trấn tĩnh "liệu điều kêu ca".
Rằng: Tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình
Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với chi khỏi cứa đứt tình chẳng theo
Lòng riêng riêng những kính yêu.
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai
Trót đã gây việc chông gai
Còn mơ tượng bé thương bài nào chăng.
Đúng là lòi lẽ của con nhà thượng thư họ Hoạn "nói điều ràng buộc thì tay cũng già". Trước tiên Hoạn Thư dựa vào tâm lí thương tình của người phụ nữ để gỡ tội: "Rằng: "Tôi chút phận đàn bà - Ghen tuông thì cũng người ta thường tình". Lý lẽ của Hoạn Thư thật cao siêu trong nghệ thuật bào chữa. Chỉ trong một khoảnh khắc thôi là Hoạn Thư đã lôi kéo Kiều về phía mình hoặc ít ra Kiều cũng một phần nào chia sẻ một phần về "chút phận đàn bà". Đã là đàn bà thì ai ai cũng vậy chứ chẳng riêng gì Hoạn Thư. Giảm nhẹ mọi tội lỗi xuống chuyện đàn bà, để đàn bà dễ thông cảm về việc này, nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lý chung của giới nữ: "chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai".
Hẳn nhiên Hoạn Thư biết giấu những gì nên giấu để chạy trốn tội lỗi của mình như những việc đánh đập, bắt cóc, hành hạ, đày đọa Kiều xuống hàng con hầu đứa ở mà chỉ kế lại "công" đã cho Kiều ra viết kình ở gác Quan Âm và cũng bắt giữ khi Kiều bỏ trốn ra khỏi nhà họ Hoạn. Đây cũng là thủ thuật ngụy biện độc đáo, và cuối cùng là Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình và chờ mong tấm lòng khoan dung độ lượng như trời bể của Kiều mà tha cho: "Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng".
Xét về mặt khôn ranh, tráo trở thì Hoạn Thư không có đối thủ. Còn với Kiều thì chẳng qua dày dặn phong sương, chịu đau chịu khổ là nhiều chứ làm gì bằng cái khôn ranh, xảo quyệt có huyết thống gia đình "lại bộ" của Hoạn Thư. Ngay cả Thúc Sinh kia thì cũng chẳng là gì đối với Hoạn Thư kia mà. Nguyên là một người có tội tày đình với Kiều mà khi nói ra thì sự việc nhẹ nhàng cốt là để cảm thông, xóa tội. Cái giọng điệu "quỷ quái tinh ma" ấy của Hoạn Thư đã làm xiêu lòng Kiều. Kiều đành phải chấp nhận Hoạn Thư là người "Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời". Hoạn Thư đã đẩy Kiều vào chỗ khó xử, "tha ra thì cùng mấy đời - làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen". Thái độ khoan dung, độ lượng của Kiều thì rất rõ, cũng mới đây thôi Kiều quyết tâm trả oán để cho được hả dạ, cho vết thương lòng của Kiều được xoa dịu đi phần nào. Nhưng rồi mọi sự đã đảo lộn trong khoảnh khắc, vì Hoạn Thư đã "tri quá" thì cũng nên tha tội và Kiều đã "truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay".
Việc xét xử Hoạn Thư có một kết cuộc thật bất ngờ, nhưng thực ra nó cũng phù hợp với logic đoạn văn, với tính cách nhân vật. Kiều tha bổng Hoạn Thư không hoàn toàn phụ thuộc vào sự "tự bào chữa" mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều. Cách cư xử này của Kiều phần nào cũng phù hợp với quan niệm triết lí dân gian: "Đánh người chạy đi chứ không đánh người chạy lại". Dù sao thì tên tiểu thư ấy đã bị tóm cố đến phiên tòa đã "hồn lạc phách xiêu", đã "khấu đầu dưới trướng", đã kêu ca xin thương tưởng, nghĩa là công lý đã phần nào được thực hiện. Việc thay đổi ngôi đã rõ ràng và Kiều đã trở thành vị quan tòa cầm cán cân công lý để xét xử.
Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán có một kết cấu phù hợp với tính cách nhân vật, với tâm lí nhân dân và tính chất lý tưởng của đạo đức. Thường tình thì con người cái oán ghi sâu hơn cái ân, trả oán được nghĩ đến trước trả ân. Đó là cảm tính, là tâm lí tự nhiên. Nhưng ở đây thì hoàn toàn ngược lại. Sự kiện đó đã phản ánh phẩm chất của Thúy Kiều - Một con người trung hậu vị tha, nghĩ đến người khác hơn nghĩ đến mình nên cái ân được trọng hơn cái oán. Và đây cũng còn là cái lẽ công bằng của nhân dân; quý trọng ân nghĩa hơn hận thù. Đây là điều mà ta cảm nhận được từ huyết thống của dân tộc ta.
Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán thể hiện tài năng sáng tạo của thiên tài văn học Nguyễn Du trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Chỉ cần vài nét chấm phá của nghệ thuật miêu tả ước lệ, Thúc Sinh hiện lên là con người nhút nhát trông thật thảm thương, và đặc biệt là cách của nhân vật: Hoạn Thư khôn ngoan, sắc sảo; Thúy Kiều nhân nghĩa, bao dung, độ lượng trong việc xét xử "đền ơn trả oán". Và qua đó, cũng đã phản ánh được khát vọng, ước mơ công lí chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du.
Phân tích đoạn thơ: Cho gươm mời đến... xuống trướng tiền tha ngay trong Thúy Kiều báo ân báo oán.
Câu trả lời của bạn
Trong nền văn học trung đại của Việt Nam, Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc, được xếp vào hàng một trong những tác phẩm kinh điển nhất. Truyện kể về cuộc đời đầy khổ cực và trái ngang của người con gái tài sắc vẹn toàn tên Thúy Kiều, dựa trên một tác phẩm có tên là Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Tác phẩm mang nhiều giá trị to lớn, bao gồm cả giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc, mà chủ yếu là nói về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Trong trích đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán, ta sẽ thấy một Thúy Kiều khác hẳn không còn yếu đuối, cam chịu, mà nàng đã trở nên mạnh mẽ sẵn sàng trừng phạt kẻ đã hại mình, nhưng sâu trong nội tâm nàng vẫn là người con gái lương thiện và hiểu lý lẽ.
Sau nhiều lần khổ sở, đày đọa ở lầu xanh thì Kiều gặp được Từ Hải - một vị anh hùng, đem lòng yêu mến và cứu thoát Kiều khỏi kiếp kỹ nữ. Kiều có cuộc sống mới và quay về trả ơn báo oán vợ chồng Thúc Sinh, Hoạn Thư. Phân cảnh đầu tiên đó là cảnh Thúy Kiều gặp lại Thúc Sinh, lúc này đây khi Kiều đã có chỗ dựa vững chắc, tuy nhiên nàng vẫn nhớ đến ân xưa Thúc Sinh từng yêu thương và đưa nàng ra khỏi lầu Ngưng Bích. Điều đó thể hiện cái tâm tính thiện lương, trọng tình nghĩa của nàng Kiều. Thế nên việc đầu tiên nàng muốn làm là trả hết ân nghĩa cho người xưa, dù sự cứu giúp của Thúc Sinh cũng đã gián tiếp khiến nàng chịu nhiều khổ sở, nhục nhã.
Thúc Sinh khi được mời đến gặp Kiều vì không biết cớ sự lại nghĩ đến chuyện cũ, thì đâm ra trong lòng cũng chột dạ và lo sợ vô cùng, chàng Thúc đã còn đâu phong thái ngời ngời năm xưa, chỉ còn cảnh "Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run". Thúc Sinh vốn chẳng làm gì nên tội, chỉ có điều chàng là kẻ bạc nhược, sợ vợ, không dám bảo vệ người con gái mình yêu, khiến Kiều nhiều phen khổ sở vì cơn ghen của Hoạn Thư. Có thể năm xưa Kiều chưa từng nhìn rõ bản chất của Thúc Sinh vì yêu chàng, nhưng nay thấy cảnh nhát gan sợ sệt này có lẽ Kiều đã hoàn toàn buông bỏ được, bởi vốn dĩ Thúc Sinh không đáng. Tuy giờ đã có quyền thế trong tay, nhưng Kiều không vì thế mà tỏ ra hống hách, ngạo mạn, nàng vẫn đối đãi với Thúc Sinh một cách hữu lễ, dịu dàng, "Nghĩa nặng nghìn non, Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?". Kiều gợi nhắc lại chuyện cũ và cũng nhấn mạnh với Thúc Sinh rằng ân nghĩa khi xưa của Thúc nàng chưa từng quên, nó tựa như ngàn ngọn núi vẫn đè nặng trên vai nàng. Tuy Kiều và Thúc Sinh vốn là Sâm Thương cách biệt, không thể ở bên nhau trọn đời, nhưng cũng từng có khoảng thời gian hạnh phúc, Kiều là người hiểu biết sao có thể gạt sang bên mà coi như không có được. Cách ví von "Sâm Thương" như thế cũng thể hiện được cái tài hoa, thông tuệ của nàng Kiều trong đối đáp.
Để trả đủ ân tình cho Thúc Sinh, Kiều đã sai người đem tặng chàng "Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân" để báo ân. Tuy nhiên ân oán rõ ràng, Thúc Sinh nàng trả ơn nhưng còn vợ chàng là Hoạn Thư thì phải chịu trừng phạt, Kiều cũng báo trước với Thúc Sinh điều nàng sắp làm, để Thúc Sinh liệu đường. Sâu xa hơn cả Kiều cũng muốn nhắc lại những đau khổ của nàng trước kia, Kiều chung quy cũng là phận đàn bà, thù dai nhớ lâu vẫn còn đó, nàng ân oán phân minh rạch ròi, người có ơn thì trả, kẻ có tội thì phải phạt là thế. Câu "Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau", thể hiện cái sự mạnh mẽ, lại có phần mỉa mai, bởi khác với những từ ngữ tỏ ý kính trọng, biết ơn thì ở đây "kẻ cắp" với "bà già" lại mang phong vị dân gian, chợ búa, giễu cợt, rất phù hợp để nói về người phụ nữ ranh ma như Hoạn Thư, đồng thời cũng nói về cuộc đối đầu sắp tới của hai người phụ nữ cũng kẻ tám lạng người nửa cân. Qủa thực, Kiều đã trưởng thành mà mạnh mẽ hơn tất thảy, dù là lễ nghĩa hay lý lẽ ranh ma nàng đều có thể đối phó được.
Sau màn báo ân Thúc Sinh, Kiều cho người đưa Hoạn Thư đến. Khác hẳn với những lời dịu dàng, hữu lễ Kiều nói với Thúc Sinh, thì với Hoạn Thư, Kiều lại dùng những lời lẽ sâu cay, trong đó còn bao hàm cả ý mỉa mai, chế giễu:
"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây
Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan
Dễ dàng là thói hồng nha
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều"
Không chỉ là lời mỉa mai, chế giễu mà trong đó còn là lời cảnh cáo, dằn mặt Kiều dành cho Hoạn Thư. Nay vị thế của hai người đã đổi thay, Kiều ung dung ngồi xem Hoạn Thư quỳ gối chịu tội, cái cách xưng hô thật mỉa mai "Tiểu thư", làm cho Hoạn Thư vừa nhục nhã vừa đau khổ. Kiều cũng nhắc chuyện "đời xưa" với "đời nay" ý chỉ rằng, thế sự dễ đổi dời, nay thế nhưng mai chẳng biết ai sẽ hơn ai, nhắc Hoạn Thư khi xưa chỉ biết làm việc ác mà không nghĩ tới sẽ có ngày hôm nay, không biết chừa đường lui cho bản thân, đó là cái sai lớn nhất. Lời lẽ của Kiều rất sâu cay, tựa như đánh vào lòng người "Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều", chỉ rõ cho Hoạn Thư biết được rằng khi xưa nàng ta đối xử với Kiều như nào thì nay cũng phải chịu nhận trừng phạt như vậy.
Hoạn Thư là người phụ nữ tuy lòng dạ độc ác, nhưng cũng rất thông minh, thấy Kiều giọng điệu cay nghiệt, đanh thép vậy thì cũng rất biết điều mà "Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca". Lý lẽ của nàng ta cũng sức khôn lanh, toàn lựa chỗ có lợi cho mình mà nói.
"Rằng tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình
Nghĩ cho khi gác viết kinh
Vừa ra khỏi cửa dứt tình chẳng theo
Lòng riêng riêng những kính yêu
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai"
Quả thật đọc vào lời của Hoạn Thư thấy nàng ta lý lẽ cũng rất vẹn toàn, đánh vào tâm lý phụ nữ của Kiều, rằng đều là phận đàn bà thế nên việc ghen tuông là chuyện rất đỗi bình thường, thêm nữa lại phải kiếp chồng chung, là nỗi đau đớn muôn đời của phụ nữ, chính đó Kiều ắt cũng hiểu rõ. Thứ hai Hoạn Thư lại nhắc đến chuyện đánh ghen khi xưa chỉ đơn giản là bắt Kiều chép kinh, viết sách, rồi khi Kiều bỏ trốn Hoạn Thư cũng chẳng đuổi theo. Kết lại những lý lẽ giảo hoạt trên Hoạn Thư cũng rất khôn ngoan mà nhún nhường nhận hết tội lỗi về mình "Trót lòng gây việc chông gai" và rất khôn khéo xin Kiều tha tội: "Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng".
Trước những lời tự biện hộ một cách kín kẽ và khéo léo như thế, một người vốn lương thiện và thấu hiểu nhân tình thế thái cũng phải mủi lòng mà gật gù khen: "Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời". Suy cho cùng Kiều khen thế cũng là do tấm lòng thương cảm cho thân phận phụ nữ, khi chẳng may nàng lỡ làm kẻ chen chân vào mối quan hệ của vợ chồng Hoạn Thư, khiến nàng ta gặp nhiều đau khổ, âu những việc khi xưa nàng ta làm cũng do ghen tuông mù quáng mà ra cả. Đặc biệt những lý lẽ chuẩn xác của Hoạn Thư đã đưa Kiều vào thế khó xử, nếu Kiều không tha thì mang cái tiếng nhỏ nhen, không thông tình đạt lý, còn nếu mà tha thì Hoạn Thư chưa hẳn đáng được như thế. Nhưng dẫu sao Kiều cũng là người con gái thiện lương, thông đạt lý lẽ, đọc nhiều sách vở nên với kiểu người như Hoạn Thư Kiều cũng không trách, thậm chí còn cảm thấy thương cảm vì cùng phận đàn bà. Hơn thế, dù Kiều có thực sự trừng phạt Hoạn Thư đi chăng nữa thì chưa chắc lòng nàng đã thấy thoải mái hơn, chi bằng cứ thứ tha, ai lại sống cuộc sống của người đó, có phải là hơn không, bởi quá khứ không thể quay lại lần nữa, chỉ có cách hướng về tương lai. Vậy thì trả thù liệu còn ý nghĩa gì không? Chính vì vậy Kiều quyết định tha cho Hoạn Thư "Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay".
Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán, đã lột tả hết được vẻ đẹp trong tính cách của nàng Kiều. Đối với người có ơn với mình là Thúc Sinh thì hết mực ân cần, lời nói hòa nhã, trang trọng, còn ngược lại đối với Hoạn Thư thì, lời nói của nàng cay nghiệt, sâu sắc, khiến kẻ đối diện phải tím tái mặt mày. Đồng thời qua đó ta càng thấu hiểu thêm về một nàng Kiều trọng tình trọng nghĩa, ân oán phân minh, lại vô cùng thấu hiểu lý lẽ, có tấm lòng cảm thông sâu sắc cho thân phận phụ nữ.
Phân tích hình tượng nhân vật Thúc Sinh trong đoạn Thúy Kiều báo ân báo oán.
Câu trả lời của bạn
"Truyện Kiều" của Nguyễn Du là một thiên kiệt tác, không chỉ mang giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo sâu sắc mà thành công còn nằm ở mặt nghệ thuật của tác phẩm, điển hình nhất đó chính là nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật bằng những nét chấm phá ấn tượng. Do vậy,dù là nhân vật chính diện hay phản diện, nhân vật chính hay nhân vật phụ thì đều được khắc họa rõ nét.Trong đoạn trích "Thúy Kiều báo ân báo oán", hình ảnh Thúc Sinh dù chỉ xuất hiện thoáng qua và được khắc họa thông qua một vài câu nhưng cũng thể hiện được trọn vẹn con người cũng như tính cách của nhân vật này.
Thúc Sinh là một thư sinh, gia đình cũng thuộc hàng danh giá, lại lấy được con gái của Thượng Thư là Hoạn Thư.Trong một lần đi chơi ở chốn thanh lâu, Thúc Sinh đã gặp Thúy Kiều và đem lòng yêu mến nàng. Thúc Sinh đã dùng tiền để chuộc Thúy Kiều ra và muốn lập nàng làm thiếp.Khi gặp được Từ Hải, Thúy Kiều đã mời Thúc Sinh đến "phiên tòa" để báo đáp công ơn cứu giúp nàng. Ở đây, tính cách của nhân vật này được khắc họa khá rõ nét:
"Cho gươm mời đến Thúc lang
Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run"
Trong phiên tòa xử phạt này, Thúy Kiều đã cho người đưa Thúc Sinh đến để tiện bề báo đáp ân nghĩa Thúc Sinh đã dành cho nàng.Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng từ "mời", bản thân từ này cũng thể hiện phần nào sự coi trọng cũng như "tư cách" của Thúc Sinh trong phiên tòa này.Tuy nhiên, với bản tính nhu nhược, có phần nhát gan, khi chứng kiến không khí nghiêm túc cùng đội quân oai nghiêm của Từ Hải thì Thúc Sinh đã "Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run". Dùng từ "chàm đổ" để miêu tả khuôn mặt của Thúc Sinh đã gợi cho người đọc liên tưởng về một gương mặt sợ hãi quá độ nên mất đi sắc hồng thông thường mà xám ngắt như màu chàm.
Nếu như "chàm đổ" thể hiện được sắc mặt thì từ "run" mà Nguyễn Du dùng trong câu thơ này lại diễn tả được cái run rẩy, sợ hãi trong hành động của Thúc Sinh.
Có lẽ, Thúc Sinh cũng biết trong thời gian sống với mình, Thúy Kiều đã phải chịu bao nhiêu cay đắng, đau khổ, lại chịu sự hành hạ dã man của Hoạn Thư nên khi bị mời đến thì mang nặng một cảm giác bất an tột cùng. Lại thêm bản tính nhu nhược, bất lực càng làm cho hình ảnh Thúc Sinh trở nên đáng thương, lại có phần hài hước.
Khi nghe Thúy Kiều trần tình nguyên cớ mời mình đến là để báo đáp ân tình thì Thúc Sinh tuy có bình tâm hơn nhưng trong lòng lúc nào cũng thấp thỏm cảm giác bất an, sợ hãi. Đặc biệt, khi Thúy Kiều lên tiếng kết tội Hoạn Thư thì Thúc Sinh càng run sợ, một bộ dạng vô cùng đáng thương.
"Vợ chàng quỷ quái yêu ma
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau"
Khi tiếng "vợ chàng" cất lên thì sự bình tâm vừa có được của Thúc Sinh thoáng chốc bị nỗi sợ hãi, hoảng hốt thổi đi không còn dấu vết.
"Thúc Sinh trông mặt bấy giờ
Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm"
Khuôn mặt biến sắc đến xám ngắt của Thúc Sinh chưa kịp phục hồi sắc hồng thì lời kết tội của Thúy Kiều đối với Hoạn Thư, đặc biệt còn nhắc đến trong mối quan hệ với mình nên mồ hôi đã "như mưa ướt đầm".
Phải chăng ở đây Thúc Sinh sợ Thúy Kiều vì lòng căm ghét với Hoạn Thư mà liên lụy đến mình chăng?
Qua câu ta thấy,Thúc Sinh không chỉ nhu nhược, bất tài mà còn nhát gan,thiếu bản lĩnh cần có của người đàn ông. Cũng có lẽ vì sự nhút nhát, thiếu dứt khoát, bản lĩnh này mà khi ở bên, Thúy Kiều đã phải chịu biết bao nhiêu đau khổ.
"Lòng riêng mừng sợ khôn cầm
Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai"
Nỗi lòng, tâm trạng của Thúc Sinh lúc này khá phức tạp,mừng có, sợ có.
"Mừng" ở đây có lẽ là nỗi vui mừng của một người cố nhân khi thấy Thúy Kiều đã có thể đứng ở vị trí "trên" mà trừng phạt những người đã gây ra đau khổ, chà đạp lên nhân phẩm của nàng. Nếu hiểu theo nghĩa này ta sẽ thấy Thúc Sinh tuy nhu nhược, hèn nhát song cũng là một kẻ đa tình. Tình yêu mà Thúc Sinh dành cho Thúy Kiều là chân thành, nhưng vì không đủ bản lĩnh nên không thể đấu tranh,bảo vệ và mang lại hạnh phúc cho nàng.
"Sợ" ở đây phải chăng là sự lo lắng cho số phận, bản án tới đây dành cho Hoạn Thư. Tuy với Hoạn Thư là cuộc "hôn nhân không hạnh phúc", lại thường xuyên bị Hoạn Thư "đè đầu cưỡi cổ" song ở tận sâu đáy lòng thì chàng vẫn cảm thấy có chút xót xa, lo sợ thay cho nàng. Ta thấy Thúc Sinh cũng là một con người đầy tình nghĩa.
Như vậy,chỉ với vài nét khắc họa mô tả lời nói cũng như hành động của Thúc Sinh mà Nguyễn Du đã để lại cho người đọc toàn bộ tấm chân dung của nhân vật này: hèn nhát,nhu nhược nhưng cũng rất mực si tình, trọng tình nghĩa.
12 câu đầu tả cảnh Thúy Kiều báo ân (trả ơn)
- Qua lời của Kiều nói với Thúc Sinh, em thấy Kiều là người như thế nào?
- Tại sao khi trả ơn Thúc Sinh, kiều lại nói với Thúc Sinh về Hoạn Thư? Có sự khác nhau như thế nào trong ngôn ngữ của Kiều khi nói với Thúc Sinh và khi nói về Hoạn Thư? Vì sao có sự khác nhau ấy
Bài Thúy Kiều báo ân báo oán
Giúp mình với mọi người ơi, mk đag soạn văn
Câu trả lời của bạn
Hướng dẫn soạn bài "Thúy Kiều báo ân báo oán " - Trích "Truyện Kiều" - Nguyễn Du - Văn lớp 9
Câu trả lời của bạn
(Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Bố cục:
- Phần 1 (mười hai câu thơ đầu): cảnh Thúy Kiều báo ân cho Thúc Sinh.
- Phần 2 (hai mươi hai câu thơ còn lại): Thúy Kiều báo oán Hoạn Thư.
Câu 1:
Mười hai câu đầu đoạn trích tả cảnh Thúy Kiều báo ân. Từ lời của Kiều nói với Thúc Sinh có thể thấy nàng rất trân trọng việc Thúc Sinh chuộc nàng khỏi lầu xanh. Nàng gọi Thúc Sinh là "Người cũ" mang sắc thái thân mật, gần gũi, rồi lại gọi là "cổ nhân" mang sắc thái trang trọng. Với nàng dù có "Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân" cũng chưa dễ xứng với ơn nghĩa nặng của Thúc Sinh. Trong khi nói với Thúc Sinh. Kiều cũng nhắc về Hoạn Thư. Điều đó chứng tỏ vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho Kiều đang còn quá xót xa. Có sự khác nhau trong ngôn ngữ của Kiều nói với Thúc Sinh, Kiều dùng nhiều từ điển cố "Sâm Thương" cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của Kiều. Còn lúc nói về Hoạn Thư, ngôn ngữ của Kiều lại hết sức bình dị. Nàng dùng những thành ngữ quen thuộc "Kẻ cắp bà già gặp nhau", "Kiến bỏ miệng chén" với những từ Việt dễ hiểu: hàng động trừng phạt kẻ ác theo quan điểm của nhân dân phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Câu 2:
Những lời đầu tiên của Kiều nói với Hoạn Thư có giọng điệu mỉa mai, đay nghiến:
Thoắt trông nàng đã chào thưa: "Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây! Đàn bà dễ có mấy tay Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan! Dễ dàng là thói hồng nhan, Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều"
Bằng giọng điệu đầy vẻ châm biếm, Kiều gọi Hoạn Thư là "tiểu thư", cẩn thận báo cho mụ ta biết về "luật nhân quả" ở đời "càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều". Kiều tin chắc vào chiến thắng đến mức sẵn sàng chấp nhận đấu khẩu!
Câu 3:
Thế nhưng Hoạn Thư thật xứng với danh tiếng "Bề ngoài thơn thớt nói cười – Mà trong nham hiểm giết người không dao":
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu Khấu đầu dưới chiếu, liệu điều kêu ca. Rằng: "Tôi chút phận đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình..."
Giữa dáng điệu bề ngoài với lời nói bên trong của Hoạn Thư có cái gì đó rất mâu thuẫn. Nếu quả thật đã "hồn lạc phách xiêu", Hoạn Thư khó có thể biện hộ cho mình một cách khéo léo như vậy. Không những khẳng định "ghen tuông chỉ là thói thường của đàn bà", Hoạn Thư còn kể đến những việc mà tưởng như mụ đã "làm ơn" cho Thuý Kiều: cho ra nhà gác để viết kinh, khi Thuý Kiều trốn đã không đuổi bắt... Đó là những lí lẽ rất khôn ngoan mà Kiều khó lòng bác bỏ được. Thì ra, vẻ "hồn lạc phách xiêu" chỉ là bộ điệu mà mụ ta tạo ra để đánh vào chỗ yếu của Thuý Kiều. Đứng trước cơ hội duy nhất để có thể thoát tội, mụ đã vận dụng tất cả sự khôn ngoan, lọc lõi của mình.
Câu 4:
Rốt cuộc, người thua trong cuộc đấu trí, đấu khẩu đó lại chính là Thuý Kiều. Bằng chứng là khi nghe xong những lời "bào chữa" của Hoạn Thư, Thuý Kiều đã xuôi lòng mà tha bổng cho mụ, không những thế lại còn khen: "Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời" và tự nói với mình rằng: "Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen".
Kết cục đó có thể bất ngờ với người đọc nhưng lại rất hợp lí với lô gích của tác phẩm. Đoạn "báo ân" với Thúc Sinh đã cho thấy: dù thế nào đi nữa, nàng vẫn là người phụ nữ đa sầu đa cảm, nặng tình nặng nghĩa. Một người phụ nữ như thế, thật khó có thể đối đầu được với một kẻ gian ngoan, quỷ quyệt như Hoạn Thư.
Câu 5:
Qua đoạn trích có thể thấy Thúy Kiều là người trọng ân nghĩa. Những ai đã giúp đỡ nàng đều được nhớ tới và đến ơn xứng đáng. Thúc Sinh là một ví dụ. Còn với Hoạn Thư, nàng kiên quyết trừng phạt. Nhưng trước thái độ khôn ngoan kêu ca "đến mực, phải lời", Kiều đã tha bổng. Nàng tha Hoạn Thư cho thấy Kiều là người không hẹp hòi, không nhỏ nhen, không cố chấp. Sự rộng lượng của nàng càng làm cho người ta, kể cả Hoạn Thư – kẻ thù, phải tâm phục, khẩu phục.
Hoạn Thư là một người phụ nữ nham hiểm và hết mực khôn ngoan.
Câu hỏi (trang 109 SGK): Những biểu hiện đa dạng nhưng hợp lí, nhất quán trong tính cách của Thúy Kiều và Hoạn Thư.
+ Thúy Kiều:
→ Có yêu, có ghét rõ ràng, lúc thì rất ôn hòa, lúc lại rất cương quyết, cứng rắn: Nàng trả ơn đền nghĩa cho Thúc Sinh, ngược lại trừng phạt Hoạn Thư - người đã từng có tội với nàng.
→ Tuy nhiên, mọi hành động của Thúy Kiều đều dựa trên nguyên tắc đạo lý: nàng là người thấu hiểu đạo lý, nên mới đền ơn cho người đã cưu mang mình, đồng thời tha tội cho Hoạn Thư bởi nàng thấu hiểu cho phận đàn bà, ghen tuông là chuyện thường tình.
+ Hoạn Thư:
→ Trước sau Hoạn Thư đều là người khôn ngoan, mưu kế. Dù run sợ trước lời buộc tội của Kiều nhưng vẫn khôn khéo đưa ra được lời biện minh để thoát tội cho bản thân, lợi dụng lòng đồng cảm của Thúy Kiều: Về tình cảm riêng, tuy vẫn rất yêu quý tài năng của Thúy Kiều nhưng cảnh chồng chung thì ai nào chịu được, nên thói ghen tuông cũng là thường tình.
- Qua đoạn trích, học sinh thấy được nét tính cách nhất quán trong hai nhân vật Thúy Kiều va Hoạn Thư.
- Cảm nhận được nội dung tư tưởng của đoạn trích: đoạn trích thể hiện ước mơ công lí chính nghĩa theo quan điểm của quần chúng nhân dân, ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác.
- Học sinh phân tích được đặc sắc nghệ thuật trong ngồi bút xây dựng tính cách nhân vật trông qua ngôn ngữ đối thoại của tác giả Nguyễn Du.
Trong những câu thơ sau Thúy Kiều nói với Hoạn Thư những gì? Hãy chuyển những lời của Thúy Kiều thành một đoạn văn nghị luận.
Thoắt trông nàng đã chào thưa:
"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều"
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Câu trả lời của bạn
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *