Qua bài học các em cần hiểu được vấn đề cần nghị luận, đó là nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí. Biết viết bài văn nghị luận tư tưởng đạo lí.
Đọc văn bản "Tri thức là sức mạnh" trong sách giáo khoa (trang 34) để trả lời các câu hỏi.
Các câu mang luận điểm:
Các câu mang luận điểm:
d. Văn bản đã sử dụng phép lập luận nào là chính? Cách lập luận có thuyết phục hay không?
Để nắm được nội dung bài học vững hơn, các em có thể tham khảo thêm bài soạn Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Từ xưa đến nay, văn chương nghệ thuật trở thành vũ khí, là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với con người trong cuộc sống, khi con người đến với văn chương cũng đồng nghĩa với việc họ mang vào trong đó những câu chuyện, sự thật đắng cay mà họ từng thấy, bản thân họ đã trải qua. Thật vậy mà Thanh Thảo cho rằng: "Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc. Nó giúp con người sống "Ra người" hơn, sống tốt hơn nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách, những vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người".
Thanh Thảo là một nghệ sĩ đa tài có thế mạnh với nhiều thể loại và đặc biệt xuất sắc trong thể loại thơ. Trong suốt cuộc đời, ông đã cống hiến cho sự nghiệp văn học nước nhà một số lượng văn học đáng kể, là một nhà thơ với tâm hồn đa cảm vì vậy mà ông cũng hay trăn trở với các vấn đề xã hội và thời đại. Thật vậy, thanh Thảo đã cho chúng ta thấy vai trò to lớn của văn học trong việc thay đổi tư duy và cách nhìn cuộc sống của con người. Trước hết văn học là sản phẩm của đời sống, chỉ khi văn học phục vụ cho đời sống con người và nêu lên được những giá trị, hiện thực cuộc sống mới có giá trị văn học. Chúng ta có thể bắt gặp trong các tác phẩm văn học là hình ảnh những người nông dân tần tảo, những người phụ nữ chịu thương chịu khó nhưng lại có cuộc đời trớ trêu nhiều khổ đau. Xưa kia chúng ta thường được nghe trong những câu chuyện cổ tích rằng ở hiền thì sẽ gặp lành thế nhưng ở đời đâu có chuyện nào tốt đẹp như thế, những người thấp cổ bé họng thì luôn chịu áp bức khổ đau, mạng sống của họ bị coi thường và trở nên rẻ mạt, còn những kẻ trơ tráo hung ác lại nắm thế thượng phong. Chúng là những kẻ đứng đầu giai cấp, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến bi kịch của những con người nhỏ bé này. Văn chương không chỉ đi lật tẩy bộ mặt của cuộc sống lúc bấy giờ mà còn phản ánh mối quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội lúc bấy giờ, và một quy luật không thể chối cãi đó là có áp bức ắt sẽ có đấu tranh. Và sự thực là dân tộc ta sau bao đấu tranh cũng đã giành được độc lập, con người không còn phải chịu áp bức khổ đau.
Văn chương phản ánh cái nhìn toàn diện sâu sắc của người nghệ sĩ về thế giới, qua lăng kính quan sát của họ sự thực về cuộc đời được hiện lên một cách chân thực giúp người đọc hiểu thêm về cuộc đời. Văn học chẳng dừng lại ở những áp bức mà con người phải chịu, qua đó chúng ta cũng thấy được tình cảm và sự hy sinh vĩ đại của những con người nhỏ bé. Chúng ta cảm động về tình mẫu tử, ca ngợi về những người lính, những vị anh hùng dân tộc đã xả thân vì đất nước, cũng qua văn học chúng ta thấy được cuộc sống này không chỉ có xấu xa và bất hạnh, nếu con người chịu khó cảm nhận chúng ta vẫn có thể thấy được những điều tốt đẹp. Khi bạn cảm nhận một tác phẩm văn học đã bao giờ bạn thấy phẫn nộ thay cho những con người nghèo khổ rồi lại thương thay cho thân phận họ, đã bao giờ bạn khóc vì bi kịch của một con người nào đó mà thậm chí bạn còn chẳng biết họ là ai, bạn cũng trở nên yêu thương và trân trọng những thứ xung quanh mình hơn vì biết quy luật của thời gian là một qua đi sẽ không bao giờ trở lại. Chẳng phải bạn cảm nhận được những điều đó là nhờ văn chương hay sao, thực sự như vậy thì văn chương có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người và đưa chúng ta đến với thế giới của sự thật để trải nghiệm cuộc sống ở những tần sâu hơn, khiến ta sống tốt hơn.
Văn học cũng có tác dụng giáo dục và thúc đẩy sự phát triển của con người. Chúng ta học về đạo đức, về lòng hiếu thảo rồi học về các đức tính khác thế nhưng có ai trong chúng ta dám tự tin mình đã nhuần nhuyễn hết những lời dạy đó. Thế nhưng khi con người tự thả mình vào tác phẩm văn học ta lại cảm nhận được những đức tính quý báu ấy, từ đó thêm yêu quý và trân trọng lời dạy, họ biết sửa sai và kịp thời hành động để trở nên tốt hơn. Vậy chẳng phải kaf văn chương có tác dụng giáo dục hay sao?
Rồi cũng từ văn chương mà ta biết cảm thông với cuộc đời mịt mờ không tương lai của những con người nghèo khổ qua tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Chẳng phải chúng ta vẫn thường nghĩ nạn nhân của chế độ cũ là những người dân nghèo khổ nhưng chúng ta lại quên còn có những đứa trẻ phải chịu bất hạnh kia hay sao? Thời chiến thì chúng bị mất cha mẹ, sống lang bạt đói rét không tình thương thế nhưng đến thời đại này thì chúng lại phải sống cuộc sống tẻ nhạt mà không có ước mơ. Niềm khao khát bé bỏng và duy nhất của chúng cũng chỉ có là bán được vài món hàng rồi lại đợi đến đêm để ngắm đoàn tàu, cảnh chiều tàn hiu hắt không tiếng người, trên mặt đất chỉ còn vài đứa trẻ đang nhặt nhạnh những gì còn sót lại từ buổi chợ chiều. Trẻ em đáng ra ở độ tuổi này phải được vui chơi và học tập thế nhưng chúng lại rơi vào bi kịch sống mà không biết đến cái gọi là ước mơ, sống mà chôn vùi tuổi thơ vào những thứ bèo bọt, sống vẫn vơ quẩn quanh không có tương lai cũng nhưng không lối thoát nào cả.
Chưa hết đồng cảm và thương xót cho những đứa trẻ tội nghiệp ấy thì chúng ta lại bắt gặp bi kịch nghèo đói đến tột cùng phải tước đi mạng sống của Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Là một lão già khốn khổ bị cái đói đày đọa đến quẩn quanh, tuổi già là cái tuổi mà con người ta phải được nghỉ ngơi và con cái chăm sóc thế nhưng lão lại rơi vào bi kịch khốn khổ nhất. Đứa con trai duy nhất vì nghèo túng chẳng đủ tiền cưới vợ nên đã bỏ người cha già lại và đi kiếm tiền, mình lão ở nhà chỉ còn có con chó mà lão thương yêu nhất gọi là cậu vàng. thế nhưng cuối cùng vì bần cùng hóa, vì quá đói khổ mà lão phải bán cậu vàng đi, cảnh cậu vàng bị bán đã khiến cho người đọc thực sự xúc động bởi loài vật trung thành ấy cũng có cảm xúc như con người, chúng cũng biết suy nghĩ và đau đớn cho bi kịch của mình và của chủ nhân. Sau tất cả những bi kịch và nỗi đau mà lão phải chịu thì một nút thắt nữa lại nổi nên trong lòng con người ấy, sự giằng co giữa việc bán rẻ nhân cách để đổi lấy mạng sống hay tự kết liễu cuộc đời mình. Là con người thì ai chẳng tham sống sợ chết thế nhưng con người nghèo khổ ấy lại chọn cách từ bỏ mạng sống của mình, thà chết chứ không chịu đánh mất nhân cách con người mình. Từ bi kịch của Lão Hạc, ta nhận ra được rằng nhân phẩm của một con người rất quan trọng và cái giá để giữ được nhân cách cao quý ấy thậm chí là cả tính mạng.
Cũng là những người nông dân nghèo khổ thế nhưng đến với Chí Phèo của Nam Cao ta lại thấy đó là một bi kịch của một con người lương thiện bị bần cùng để rồi đánh mất nhân cách trở thành con quỷ bị xã hội loài người chối bỏ. Chí là một anh nông dân lương thiện có tuổi thơ bất hạnh bị cha mẹ bỏ rơi, may thay được mọi người nuôi dạy và nhận được yêu thương từ họ. Chí vẫn lớn lên và trưởng thành như bao đứa trẻ khác nhưng cuộc đời trí rẽ sang một ngã rẽ khác khi trở thành anh canh điền cho nhà bá Kiến. Tại đây Chí bị vu oan dẫn phải vào tù vì ý định sàm sỡ của mụ vợ bá Kiến dâm đãng không thành. Bị nhà tù khiến chí mất đi cái thiện lương của mình lần thứ nhất, Chí đánh mất đi diện mạo hiền lành của mình và trở thành kẻ đi đòi nợ thuê cho nhà Bá Kiến.
Cuộc sống cay nghiệt vẫn cứ thế diễn ra cho đến khi Chí gặp Thị Nở, tình yêu đầu của mình. Tình yêu của hai kẻ dở hơi không biết trời cao đất dày cứ thế mà tiếp diễn thế nhưng niềm hạnh phúc ấy chưa được bao lâu thì Chí bị Thị Nở chối bỏ, đó cũng là cái khước từ của xã hội trên con đường trở về làm người lương thiện của mình. Hắn xấu xa, hắn tội lỗi nhưng hắn cũng là con người, hắn cũng biết rung động, cũng biết đau, vậy tại sao cái xã hội ấy lại không cho hắn một cơ hội để làm lại từ đầu, cớ sao lại thẳng tay ném đi tấm vé cuối cùng để hắn quay về làm chính mình. Bị phản bội đầy đau đớn, những cơn đau quặn thặt khiến hắn tìm đến với rượu, hắn uống để quên đi thực tại thế nhưng càng uống càng tỉnh, tim hắn đau, trái tim hắn đau lắm nhưng hắn chẳng biết phải làm gì, cả tiền thức của hắn nhuốm màu u tối bởi đau đớn và tổn thương. Hắn hận, hận cái xã hội thối nát ấy, hận cả bản thân mình nhưng bất lực và hắn chẳng thể làm gì. Vậy là sau bao day dứt khổ đau men say đã đưa bước chân hắn đến với nhà Bá kiến. Hắn hận cuộc đời này lắm rồi, hắn chẳng còn thiết gì ở trên đời này nữa, ngay cả người mà hắn gọi là yêu sâu đậm cũng đã bỏ hắn mà đi, hắn đau mà hắn cũng hận, hắn chẳng biết điều gì đã gây ra bi kịch của mình nữa vậy nên hắn đã quyết định giết Bá Kiến rồi kết liễu cuộc đời mình. Chàng trai 20 tuổi lương thiện năm nào nay đã bất lực và gục ngã trước bi kịch của cuộc đời mình và anh cũng nhận ra cái bi kịch không thể cứu vớt ấy và chọn cách từ bỏ cuộc đời mình. Hắn đã chết thế nhưng oán hận vẫn còn ngất trời.
Qua Chí Phèo, chúng ta đâu chỉ thấy được sự hà khắc cổ hủ của xã hội cũ, đau chỉ biết đến cái bất công mà con người ta phải chịu. Qua đó ta cũng cảm nhận được tình yêu thương rằng tình yêu có thể cảm hóa được con người dù cho hắn có xấu xa thế nào đi chăng nữa. Tình yêu có thể cảm hóa tất cả thế nhưng cuộc đời có quá nhiều đắng cay và con người thì lại khó có thể tin tưởng người khác để trao đi yêu thương của mình. Kết quả chỉ những kẻ yếu đuối, những kẻ bị số phận trêu đùa bị tổn thương, bị cả xã hội chối bỏ, bị khước từ trên con đường trở về làm người của mình. Bi kịch ấy thật đau đớn biết nhường nào.
Văn chương ẩn chứa vô vàn những cung bậc cảm xúc, đưa ta vòng quanh cái thế giới sự thật đầy lừa dối và khổ đau. Vì sự thật luôn tàn nhẫn vậy nên chúng ta cần phải đối mặt và vượt qua để trưởng thành và hoàn thiện hơn, đúng như quan điểm của nhà văn Thanh Thảo: "Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc. Nó giúp con người sống "Ra người" hơn, sống tốt hơn nếu ta biết tìm trong mỗi quyển sách, những vệt sáng, những nguồn sáng soi rọi vào những góc khuất của cuộc đời và của con người".
Câu trả lời của bạn
Để viết ra một tác phẩm hay đã khó, viết ra một tác phẩm có ảnh hưởng sâu rộng càng khó hơn. Thanh niên ngày nay ít đọc sách, vào vài năm trở lại đây điều ấy có phần nào được cải thiện, nhưng cải thiện bởi cái gọi là "phong trào" đọc sách, điều ấy vừa mang tính tích cực, và cũng lại có những góc tối khiến chúng ta phải băn khoăn. Đọc sách là tốt, ai cũng nghĩ vậy, thế nhưng có ai từng nghĩ thứ văn chương mà chúng ta, hay giới trẻ đang đọc là gì. Đó có thực là những cuốn sách mang giá trị nhân văn sâu sắc, đáng để đọc, để suy ngẫm hay chỉ là thứ văn chương giả dối bịp bợm, hại người, được viết sơ sài cả về nội dung, lẫn hình thức? Giữa những băn khoăn, trăn trở ấy, tôi bỗng nhớ lại một lời bình rất hay và sâu sắc của Thạch Lam rằng: "Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch...". Mặc dù chỉ là nửa ý trong câu nói rất dài của tác giả thế nhưng người ta cũng thấy được tầm tư duy sáng suốt và đúng đắn khi nói về văn chương của một nhà văn chân chính đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị nhân văn to lớn.
Tại sao nói "Văn chương là thứ khí giới thanh cao và đắc lực"? Bởi đó là loại vũ khí nằm trong tâm hồn của con người được con người hóa thành những lời văn giàu xúc cảm nhân văn, vừa tinh khiết, vừa thanh cao hướng về những điều tốt đẹp và tích cực mà con người mong muốn. Đắc lực ở chỗ mặc dù chỉ là những tờ giấy mỏng manh, nhưng lại chứa đựng những nội dung mang sức ảnh hưởng to lớn, với những giá trị tinh thần dày dặn. Nó giúp con người thay đổi thế giới một cách hiệu quả, không cần phải đụng đến đao kiếm, súng đạn, nó tác động sâu sắc đến thế giới nội tâm, rồi thay đổi tư duy và hành động một cách mạnh mẽ và tự nguyện. Thế nên nói "Văn chương là thứ khí giới thanh cao và đắc lực" quả là chuẩn xác. Hơn thế nữa, câu nói của Thạch Lam không chỉ nhắc về văn chương như một thứ khí giới nhân đạo mà còn nhấn mạnh hai vai trò chính của văn chương là thay đổi thế giới quan, nhân sinh quan và giá trị quan của loài người. Đồng thời cũng là nguồn nước ngọt để nuôi dưỡng, vun đắp, gột rửa nhân cách đạo đức của từng cá nhân cho thêm phần trong sạch, thanh cao trước một xã hội có quá nhiều rối ren, uẩn khúc.
Trước hết nói về việc văn chương tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, văn chương xưa và nay dù là kín đáo hay công khai vẫn luôn phản ánh một cách rất chân thực thế giới và chế độ xã hội. Đó là sản phẩm tinh thần quý giá mà các nhà văn chân chính, hay rõ hơn là các nhà văn có đôi mắt tinh tường, ôm trong mình hoài bão "nghệ thuật vị nhân sinh" đã tạo ra bằng cả tất cả các tâm huyết và trí tuệ. Ngòi bút của họ luôn thực tế, phản ánh sâu sát hiện thực và khách quan những sự kiện đã diễn ra trong cuộc sống từ lớn tới nhỏ. Có thể lấy ví dụ về một Vũ Trọng Phụng với Số đỏ phản ánh một xã hội thượng lưu, bẩn thỉu, dối trá và lố bịch được bao ngoài bởi cái vỏ hào nhoáng xa hoa, một Nam Cao với Vợ nhặt trong nỗi ám ảnh về nạn đói những năm trước cách mạng, hay sự khốn nạn, chèn ép của chế độ thực dân nửa phong kiến với người trí thức nghèo trong Đời thừa. Rồi người ta cũng thấy một Chí Phèo sản phẩm của xã hội phong kiến tàn ác, vô nhân đạo, với bi kịch bị tha hóa nhân cách, một Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài với chế độ thần quyền, cường quyền đã cưỡng ép con người đến độ tê dại cả tâm hồn và lòng ham sống. Hay nhẹ nhàng hơn là Hai đứa trẻ của Thạch Lam phản ánh cái cuộc sống tối tăm nơi phố huyện những năm tháng đất nước còn nghèo khó và niềm mơ ước, khát khao hy vọng về một ngày mai tốt đẹp hơn của những con người nơi đây. Hoặc văn chương cũng phản ánh sự thảm khốc của chiến tranh, của chế độ thực dân, đế quốc rồi từ đó nêu bật lên vẻ đẹp anh dũng, tinh thần yêu nước của nhân dân ta ví dụ như Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, Văn tế nghĩa Sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, hay Bản án chế độ thực dân Pháp của Hồ Chí Minh,... và rất nhiều những tác phẩm khác nữa. Có thể nói rằng văn chương đã thay mặt nhân dân để tố cáo, phê phán những bất công, sự tàn ác, những sự thật mà kẻ thù muốn bịp bợm che giấu một cách rõ ràng và chân thực bằng những ngòi bút sắc bén có tính đả kích mạnh mẽ.
Nhưng văn chương ra đời không chỉ để phê phán hay lên án mà quan trọng hơn và là mục đích cuối cùng đó là người làm văn muốn thay đổi thế giới, muốn thức tỉnh con người đứng lên đấu tranh giành lại cho mình một cuộc sống tốt đẹp hơn, đánh đuổi cái ác, cái xấu đang hoành hành ngự trị. Như cái cách mà Mị và A Phủ vùng dậy bỏ trốn rồi đi theo cách mạng, như cái cách mà những người nghĩa sĩ Cần Giuộc áo vải đã đứng lên chiến đấu bảo vệ quê hương,... Từ việc thay đổi nhận thức, văn chương đã trở thành nguồn nội lực giúp con người trở nên mạnh mẽ, quyết tâm xóa nhòa những thứ đang kìm hãm bản thân và cả những người khác nữa, văn chương quyết không để một thế giới "thượng lưu" như Số đỏ tồn tại lâu, cũng quyết không để con người bị che mắt bởi sự giả dối và đê tiện. Nhà văn cầm bút cũng như cầm một thứ vũ khí tuyệt đỉnh là vậy. Và cho đến ngày hôm nay văn chương cũng vẫn đang làm rất tốt phận sự của mình, dĩ nhiên tôi không nói đến thứ văn chương rác đầu độc tâm hồn, tôi muốn nói đến những bài viết mang tính thời sự, không đến nỗi phơi bày nhưng cũng phản ánh một cách chính xác thực trạng xã hội, và từ đó khuyến khích con người đặc biệt là giới trẻ phải sống và phấn đấu để thay đổi đất nước.
Chức năng thứ hai của văn chương là làm cho tâm hồn con người trở nên trong sạch và phong phú hơn. Đúng thật vậy văn chương đã gột rửa tâm hồn con người, nhưng đó phải là thứ văn chương được viết với bằng một ngòi bút cao đẹp, viết những gì có ý nghĩa. Ví như Rô-mê-ô và Giu-li-ét cho chúng ta chứng kiến một tình yêu đẹp vượt qua cả hận thù của gia tộc, khiến con người tin tưởng hơn vào một tình yêu vĩnh cửu, Vợ nhặt khiến chúng ta nhận thức sâu sắc về tình cảm thương yêu gắn bó của gia đình trong những năm đói khổ, hoặc Vợ chồng A Phủ cũng đã thể hiện được ý chí, lòng ham sống mạnh mẽ trong con người. Có thể nói rằng bất kỳ tác phẩm nào dù ít hay nhiều đều tác động mạnh mẽ đến tâm hồn con người, từ văn chương người ta củng cố thêm lòng yêu quê hương đất nước, nhận thức rõ về tầm quan trọng của gia đình, rồi càng thêm yêu và trân trọng cuộc sống tốt đẹp trước mắt. Văn chương ám thị cho người đọc cái cách đối nhân xử thế, dạy cho ta, hun đúc cho ta những phẩm chất tốt đẹp như đức tính nhân hậu bao dung, ở hiền gặp lành, có thể thấy nhiều trong văn chương Nguyễn Đình Chiểu, sự chỉnh chu trong tác phong làm việc, cách sống lối suy nghĩ ta có thể thấy trong tác phẩm Một người Hà Nội. Và nhiều nhất và phát triển mạnh mẽ nhất trong văn học Việt Nam đó chính là dòng văn học yêu nước đã khuyến khích động viên mỗi con người lòng yêu quê hương xứ sở, yêu con người, tinh thần tự tôn dân tộc, lối sống ân tình trọn nghĩa, thủy chung với Cách mạng,... với vô số những tác phẩm nổi tiếng như Rừng xà nu, Những đứa con trong gia đình, Đôi mắt,...
Không chỉ tu dưỡng đạo đức, văn chương còn làm cho tâm hồn ta thêm phong phú hơn, đọc sách lịch sử để hiểu rộng hơn về quá khứ của dân tộc rồi đúc kết bài học cho bản thân, đọc những bản tùy bút, bút ký như Người lái đò sông Đà hay Ai đã đặt tên cho dòng sông, để thấy quê hương mình tươi đẹp và hùng vĩ biết bao, hoặc đọc thứ văn chương viết về tâm lý con người để ta thêm thấu hiểu người bên cạnh, thấu hiểu về chính bản thân mình. Chung quy lại như Thạch Lam đã nói "văn chương bồi đắp thêm cho con người những thứ tình cảm tốt đẹp, luyện cho ta những tình cảm sẵn có". Chớ có ai nghĩ rằng người yêu văn thì tâm hồn mềm yếu và ủy mị, đó là sai lầm bởi chỉ có chính họ mới biết được đó là sự tinh tế, thấu hiểu tường tận những thứ mà trong trải nghiệm cuộc sống chưa chắc ta đã nhìn ra được, thế nên mượn văn chương để bồi đắp. Bởi suy cho cùng văn chương cũng là do con người tạo ra bằng chính những trải nghiệm, tìm tòi và nghiên cứu vất vả của bản thân họ.
Câu nói của Thạch Lam đã phản ánh đúng bản chất và vai trò của văn chương trong cuộc sống, nhưng đồng thời cũng mở ra một vấn đề mới về cung cách làm văn. Văn chương nói dễ thì cũng dễ, nói khó thì cũng khó, nếu như viết một tác phẩm đại trà chẳng mang nhiều ý nghĩa thì ai cũng múa bút thành thơ được, chẳng cần đến sự khám phá, đào sâu tìm kỹ mà làm gì. Thế nhưng để văn chương thật sự có giá trị thì đó là cả một quá trình. Ngày nay độc giả nhiều, thế nên nhà văn cũng nhan nhản xuất hiện, tuy nhiên hiếm khi nào người ta thấy được một tác phẩm hay, có giá trị nhân văn sâu sắc, mà đa số toàn là những thứ văn chương sáo rỗng, lời văn thì hoa mỹ, nhưng nội dung thì nghèo nàn, lặp lại. Có lẽ đó là thị hiếu của con người, có cầu thì mới có cung thế nhưng tôi nghĩ rằng văn chương không nên tầm thường như thế, cái thứ nghèo nàn cả nội dung lẫn hình thức thì đọc vào có lẽ cũng chỉ khiến tâm hồn chúng ta chững lại, chưa kể các những thứ văn chương còn khiến con người trở nên tiêu cực. Kẻ viết ra thứ văn cẩu thả, sáo mòn ấy phải nói theo cái cách của Nam Cao là "bất lương" và "đê tiện", thực tế văn chương không cần tìm ra một người thợ khéo tay, mà cần tìm một người có sức sáng tạo, biết tìm tòi thứ khác biệt, như Thạch Lam nói "Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát biểu chính chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật". Chỉ có thế nền văn học của nước nhà mới có thể phát triển, văn hóa đọc của thanh niên và cả những lứa tuổi khác mới được củng cố và nâng cao, từ đó nhận thức và dân trí của con người mới có thể tiến bộ hơn được.
Cuối cùng tôi muốn nhấn mạnh rằng, không chỉ nhà văn và cả các độc giả cũng cần suy nghĩ thêm về các chọn lọc và vận dụng văn chương, người viết thì cần sự sáng tạo, mới mẻ, người đọc thì cần tìm tòi, chắt lọc. Văn chương không phải là thứ để ta cẩu thả, hãy để văn chương mang đến cho ta một cuộc sống tốt hơn, một tâm hồn cao đẹp hơn, ta chưa cần vội thay đổi thế giới, trước hết hãy để văn chương được làm nhiệm vụ củng cố và nuôi dưỡng tâm hồn của ta trước nhé.
Câu trả lời của bạn
Từ xưa đến nay, muốn đến gần với thành công, con người luôn cần trau dồi tri thức. Một trong những cách tiếp cận nhiều tri thức nhất đó là đọc sách. Đọc sách mang lại rất nhiều lợi ích, bởi vậy đã có câu nói: "Tuổi trẻ cần có thói quen đẹp, đó là đọc sách"
Trước tiên, ta cần hiểu thế nào là thói quen đẹp? Thói quen là việc làm lặp đi lặp lại những hành động trong cuộc sống hàng ngày và đà đã là thói quen thì khó có thể thay được được. Trong cuộc sống, có thói quen tốt và thói quen xấu. Thói quen tốt là luôn dậy sớm tập thể dục, luôn giữ lời hứa, luôn chào hỏi mọi người... Bên cạnh đó vẫn có những thói quen xấu như nói tục, vứt rác bừa bãi, hút thuốc lá nơi công cộng... Trong các thói quen đẹp có thể nhắc đến chính là thói quen đọc sách. Hằng giờ, hằng ngày, bạn hãy đưa ra quy định cho bản thân đọc sách mỗi ngày ít nhất 30 phút đến 1 tiếng, lâu dần sẽ tạo thành thói quen tốt.
Với tuổi trẻ, càng thực sự cần thiết khi xây dựng cho mình thói quen tốt là đọc sách. Bởi lẽ, tuổi trẻ luôn có một trí tuệ minh mẫn, có thời gian để có thể đọc sách và tiếp thu được nhiều tri thức. Đọc sách chính là một hành động, là nếp sống mang lại nhiều tri thức cho chúng ta. Đây là một hình thức tự học mà mang lại hiệu quả rất cao. Đọc sách không chỉ mang lại nhiều tri thức mà nó giúp cho con người thư giãn đầu óc, giải trí. Nhờ có thói quen này, con người biết đến nhiều tri thức của mọi lĩnh vực từ văn hóa, xã hội, lịch sử, khoa học... Khi đọc sách, chúng ta như mở mang được nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới..
Tuổi trẻ ngày nay, đang tác động rất lớn bởi công nghệ hiện đại. Thói quen đọc sách đang ngày càng mất đi. Bởi lẽ, họ có rất nhiều thứ quan tâm. Sự phát triển của công nghệ phương tiện đại chúng như báo điện tử, facebook, youtube đã làm hạn chế việc đọc sách. Người đọc hay giới trẻ không còn hứng thú với những quyển sách dày đặc chữ. Tình trạng lười đọc sách trong giới trẻ đang ngày càng phổ biến hơn. Tình trạng đọc nhanh, đọc ngắn, đọc lướt mà không sâu là thực trạng phổ biến khi giới trẻ đọc sách.
Thói này đọc sách là một thói quen tốt mà giới trẻ cần nên có. Chúng ta cần biết tận dụng thời giờ để tự học, tự bồi dưỡng cho bản thân kiến thức, kĩ năng bằng việc đọc sách hằng ngày. Chúng ta cần có biện pháp cụ thể để tăng cường khả năng văn hóa đọc ấy. Mỗi con người cần hoàn thiện mình hơn về mặt kiến thức và đạo đức. Vấn đề đọc sách cũng cần xây dựng ngay trong gia đình. Các cha mẹ cũng có thể lấy tấm gương về đọc sách để cho con cái noi theo.
Đọc sách chính là cách tốt nhất để mang lại cho bản thân tri thức và nuôi dưỡng tâm hồn. Trong một xã hội đang phát triển, chúng ta cần nêu cao, nhân rộng hành động này, cần xây dựng nền văn hóa đọc vững mạnh và khuyến khích toàn xã hội đọc sách. Là học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường, em tự hứa sẽ tạo cho bản thân thói quen đọc sách mỗi ngày.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Nghị luận về hiện tượng rác thải ở chợ
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Hãy nêu suy nghĩ của mình về hiện tượng Phạm Văn Nghĩa (trang 23/sgk)
Giúm mk với mai phải trả bài cho cô rồi
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
- Yêu cầu về nội dung: làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng, đạo lí bằng cách giải thích chứng minh, so sánh, đối chiếu, phân tích... để chỉ ra chỗ đúng (hay chỗ sai) của một tư tưởng nào đó nhằm khẳng định (hay phủ định) tư tưởng của người viết.
Câu trả lời của bạn
- Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí: là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống,... của con người.
Câu trả lời của bạn
Khác nhau về nội dung nghị luận
Câu trả lời của bạn
- Nội dung đem ra bàn luận là vấn đề tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống của con người.
- Bài viết có bố cục 3 phần, phần có luận điểm đúng đắn, sáng tỏ, chính xác, sinh động.
Câu trả lời của bạn
Nghị luận làm sáng tỏ các vấn đề về tư tưởng, đạo lý bằng cách giải thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu, phân tích… để chỉ ra chỗ đúng sai của tư tưởng nào đó.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
bài văn luôn được không ta, cho mình 1 like đc ko ạ
Trong khi đế quốc Mĩ dùng mọi cách thống trị nhân dân miền Nam bằng chủ nghĩa thực dấn mới và leo thang bắn phá miền Bắc, vào ngày 17-7-1966, trong lời kêu gọi chống Mĩ, cứu nước, Hồ Chủ tịch viết:
Không có gì quý hơn độc lập tự do.
Lời kêu gọi của Bác đã động viên quân và dân ta đánh đuổi đế quốc Mĩ ra khỏi nước Việt Nam, đem lại độc lập, tự do, thống nhât cho Tổ quốc.
“Khổng có gì quý hơn độc lập tự do”, câu nói ngắn gần như một chân lí, khẳng định giá trị to lớn của độc lập, tự do của một nước, của một dân tộc.
Thực tế trong sự tồn tại và phát triển của một quốc gia, một dân tộc, nếu không có độc lập thì sẽ không có tự do. Người dân sẽ không có quyền làm chủ đất nước mình. Tuy nhiên, “độc lập, tự do” cần phải hiểu đúng với tinh thần Hồ Chủ tịch đã dạy.
Độc lập, tự do phải gắn liền với nội dung xã hội chủ nghĩa. Mất nội dung xã hội chủ nghĩa thì độc lập, tự do sẽ mất ý nghĩa chân chính của nó. Ta còn nhớ độc lập ở miền Nam thời Mĩ – ngụy thống trị chỉ là độc lập giả hiệu và nhân dân miền Nam thời đó làm gì có tự do.
Thực tế lịch sử dân tộc ta đã chứng minh điều đó. Khi chúng ta mất nước, thì mỗi người dân Việt Nam đều mất độc lập, tự do.
Điều đó cho ta thấy mất độc lập tự do là mất tất cả. Mất nước là mất nhà, là đau thương, tang tóc đối với mỗi người dân. Cho nên câu nói của Bác thực là chí tình, chí lí. Chính vì tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của độc lập, tự do mà dân tộc ta đã đứng lên làm Cách mạng tháng Tám thành công, giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Một lần nữa Pháp quay lại đánh chiếm nước la, nhân dân ta từ trẻ đến già đều nhất loạt đứng lên cầm súng kháng chiến giữ gìn nền độc lập, tự do.
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, một kẻ thù ác độc hơn, nhân dân ta càng quý trọng độc lập, tự do và quyết trả bằng mọi giá để giành lấy độc lập, tự do. Vì vậy trong những ngày chống Mĩ, cứu nước, nhân dân ta đã giương cao ngọn cờ “không có gì quý hơn độc lập, tự do” để chiến đấu với một quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chỉ có độc lập, tự do mới có tất cả.
Lời kêu gọi của Bác như một hồi kèn xung trận, thúc giục mọi người tiến lên “Đánh cho Mĩ cút, đánh cho ngụy nhào”, đem lại đại thắng mùa xuân 1975
“Không có gì quý hơn độc lập tự do” là chân lí sáng ngời mà vị lãnh tụ kính yêu đã đúc kết được từ thực tế lịch sử đấu tranh của dân tộc. Chính Bác cũng hiểu hơn ai hết giá trị của độc lập, tự do, nên Bác bôn ba hải ngoại, tìm đường cứu nước, đem lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Lời kêu gọi của Bác chính là lời non sông đất nước động viên toàn dân vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hi sinh vì lí tưởng “độc lập, tự do”.
Câu trả lời của bạn
Bài nghị luận về vấn đề tư tưởng đạo lí khác với bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống:
- Nghị luận vấn đề tư tưởng, đạo lý: làm sáng tỏ, một vấn đề tư tưởng, đạo đức, lối sống.
- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống: xuất phát từ thực tế đời sống để rút ra vấn đề mang ý nghĩa tư tưởng, đạo lí.
Câu trả lời của bạn
- Mở bài:
+ Giới thiệu, dẫn dắt vào lời dạy của Đức Phật “Giọt nước chỉ hòa vào biển cả mới không cạn mà thôi”.
- Thân bài:
+ Giải thích từ khóa quan trọng của đề bài:
=> Câu nói của Đức Phật: hàm chỉ mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể, giữa một con người với muôn triệu con người.
+ Phân tích – chứng minh:
=> Giọt nước chỉ hòa vào biển cả mới không cạn.
=> Cá nhân rất cần đến tập thể.
=> Không phải lúc nào cá nhân cũng cần đến tập thể.
+ Đánh giá – mở rộng:
+ Bài học nhận thức, hành động:
- Kết bài:
+ Khẳng định lại ý kiến: Giọt nước chỉ hòa vào biển cả mới không cạn mà thôi.
+ Liên hệ bản thân mình.
Câu trả lời của bạn
- Yêu cầu về hình thức: Bài viết phải có bố cục ba phần, có luận điểm đúng đắn, sáng tỏ, lời văn chính xác, sinh động.
Câu trả lời của bạn
Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng viết:
“Sống trong đời sống
Cần có một tấm lòng
Để làm gì em biết không?
Để gió cuốn đi…”
Câu hát đã để lại cho chúng ta những chiêm nghiệm sâu sắc về cách sống đẹp trong xã hội hiện đại. Một trong những phẩm chất cơ bản ấy là sự sẻ chia đồng cảm của con người. Sẻ chia hiểu theo nghĩa cơ bản là sự quan tâm, đồng cảm giữa con người với con người được thể hiện thông qua những hành động thiết thực. Đôi khi sẻ chia chỉ đơn giản là những lời động viên chân thành, một câu nói an ủi, một cái nắm tay, hay chỉ là một ánh mắt, một cái nhìn thân thiện.
Cuộc đời không luôn như ta muốn, nó luôn tiềm tàng những khó khăn trắc trở trên con đường ta đi. Đâu ai biết được ngày mai sẽ ra sao? Hôm nay thành công nhưng ngày mai đâu chắc sẽ hạnh phúc, hôm nay thất bại đâu có nghĩa ngày mai là buồn đau. Có những khó khăn ta phải tự vượt qua nhưng cũng có lúc cần đến sự sẻ chia tiếp thêm động lực để ta chiến thắng cuộc đời. Vì vậy nên đâu ai có thể tồn tại một mình mà không có những người bạn đồng hành, không có sự đồng cảm sẻ chia. Có người đã từng nói với tôi rằng: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình thương” Cuộc đời là dài là rộng nếu chỉ biết sống cho cái “tôi” cá nhân chỉ sống vị kỷ vì bản thân thì đó không phải là cuộc đời ý nghĩa. Những người như vậy họ mải miết chạy theo tham vọng cá nhân nhưng sẽ không tìm được góc bình yên trong tâm hồn mình. Thiếu sự sẻ chia họ sống không tình thương và không có hạnh phúc.
“Yêu thương cho đi là sự yêu thương duy nhất mà ta giữ lại được”. Những người sống đơn giản và luôn thanh thản trong tâm hồn là những người luôn sẵn sàng chia sẻ đồng cảm với nỗi đau sự bất hạnh của người khác. Họ sống để yêu thương, để cho đi yêu thương và cũng là để được yêu thương. Những người như vậy thật đáng quý đáng trân trọng biết bao! Ta sẽ mãi không quên hình ảnh người mẹ của chú lính chì Thiện Nhân. Trước nỗi đau và sự bất hạnh của một đứa trẻ vô tội, chị đã cưu mang và đem đến nguồn sống, ánh sáng cuộc đời cho em. Để hôm nay ta được thấy hình ảnh của một cậu bé hồn nhiên, vô tư chơi đùa như những bạn bè cùng trang lứa.
Không chỉ riêng chị mà cuộc đời này vẫn còn nhiều lắm những hành động, những tấm lòng như thế. Những ngày gần đây ngay trong tháng sáu này chúng ta xót xa trước sự hy sinh của đại tá Trần Quang Khải- phi công máy bay SuMK và chín chiến sỹ vẫn đang mất tích trên biển Đông. Dù không được gặp mặt trực tiếp không được nhìn cận cảnh nhưng chưa bao giờ tôi thấy trên mạng xã hội sức mạnh của sự sẻ chia lại lớn đến thế. “Cư dân mạng” những ngườii trẻ tuổi như chúng tôi họ bày tỏ sự cảm thông và tấm lòng sẻ chia qua những dòng trạng thái qua những lời bình luận thật ấm áp và vô cùng cảm động. Đọc những vần thơ họ sáng tác mà lòng cũng chợt nghẹn ngào và ở đó, nó cũng cho tôi niềm tin hơn về thế hệ trẻ tương lai.
Cuộc sống hiện đại mang đến cho con người những giá trị vật chất mới nhưng nó không có nghĩa là những giá trị tinh thần bị thay đổi. Vậy mà ngày nay lối sống vị kỷ của một bộ phận giới trẻ đang ngày một nghiêm trọng, họ tự bao biện cho lối sống ấy bằng cách đổi lỗi cho cuộc sống hối hả bộn bề lo toan. Lo toan là điều bình thường và tất yếu trong cuộc sống nhưng không bao giờ nó cản trở ta trao gửi yêu thương, chưa bao giờ nó xâm chiếm toàn bộ suy nghĩ tình cảm mà vẫn luôn cho ta một góc nhỏ của lòng trắc ẩn và sự yêu thương. Này các bạn trẻ hãy thôi than phiền và đổ lỗi cho hoàn cảnh hãy nhìn lại mình đi để nghiêm túc khiểm điểm nhân ra mình còn vô tâm, thờ ơ lắm!
Để sống biết yêu thương và chia sẻ không quá khó. Chì cần những tình cảm những hành động ấy xuất phát từ trái tim thì nó cũng sẽ đến được trái tim. Không phải là điều gì quá lớn lao, sẻ chia chỉ đơn giản là một cái ôm ấm áp khi ai đó đang mệt mỏi rã rời, là bờ vai yêu thương để tựa vào khi buồn phiền, là lời động viên an ủi lúc mất mát u buồn…Lòng thương cảm giữa con người với con người không cần phải dựa vào những giá trị vật chất tầm thường mà nó cần được dựng xây trên nền tảng của trái tim yêu thương.
Yêu thương cho đi là yêu thương nhận lại dù không quá nhiều nhưng hãy làm điều gì đó để cuộc sống này tươi đẹp hơn.
“Thương người như thể thương thân” là truyền thống của dân tộc ta được lưu truyền từ ngàn đời và thế hệ này mai sẽ là người kế thừa, phát huy. Không bao giờ là quá muộn để yêu thương sẻ chia với ai đó cả nên hãy mở rộng lòng mình ra để tình yêu được lan toả. Bản thân tôi cũng luôn tự nhắc nhở bản thân: Sống chậm lại nghĩ khác đi và yêu thương nhiều hơn. Bằng những hành động nhỏ bé mà thiết thực đem yêu thương trao gửi mọi người.
“Sống là cho
Đâu chỉ nhận riêng mình”
Bài học về sự sẻ chia còn nhiều, những tấm gương ngoài kia cũng không thiếu. Hãy là một trong số họ để viết lên câu chuyện cuộc đời nhiều tình thương của riêng mình.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *