Qua bài học các em thấy được rung cảm với những đứa trẻ đáng yêu sống thiếu tình thương và hiểu rõ tài kể chuyện của Go-rơ-ki trong đoạn trích tiểu thuyết tự thuật Thời thơ ấu.
Ông sinh ra và lớn lên ở thành phố Ni-giơ-ni Nô-vơ-gô-rốt, bên bờ sông Vôn-ga trong gia đình công nhân nghèo.
Ông mồ côi cha mẹ từ nhỏ, ông sống trong gia đình ông bà ngoại và sớm tự lập để kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau.
Ông tự học và rèn luyện với nghị lực phi thường để trở thành nhà nghệ sĩ ưu tú của nghệ thuật vô sản.
Ông là đại văn hòa Nga, người mở đầu cho văn học cách mạng Nga thế kỉ 20.
Ông là tác giả của nhiều tập truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, bút ký, kịch nói.
→ Hoàn cảnh sống thiếu tình thương giống nhau khiến A-li-ô-sa thân thiết với mấy đứa trẻ kia.
→ Chúng luôn hướng về nhau, luôn đoàn kết và hiểu nhau.
→ So sánh chính xá, toát lên sự cảm thông của A-li-ô-sa với nỗi bất hạnh của các bạn hàng xóm.
→ A-li-ô-sa liên tưởng chúng giống như những con ngỗng ngoan ngoãn.
→ So sánh chính xá, cụ thể: thể hiện dáng dấp bên ngoài và tâm trạng của ba đứa trẻ bị bố áp chế, chúng trở nên nhút nhát và cam chịu.
→ Với cách kể này, câu chuyện càng trở nên khái quát và càng tô đậm thêm màu sắc cổ tích đậm đà.
Đề: Phân tích đoạn Những đứa trẻ trong tác phẩm Thời thơ ấu.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
→ Tình bạn vô cùng hồn nhiên trong sáng và tươi đẹp. Tình cảm ấy như một dấu ấn giữa cuộc đời của tác giả để rồi hơn 40 năm sau ông vẫn còn nhớ như in và kể lại hết sức chân thành, xúc động.
Tuổi thơ của A-li-ô-sa may mắn trong tình yêu thương của bà. Bà ngoại của chúng trở nên nguồn hạnh phúc là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn. Bà là chỗ dựa, chở che và bảo vệ em khi gặp điều chẳng lành.
→ Tuổi thơ của tác giả trải qua tình bạn và tình thương ấm áp của bà. Tình yêu thương đó đã giúp A-li-ô-sa vượt trên số phận bất hạnh của mình.
Qua những dòng tự thuật của Mác-xin Go-rơ-ki ta hiểu thêm tâm hồn trong trẻo biết yêu bà, yêu bạn, lớn lên trong tình yêu che chở của bà.
3. Kết bài
Đọc chương 9 tập Thời thơ ấu, dõi theo hành trình của cậu bé Pê-scốp, lòng chúng ta xôn xao rung động trước vẻ đẹp một tâm hồn thơ bé. Tình bạn, tình yêu bà của bé A-li-ô-sa Pê-scốp nhiều rung động, chứa chan. Để tìm hiểu sâu hơn về tác phẩm này, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Những đứa trẻ.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Đoạn trích "Những đứa trẻ" trích trong tác phẩm "Thời thơ ấu" được Mác-xim Go-rơ- ki viết vào những năm 1913 - 1914, cũng là những năm tháng sự phân biệt giàu nghèo trong xã hội Nga trở nên gay gắt. Tác phẩm mang tính chất tự thuật về chính cuộc đời của tác giả và những người hàng xóm, người thân trong gia đình ông. Để nắm vững nội dung bài học cũng như dễ dàng viết hoàn chỉnh bài văn, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ trong Thời thơ ấu của Go-rơ-ki
- Tình bạn của những đứa trẻ trong đoạn trích Những đứa trẻ của Go-rơ-ki
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Tóm tắt truyện Những đứa trẻ.
Câu trả lời của bạn
Ba đứa trẻ chiều nào cũng chơi trong sân đến tối mịt. Chúng có khuôn mặt tròn, mắt xám, cùng mặc áo cánh, quần dài màu xám, rất giống nhau, chỉ có thể phân biệt theo tầm vóc mỗi đứa. Qua khe hở hàng rào, tôi thấy chúng chơi những trò chơi rất thú vị, vui vẻ. Hai đứa lớn săn sóc một thằng bé ngộ nghĩnh và lanh lợi. Mỗi lần trong lúc chơi, đứa em ngã, hai đứa anh lại cười vui rồi xúm vào lấy khăn tay hoặc lá ngưu bàng lau tay cho em. Thằng anh nói một cách hiền hậu: "Em lóng ngóng quá!"
Có một lần tôi leo lên cây, huýt sáo gọi chúng. Chúng túm lại, đưa mắt nhìn tôi và thì thầm bàn bạc gì với nhau. Chúng lại mải mê chơi, cho đến lúc có người gọi về. Chúng đi thong thả và ngoan ngoãn như những chú ngỗng.
Nhiều lần tôi trèo lên cây, hy vọng chúng nó gọi tôi xuống chơi với chúng. Ba anh em vẫn chơi với nhau. Một lần chúng chơi trò ú tim, thằng em ngồi vào gầu không, rơi xuống giếng biến mất. Tôi sững sờ nhìn thấy, vội kêu to: "Ngã xuống giếng rồi!" Tôi cùng hai thằng anh đã kéo được thằng em lên. Nó bị ướt, bàn tay rớm máu, má bị sây sát, mặt tái xanh nhưng vẫn mỉm cười. Thằng anh lớn gật đầu, chìa tay cho tôi và nói: "Cậu chạy đến nhanh lắm!" Chúng bàn với nhau là nói đứa em bị ngã vào vũng nước rồi kéo nhau vào nhà. Gần một tuần sau chúng mới xuất hiện trên sân. Chợt nhìn thấy tôi trên cây, thằng anh lớn thân mật gọi: "Xuống đây chơi với chúng tớ". Chúng tôi leo lên cái xe trượt tuyết cũ để dưới mái hiên nhà kho rồi vừa ngắm nghía nhìn nhau, vừa nói chuyện rất lâu. Tôi hỏi chúng có bị đánh không. Thằng bé nhất hỏi tôi sao lại bắt chim. Nó hỏi chim gì hót vui. Chúng cũng muốn nuôi chim nhưng lại sợ bị mèo bắt mất, nghĩ là bố chúng chẳng cho nuôi. Tôi hỏi ba anh em về mẹ chúng, biết là mẹ chúng đã chết, đang ở với dì ghẻ. Tôi nhớ lại những chuyện kể của bà tôi về mụ dì ghẻ phù thuỷ và kể lại cho chúng nghe.
Trời bắt đầu tối, bỗng một lão già với bộ râu trắng, đội chiếc mũ xù lông, vận chiếc áo nâu dài lùng thùng như một giáo sĩ xuất hiện chỉ vào tôi và hỏi: "Đứa nào đây?" Nghe thằng anh lớn trả lời, lão nắm chặt lấy vai tôi, dẫn tôi qua sân ra cổng, giơ ngón tay dọa tôi và nói: "Cấm không được đến chỗ tao!". Tôi cáu tiết: "Tôi có thèm đến với lão đâu, đồ quỷ già". Vì chuyện đó mà tôi bị ông tôi cho một trận đòn. Tôi bị ném ra sân, vào trong chiếc xe của bác Piốt; qua bác mà tôi biết tên lão già đại tá quý tộc.
Tôi với bác Piốt xẩy ra bất hòa, bác đặt điều nói với bà tôi, may mà bà tôi bênh che cho tôi. Từ hồi đó, một cuộc chiến tranh âm thầm và gay gắt giữa bác Piôt và tôi. Bác ta tìm mọi cách giả như vô tình để xô đẩy tôi, lấy dây cương quật tôi, thả chim của tôi ra, đem chim của tôi cho mèo vồ. Còn tôi thì tháo giày gai của bác ra, bí mật gỡ và cứa đứt những sợi gai ... hoặc đổ hạt tiêu vào mũi bác, làm cho bác ta hắt hơi hàng giờ. Mỗi lần bắt gặp tôi nói chuyện với mấy đứa con lão đại tá, bác Piốt lại đi tố cáo với ông tôi.
Tôi vẫn tiếp tục chơi với ba đứa bé, mỗi ngày một trở nên thích thú. Tôi bí mật khoét một lỗ nhỏ hình bán nguyệt ở hàng rào. Tôi vẫn kể chuyện cho chúng nghe, có chỗ nào quên lại chạy về hỏi lại bà, điều đó làm cho bà tôi rất hài lòng. Có một lần thằng lớn thở dài nói: "Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà mình trước cùng rất tốt". Cả ba anh em đều rất đáng yêu. Đặc biệt thằng lớn có đôi bàn tay nhỏ, những ngón tay thon thon, người mảnh dẻ, cặp mắt rất sáng, nhưng dịu dàng như ánh sáng của những ngọn đèn trong nhà thờ. Tôi rất ưa thằng lớn và luôn luôn muốn làm cho chúng vui thích.
Bình giảng đoạn trích Những đứa trẻ trong tác phẩm Thời thơ ấu của M. Go-rơ-ki.
Câu trả lời của bạn
Mác-xim Go-rơ-ki (1868 – 1936) là bút danh của A-lếch-xây Pê-scốp, một trong những nhà văn lớn của Nga và thế giới trong thế kỉ XX. Ông là tác giả của bộ ba tiểu thuyết tự thuật: Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi và một số tác phẩm quan trọng khác. Những đứa trẻ trích ở chương IX tác phẩm Thời thơ ấu gợi cho người đọc cảm nhận một cách sâu sắc những tâm hồn tuổi thơ trong trắng, sống thiếu tình thương bằng nghệ thuật kể chuyện của tác giả.
Thời thơ ấu là loại tiểu thuyết nhà văn dùng ngôi thứ nhất xưng “tôi”, kể chuyện đời mình. Pê-scốp ở nhà thường được gọi thân mật là A-li-ô-sa. A-li-ô-sa đã sớm nếm trải nhiều cay đắng, bất hạnh. Lên ba tuổi thì bố mất, A-li-ô-sa về sống với gia đình bà ngoại. Mẹ đi lấy chồng khác. A-li-ô-sa sớm phải chứng kiến cảnh nhức nhối của gia đình bên ngoại. Hai cậu của A-li-ô-sa thường xuyên xung đột vì tranh chấp gia tài. Ông ngoại khó tính, thiếu tình thương, ngược đãi, đe dọa và đối xử với cháu bằng roi vọt tàn nhẫn. Nhưng cậu bé cũng có được nguồn an ủi lớn lao từ lòng nhân hậu, tình yêu thương của bà ngoại – bà thường kể chuyện cổ tích cho cháu nghe, rót vào tâm hồn tuổi thơ cháu những tình cảm tốt đẹp. Lúc lên mười tuổi, cậu bé còn phải tiếp tục chứng kiến cái chết của người mẹ. Và ngay sau đó, A-li-ô-sa bị ông ngoại ngược đãi đẩy ra ngoài đường. Thế là cậu bé thơ ngây này đã phải “bước vào đời”. Thời thơ ấu của bé A-li- ô-sa là những năm tháng không thể nào quên, chính vì vậy mà ba mươi năm về sau, Go-rơ-ki còn nhớ rõ như in khi kể lại cuộc chuyện về tuổi thơ của mình.
Đoạn trích Những đứa trẻ là một trong mười ba chương của tiểu thuyết tự thuật Thời thơ ấu đã để lại cho người đọc những rung động trước vẻ đẹp tâm hồn thơ bé về tình cảm bạn bè, tình bà cháu. Trong hoàn cảnh riêng của mình, ngoài niềm vui đối xử của bà ngoại, A-li-ô-sa chỉ còn biết tìm đến thế giới loài chim, bẫy chim, nuôi chim và được nghe chim hót. Vì khát khao tình cảm bạn bè, cậu bé đã có nhiều lần leo lên cành cây nhìn sang một cái sân, nơi ba đứa trẻ con nhà đại tá thường hay chơi. Chúng có khuôn mặt tròn, mắt xám với quần dài màu xám và rất giống nhau. Bọn chúng rất vui vẻ và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau đã làm cho A-li-ô-sa thích thú và thèm khát. Nhưng điều đã làm cho A-li-ô-sa và những đứa trẻ không gần gũi, được chơi với nhau, không phải vì một bờ rào ngăn cách mà do những định kiến về giai cấp: một bên là dân thường, một bên là quan chức giàu sang. Điều đó đã làm cho cậu bé A-li-ô-sa tủi thân và cảm thấy mình cô đơn.
Có một lần thằng nhỏ còn chơi nghịch nhảy vào gàu rơi xuống giếng, cậu bé A-li-ô-sa từ trên cành cây thấy được, nhanh chóng nhảy xuống cùng hai đứa lớn cứu được thằng em út. Sự nhanh nhẹn và tấm lòng của cậu bé A-li-ô-sa trong việc kịp thời cứu giúp thằng em nhỏ đã để lại ấn tượng sâu sắc đối với ba đứa trẻ con ông đại tá. Sự kiện này đã phá vờ bờ rào ngăn cách giữa những đứa trẻ. Và sau đó gần một tuần, khi mà thằng anh lớn nhìn thấy A-li-ô-sa trên cành cây đã thân mật gọi: “Xuống đây chơi với chúng tớ”. Đó là tiếng gọi của những phút giây giao cảm tuyệt đẹp của thế giới tâm hồn tuổi thơ, phút giây hạnh phúc mà A-li-ô-sa đã khao khát, chờ đợi bấy lâu. Với tâm hồn trong trắng và sự nhạy cảm của tuổi ấu thơ, chúng quấn quýt với chơi với nhau và còn quan tâm hỏi chuyện về nhiều điều của nhau: “Các cậu có bị đánh không” hoặc nói về việc bẫy chim, về chim bạch yến, thích nghe chim hót, về chuyện nuôi chim. A-li-ô-sa còn hỏi: “Các cậu có mẹ không”. Những đứa trẻ trả lời “có, nhưng là mẹ khác” rồi lặng đi.
Từ những truyện cổ tích mà người bà đã kể, A-li-ô-sa hiểu thế nào là “dì ghẻ”, nên cậu bé thông cảm với sự im lặng, nghĩ ngợi của bọn nó. Go-rơ-ki đã kể: “Chúng ngồi sát vào nhau, giống như những chú gà con”. Cách so sánh chính xác của Go-rơ-ki đã gợi cho người đọc liên tưởng đến cảnh lũ gà con sợ hãi co cụm vào nhau khi nhìn thấy diều hâu, một thế lực tàn bạo luôn là mối đe dọa đối với chúng. Và qua đó, thể hiện sự thông cảm, sẻ chia của A-li-ô-sa với những nỗi bất hạnh của các bạn nhỏ của mình.
A-li-ô-sa kể về những câu chuyện mụ dì ghẻ phù thủy bọn chúng im lặng lắng nghe mà đặc biệt là hai đứa em, thằng bé nhất thì “mím chặt môi và phồng má lên”, còn đứa khác thì “chống khuỷu tay lên đầu gối, cúi về phía tôi, tay kia quàng lên vai em nó…”. Trong khoảnh khắc giao cảm thần tiên giữa những tâm hồn trẻ thơ và thế giới cổ tích, thì có sự xuất hiện đột ngột của lão đại tá già với “bộ ria trắng, mình vận chiếc áo dài lùng thùng màu nâu nhạt… đầu đội chiếc mũ xù lông” lên tiếng quát: “Đứa nào gọi nó sang” và kèm ngay sau đó là một hành động thô bạo: “nắm chặt” và đẩy A-li-ô-sa ra khỏi cổng cùng với lời đe dọa: “Cấm không được đến nhà tao”. Và ngay trước đó, A-li-ô- sa cũng đã chứng kiến cái cảnh thật đáng thương của ba đứa trẻ khi gã đại tá đột ngột xuất hiện: “Tức thì cả mấy đứa lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe và đi vào nhà, khiến tôi lại nghĩ đến những con ngỗng ngoan ngoãn”. Qua lời kể và cách so sánh của Go-rơ-ki vừa thể hiện được dáng dấp thật đáng thương của những đứa trẻ vừa thể hiện thế giới nội tâm của chúng. Mọi sự sinh hoạt của chúng đều do sự áp đặt, cấm đoán của ông bố.
Từ việc làm quen, trò chuyện với những đứa trẻ A-li-ô-sa đã phát hiện và cảm nhận một điều là bọn trẻ con nhà đại tá được sống trong cảnh giàu sang, nhưng cũng chẳng sung sướng gì, mẹ chết sống với dì ghẻ, lại bị bố cấm đoán… Chính từ hoàn cảnh thiêu tình thương như nhau, khiến A-li-ô-sa thân thiết với mấy đứa trẻ kia và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng Go-rơ-ki. Vì lẽ đó mà đã mấy chục năm rồi, khi kể lại sự việc còn nhớ rõ như in.
Nhưng rồi mọi việc cũng không dừng lại ở đó. Mặc dù bị những trận đòn của ông ngoại, sự đặt điều mách lẻo, sự đặt điều mách lẻo, sự để ý “theo dõi” của bác Pi-ốt và ngay cả sự nghiêm cấm của ông ngoại (không cho A-li-ô-sa chơi với mấy đứa con nhà ông đại tá). Cậu bé đã vượt qua tất cả, “vẫn tiếp tục chơi với mấy đứa trẻ ấy và cảm thấy rất vui thích”. Có lẽ vì tình yêu thương, sự thông cảm và niềm khao khát được chia sẻ và được cùng chơi với nhau đã khiến chúng ngày càng xích lại gần hơn mà không có một trở lực nào ngăn cản được. Thế là trong một ngách hẹp giữa bức tường nhà A-li-ô-sa và hàng rào gã đại tá có một dây đu, một cây bồ đề, và một bụi hương mộc nậm rạp, một “lỗ hổng hình bán nguyệt” đã được A-li-ô-sa bí mật khoét ra. Ở đó “mấy thằng bé, lần lượt từng đứa hay hai đứa một, lại gần, và chúng tôi ngồi xổm hoặc quỳ xuống nói chuyện khe khẽ với nhau”. Và một đứa khác trong số ba anh em chúng phải luôn đứng canh để đề phòng ông đại tá bất chợt bắt gặp. Sự gặp gỡ của những đứa bé thật đáng yêu! Với tâm hồn ngây thơ, trong trắng, bọn chúng đã xé vỡ những định kiến giai cấp, những quan hệ xã hội mà chỉ có những “ông lớn”, những bọn quan chức, quý tộc giàu có đặt ra đã dẫm nát lên những giá trị tinh thần mà lẽ ra tất cả những con người sinh ra trên trái đất này phải được bình đẳng về mọi mặt.
Thật xúc động trước những tâm hồn của những đứa trẻ thiếu tình thương. Gặp nhau, chúng kể cho nhau nghe về cuộc sống buồn, về những con chim và nhiều chuyện trẻ con khác. Nhưng A- li-ô-sa chưa bao giờ được nghe chúng nói một lời nào về bố và dì ghẻ mà chỉ đề nghị A-li-ô-sa kê truyện cổ tích. Hiểu được tâm trạng của bọn trẻ, A-li-ô-sa nhiệt tình chăm chú kể lại những truyện mà bà ngoại đã kể. Có một điều rất thú vị là trong khi kể nêu có chỗ nào quên thì cậu bé chạy về hỏi lại bà rồi kể tiếp. Điều này làm cho bà ngoại “rất hài lòng” với A-li-ô-sa, bà ngoại là dòng cổ tích ngọt ngào, là niềm hạnh phúc, là chỗ dựa tinh thần mà cậu bé rất đỗi tự hào. Cậu bé còn kể bọn trẻ con nhà lão đại tá nghe nhiều điều tốt đẹp về bà ngoại mình. Điều đó cũng làm động lòng đến mấy đứa trẻ để rồi liên tưởng đến người bà của mình mà hiện tại chúng không có được hạnh phúc đó như A- li-ô-sa. Thằng lớn con nhà đại tá thở dài nói: “có lẽ tất cả các bà đều tốt, bà tớ ngày trước cũng rất tốt”. Câu nói hàm chứa một nỗi buồn của những đứa trẻ bất hạnh – bọn chúng không chí không còn bà mà còn không có mẹ, phải sống trong cảnh “mẹ ghẻ con chồng” và ngay cả những ràng buộc, cấm đoán một cách nghiệt ngã của ông bố. Và đặc biệt là được nghe từ những trang cổ tích, những câu chuyện mà A-li-ô-sa kể về bà của mình khiến chúng phái suy nghĩ và “thường nói một cách buồn bã: ngày trước, ngày kia, đã có thời…. Dường như nó đã sống trên trái đất này một trăm năm, chứ không phải mười một năm”. Chính từ sự đồng cảm cần được chia sẻ giữa những đứa trẻ thiếu tình thương, lại khao khát tình cảm bạn bè đã đi vào kí ức tuổi thơ, dù đã mấy chục năm rồi, nhưng khi kể lại một thời như thế, Go-rơ-ki gần như không quên một chi tiết nào mà còn nhớ rất rõ: “Tôi còn nhớ nó có đôi bàn tay nhỏ nhắn, những ngón tay thon thon và người mảnh dẻ, yếu ớt, cặp mắt sáng, nhưng dịu dàng như ánh sáng của những ngọn đèn trong nhà thờ. Hai xem nó cùng rất dễ thương, lôi yêu lắm, tôi luôn muốn làm cho chúng vui thích, nhưng tôi ưa thằng lớn hơn cả…”
Đọc lại những trang viết về cuộc đời của Go-rơ-ki mấy ai không dễ xúc động mà đặc biệt là những chuỗi ngày dài u ám của thời thơ ấu. Trong hiện thực khắc nghiệt của cuộc sống ngay từ buổi thiếu thời, cậu bé A-li-ô-sa đã vượt lên trên tất cả để sống với bạn bè và cho chính mình. Với sự nhạy cảm của tâm hồn trẻ thơ, cậu bé A-li-ô-sa đã trang trải lòng mình với bọn trẻ để cùng được thông cảm, sẻ chia thì thật là ý nghĩa và đáng trân trọng. Và cũng vô cùng cảm động, khi A-li-ô-sa mới lên mười tuổi là lúc người mẹ qua đời – nỗi đau chưa nguôi thì lại bị ông ngoại độc ác đã đẩy cậu “đi vào đời” mà kiếm sống.
Bằng cách kể chuyện giàu tình cảm, đan xen chuyện đời thường với truyện cổ tích, Mác-xim Go-rơ-ki đã thuật lại một cách chân thực, sinh động và tuyệt đẹp về tình bà cháu, về tình bạn bè thân thiết của ông còn nhỏ với mấy đứa trẻ sống thiếu tình thương bên hàng xóm. Sức mạnh của tình cảm bạn bè đã vượt qua những cản trở trong quan hệ xã hội của nước Nga thời bấy giờ. Cuộc sống thực sự có ý nghĩa khi ta có tình yêu thương chân thành, tha thiết và được sẻ chia, thiếu nó con người sẽ trở nên cô đơn, buồn tủi.
Truyện không phải là lời tự thuật đơn thuần mà thông qua đó, tác giả vốn là người gặp nhiều cay đắng nên điều này muốn gợi tình yêu thương gia đình, quê hương đất nước và tình cảm bạn bè chân thật… có được những điều đó sẽ đem đến cho ta sự thanh thản, yêu đời và tạo được niềm tin trong cuộc sống.
Phân tích đoạn Những đứa trẻ để thấy tâm hồn và tình bạn tuổi thơ thật hồn nhiên, trong sáng.
Câu trả lời của bạn
Mac-xim Go-rơ-ki (1868-1936), là một trong những nhà văn lớn cả Nga và của thế giới trong thế kỷ XX. Ông có một tuổi thơ đầy bất hạnh, trong quá trình trưởng thành cũng gặp rất nhiều gian nan vất vả. Tuy nhiên trong tâm hồn nhà văn vẫn luôn có những tình yêu bền bỉ, chân thành, mà nền tảng là trong con đường theo đuổi học vấn của mình. Bộ ba tác phẩm nổi tiếng Thời thơ ấu - Trong thế giới - Những trường đại học của tôi, dường như là một bộ tự truyện kể về quãng thời thơ ấu và trưởng thành đầy gian nan, vất vả của nhà văn. Đoạn trích Những đứa trẻ được trích trong chương IX của tác phẩm Thời thơ ấu kể về một trong những ký ức tuổi thơ đầy dữ dội và đáng nhớ của tác giả.
A-li-ô-sa (tên ở nhà của tác giả), là một đứa trẻ mồ côi, phải ở với ông bà ngoại vì bố mất sớm, mẹ đi thêm bước nữa. Bên nhà hàng xóm là ông đại tá đã già Ốp-xi-an-ni-cốp hiện đang sống cùng người vợ kế và ba đứa con riêng. Trong một lần tình cờ A-li-ô-sa đã kéo dây gàu cùng với hai đứa lớn và cứu được đứa em út do nghịch gàu múc nước mà rơi xuống giếng. Kể từ đó bốn đứa trẻ trở nên thân thiết, bất chấp sự cấm đoán của người cha. Ba đứa trẻ nhà bên có cuộc sống giàu có vì cha là đại tá, nhưng vì mồ côi mẹ nên sống thiếu tình thương, chỉ biết nương tựa vào nhau, lại thường hay bị cha cho ăn đòn. Còn A-li-ô-sa thì cũng mồ côi, sống nương tựa vào ông bà, cuộc sống không mấy khá giả và cũng thường bị ông đánh đòn. Ở những đứa trẻ này trước tiên ta thấy có sự tương đồng về hoàn cảnh, chúng có một tuổi thơ nhiều nỗi buồn và khó nhọc dù là giàu hay nghèo.
Sau chuyện thằng út nhà hàng xóm bị ngã xuống giếng, đến cả tuần rồi mấy đứa trẻ mới gặp lại nhau. Chúng chơi với nhau rất hợp cạ, nói chuyện liên hồi không dứt, rồi chẳng biết tò mò hay quan tâm mà A-li-ô-sa hỏi: "Các cậu có bị ăn đòn không?", sau đó A-li-ô-sa tức giận bởi cậu nghĩ không ngờ ba đứa trẻ ấy cũng bị ăn đòn, cậu tưởng chỉ có người ông khó tính của cậu mới đánh đòn người khác. Trong tâm hồn non nớt của một đứa trẻ đã ánh lên chút gì đó gọi là lòng thương, lòng chính nghĩa trong khi chính bản thân cậu cũng chẳng khá khẩm gì hơn.
Tuy chịu nhiều khó nhọc, nhiều nỗi đau nhưng những đứa trẻ vẫn giữ cho mình cái tính ngây thơ, hồn nhiên đúng tuổi. Chúng cũng thích săn bắt mấy chú chim nhỏ, nhưng rồi lòng lương thiện, tấm lòng yêu thương động vật đã ngăn các cậu làm thế. Một phần là sợ mấy chú chim sẽ chết dưới vuốt mèo, phần là sợ bố chẳng cho nuôi. Trong ba cái đầu non nớt ấy có một nỗi niềm e sợ chính người cha ruột thịt của mình, thật xót xa. Khi nhắc về mẹ, ta thấy những đứa trẻ ấy trả lời rất thẳng thắn, rất mạch lạc có lẽ chúng chưa hiểu được nỗi đau mất mẹ hoặc cố không thể hiện ra mặt. Nhưng câu trả lời của chúng lại khiến cho người đọc thấy thương cảm, câu trả lời càng thẳng thắn càng thể hiện sự cô đơn của ba đứa trẻ mất mẹ. Và khi nhắc về mẹ kế "cả ba đứa có vẻ nghĩ ngợi, gương mặt có vẻ sầm lại", chúng đang tức giận hay sợ hãi? Có lẽ phần nhiều là sợ hãi và căm ghét bởi chúng nép vào nhau "như những chú gà con" trông thật tội nghiệp, bơ vơ.
A-li-ô-sa cũng là một đứa trẻ mồ côi, cậu cũng thương cảm cho ba đứa trẻ ấy, cậu cố nghĩ ra một điều gì đó để an ủi ba đứa trẻ và rồi cậu nghĩ ra những câu chuyện cổ tích, những phép màu kì diệu có thể khiến người chết sống lại, có khi mẹ ba đứa trẻ ấy có thể sống lại cũng nên. Câu chuyện đấy bà từng kể cho cậu nghe rất nhiều lần. Nhưng thật bất ngờ cả ba đứa trẻ dường như đã trưởng thành, chúng chẳng còn tin vào chuyện cổ tích và dường như điều đó lại làm chúng thêm buồn bã, càng lâm vào trầm tư, có lẽ là đang tủi thân. A-li-ô-sa bỗng cảm thấy bản thân thật may mắn và hạnh phúc hơn ba đứa trẻ kia thật nhiều, bởi ít ra cậu không có cuộc sống sung sướng, nhưng ít ra cậu vẫn có người bà kề bên kể cho cậu nghe những câu chuyện cổ tích thật hay, còn chúng thì không,...
Sự xuất hiện của người cha đã khiến cuộc nói chuyện của những đứa trẻ chấm dứt, ông ta rất hung dữ, nạt nộ ba đứa trẻ vào nhà đồng thời còn cấm đoán việc A-li-ô-sa chơi với con ông ta. Mà nguyên nhân chính đó là sự phân biệt giai cấp, phân biệt giàu nghèo sâu sắc dưới chế độ Nga hoàng thời bấy giờ đã ngăn cách tình bạn thật đẹp của ba đứa trẻ. Tuy nhiên điều đó chẳng thể nào ngăn cản được cái tính ham chơi và những tâm hồn cô đơn đồng điệu xích lại gần nhau hơn. Chúng vẫn chơi với nhau rất thân thiết, tuy nhiên phải đề phòng bị ông đại tá bắt gặp. Thế rồi như những người bạn tri kỷ chúng lần lượt kể nhau nghe những chuyện buồn tẻ chán nản, chia sẻ với nhau những chuyện bắt chim, nuôi chim hằng ngày, kể chuyện cổ tích cho nhau nghe. Chỉ có duy nhất là chưa bao giờ nghe ba đứa trẻ kể về bố và mẹ kế, có lẽ đó là những niềm đau, là niềm kiêng kỵ trong tâm hồn của cả ba đứa trẻ tội nghiệp hoặc chúng đã tự giác gạt họ ra khỏi cuộc sống chăng? Chúng cảm thấy buồn bã vì thiếu tình cảm yêu thương từ những người thân thuộc, từ bố, từ mẹ, từ bà. Điều đó đã để lại trong lòng A-li-ô-sa thật nhiều niềm suy tư và lại càng thêm yêu thích ba đứa trẻ hàng xóm ấy.
Đoạn trích ngắn tuy chỉ là những lời nói chuyện rất đỗi ngây thơ và thông thường của những đứa trẻ, tuy nhiên đã để lại trong lòng người đọc nhiều sức gợi. Đó là nỗi niềm chua xót trước hoàn cảnh mồ côi của những đứa trẻ bất hạnh, nỗi đau ấy không một thứ vật chất nào có thể lấp đầy, ngoài tình thân trong gia đình. Và hơn cả là tình bạn thật hồn nhiên và trong sáng của A-li-ô-sa và ba đứa trẻ nhà bên, giữa chúng đã có sự đồng cảm, bao dung lẫn nhau. Thứ tình cảm ấy đã vượt qua cả sự cấm đoán và sự khác biệt giai cấp để tìm đến nhau như những tâm hồn tri kỷ, an ủi cho nỗi đớn đau trong lòng mỗi đứa trẻ bằng sự hạnh phúc, vui vẻ chân chính của tuổi thơ.
Vì sao nhà văn không đặt tên cho những đứa trẻ?
Câu trả lời của bạn
Để làm cho câu chuyện về những đứa trẻ trở nên khái quát và đậm đà chất cổ tích nhiều hơn.
Nội dung của đoạn trích “Những đứa trẻ” là gì?
Câu trả lời của bạn
Kể về tình bạn thân thiết nảy sinh giữa nhân vật "tôi" và bọn trẻ sống thiếu tình thương bên hàng xóm, bất chấp sự ngăn cản của bố chúng.
Phân tích bài văn Những đứa trẻ (trích hồi kí Thời thơ ấu của Mác-xim Gor-ki)
Câu trả lời của bạn
Mác-xim Go-rơ-ki (1868 – 1936) là nhà văn hiệu thực xuất sắc của nước Nga cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Tên thật của ông là A-lếc-xây Pê-scôp, gọi thân mật là A-li-ô-sa. Ông sinh trưởng ở thành phố Ni-giơ- ni Nô-vơ-gô-rôt (sau có thời đổi tên là thành phố Go-rơ-ki), trong một gia đình lao động nghèo, bố làm nghề thợ mộc. Chú bé A-li-ô-sa trải qua tuổi ấu thơ nhiều cay đắng, tủi nhục, phải tự lực kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau khi mới mười một tuổi.
Nhà văn sáng tác rất nhiều, gồm các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch… Các tác phẩm chính: tiểu thuyết Người mẹ (1906-1907), bộ ba tiểu thuyết tự thuật Thời thơ ấu (1913-1914), Kiếm sống (1915-1916) Những trường đại học của tôi (1923)…
Thời thơ ấu là cuốn đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết tự thuật. Truyện được kể ở ngôi thứ nhất (tôi). Tác giả tự kể chuyện đời mình. Mở đầu tác phẩm là chuyện bố mất, khi A-li-ô-sa mới ba tuổi. Chú bé về ở với ông bà ngoại vì mẹ đi lấy chồng khác. A-li-ô-sa sống những năm tháng tuổi thơ héo hắt, sớm phải chứng kiến trong gia đình những cảnh dời nhức nhối. Ông ngoại Va-xi-li Ca-si-rin là người khó tính, tàn nhẫn, hay đe doạ và đối xử với cháu bằng roi vọt. Hai người cậu thì luôn chửi bới và đánh nhau vì tranh chấp gia tài. Lão đại tá góa vợ ốp-xi-an-ni-cop hàng xóm thì hách dịch, coi khinh những người thuộc tầng lớp dưới… Nhưng A-li-ô-sa cũng gặp những người tốt bụng. Chú được sống trong sự che chở và tình thương yêu của bà ngoại A-cu-li-na I-va-nôp-na. Bà thường kể chuyện cổ tích cho cháu nghe, khơi dậy trong tâm hồn trẻ thơ những tình cảm tốt đẹp. Bác thợ Xư-ga-nôc có lần đỡ đòn cho A-li-ô-sa nên cả cánh tay bị bầm tím. Những đứa trẻ vừa tội nghiệp vừa đáng yêu con của đại tá Ôp-xi-an-ni-côp rất mến A-li-ô-sa… Tác phẩm kết thúc bằng sự kiện mẹ cậu bé qua đời, lúc cậu mới lên mười.
Bài văn này trích ở chương IX của tác phẩm Thời thơ ấu. Nhà văn thuật lại tình bạn thân thiết nảy sinh giữa cậu bé A-li-ô-sa với mấy đứa trẻ hàng xóm mồ côi mẹ, sống thiếu tình thương, bất chấp những cản trở trong quan hệ giai cấp và tầng lớp xã hội lúc bấy giờ.
Ông bà ngoại của A-li-ô-sa là hàng xóm với đại tá Ôp-xi-an-ni-cốp. Hai nhà thuộc hai thành phần xã hội khác nhau. Một bên là dân thường, một bên là quan chức giàu sang. Vì thế, viên đại tá không cho mấy đứa con của mình chơi với A-li-ô-sa. Do A-li-ô-sa góp sức cứu đứa con nhỏ của ông ta bị rơi xuống giếng nên ba đứa trẻ yêu thích A-li-ô-sa và rủ cậu sang vườn chơi.
A-li-ô-sa đã mất bố, mẹ lại đi lấy chồng khác. Cậu thường bị ông ngoại đánh đòn. Chỉ có bà ngoại là người hiền hậu, hết lòng vêu thương, che chở cho cậu. Qua trò chuyện, A-li-ô-sa biết mấy đứa bạn mới quen kia tuy sống trong cảnh giàu sang nhưng cũng chẳng sung sướng gì. Mẹ chết, chúng phải sống với dì ghẻ và cũng thường xuyên bị cấm đoán, bị đánh đòn…
Do hoàn cảnh giống nhau là đều thiếu tình thương nên A-li-ô-sa nhanh chóng kết thân với mấy đứa trẻ kia. Tình bạn trong sáng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng A-li-ô-sa, khiến mấy chục năm sau, khi đã trở thành nhà văn M.Gor-ki, ông vẫn còn nhớ như in và kể lại hết sức xúc động.
Trước khi làm quen, mỗi lần nhìn sang hàng xóm, A-li-ô-sa chỉ thấy: Ba đứa cùng mặc áo cánh và quần dài màu xám, cùng đội mũ như nhau.
Chúng có khuôn mặt tròn, mắt xám và giống nhau đến nỗi tôi chỉ có thể phân biệt được chúng theo tầm vóc.
Tuy bị ngăn cấm vì không cùng đẳng cấp nhưng bọn trẻ vẫn lén gặp nhau để chuyện trò tâm sự. Chúng giống nhau ở chỗ đứa nào cũng bị đối xử hà khắc và không có niềm Vui tuổi thơ.
Khi mấy đứa trẻ kể cho A-li-ô-sa biết mẹ chúng đã chết, chúng phải sống với dì ghẻ, cậu bé thấy cả ba đứa có vẻ nghĩ ngợi, gương mặt sầm lại… Chúng ngồi sát vào nhau, giống như những chú gà con. Sự so sánh chính xác khiến ta liên tưởng đến cảnh lũ gà con sợ hãi co cụm vào nhau khi nhìn thấy bóng diều hâu.
Mấy đứa trẻ hàng xóm vừa nhắc đến chuyện dì ghẻ mà chúng gọi là mẹ khác, A-li-ô-sa liên tưởng ngay đến nhân vật mụ dì ghẻ độc ác trong các chuyện cổ tích. Cậu chỉ biết an ủi các bạn: Mẹ thật của các cậu thế nào cũng sẽ về, rồi các cậu xem! Thằng lớn có vẻ nghi ngờ: Chết rồi cơ mà, về làm sao được… A-li-ô-sa như chìm trong thế giới cổ tích. Cậu nói với các bạn như nói với chính mình: Không được ư? Trời ơi, biết bao nhiêu lần những người chết, thậm chí đã bị xả ra từng mảnh, mà chỉ cần vẩy cho ít nước phép là sống lại; có biết bao nhiêu người chết mà không phải là chết thật, vì phép của bọn phù thủy.
Khi đại tá Ôp-xi-an-ni-cốp bất chợt xuất hiện và vặn hỏi mấy đứa con rằng: Đứa nào gọi nó sang? A-li-ô-sa thấy cả mấy đứa trẻ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe và đi vào nhà. Cảnh ấy khiến cậu bé nghĩ đến những con ngỗng ngoan ngoãn hình ảnh so sánh vừa miêu tả chính xác dáng dấp bên ngoài tội nghiệp của ba đứa trẻ và phần nào thế hiện thế giới nội tâm của chúng. Chúng bị cha áp chế, sợ hãi lẳng lặng theo nhau vào nhà, chẳng dám hé răng. A-li-ô-sa thông cảm với cuộc sống hoàn toàn thiếu tình thương của các bạn nhỏ.
Chú bé cảm thấy mình may mắn hơn chúng vì còn có người bà nhân hậu. Bà thường kể chuyện cổ tích cho chú nghe và chú kể lại cho các bạn, chỗ nào quên thì chạy về hỏi bà. Khi đứa con lớn của viên đại tá trầm ngâm bảo: Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà tớ ngày trước cũng rất tốt… thì A-li-ô-sa nhận xét: Nó thường nói một cách buồn bã: ngày trước, trước kia, đã có thời… dường như nó đã sống trên trái đất này mội trăm năm, chứ không phải mười một năm.
Không chỉ lời nói mà còn hình dáng, ánh mắt của mấy người bạn nhỏ đọng lại trong trái tim, khiến cho nhà văn sau bao nhiêu năm cũng chẳng thể nào quên:
Tồi còn nhớ nó có đôi bàn tay nhỏ nhắn, những ngón tay thon thon và người mảnh dẻ, yếu ớt, cặp mắt rất sáng, nhưng dịu dàng như ánh sáng của những ngọn đến trong nhà thờ. Hai em nó cũng rất dễ thương, tôi tin yêu lắm, tôi luôn muốn làm cho chúng vui thích, nhưng tôi ưa thằng lởn hơn cả…
Qua đoạn trích, chúng ta thấy A-li-ô-sa tuy còn nhỏ nhưng đã biết thương người, biết an ủi, san sẻ nỗi bất hạnh của các bạn gần như cùng cảnh ngộ. Rõ ràng, sự phân biệt giai cấp, giàu nghèo trong xã hội không thể nào ngăn cản được tình bạn trong sáng của tuổi thơ. Tình bạn ấy là của cải tinh thần vô giá trong cuộc sống tinh thần của mỗi con người.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *