Bài học giúp các em thấy được nỗi cô đơn, buồn tủi, bẽ bàng của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích và tấn lòng thủy chung, hiếu thảo của nàng. Hiểu dudocj ngôn ngữ độc thoại và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Du.
⇒ Nghệ thuật liệt kê, đối lập làm cho cảnh vật hiện ra bộn bề, bát ngát mênh mông đối lập với lòng người cô đơn trống vắng nơi đất khách quê người.
⇒ Cảnh vật dưới cái nhìn của Kiều được hiện ra đẹp nhưng đượm buồn.
⇒ Tác giả dùng từ chọn lọc diễn tả nỗi nhớ người yêu đau đáu, da diết, đầy cảm động.
⇒ Kiều là người thuỷ chung, hiếu thảo, vị tha.
⇒ Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả xây dựng một bức tranh tâm trạng đặc sắc nhất, hay nhất của Truyện Kiều: nỗi buồn đau của Kiều như lan toả sang cảnh vật đã xâm chiếm lòng nàng.
Đề: Phân tích nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" của Nguyễn Du.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
⇒ Cảnh vật hiện ra trước mặt Kiều đẹp nhưng lòng đượm buồn.
⇒ Tác giả dùng từ chọn lọc diễn tả nỗi nhớ người yêu đau đáu, da diết, đầy cảm động và lòng hiếu thảo của Kiều.
⇒ Nỗi tâm trạng của Kiều cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo khi dành cho Kim Trọng và cho cha mẹ.
3. Kết bài
Tác phẩm “Truyện Kiều” là một tuyệt phẩm của tác giả Nguyễn Du. Ông đã đóng góp cho nền thi ca Việt Nam cổ đại một tác phẩm tuyệt vời có sức sáng tạo, vang xa tới nhiều thế hệ sau. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích hay nó đã lột tả được tâm trạng của Thúy Kiều. Để nắm thêm những nội dung chính của đoạn trích, các em có thể tham khảo thêm: Bài soạn Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ. Để cảm nhận được đoạn trích, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Đoạn văn cảm nhận về sáu câu thơ đầu trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Phân tích tám câu thơ giữa đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Cảm nhận về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Bố cục: 3 đoạn
- Sáu câu đầu: Hoàn cảnh cô đơn, cay đắng xót xa của Kiều.
- Tám câu tiếp: Nỗi thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều.
- Tám câu cuối: Tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều qua cách nhìn cảnh vật.
Câu trả lời của bạn
- Phân tích tám câu cuối:
+ Nhớ thương cha mẹ, quê hương, cảnh vật:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
+ Nhớ người yêu, xót xa cho tình duyên lỡ dở, thì cảnh:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu.
+ Buồn tủi, đau đớn cho thân mình, thì cảnh:
Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
=> Cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua con mắt tâm trạng của Kiều: cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn của Kiều man mác, mông lung đến lo sợ, kinh hoàng. Có thể nói dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du hình tượng thiên nhiên cùng một lúc đảm nhiệm hai chức năng: thể hiện ngoại cảnh và thể hiện tâm cảnh. Ở chức năng thứ hai, hình tượng thiên nhiên là phương tiện nghệ thuật đặc sắc để miêu tả nội tâm và khắc họa tính cách nhân vật.
Câu trả lời của bạn
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là nghệ thuật mượn khung cảnh để gửi gắm tâm trạng. Cảnh không chỉ đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Cảnh là phương tiện miêu tả còn tâm trạng là mục đích miêu tả.
Câu trả lời của bạn
Nghệ thuật tả cảnh và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình giống nhau ở "tả cảnh" và khác nhau ở "ngụ tình". Nghệ thuật tả cảnh đơn thuần thì đối tượng, mục đích miêu tả là thiên nhiên, tác giả trực tiếp miêu tả cảnh vật. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là mượn cảnh vật để gửi gắm (ngụ) tâm trạng . Cảnh khi ấy không đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Cảnh là phương tiện miêu tả còn tâm trạng là mục đích miêu tả. Đoạn trích Cảnh ngày xuân là tả cảnh còn đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là tả cảnh ngụ tình.
Một số đoạn thơ trong Truyện Kiều có sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình:
- Đoạn Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều :
"Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dậm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi ?
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường !"
- Đoạn Kim Trọng trở lại vườn Thuý:
"Từ ngày muôn dặm phù tang,
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà.
Vội sang vườn Thuý dò la,
Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa.
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Xập xè én liệng lầu không,
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.
Cuối tường gai góc mọc đầy,
Đi về này những lối này năm xưa.
Chung quanh lặng ngắt như tờ,
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?"
Câu trả lời của bạn
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất trong truyện Kiều, đặc biệt là bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.
Câu trả lời của bạn
- Tám câu thơ diễn tả tâm trạng thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều:
+ Nhớ Kim Trọng: Kiều nhớ Kim Trọng trước.
→ Đây là một nét bút đặc sắc, độc đáo của Nguyễn Du, phù hợp với quy luật và chiều sâu tâm lý:
Nhớ chàng Kim trước vì Kiều luôn cảm thấy mình có lỗi, có tội, mắc nợ với chàng. Kiều đã phụ lời thề với Kim Trọng. Và giờ đây, mối tình đâu vẫn nhức nhối, khắc khoải mãi khôn nguôi. Nàng xót xa ân hận như kẻ phụ tình.
Kiều tưởng tượng Kim Trọng đang hướng về mình, đêm ngày đau đáu chờ tin mà uổng công vô ích. Nàng nhớ Kim Trọng với một tâm trạng xót xa.
Nhưng cái đau đớn nhất trong lòng Kiều chính là nỗi đau bị thất tiết, không còn giữ được sự trong trắng, thủy chung với người mà nàng hết lòng thương yêu, với người mà nàng đã từng hẹn ước trăm năm.
+ Nhớ cha mẹ: Kiều thương cha mẹ khi sáng, lúc chiều tựa cửa mong ngóng tin con. Kiều xót xa khi mường tượng ra cảnh mẹ già cha yếu mà nàng không được ở cạnh bên để chăm nom, phụng dưỡng:
Quạt nồng ấp lạnh, sân Lai, gốc tử là những điển tích nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng nơi quê nhà yêu dấu tất cả đã đổi thay, cha mẹ gài yếu mình không chăm được.
Cách mấy nắng mưa: vừa nói được thời gian xa cách, vừa nói lên sức mạnh tàn phá của tự nhiên đối với cảnh vật, con người.
- Tấm lòng của Kiều: Kiều đã quên mất cảnh ngộ của bản thân, chỉ một lòng nghĩ và hướng về Kim Trọng, về cha mẹ.
→ Kiều là người tình chung thủy, người con hiếu thảo, người luôn nghĩ và sống cho người khác, người có tấm lòng vị tha đáng trân trọng.
Câu trả lời của bạn
- Tâm trạng của Thúy Kiều:
+ Trơ trọi giữa không gian, thời gian mênh mang hoang vắng, lạnh lẽo, không một bóng người. Mọi vật đều lặng lẽ, không sự giao lưu, Kiều chỉ có thể kết bạn với mây, đèn… à nàng rơi vào hoàn cảnh vô cùng cô đơn.
- Câu thơ tả tình: “Bốn bề bát ngát…dặm kia” miêu tả tâm trạng Kiều đang ngổn ngang về quá khứ, hiện tại, tương lai. Nàng bẽ bàng, buồn tủi, chán ngán, thương mình bơ vơ…
- Trước cảnh trời nước mênh mông, đêm trăng bát ngát, bẽ bàng càng thêm thấm thía…
- Nghệ thuật: Tả cảnh ngụ tình. Cảnh làm nền, tả cảnh để tả tình.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
"Cảnh vật trong Truyện Kiều vừa là bức tranh thiên nhiên vừa là bức tranh tâm trạng. Đoạn tả cảnh trước lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn thơ tiêu biểu nhất cho nghệ thuật miêu tả kết hợp hài hoà giữa ngoại cảnh và tâm cảnh.
Bao trùm tâm trạng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích là một nỗi buồn : buồn nhớ người yêu, buồn nhớ cha mẹ và buồn cho chính mình. Làm sao có thể diễn tả một tâm trạng ôm trọn ba nỗi buồn với những sắc thái không giống nhau ? Nguyễn Du đã chọn cách biểu hiện "tình trong cảnh ấy". Kiều nhớ cha mẹ, nhớ quê hương và cũng thấm thía nỗi cô đơn, trống vắng của mình, thì :
"Buồn trông cửa bế chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Khi nàng buồn nhớ người yêu và cũng là xót xa cho duyên phận, cho cảnh ngộ của bản thân :
"Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?"
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh."
Lúc Kiều trong tâm trạng lo âu, dự cảm về những tai ương, hiểm nguy đang đón đợi phía trước, thì hiện ra cảnh tượng hãi hùng :
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."
Cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua con mắt và tâm trạng của Kiều : cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn của Kiều từ man mác, mông lung đến âu lo, kinh sợ. Ngọn gió "cuốn mặt ghềnh" và tiếng sóng ầm ầm "kêu quanh ghế ngồi" như báo trước, chỉ ngay sau lúc này, dông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều.
Có thể nói, dưới ngòi bút Nguyễn Du, hình tượng thiên nhiên cùng một lúc đảm nhận hai chức năng : thể hiện ngoại cảnh và thể hiện tâm cảnh, ở chức năng thứ hai, hình tượng thiên nhiên là phương tiện nghệ thuật đặc sắc để Nguyễn Du miêu tả nội tâm và khắc hoạ tính cách nhân vật".
Câu trả lời của bạn
Ở lầu Ngưng Bích khi nhớ người thân, Kiều nhớ tới Kim Trọng trước, nhớ tới cha mẹ sau. Điều này vừa phù hợp với quy luật tâm lí vừa thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Sự hợp lí, tinh tế là ở chỗ Kiều đã bị Mã Giám Sinh làm nhục và đang bị ép phải tiếp khách làng chơi nên nỗi đau lớn nhất của Kiều lúc này là "Tấm son gột rửa bao giờ cho phai", vì thế người mà nàng thương và nhớ đầu tiên là Kim Trọng. Nàng nhớ lại đêm thề nguyền "Vầng trăng vằng vặc giữa trời - Đinh ninh hai miệng một lời song song" mà "Tưởng người dưới nguyệt chén đồng". Dường như lần nào nhớ về Kim Trọng, nàng đều tưởng tượng ra cảnh Kim Trọng cũng đang nghĩ về mình : "Tin sương luống những rày mong, mai chờ". Câu thơ "Tấm son gột rửa bao giờ cho phai" có hai cách hiểu : tấm lòng son là tấm lòng nhớ thương Kim Trọng không bao giờ nguôi quên, hoặc tấm lòng son trong trắng của Kiều bị dập vùi hoen ố, biết bao giờ gột rửa ? Trong bi kịch về tình yêu, Thuý Kiều có nỗi đau về nhân phẩm.
Sau nỗi nhớ Kim Trọng, Kiều nhớ tới cha mẹ. Nàng thương cha mẹ tuổi già không người trông nom, nàng xót xa song thân sức yếu mà không người săn sóc. Nàng như thấy hiện lên hình bóng tội nghiệp của cha mẹ, khi sáng sớm, lúc chiều hôm tựa cửa ngóng tin con gái, hay mong chờ con đến đỡ đần. Nàng tưởng tượng cảnh ở nơi quê nhà tất cả đã đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất là "gốc tử đã vừa người ôm", nghĩa là cha mẹ ngày một thêm già yếu. "Quạt nồng, ấp lạnh" là cách dùng điển, vừa nói lên tấm lòng hiếu thảo, vừa diễn tả tâm trạng của Kiều, lo lắng không biết ai sẽ phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ khi đã tuổi già, sức yếu.
Trong cảnh ngộ khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất. Nhưng nàng đã quên cảnh ngộ bản thân để nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ. Thuý Kiều là người tình thuỷ chung, người con hiếu thảo, người có tấm lòng vị tha đáng trọng. Nguyễn Du diễn tả bi kịch của Kiều đồng thời làm ngời lên vẻ đẹp nhân bản của con người.
Câu trả lời của bạn
Sáu câu thơ đầu gợi tả cảnh thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích với không gian, thời gian. Không gian mênh mông, hoang vắng. Câu thơ sáu chữ, chữ nào cũng gợi lên sự rợn ngợp của không gian : Bốn bề - bát ngát - xa trông. Thêm vào đó nghệ thuật đối lập tương phản giữa non xa / trăng gần càng làm nổi bật hình ảnh lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh mang trời nước. Thời gian tuần hoàn, khép kín, quanh đi quẩn lại hết "mây sớm" lại "đèn khuya".
Không gian cũng như thời gian giam hãm con người. Chữ xuân trong khoá xuân mang nhiều hàm nghĩa : nói về Thuý Kiều, gợi cả tuổi thanh xuân, xuân sắc của nàng. Kiều trơ trọi giữa mênh mông trời nước, không một bóng người, không sự giao lưu giữa người với người. Nàng chỉ còn biết làm bạn với "mây sớm đèn khuya" trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi, hổ thẹn đến "bẽ bàng".
Câu trả lời của bạn
Học Tập - Giáo dục » Văn mẫu » Bài văn hay lớp 9
Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh từng khẳng định: "Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn", còn nhà thơ Chế Lan Viên lắng sâu và tinh tế khi cất lên lời thơ: "Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn". Bao thế kỉ qua, Truyện Kiều đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu với mỗi người dân Việt Nam. Những trang thơ có sức cuốn hút diệu kì, vương vấn mãi tâm hồn ta, mang đến cho ta niềm cảm thương sâu sắc với "tấm gương oan khổ" Thúy Kiều, đem lại cho ta những khoái cảm thẩm mĩ đặc biệt trước những lời thơ như hoa, như gấm:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Tám câu thơ trích trong đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là những vần thơ có sức ám ảnh nhất của đoạn trích, diễn tả thành công "nỗi lòng tê tái" của Kiều trong những ngày đầu tiên của kiếp đoạn trường.
Hai tiếng "buồn trông" được lặp lại bốn lần trong đoạn trích, vừa như gói trọn tâm thế của Kiều "trước lầu Ngưng Bích", vừa tạo nhịp điệu đều đều, buồn thương cho đoạn thơ. Ở nơi "khoá xuân", Kiều chỉ biết lấy thiên nhiên làm điểm tựa, và từ điểm tựa đó nàng nhận thức về số kiếp của mình. Tầm nhìn của nàng trước hết hướng ra xa, vì nơi xa đó là nhà nàng, là nơi có những người thân yêu nhất:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Không gian xa rộng, quạnh hiu nơi cửa bể như càng làm nổi rõ hơn thân phận nhỏ bé, cô đơn của Kiều. Không gian ấy cộng hưởng cùng thời gian "chiều hôm" - thời khắc gợi nhớ, gợi buồn - khiến như thấm sâu hơn vào tâm hồn người con gái nơi xứ lạ nỗi niềm xót xa. Giữa khung cảnh ấy, trái tim cô đơn, tâm hồn trống vắng cần lắm một hơi ấm, một sự hiện diện của sự sống:
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
"Thuyền" chính là hình ảnh biểu tượng cho sự sống con người. Nhưng đó là sự hiện hữu mờ mờ, như có như không, được diễn tả qua hai từ "thấp thoáng", "xa xa". Sự xuất hiện mờ ảo của cánh buồm không làm cho khung cảnh thêm thân mật, ấm áp mà càng gợi sầu, gợi cảm giác cô liêu cho con người. Không tìm thấy sự sẻ chia từ nơi cửa biển xa xăm, Kiều hướng tầm mắt về "ngọn nước" gần mình hơn:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Giữa dòng nước, cánh hoa trôi man mác như gợi nhắc thân phận cảnh bèo trôi dạt của người trong cảnh. Câu hỏi tu từ như xoáy vào tâm hồn người đọc. Thân phận cánh hoa hay chính là những trăn trở, xót xa cho số kiếp mỏng manh, phiêu bạt của Kiều? Hai tiếng "về đâu" cuối câu thơ với thanh không càng tạo cảm giác xa vắng, vô định, như tương hợp với tâm thế hiện thời của Kiều. Tìm đến với thiên nhiên đó mong sao vơi bớt mối sầu chất chứa trong lòng nhưng càng nhìn cảnh, tâm trạng lại càng rối bời. Dường như nước gợi lên sự lạnh lẽo, bất định, chảy trôi nên Kiều tìm về với bờ cỏ xanh, với mặt đất:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Nhưng cỏ cũng mang tâm trạng buồn thương của người: "rầu rầu". Đâu còn là "cỏ non" xanh tận chân trời trong tiết thanh minh khi Kiều còn sống những ngày tháng "Êm đềm trướng rủ màn che". Cảnh nơi xứ lạ như thấu cảm nỗi niềm của Kiều nên nhuốm màu tâm tư của kiếp người phiêu bạt. Nỗi "rầu rầu" ấy tràn ngập, lan toả khắp không gian:
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Cái nhìn bao quát từ "chân mây" xa xăm đến "mặt đất" gần gũi, tất cả đều "một màu xanh xanh". Nó khác lắm cái sắc xanh tràn ngập nhựa sống của tiết trời mùa xuân:
Cỏ non xanh tận chân trời và cũng không giống màu áo xanh tinh khôi của chàng Kim trong ngày đầu gặp gỡ:
Tuyết in sắt ngựa câu giòn.
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Màu xanh của không gian nơi lầu Ngưng Bích là màu xanh gợi buồn. Nỗi buồn của người pha vào cảnh vật, mang theo bao tái tê. Không gian trở nên rợn ngợp, cô liêu. Sự vắng lặng bao trùm cảnh vật càng tô đậm tiếng lòng thổn thức của người trong cảnh. Kiều cảm thấy cần một tiếng vọng của sự sống con người nhưng đáp lại nàng chỉ có những thanh âm hào hùng của thiên nhiên:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Gió thổi, nước trôi... tất cả đều gợi sự chảy trôi, như thân phận "Bên trời góc bể bơ vơ" của nàng Kiều. Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm như tiếng gào thét của lòng người trong cảnh ngộ bẽ bàng, tê tái. Tầm nhìn của Kiều hướng từ xa về gần, từ cao đến thấp, mong mỏi kiếm tìm một sự đáp vọng. Thanh âm duy nhất đáp lại nàng là tiếng sóng "ầm ầm" "kêu quanh ghế ngồi". Nó không làm cho không gian vang động hơn mà càng khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn lẫn dự cảm lo âu về tương lai của Kiều. Xót xa biết bao, đớn đau biết bao! Chỉ có thiên nhiên bên nàng, sẻ chia "tấm lòng'' với nàng. Đó chính là thời khắc Kiều thấm thía nhất nỗi niềm tự thương thân.
Thơ ca chỉ tìm được bến neo đậu nơi lòng người khi đó là tiếng lòng tha thiết, được tạo tác bởi tài năng nghệ thuật chân chính. Đoạn thơ này của Nguyễn Du đã làm được điều đó. Nó không chỉ khắc họa thành công nỗi lòng xót xa, tâm trạng bẽ bàng của Kiều mà còn cho ta thấy nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy của đại thi hào dân tộc. Âm hưởng của những câu thơ này đã, đang và sẽ vang đọng mãi trong tâm trí người đọc.
Trên đây là phần Phân tích tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Ngoài ra, các em cũng nên tìm hiểu thêm một số nội dung soạn bài khác như soạn bài Truyện Kiều và cùng với phần Soạn bài Kiều gặp Từ Hải để học tốt môn Ngữ Văn hơn.
.
- Với đặc trưng riêng của thể loại truyền kỳ, Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm phần cuối của câu chuyện. Vũ Nương đã không chết, hay nói đúng hơn, nàng được sống cuộc sống khác bình yên và tốt đẹp hơn ở chốn thủy cung. Tại đây, Vũ Nương tình cờ gặp một người cùng làng là Phan Lang. Nàng đã nhờ Phan Lang gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn cho Trương Sinh. Trương Sinh nghe Phan Lang kể, biết vợ bị oan, bèn lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương trở về, ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, lúc ẩn, lúc hiện, nói với chồng lời tạ từ rồi vĩnh viễn trở về chốn làng mây cung nước.
- Đây là một kết thúc phần nào có hậu. Vì Vũ Nương được giải oan, nàng được sống ở chốn thủy cung với các nàng tiên, giống mô típ Thánh Gióng về trời, An Dương Vương xuống biển, Mị Châu chết, máu biến thành ngọc trai… trong truyện cổ tích Việt Nam. Nó thể hiện ước mơ của nhân dân về sự công bằng trong cuộc đời: ở hiền gặp lành, người tốt dù có gặp bao nhiêu oan khuất, cuối cùng cũng sẽ được minh oan, được trả lại thanh danh và phẩm giá.
- Tuy nhiên, kết thúc này vẫn mang màu sắc bi kịch: Vũ Nương trở về uy nghi, rực rỡ nhưng chỉ thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện ở giữa dòng sông rồi vĩnh viễn biến mất. Tất cả chỉ là ảo ảnh,hư vô và mau chóng tan biến, nó góp phần tô đậm nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh.Thực tại lại trở về với thực tại: Vũ Nương vĩnh viễn không thể trở về trần gian, nàng chẳng bao giờ được làm vợ, làm mẹ như mong muốn lớn nhất của đời nàng; chàng Trương vẫn phải trả giá cho hành động phũ phàng của mình, sống trong cảnh phòng không vắng vẻ…ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya; bé Đản mãi mãi không còn mẹ…
=> Qua kết thúc truyện này, chúng ta thấy được thái độ căm ghét, lên án của Nguyễn Dữ đối với xã hội bất công đương thời, cái xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định nỗi đau xót và niềm thương cảm của tác giả với số phận bi thảm của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến
Truyện Kiều là một kiệt tác văn học. Có thể ví tác phẩm như một trái bom nổ giữa làng văn và có thể làm vinh dự cho bất cứ một nền văn học nào có nó. Bởi truyện đã đạt tới trình độ mẫu mực về mặt nội dung và nghệ thuật độc đáo. Một trong các nghệ thuật làm nên sức hấp dẫn và thành công của "Truyện Kiều" đó là nghệ thuật khắc họa hình tượng và diễn biến tâm trạng nhân vật. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là đoạn trích hay, là minh chứng tiêu biểu cho nghệ thuật này. Qua đoạn trích chúng ta thấy được tâm trạng phức hợp trong lòng Kiều khi một mình phải bơ vơ nơi đất khách quê người, không biết phải bấu víu và nương tựa vào đâu.
Trích đoạn nằm ở phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc" của "Truyện Kiều". Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh để có tiên chuộc cha và em, Kiều đã "thất thân" với hắn "đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ", rồi nàng bị hắn bán vào lầu xanh, làm gái làng chơi. Biết mình bị lừa và phải làm nghề dơ bẩn, Kiều uất ức, rút dao định tự vẫn. Tú Bà sợ hãi "Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma", nhanh trí, mụ liền vờ hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế. Nhưng thực chất, Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích và mụ ta đang đợi cơ hội thực hiện âm mưu mới, ép nàng phải ra làm việc đó. Vì thế "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là đoạn đầu tiên, đánh dấu bước ngoặt cuộc đời của Kiều trong mười lăm năm lưu lạc. Đoạn trích dựng lên tâm trạng cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung son sắt với người yêu, hiếu thảo với cha mẹ của Thúy Kiều khi đang phải một mình bơ vơ, lạc lõng nơi xứ lạ người xa. Đồng thời qua đoạn trích, người đọc thấy được bút pháp "tả cảnh ngụ tình" độc đáo, đạt tới trình độ điêu luyện bậc thầy của thiên tài văn học Nguyễn Du.
Trước hết là sáu câu thơ đầu là tâm trạng cô đơn, bất hạnh, đáng thương và tội nghiệp của Kiều trước thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích. Ngay câu thơ mở đầu: "Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân", Nguyễn Du đã nêu bật lên cảnh ngộ đáng thương của Kiều. "Khóa xuân" tức khóa kín tuổi xuân và ở đây ý nói về việc Kiều đang bị giam lỏng. Vậy là tuổi thanh xuân của nàng Kiều bị giam hãm, khóa kín trong cấm cung và không được giao tiếp với bên ngoài. Vì thế, lầu Ngưng Bích như là nhà tù giam lỏng cuộc đời Kiều, nó cho thấy tình cảnh đáng thương, xót xa mà nàng Kiều phải chịu đựng.
Những câu thơ tiếp theo, tái hiện quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích rộng lớn, mênh mông được nhìn dưới con mắt đầy tâm trạng của Kiều:
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Nguyễn Du đã đặt Kiều trong một cảnh ngộ rất đặc biệt: một mình, cô đơn, trơ trọi giữa một không gian rộng lớn, mênh mông: "bốn bề bát ngát". Đứng trên lầu mà ngước mắt lên trời cao, Kiều chỉ thấy "non xa" và "tấm trăng gần". Nhìn xuống mặt đất chỉ thấy khoảng không trống vắng, xa xa là những con sóng lượn, những bãi cát dài phẳng lặng nối tiếp nhau, dưới ánh nắng của buổi chiều tà, bãi cát như trở nên lấp lánh giống như những bụi hồng. Cảnh thật đẹp, thơ mộng, lãng mạn nhưng đượm buồn. Bởi xung quanh Kiều, không hề có một chút bóng dáng sự sống của con người. Vì thế, từ “xa trông” như miêu tả cái nhìn xa xăm của Kiều, nàng đang cố gắng kiếm tìm một chút bóng dáng, sự sống xung quanh. Nhưng tuyệt nhiên chỉ là một không gian vắng lặng, tĩnh tại, không có chút động nhỏ bé nào đó xung quanh mình. Sau này trong bài thơ "Tràng Giang", Huy Cận cũng từng có câu thơ:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Vì thế, ẩn sau ánh mắt nhìn "xa trông" như đang trông mong, ngóng chờ ấy là niềm mong mỏi, khát khao, đợi chờ một tương lai hạnh phúc phía trước nhưng trước không gian trống trải, hoang vắng ấy thì chắc chắn chỉ làm cho Kiều trở nên thất vọng, cô đơn hơn mà thôi.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tính từ “bẽ bàng” gợi lên sự xấu hổ và tủi thẹn của Kiều khi nghĩ đến thân phận và duyên phận của mình. Có lẽ, nàng cảm thấy xấu hổ là vì bị Mã Giám Sinh lừa vào lầu xanh, còn nàng cảm thấy tủi thẹn là vì cảm thấy không còn xứng đáng với tình cảm mà Kim Trọng mong chờ. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi nên vòng tuần hoàn thời gian khép kín và ẩn sau đó là sự cô đơn, đơn điệu, nhàm chán khi mà ở đó Kiều chỉ có một thân một mình đối diện với chính mình, sớm thì làm bạn với mây, tối thì lại chỉ biết trò chuyện với bóng đèn. Vì thế tâm trạng của Kiều mới chia đôi thành hai ngả: “nửa tình – nửa cảnh như chia tấm lòng”. Cảnh có đẹp đến bao nhiêu đi chăng nữa cũng không thể nào khỏa lấp đi tâm trạng “bẽ bàng” của nàng.
Tóm lại: Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với những từ ngữ giàu tính tạo hình và biểu cảm, Nguyễn Du đã phác họa được khung cảnh lầu Ngưng Bích rất rộng lớn, mênh mông và tuyệt nhiêu không có sự sống của con người. Đồng thời qua đó, tác giả còn cho thấy được tâm trạng cô đơn, tủi hổ, bẽ bàng của Kiều khi bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích.
Trong nỗi cô đơn cố hữu đang bủa vây quanh mình, khi một mình Kiều phải bơ vơ dưới góc bể chân trời ở lầu Ngưng Bích thì nối nhớ gia đình, nỗi nhớ người yêu đến như một lẽ tất yếu, rất phù hợp với qui luật tâm lí của con người xa quê. Tám câu thơ tiếp là nỗi niềm thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều.Đến đây, chúng ta thấy được cách dùng từ rất đắc địa, khéo léo của nhà thơ. Để diễn tả nỗi nhớ của Kiều dành cho chàng Kim, tác giả đã dùng động từ “Tưởng”. Tưởng là nhớ tới mức hình dung ra Kim Trọng đang ở trước mắt trò chuyện với Kiều. Kiều nhớ đến đêm chăng thề nguyện, hai người cùng uống chén rượu thủy chung, hứa sẽ bên nhau trọn đời. Nhưng bây giờ nàng đang phải lạc lõng nơi đất khách, nên nàng tưởng Kim Trọng đang đợi tin tức của mình, còn mình thì bặt vô âm tín:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sướng luống những rày trông mai chờ
Rồi nàng băn khoăn tự hỏi:
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Câu thơ như một lời khẳng định về tấm lòng son sắt, thủy chung của Kiều đối với Kim Trọng dù trên bước đường đời có phải trải qua bao sóng gió thì tấm lòng son ấy mãi vẹn nguyên. Đồng thời, đây cũng là lời tự vấn lương tâm của Kiều, Kiều cho rằng tấm lòng son sắt của mình với Kim Trọng đã bị hen ố, đã bị dập vùi khi Kiều đã thất thân với Mã Giám Sinh nên không biết bao giờ mới gột rửa cho sạch được vết nhơ nhuốc ấy. Như vậy, trong nỗi nhớ chằng Kim, Thúy Kiều không chỉ bộc lộ nỗi niềm mong ngóng khắc khoải mà còn bộc lộ cả nỗi đau đớn, cùng cực, tủi hổ đến xe tâm can. Qua đó cho thấy được tấm lòng thủy chung, son sắt của Kiều dành cho Kim Trọng.
Sau nỗi nhớ người yêu, Kiều tiếp tục nhớ tới cha mẹ - người thân yêu ruột thịt của mình:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt lồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Nếu như khi diễn tả nỗi nhớ chàng Kim của Kiều, Nguyễn Du dùng động từ "tưởng" thì khi diễn tả tấm lòng hiếu lễ với cha mẹ của Kiều, tác giả lại sử dụng tính từ “Xót”. Xót nghĩa là thương, thương đến mức xót xa trong lòng. Không xót xa sao được khi một đứa con hiếu thảo như Kiều lại cứ nghĩ đến hình ảnh cha mẹ đang tựa cửa ngóng trờ con trở về, còn con thì vẫn bóng chim tăm cá, không thấy đâu. Nàng còn lo lắng cho cha mẹ khi mà đã tuổi cao sức yếu không biết có ai chăm sóc cho không, hai em có làm tốt nghĩa vụ và trách nhiệm của phận làm con hay không. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” có tính chất gợi tả thời gian, cho thấy sự xa cách của biết bao ngày mưa nắng nhưng cũng đồng thời gợi đến khoảng cách về không gian địa lí, sự xa xôi cách trở giữa nàng với cha mẹ biết bao giờ được gặp lại để làm tròn bổn phận làm con. Qua tâm trạng xót xa, buồn tủi và lo lắng khi nhớ về cha mẹ, gia đình của Kiều, chúng ta thấy được tấm lòng thảo thơm, hiếu nghĩa của Kiều dành cho cha mẹ rất là lớn lao, cao cả và thiêng liêng.
Đoạn thơ khép lại với tám câu thơ cuối thể hiện tâm trạng đau buồn, lo âu của Kiều qua cách nhìn cảnh vật.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Điệp ngữ “buồn trông” được lặp đi lặp lại bốn lần. Đây là điệp ngữ liên hoàn và đồng thời cũng là điệp khúc của tâm trạng. Kiều buồn nên Kiều mới trông cảnh vật, khác với đoạn trước, Kiều trông mới thấy buồn. Ở đây, vì buồn nên trông, mà càng trông thì Kiều lại càng buồn. Nỗi buồn cứ thế điệp đi điệp lại dâng lên thành lớp lớp sóng trào, cứ cuộn xoáy trong tâm khảm của Kiều mà trở thành gánh nặng tâm tư.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Chiều hôm là khoảng thời gian của buổi chiều hoàng hôn, khi mà mặt trời đã dần dần ngả về tây, bóng tối bắt đầu xâm lấn. Xa xa là hình ảnh của một chiếc thuyền nhỏ bé, cô đơn thoát ẩn, thoát hiện thấp thoáng trên cửa biển; một cánh hoa đang trôi bất định trên dòng nước mà không biết đi về đâu. Hình ảnh chiếc thuyền, cánh hoa được đặt trong thế tương phản đối lập với vũ trụ không cùng của trời đất mênh mang càng tô đậm hơn sự nhỏ bé, đơn độc, đáng thương và tội nghiệp. Đây là hình ảnh ẩn dụ cho thân phận của Kiều lênh đênh, chìm nổi giữa dòng đời mà không biết trôi dạt về đâu. Và đứng trước một không gian bao la của trời đất, của buổi chiều hoàng hôn sắp tắt, nỗi nhớ nhà, nhớ người thân đến như một lẽ tất yếu trong lòng Kiều. Nhưng trong tình cảnh “bốn bề góc bể trơ vơ” thì Kiều biết bao giờ mới được sum họp, đoàn viên cùng với gia đình, người yêu. Vì thế câu hỏi tu từ cứ réo rắc, khắc khoải trong lòng của Kiều, dấy lên niềm khao khát được trở về nhà, trở về quê hương nơi chôn rau cắt rốn của mình.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Ngước mắt trông về phía xa của cửa biển Kiều chỉ càng cảm thấy rộng trống, cơ đơn, buồn tủi. Kiều quay trở về nhìn xuống mặt đất quanh mình để tìm kiếm sự sống của cảnh vật xung quanh thì lại chỉ thấy những đám cỏ xanh héo úa, lụi tàn. Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” là một hình ảnh nhân hóa, biểu hiện tâm trạng của con người. Lòng người buồn nên nhìn đâu cũng thấy buồn; nỗi buồn của Kiều như thấm vào cảnh vật khiến cho cảnh vật cũng nhuốm màu tâm trạng. Trong văn học từ xưa tới nay, màu sắc xanh thường khiến chúng ta nghĩ tới màu của sự sống, của sự sinh sôi bất diệt. Nhưng cũng có trường hợp, màu xanh có khi trở thành màu sắc của bi kịch con người. Bài thơ “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn đã diễn tả nỗi nhớ của người chinh phụ đối với người chồng của mình nơi biên ải qua màu xanh ngắt của cỏ lá:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiết ai sầu hơn ai?”
Như vậy, màu xanh ngắt, xanh xanh của cỏ lá đã trở thành màu của sự xa cách, sự li biệt và nhạt nhòa. Nay từ “xanh xanh” lại xuất hiện trong câu thơ của Nguyễn Du nên màu sắc ấy biểu trưng cho sự nhạt nhòa, sự chán nản, vô vọng của Kiều trước một khung cảnh thiếu vắng sự sống, cô đơn, và tẻ nhạt.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nếu như những bức tranh thiên nhiên bên trên đều được tái hiện trong trạng thái tĩnh thì khép lại bài thơ, bức tranh thiên nhiên được miêu tả trong trạng thái động. Đó là âm thanh dữ dội của gió, của sóng; gió làm cho mặt biển tung lên những con sóng ồ ạt đập vào bờ mà phát ra tiếng kêu. Nhưng quan trọng, tiếng sóng ấy không đơn thuần là những con sóng thực ở ngoài biển khơi mà đó còn là con sóng lòng của tâm trạng. Diệp khúc “buồn trông” ở những câu thơ trên kết đọng, tích tụ rồi dồn đẩy xuống câu thơ cuối khiến cho nỗi buồn ngày càng trở nên chồng chất như lớp lớp sóng trào. Đồng thời, tiếng sóng “ầm ầm” dữ dội ấy cũng chính hình ảnh ẩn dụ cho cuộc đời phong ba bão táp đã và đang đổ ập xuống đời Kiều, đổ ập xuống đôi vai gầy yếu của một cô gái trẻ đáng thương và tội nghiệp. Vì thế lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn lo lắng, sợ hãi như đang rơi vào vực thẳm một cách bất lực.
Tóm lại: Tám câu thơ cuối, Nguyễn Du đã sử dụng thật tài tình bút pháp “tả cảnh ngụ tình” của văn học cổ điển để diễn tả tâm trạng “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” của Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Mỗi câu thơ là một bức tranh thực cảnh cũng chính là thực tình của một con người mang trong mình nỗi buồn đau chồng chất. Đó là nỗi đau đớn, xót xa, lo lắng và khắc khoải của một kiếp má đào, trôi nổi, vô định, mong manh và bế tắc không biết đi về nơi đâu. Vì thế, dù nàng “Thông minh vốn sẵn tính trời” nhưng đang đứng trước sự tuyệt vọng, yếu đuối của bản thân, Kiều đã bị Sở Khanh lừa gạt để rồi dấn thân vào một cuộc đời đầy sóng gió, truân chuyên “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.
Qua việc phân tích ở trên, chúng ta thấy đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một trong những đoạn thơ hay, đặc sắc và thành công nhất trong Truyện Kiều về nghệ thuật miêu tả, khắc họa thế giới nội tâm nhân vật và nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình". Qua đoạn thơ chúng ta thấy được tâm trạng, cảnh ngộ cô đơn, đáng thương , tội nghiệp và tấm lòng thủy chung son sắt với người yêu, hiếu thảo với cha mẹ của nàng Kiều, một con người tài hoa mà bạc mệnh!.
trong đoạn trích này tác giả đã gán cho kiều những nỗi buồn, khi con người ở những nơi vắng vẻ một mình thì họ sẽ cảm thấy buồn tủi, kiều cũng thế.bốn bề của kiều đề buồn cả,hoa trôi thác nước biết lạc về đâu. ng du đã hàm ý trong đó rang thân phân của người phụ nữ như hoa trôi vậy, không định đoạt được cuộc đời của mình, không biết rồi đây mình sẽ trôi lạc về đâu. buồn trông nội cỏ rầu rầu,màu xanh xanh ý chỉ ngọn cỏ không có sức sông, héo úa dần như kiều đang từng ngày dần héo úa đi.ầm ầm tiếng sóng kêu quanh geh61 ngồi ý chỉ rằng những tai họa của cuộc đời đang dần ập đến với kiều, đang đến sát gần kiều.bằng nghệ thật tả cảnh ngụ tình tác giả đã tả nỗi buồn của kiều rất sâu sắc, người buồn thì cảnh chả bao giờ vui cả.
Câu trả lời của bạn
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
“Truyện Kiều” được người đời tôn vinh là “khúc nam âm tuyệt xướng”, là nơi kết tinhtài năng của đại thi hào dân tộc – Nguyễn Du. Kiệt tác này hấp dẫn người đọc không chỉở nội dung mà còn ở nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, sáng tạo, xây dựng nhân vật phongphú , đa dạng... Bút lực của Nguyễn Du còn được khẳng định ở nghệ thuật tả cảnh ngụtình tài hoa, điêu luyện. Tám câu thơ cuối trích đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”được coi lànhững câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong tác phẩm “Truyện Kiều” của ông. Đoạnthơ viết:“Buồn trông cửa bể chiều hômThuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?Buồn trông ngọn nước mới saHoa trôi man mác biết là về đâu?Buồn trông nội cỏ rầu rầuChân mây mặt đất một màu xanh xanhBuồn trông gió cuốn mặt duềnhẦm ầm tiêng sóng kêu quanh ghế ngồi.”II. Thân bài: 1. Giải thích: Bút pháp tả cảnh ngụ tình là gì?- Tả cảnh ngụ tình là bút pháp quen thuộc trong văn học thời trung đại. Người nghệ sĩsử dụng ngôn từ miêu tả bức tranh về thiên nhiên tạo vật để thông qua đó gửi gắm tâm tư,tình cảm con người ( nhân vật trong tác phẩm hay chính tâm trạng của tác giả). Ở bútpháp nghệ thuật này, cảnh và tình hòa quyện khó có thể tách rời, song yếu tố ngụ tìnhmới là cái chủ đích của người nghệ sĩ. Những tứ thơ xuân của Nguyễn Trãi,“Qua ĐèoNgang” của Bà huyện Thanh Quan, chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến... đều đã rất thànhcông ở nghệ thuật này.- Bút pháp tả cảnh ngụ tình được Nguyễn Du sử dụng rất tài hoa, điêu luyện trong tácphẩm “Truyện Kiều”. Ở đó, tất cả bức tranh về thiên nhiên tạo vật đều được khúc xạ quacái nhìn, cách nhìn của tâm trạng; qua cảnh ngộ và nỗi niềm của nhân vật. Vì thế, tạo vậttrong “Truyện Kiều” lúc nào cũng có một linh hồn, một tình cảm. Đó là linh hồn củaNguyễn Du hòa quyện vào đó tạo cho tác phẩm trở thành một khối tình cảm duy nhất.- Chính Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” đã khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa cảnh vàtình:“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầuNgười buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”Búc tranh cảnh ngày xuân khi chị em Thúy Kiều khi du xuân trở về, bức tranh mùa thu lúc Thúy Kiều và Thúc Sinh chia tay nhau hay thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích khiThúy Kiều bị giam lỏng nơi đây đều là “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”.2. Bút pháp tả cảnh ngụ tình trong tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu NgưngBích”:- Tám câu thơ đặt trong mạch 22 câu thơ của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là khiThúy Kiều trở về với chính lòng mình, đối diện với chính mình. Từ thương người đã trởthành nỗi thương mình xót xa. Đây là những câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất – làthực cảnh mà cũng là tâm cảnh. Mỗi cảnh vật khơi gợi ở Kiều những nồi buồn khác nhauvới những lí do buồn khác nhau để rồi tình buồn tác động lại cảnh khiến cảnh mỗi lúcmột buồn hơn và nỗi buồn cứ dâng lên như lớp lớp sóng trào.* Nỗi buồn của Kiều trước khung cảnh cửa bể chiều hôm:Buồn trông cửa bể chiều hômThuyền ai thấp thoáng cánh buồn xa xa?- Mở đầu đoạn thơ là không gian nơi cửa bể và thời gian là chiều hôm – một không gian,thời gian nghệ thuật vốn rất quen thuộc trong văn thơ cổ. “Chiều hôm” là thời điểm đợmbuồn lại được đặt trong không gian rộng lớn “cửa bể” càng gợi vẻ hiu quạnh, thê lương.Trong không gian bốn bề xa trông ấy, giữa trùng khơi sóng nước chỉ thấy thấp thoáng ẩnhiện như hư, như thực ai đó nơi xa. Hình ảnh con thuyền và cánh buồm thấp thoáng xa xa, rồi khuất hẳn giữa mênh mông sóng nước gợi hành trình mờ mịt không biết đâu làbến bờ, nỗi cô đơn, lạc lõng bơ vơ. Cảnh tha hương gợi nỗi nhớ gia đình, quê hương và hivọng về cuộc đoàn viên đến nao lòng.* Nỗi buồn của Kiều khi nhìn cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa:- Trải lòng mình trước không gian nơi lầu Ngưng Bích, tự thân trong lòng mang nặng nỗibuồn, Thúy Kiều trông ra ngoại cảnh. Điểm nhìn từ xa đến gần, từ bao quát đến cụ thể.Lúc này, trước mắt nàng là ngọn nước triều cường và hình ảnh cánh hoa trôi nổi giữabiển khơi vô định:“Buồn trông ngọn nước mới saHoa trôi man mác biết là về đâu?”- Ở đây, thi hào Nguyễn Du đã cực tả, đặc tả tâm trạng bi thương của Kiều qua nhữnghình ảnh ẩn dụ giàu giá trị biểu cảm. “Dòng nước mới sa” hay chính là dòng đời, bể đờivô định; hình ảnh “hoa trôi man mác” phải chăng là thân phận người con gái đang trôidạt, đang bị vùi dập trước sóng gió cuộc đời? Câu hỏi tu từ “biết là về đâu?”cất lên nhưmột tiếng than diễn tả tâm trạng xót xa, hoang mang, lo sợ của Kiều: không biết cuộc đờisẽ trôi nổi đến đâu, tương lai rồi sẽ thế nào hay lại tan tác, bị dập vùi như cánh hóa mỏngmanh kia.* Nỗi buồn của Kiều khi nhìn cảnh nội cỏ nhạt nhòa, mênh mông “rầu rầu”: “Buồn trông nội cỏ rầu rầuChân mây mặt đất một màu xanh xanh”-Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” héo úa với màu xanh nhạt nhòa trải dài từ mặt đất đến chânmây là hình ảnh của thiên nhiên héo úa, tàn phai.Thiên nhiên ấy gợi ở Kiều nỗi chánngán, vô vọng, tái tê về cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh không biết kéo dài đến tận baogiờ. Thật là “cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên” ( Chế Lan Viên)* Cao trào bi kịch của nội tâm Thúy Kiều:“Buồn trông gió cuồn mặt duềnh”Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”- Một cơn gió cuốn trên “mặt duềnh” làm cho tiếng sóng bỗng nổi lên “ầm ầm” như bủavây quanh ghế Kiều ngồi. Tiếng sóng như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời haycũng là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn màcòn lo sợ, kinh hãi như đang đứng trước bão táp cuộc đời, trước những tai ương đang rìnhrập, bủa vây. Câu thơ kết đoạn là sự hòa tấu sóng biển – sóng đời, không chỉ vang lêntiếng gõ cửa của định mệnh mà còn rung chuyển tiếng gầm gào của hiểm họa muốn hất tung người con gái đơn côi, yếu đuối trên điểm tựa chiếc ghế đời mong manh.-> Có thể nói, thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là thiên nhiênđược nhìn qua tâm trạng – được nhìn từ xa đến gấn, màu sắc từ nhạt đến đậm, âmthanh từ tĩnh đến động để diễn tả nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, hãihùng, dồn đến cơn bão táp của nội tâm, cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều.Toàn là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi, bế tắc, sự chao đảo nghiêngđổ dữ dội. Lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất, vì thế nàng đã mắc lừaSở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời ô nhục.-> Bốn câu thơ lục bát được liên kết bởi điệp ngữ “buồn trông” nghĩa là buồn mànhìn xa, mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại, nhưng trôngmà vô vọng. "Buồn trông" có cái thoảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn,có cả sự dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời ngangngửa. Điệp ngữ kết hợp với các hình ảnh ẩn dụ đứng sau, câu hỏi tu từ cùng các từláy “thấp thoáng”,”xa xa”,”rầu rầu”,”ầm ầm” đã diễn tả nỗi buồn nhiều bề trongKiều với nhiều sắc độ khác nhau, trào dâng lớp lớp như những con sóng lòng. Tấtcả tạo nên âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc đoạn thơ, cũng là điệp khúccủa tâm trạng.III. Kết bài:- Tám câu thơ- bốn cặp lục bát cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tạo thành bứctranh tứ bình tâm trạng có cấu trúc cân đối hài hòa đã khiến cho bút pháp tả cảnh ngụ tình
là bút pháp thông qua việc miêu tả cảnh vật thiên nhiên để khắc học tâm trạng cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật trữ tình
Câu trả lời của bạn
Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, bị Tú Bà ép tiếp khách làng chơi, tôi đau đớn, tủi nhục tìm đến cái chết. Tú Bà sợ mất vốn vội khuyên can, vờ hứa hẹn sẽ gả tôi cho một người tử tế. Mụ đưa tôi ra sống ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng, lập mưu buộc tôi sống cảnh “cuộc vui suốt tháng; trận cười thâu đêm “. Lầu Ngưng Bích là chiếc lầu hoang vắng, nằm trơ trọi giữa bốn bề mênh mông trời nước. Nó cao ngất nghểu, đứng trên lầu như sắp với được mặt trăng. Từ trên lầu nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Tôi sống ở đó, sớm làm bạn với trời mây, đêm làm bạn với ngọn đèn, thui thủi một mình một bóng. Cô đơn, tôi nhớ tới Kim Trọng, người đã cùng mình thề nguyền gắn bó rồi chính mình đã phụ lời nguyền. Giờ này chắc hẳn Kim Trọng vẫn đang chờ mong tin tức của mình, đâu biết rằng tôi đã phải bán mình vào nơi nhơ bẩn, một mình bơ vơ nơi góc biển chân trời. Tôi đau đớn nghĩ, tấm lòng son trong trắng dành cho Kim Trọng nay đã bị dập vùi hoen ố, biết bao giờ gột rửa cho sạch mà còn mong xứng đáng với chàng ? Buồn thương, tôi nhớ đến cha mẹ. Tôi thương cha xót mẹ sáng chiều tựa cửa trông ngóng tin con. Tôi xót xa nghĩ, lúc cha mẹ tuổi già sức yếu lẽ ra mình phải ở bên để đỡ đần, phụng dưỡng thì nay lại phải xa xôi cách biệt. Tôi tự hỏi, không biết giờ đây ai đang chăm sóc cha mẹ, ai là người trời nóng bức thì quạt cho cha mẹ ngủ, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường cho ấm chiếu chăn để cha mẹ được yên giấc? Kể từ ngày xa cha mẹ đến nay đã mấy mùa mưa nắng. Quê nhà chắc đã nhiều sự đổi thay. Cha mẹ mỗi ngày thêm già yếu, mà con thì lưu lạc xứ người... Nghĩ đến đây, lòng tôi vô cùng đau đớn, nghĩ mình đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng. Buồn bã, tôi trông ra cửa biển. Chiều buông, cả một vùng nước non bát ngát, hoang vắng. Xa xa, thuyền ai thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện. Thuyền ơi đi về đâu ? Tôi ngước nhìn lên ngọn thác, ngọn nước vừa đổ xuống xô đẩy cánh hoa lạc loài tan tác trôi xuôi. Hoa ơi trôi về đâu? Tôi trông sang nội cỏ, chân mây, mặt đất... Tất cả, tiếp nối nhau thành một màu xanh rợn ngợp. Cuối cùng, tôi trông xuống mặt duềnh. Ngọn gió thổi mạnh cuốn theo sóng biển ầm ầm, thét gào xung quanh như một dự báo hãi hùng về số phận, cuộc đời mình.
Kể lại giấc mơ gặp Kiều ở lầu Ngưng Bích và được nàng chia sẻ tâm trạng trong hoàn cảnh ấy
Ko chép mạng ạ (hoặc chỉ được lấy vài ý)
Câu trả lời của bạn
Nội dung đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện được nỗi niềm đồng cảm sâu sắc với con người. Nguyễn Du đã diễn tả rất tinh tế tâm trạng của Thúy Kiều khi nàng ở lầu Ngưng Bích. Trích đoạn thơ “Buồn trông... ghế ngồi”. Giới thiệu hoàn cảnh của Thúy Kiều: Thúy Kiều là cô gái tài sắc vẹn toàn, đa sầu, đa cảm. Khi gia đình gặp tai họa... nàng đã bán mình chuộc cha... khi bị vào lầu xanh, nàng đã không chịu tiếp khách và tìm cách bỏ trốn -> nàng bị Tú Bà bắt lại và đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích -> thực chất là giam lỏng nàng. Tâm trạng của Thúy Kiều: Trước lầu Ngưng Bích nhìn ra xa Thúy Kiều thấy: “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”. Từ láy thấp thoáng, xa xa. Đại từ phiếm chỉ “ai”.. Cửa bể buổi chiều -> thời gian gợi buồn. Một cánh buồm nhỏ bé trong cửa bể rộng lớn -> hoang vắng mênh mông buồn tẻ chính là hình ảnh ẩn dụ về cuộc sống lẻ loi đơn chiếc của nàng Kiều, cũng lênh đênh không biết đâu là bến bờ (thuyền trôi vô định, thấp thoáng > số phận mong manh). Nhìn gần hơn nàng thấy: “hoa trôi man mác biết là về đâu”. Từ láy: man mác, câu hỏi tu từ về đâu? khiến Thúy Kiều nghĩ về thân phận mình mỏng manh, yêu đuối như cánh hoa mặc cho dòng đời xô đẩy, biết trôi dạt về đâu. Không chỉ có hoa trôi trên mặt nước, nàng còn nhìn thấy ngọn cỏ rầu rầu... Cỏ trong đôi mắt của Thúv Kiều “rầu rầu” tàn lụi và héo úa. Tác giả tả màu xanh của cỏ tiếp nối màu xanh của bầu trời... xanh xanh đang bị nhòe đi, pha lẫn vào nhau và có phần đơn điệu -> tâm trạng buồn rầu của Kiều. Cuối cùng nàng còn lắng nghe và cảm nhận “Buồn trông gió cuốn... ầm ầm... kêu quanh ghế ngồi”. Gió cuốn -> mặt biển nổi sóng ập đến ầm ầm chính là dự cảm về những sóng gió sắp ập đến cuộc đời nàng. Tám câu lục bát chia thành 4 cặp, mỗi cặp đều bắt đầu bàng từ buồn trông từ xa tới gần, cao tới thấp... diễn tả tâm trạng buồn đau của Thúy Kiều. Đoạn trích có sức gợi cảm mạnh mẽ bởi Nguyễn Du đã dùng điệp từ, từ láy, hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Diễn tả thành công tâm trạng Thúy Kiều chứng tỏ Nguyễn Du thấu hiểu, đồng cảm sâu sắc với tâm tư, số phận của con người.
Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, bị Tú Bà ép tiếp khách làng chơi, tôi đau đớn, tủi nhục tìm đến cái chết. Tú Bà sợ mất vốn vội khuyên can, vờ hứa hẹn sẽ gả tôi cho một người tử tế. Mụ đưa tôi ra sống ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng, lập mưu buộc tôi sống cảnh “cuộc vui suốt tháng; trận cười thâu đêm “.
Lầu Ngưng Bích là chiếc lầu hoang vắng, nằm trơ trọi giữa bốn bề mênh mông trời nước. Nó cao ngất nghểu, đứng trên lầu như sắp với được mặt trăng. Từ trên lầu nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Tôi sống ở đó, sớm làm bạn với trời mây, đêm làm bạn với ngọn đèn, thui thủi một mình một bóng.
Cô đơn, tôi nhớ tới Kim Trọng, người đã cùng mình thề nguyền gắn bó rồi chính mình đã phụ lời nguyền. Giờ này chắc hẳn Kim Trọng vẫn đang chờ mong tin tức của mình, đâu biết rằng tôi đã phải bán mình vào nơi nhơ bẩn, một mình bơ vơ nơi góc biển chân trời. Tôi đau đớn nghĩ, tấm lòng son trong trắng dành cho Kim Trọng nay đã bị dập vùi hoen ố, biết bao giờ gột rửa cho sạch mà còn mong xứng đáng với chàng ?
Buồn thương, tôi nhớ đến cha mẹ. Tôi thương cha xót mẹ sáng chiều tựa cửa trông ngóng tin con. Tôi xót xa nghĩ, lúc cha mẹ tuổi già sức yếu lẽ ra mình phải ở bên để đỡ đần, phụng dưỡng thì nay lại phải xa xôi cách biệt. Tôi tự hỏi, không biết giờ đây ai đang chăm sóc cha mẹ, ai là người trời nóng bức thì quạt cho cha mẹ ngủ, trời lạnh giá thì vào nằm trước trong giường cho ấm chiếu chăn để cha mẹ được yên giấc? Kể từ ngày xa cha mẹ đến nay đã mấy mùa mưa nắng. Quê nhà chắc đã nhiều sự đổi thay. Cha mẹ mỗi ngày thêm già yếu, mà con thì lưu lạc xứ người... Nghĩ đến đây, lòng tôi vô cùng đau đớn, nghĩ mình đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng.
Buồn bã, tôi trông ra cửa biển. Chiều buông, cả một vùng nước non bát ngát, hoang vắng. Xa xa, thuyền ai thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện. Thuyền ơi đi về đâu ? Tôi ngước nhìn lên ngọn thác, ngọn nước vừa đổ xuống xô đẩy cánh hoa lạc loài tan tác trôi xuôi. Hoa ơi trôi về đâu? Tôi trông sang nội cỏ, chân mây, mặt đất... Tất cả, tiếp nối nhau thành một màu xanh rợn ngợp. Cuối cùng, tôi trông xuống mặt duềnh. Ngọn gió thổi mạnh cuốn theo sóng biển ầm ầm, thét gào xung quanh như một dự báo hãi hùng về số phận, cuộc đời mình.
Cái nắng nhè nhè ,làn gió mơn man da thịt làm tôi chợt tỉnh cơn mê .Tôi cứ đi sâu , đi về phía trước ở nơi có ánh sáng li ti cuối con đường kia .Nơi đây là một nơi xa lạ ,hơi cũ kĩ và cổ ,giống như thời xa xưa ,.Xung quanh là cây là nước ,đẹp nhưng hiu quạng .Thế mà sao cứ cảm thấy quen quen ,a quen thật -là căn nhà nơi Kiều bị nhốt đây mà -Lầu Ngưng Bích
Tôi cứ ngơ ngác ,chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra .Sao mình lại ở đây ?chẳng hiểu gì cả ?kể là buổi tối đọc truyện kiều ,thâý xót xa cho nhân vật thúy kiều nên khóc và ngủ thiếp đi .Chẳng có lẽ...tôi đang trong mơ.Ôi !thật hoang đường ,nhưng đây là sự thật .Trước mặt tôi bây giờ là một bức tranh khung cảnh thật đẹp ,chẳng khác Nguyễn Du phác họa là bao.Cảnh non nước đẹp ,mang theo tâm hồn phiêu lãng ,từng làn sóng lăn tăn ,từng khóm cây rung rinh ...cái nắng chiều hoàng hồn như thắp lên vẻ u buồn .Cảnh vật có đẹp có thơ mộng trong mắt tôi ,nhưng có lẽ trong mắt kiều trên lầu kia giống như một vực thẳm .
Tôi nghĩ mình sẽ phải đối mặt với kiều .Có sự tò mò ,có sự hưng phấn nhưng tôi do dự ,không biết có lên bước lên lầu hay không ,thực sự là sợ hãi ,khi gặp trực tiếp như thế này .Cuối cùng tôi vẫn đi từng bước lên lầu .Mở cửa ra ,tiếng cửa kêu kèn kẹt nghe mà u buồn ,trong phòng chỉ có cái đèn dầu còn đâu đều chìm trog tôi .Tôi vẫn bước tiếp lên tầng hai ,vừa qua ngưỡng cửa đã thấy căn phòng đơn sơ .Chỉ có bàn uống trà ,vài cái ghế và chiếc giường ngủ .Nhưng đặc biệt là tôi thấy một người con gái -là kiều ư?Vẻ đẹp con gái ngày xưa thật đặc biêt,"nếu như kiều mà sống ở thế kỉ 21 chắc cũng là một hotgirl đấy" ,tôi thầm nghĩ.Đúng như tác giả viết "Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hơn kém xanh"
Làn da nàng trắng nõn ,với bộ lông mãy cong đen cùng điểm thêm làm môi đỏ ...trong nàng cứ như một viên ngọc đẹp -hoa có đẹp cũng chẳng thể so bì ,ngôn từu chang thể diễn tả hết .Phải trực tiếp nhìn thấy mới ngỡ ngàng làm sao .Vẽ đẹp thoát tục ,mĩ miều như thế ,song chẳng phải chịu khổ cực sao ...Kiều đã phát hiện ra tôi rồi ,nàng nhìn tôi đôi mắt trong veo không gợn sóng ,thế nhưng nó như có lực hút ..của sự u buồn ,cô đơn trong đó .Hình như tưởng tôi là người đưa cơm nên nàng chang lười phản ứng ,vẫn rõi đoi mắt ra ngoài xa kia .Kiêu không nói tôi cũng không nói ,cứ thế mà lẵng lẽ nhìn nàng .Chẳng biết sau bao lâu ,khi bóng đêm đã chìm xuong ,chỉ còn bóng 2 người dưới đèn dầu .Lúc này tồi mới hiểu được lời thơ của tác giả ,sống 1 mình như thế này quả thực quá đáng thương rồi .Giờ đây kiều mới nói:
-"Sao còn chưa đi?" Giọng nói trong trẻo nhưng lạnh lùng ,chẳng biết nàng đã trải qua những gì ?tôi tự hỏi .Im lặng chút ,tôi trả lời:
-"Tôi không phải người ở đây ,chỉ là vô tình mà bước vào trong thế giới này thôi ..Không cần đề phòng tôi"
Lại nhìn tôi ,nhưng lần này là ánh mắt ngờ vực .Tôi biết trông tôi chỉ khoảng 15t ,ăn mặc thì kì lạ ,ở thời đại này nhưu 1 tiểu cô nương dù sao vẫn ít hơn tuổi kiều nên tôi nghĩ cô ấy đang chần chừ ,có nên tin tưởng tôi hay không? Sau 1 hồi có lẽ cô ấy đã tin tôi rôi f.Cô đơn bấy lâu nay có tôi như một người bạn ,cô ngồi tâm sự với tôi đủ điều .Vẫn chưa thoát khỏi cảm xúc vui mừng khi được nói chuyện với một người con gái tài sắc vẹn toàn nên tôi cũng có phần rụt rè ,hầu nhưu toàn kiều nói ...Tôi chượt nghĩ đến tác giả viết ,rồi hỏi kiều ":
-"Tỷ tỷ phải trải qua rất nhiều chuyện ,tỷ cũng thật mạnh mẽ ...tỷ có thể kể cho ta nghe về tỷ được chứ?"Tôi nhận ra hơi thở u buồn của kiều ,thở dài rồi kiều cũng nói:
-"Đúng vậy ,ta đã tair qua rất nhiều từ ...đến ..rồi " tiếng nấc nghẹn ngào ,dòng nước mắt rơi trên khuôn mặt tuyệt mỹ thật khiến người ta đau lòng .Có lẽ bất cứ ai trong khoảnh khắc này ,không chỉ reeng tôi cũng cảm thấy xót xa cho kiều ,căm hận xã hội thối nát đã đẩy nguwoif con gái như vậy vào một vũng bùn .Tôi và nàng tiếp tục trò truyện với nhau ,tôi kể cho nagf một số mẩu chuyện cười mà tôi biết ,khi tiếng àng cười vang lên trong như tiếng chuông vậy .Bất chợt nghĩ ,nếu tiếng cuwoif này cứ vang nhưu vậy thì thật tuyệt vời .Rồi tôi lại kể cho nàng nghe về cuộc sống hiện tại của tôi ,nàng lại ngơ ngác vẻ mặt si mê .Tôi thấy tiếc tahy cho một đóa hoa .chưa nở đã muốn tàn ..Thế rồi đang vui vẻ ,tôi nghe thấy tiếng bước chân tới gần ,chỉ kịp nhìn thấy kiều lần cuối rồi chợt vụt tắt .Tôi mở mắt ra ,ánh sáng ban công tràn vào làm tôi chưa kịp thích ứng .Biết mà ,là mơ thật ..hazz nhưng sao cứ cảm thấy chân thực sao ấy .Gặp kiều tôi mới nhận ra được nhiều thứ ,chẳng thể tin được xã hôi xưa thối nát ,như thế đẩy những người con gái vào cảnh éo le như vậy .Một xã hộ trọng nam khinh nữ ,đầy rẫy bất công thật đáng chê trách ...Những người con gái chẳng thể lên tiếng làm chủ cho số phận của mình .Tôi thấy thương tiếc họ ,và cảm nhận được nỗi đau mà họ trải qua .Vậy nên tôi cũng thấy khâm phục nghị lực sống của họ ,thiết nghic mình là con gái trong hiện địa thì càng phải nỗ lwucj pahts huy vẻ đẹp của nguwoif con gái ..không thể hổ thẹn được .
Chỉ là mơ ,như ngỡ vừa xảy ra .Tôi nghĩ đây là giấc mơ ấn tượng nhất trong 15n từu nhỏ đến giờ .Gặp kiều tôi như đã trải qu 1 kiếp người .Và nhận ra nhiều bài hovj quý giá .Tôi biết phải chân trọng từng khoảnh khắc ,cố gắng phát huy hết khả năng của bản thân .Để cho xã hội biết rằng :phụ nữ cũng chẳn kém gì đàn ông .Phải chăng các bạn cũng nghĩ như tôi?
. Mở bài:
- Giới thiệu tình huống gặp gỡ Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích.
- Giới thiệu câu chuyện kể: tâm trạng của Kiều.
II. Thân bài:
(Các em cần linh hoạt sáng tạo câu chuyện kể. Song, cần đạt các nội dung sau:)
1. Ấn tượng đầu tiên khi gặp Thúy Kiều.
- Đó là một cô gái sắc sảo, mặn mà, với đôi mắt trong trẻo như hồ nước mùa thu. Chắc chắn nàng sở hữu một trí tuệ thông minh, một tâm hồn nồng nhiệt, giàu tình yêu thương, một trái tim nhân hậu nhưng đa sầu đa cảm.
2. Thúy Kiều kể về hoàn cảnh và tâm trạng của mình.
- Nàng kể, nàng là chị cả trong gia đình họ Vương có ba chị em. Cha và em trai nàng bị triều đình bắt oan, để chuộc cha và em, nàng đã phải bán mình. Nào ngờ Mã Giám Sinh, người bảo mua nàng về làm vợ lại là kẻ dắt mối, buôn thịt bán người, đẩy nàng vào lầu xanh. Tú Bà buộc nàng tiếp khách, nàng đã rút dao tự vẫn nhưng không chết. Nàng bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, không biết rồi đây tương lai sẽ ra sao.
- Trước cảnh lầu Ngưng Bích, trơ trọi giữa không gian, xung quanh không một ngôi nhà, không một bóng người, chỉ có “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”, Kiều chỉ biết làm bạn với “non xa, trăng gần”.
- Nàng luôn thường trực nỗi lòng thương nhớ. Kiều nhớ Kim Trọng, nhớ buổi thề nguyền đính ước, hai người đã cùng uống chén rượu đồng tâm dưới trăng (dưới nguyệt chén đồng), cùng thề ước trọn đời chung thủy. Vậy mà, giờ đây kẻ “bên trời”, người “góc bể”, nàng hình dung Kim Trọng đang “rày trông mai chờ”, thật là uổng phí, hình dung Kim Trọng nhớ mình một cách vô vọng.
- Nàng nhớ về chàng Kim với tâm trạng vô vọng đau xót và tự cho rằng mình không xứng đáng với lòng mong nhớ ấy nữa. Nàng khóc: “Bên trời góc bể bơ vơ /Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Đó là tấm lòng chung thủy đối với Kim Trọng không bao giờ phai. Đó là tấm lòng son của nàng bị hoen ố, biết bao giờ có thể gột rửa được
Thuý Kiều là một cô gái sắc sảo, mặn mà, với đôi mắt trong trẻo như hồ nước mùa thu. Chắc chắn nàng sở hữu một trí tuệ thông minh, một tâm hồn nồng nhiệt, giàu tình yêu thương, một trái tim nhân hậu nhưng đa sầu đa cảm. Nàng kể với tôi rằng, nàng là chị cả trong gia đình họ Vương có ba chị em. Cha và em trai nàng bị triều đình bắt oan, để chuộc cha và em, nàng đã phải bán mình. Nào ngờ Mã Giám Sinh, người bảo mua nàng về làm vợ lại là kẻ dắt mối, buôn thịt bán người, đẩy nàng vào lầu xanh. Tú Bà buộc nàng tiếp khách, nàng đã rút dao tự vẫn nhưng không chết. Nàng bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, không biết rồi đây tương lai sẽ ra sao. Trước cảnh lầu Ngưng Bích, trơ trọi giữa không gian, xung quanh không một ngôi nhà, không một bóng người, chỉ có “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”, Kiều chỉ biết làm bạn với “non xa, trăng gần”. Nàng luôn thường trực nỗi lòng thương nhớ. Kiều nhớ Kim Trọng, nhớ buổi thề nguyền đính ước, hai người đã cùng uống chén rượu đồng tâm dưới trăng (dưới nguyệt chén đồng), cùng thề ước trọn đời chung thủy. Vậy mà, giờ đây kẻ “bên trời”, người “góc bể”, nàng hình dung Kim Trọng đang “rày trông mai chờ”, thật là uổng phí, hình dung Kim Trọng nhớ mình một cách vô vọng. Nàng nhớ về chàng Kim với tâm trạng vô vọng đau xót và tự cho rằng mình không xứng đáng với lòng mong nhớ ấy nữa. Nàng khóc: “Bên trời góc bể bơ vơ /Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Đó là tấm lòng chung thủy đối với Kim Trọng không bao giờ phai. Đó là tấm lòng son của nàng bị hoen ố, biết bao giờ có thể gột rửa được. Nghe nàng kể, tôi thật sự xúc động với nỗi lòng của nàng. Quả thật, nàng là người con gái thủy chung hiếm có. Nàng không nghĩ tới bản thân mà luôn lo lắng cho người khác. Nàng xót xa vì hình dung ra dáng hình cha mẹ “hôm mai”, “tựa cửa” ngóng chờ tin con, nàng xót xa vì lấy ai “quạt nồng ấp lạnh” cho cha mẹ. Tôi thật sự đồng cảm, thấu hiểu trái tim nàng. Tấm lòng hiếu thảo của Kiều thật cao quý! Tôi nhận ra trong nỗi lòng kia, trong ánh mắt kia một nỗi cô đơn, buồn tủi và hãi hùng trước hiện tại và tương lai. Nàng không nói nữa mà “buồn trông” ra xa, buồn mà trông đợi một điều gì đó. Ngoài xa kia là cửa bể lúc chiều hôm, cánh buồm cô đơn thấp thoáng. Là ngọn nước mênh mông với cánh hoa trôi man mác tựa như một cuộc đời trôi dạt. Nàng dõi mắt xa xăm nơi “chân mây mặt đất”, “nội cỏ rầu rầu”, không gian rộng lớn như tương lai mờ mịt của nàng. Nước mắt nàng lã chã rơi, nàng nói: Tựa hồ như tiếng sóng ầm ầm kêu quanh ghế ngồi, giông bão cuộc đời đang chực ập bao nhiêu thế lực đen tối đang vây quanh cuộc đời. Tôi sẽ về đâu. Nhìn giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt giai nhân, tôi thực sự hiểu thấu tâm trạng của nàng nhưng tôi không biết phải làm sao. Tôi im lặng. Chợt nghe tiếng “Cạch” như tiếng mở cửa làm vỡ tan sự yên tĩnh, tôi giật mình quay lại và … choàng tỉnh. Hóa ra, tôi đang mơ. Dù chỉ là một giấc mơ thôi, chuyện nàng Kiều đã là quá khứ rồi, sao lòng tôi vẫn day dứt khôn nguôi:
“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài bao mà lại lắm truân chuyên.”
P/S: Học tốt nha bạn <3
Cảm nhận về 8 câu thơ cuối của bài Kiều ở lầu Ngưng Bích.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Du không chỉ xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật mà còn là người có biệt tài miêu tả thiên nhiên, ngụ tâm tình, tình cảm của con người. Mỗi bức tranh dưới đôi bàn tay Nguyễn Du luôn luôn thực hiện hai chức năng chính: thể hiện ngoại cảnh và thể hiện tâm trạng. Tám câu thơ cuối trong bài "Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã cho thấy rõ biệt tài này của ông.
Sau khi bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều sống trong đau đớn, ê chề, với bản tính là con người trọng nhân phẩm, Kiều đã tìm đến cái chết để giải thoát nhưng không thành công. Thúy Kiều bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, chờ đến ngày thực hiện âm mưu mới. Những ngày ở lầu Ngưng Bích nàng sống trong đau đớn, tủi hổ, cô đơn, tuyệt vọng đến cùng cực.
Trong nỗi cô đơn, dường như ai cũng một lòng hướng về gia đình. Người con gái trong ca dao, dù lấy chồng, nhưng trong những khoảnh khắc ngày tàn vẫn tha thiết nhớ về quê mẹ:
Chiều về ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Huống chi là nàng Kiều, thân phận nổi trôi, bán mình cứu gia đình, thì nỗi nhớ gia đình lại càng da diết hơn bao giờ hết:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Không gian mênh mông của cửa bể kết hợp với hình ảnh thuyền thấp thoáng phía xa gợi lên không gian rợn ngợp, hoang vắng. Cánh buồm dường như trở nên nhỏ bé hơn trong không gian rộng lớn ấy. Thân phận nàng cũng chẳng khác gì cánh buồm kia, lênh đênh, nhỏ nhoi giữa cuộc đời bất định. Đồng thời ông cũng rất khéo léo lựa chọn thời gian cho nỗi nhớ, ấy là "chiều hôm". Trong văn học không gian buổi chiều thường gợi ra nỗi buồn man mác, ở đây trong hoàn cảnh của Kiều nỗi buồn ấy gắn với khát khao được sum họp, đoàn tụ, được trở về bên quê hương, gia đình.
Sau nỗi buồn tha hương, xa xứ, nàng nghĩ về thân phận mình mà lại càng đau lòng hơn: Buồn trông ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu? Hình ảnh ẩn dụ "hoa trôi" là biểu trưng cho thân phận của nàng Kiều. Ngọn nước mới sa kia có sức mạnh ghê gớm, là những giông bão, sóng gió trong cuộc đời đã vùi dập cuộc đời nàng. Những cánh hoa trôi man mác cũng như thân phận bé bỏng, mong manh của nàng. Cuộc đời nàng lênh đênh theo dòng đời, không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu. Câu hỏi tu từ "biết là về đâu" như một lời than, một lời ai oán cho số phận bất hạnh. Qua đó càng nhấn mạnh hơn nữa thân phận chìm nổi, bèo bọt của nàng.
Trong tác phẩm của Nguyễn Du, sắc xanh đã xuất hiện nhiều lần, mỗi lần xuất hiện đều mang ý nghĩa khác nhau. Nếu như trong đoạn trích Cảnh ngày xuân, sắc xanh tượng trưng cho sự sống, tươi tốt mơn mởn, thì trong đoạn trích này màu xanh lại mang một ý nghĩa khác: Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Nội cỏ chỉ mang một màu tàn lụi héo úa. Sắc xanh cũng nối chân trời mặt đất với nhau nhưng lại nhạt nhòa, đơn sắc. Tất cả những màu sắc đó hòa điệu với nhau càng khiến cho tâm trạng Kiều trở nên ngao ngán, chán nản hơn. Kiều nhìn ra bốn phía để tìm được sự đồng điệu, tìm sự sẻ chia. Vậy mà, khung cảnh chỉ càng làm nàng thêm u sầu, ảo não. Quả thực "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Dưới con mắt tuyệt vọng của nàng, khung cảnh nào cũng chỉ thấm đầy nỗi buồn chán, bế tắc và vô vọng. Điều đó càng đẩy Kiều rơi vào sâu hơn hố sâu của sự sầu muộn, tuyệt vọng.
Hai câu thơ cuối cùng có thể coi là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, sự hoang mang, rợn ngợp của Kiều đã được tác giả tập trung bút lực thể hiện rõ nhất trong hai câu thơ này:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Cảnh cuối thiên nhiên hiện ra thật dữ dội, đó không chỉ còn là ngoại cảnh mà còn là tâm cảnh, Kiều tưởng mình không còn ngồi ở lầu Ngưng Bích mà đang ngồi giữa biển khơi mênh mông, xung quanh là sóng biển gào thét như muốn nhấn chìm nàng xuống biển. Đặc biệt từ láy "ầm ầm" vừa diễn tả một khung cảnh khủng khiếp vừa diễn tả tâm trạng buồn lo, hoảng loạn của Thúy Kiều. Nàng đang dự cảm những giông bão của số phận, rồi đây sẽ nổi lên và nhấn chìm cuộc đời mình.
Đoạn thơ đã vận dụng tài tình nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mỗi cảnh là một tâm trạng, là một nỗi đau mà Kiều phải gánh chịu. Không chỉ vậy Nguyễn Du còn có sự miêu tả theo trình tự hợp lý: từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt nhòa đến đậm nét, khắc họa nỗi buồn da diết của Kiều. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, lớp từ láy giàu giá trị tạo hình và biểu cảm. Tất cả những yếu tố đó góp phần tạo nên thành công cho đoạn trích.
Tám câu thơ cuối, là một tuyệt tác của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Bằng những bức tranh đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa được những trạng thái xúc cảm, nỗi cô đơn, lo âu, sợ hãi về tương lai đầy sóng gió của nàng Kiều. Không chỉ vậy, qua bức tranh ấy, Nguyễn Du cho thể hiện niềm cảm thương sâu sắc cho số phận nàng nói riêng và số phận người phụ nữ nói chung dưới chế độ phong kiến.
Từ nội dung đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích và hiểu biết xã hội, hãy nêu suy nghĩ của em về sự hi sinh thầm lặng trong cuộc sống.
Câu trả lời của bạn
Đức hy sinh là một đức tính cao đẹp của dân tộc Việt Nam nói riêng và của toàn thế giới nói chung. Hy sinh là hành động sống vì người khác, không vì lợi ích riêng của bản thân, bằng sự yêu thương, quý trọng,…để làm cho người khác có cuộc sống tốt đẹp hơn, lấy đó làm niềm vui, làm động lực cho mình. Đức hy sinh được thể hiện ở nhiều thời điểm, nhiều nơi, nhiều khía cạnh khác nhau.
Có thể thấy trong các cuộc chiến tranh, sự hy sinh là vô cùng nhiều, được thể hiện ở các chiến sĩ vì lý tưởng cách mạng, vì tự do dân tộc đã lần lượt, nối tiếp nhau ngã xuống ở chiến trường bom đạn, các bà mẹ Việt Nam anh hùng đã hy sinh đứa con dứt ruột đẻ ra, không sợ hiểm nguy bảo vệ các chiến sĩ, đối mặt với giặc, với cái chết cũng vì một mục đích là hòa bình dân tộc,… Không chỉ trong thời chiến mà trong cuộc sống ngày nay, những thanh niên tình nguyện đã hy sinh bao giọt máu, bao bộ phận trên cơ thể,…để đổi lấy sự sống cho nhiều trẻ em, nhiều cụ già, mang lại hạnh phúc cho họ. Hay nhiều người, nhiều thế hệ hy sinh bản thân, trí tuệ để góp phần đưa đất nước phát triển. Trong mỗi gia đình, hình ảnh những người cha, người mẹ tần tảo sớm hôm, thức khuya dậy sớm, không quản khó nhọc gánh hàng ra chợ bán kiếm vài đồng bạc lẻ, gom góp đủ tiền để lo cho con cái ăn học, đầy đủ mọi thứ bằng bạn, bàng bè, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, giữa trưa nắng gắt mà vẫn cặm cụi ngoài đồng chỉ để kiếm bát cơm, manh áo cho con, mong con được lo đủ. Những người anh, người chị sẵn sàng nghĩ học để có tiền cho em được đến trường, tất cả những sự hy sinh của cha mẹ, anh chị,…thật cao cả biết bao. Đức hy sinh là một đức tính vô cùng cao đẹp, nó giúp cho xã hội ngày càng tốt đẹp, quan hệ giữa con người với con người trở lên gắn bó, khăng khít hơn, qua đó còn thể hiện sự quan tâm, lòng yêu thương với người được ta hy sinh, thể hiện sự cao thượng, vĩ đại của bản thân mình.
Hy sinh là một hành động cao cả, vì vậy mà chúng ta phải biết trân trọng sự hy sinh mà người khác dành cho mình, bên cạnh đó còn phải biết sống hy sinh vì người khác, không được ích kỷ, vô tâm. Là học sinh, được sống trong sự bao bọc, che chở của gia đình và xã hội, chúng ta phải quý trọng tình cảm của mọi người dành cho ta, phải biết sống cho người khác, sống vì người khác, có như vậy thì ta mới đền đáp lại được sựu hy sinh cao cả mà người khác đã dành cho mình. Hãy biết hy sinh lợi ích riêng vì xã hội, vì mọi người các bạn nhé!
Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động.
Câu trả lời của bạn
Sau khi Kiều bị Mã Giám Sinh lừa gạt, nàng rơi vào nanh vuốt của mụ Tú Bà bán thịt buôn người. Hiểu ra tình cảnh nhục nhã, éo le của mình. Kiều đã liều tự sát. Sợ bị mất món lời to, Tú Bà hoảng hốt vội cứu sống Kiều và tạm cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích, với lời hứa sẽ gả chồng tử tế cho nàng. Trong những ngày này, Kiều sống trong tâm trạng khôn xiết buồn bã, đau đớn. Bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã vẽ nên cảnh Kiều ở lầu Ngưng Bích thành một bức tranh tâm tình đầy xúc động:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
…………………………………..
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Đoạn trích trên nói lên tâm trạng nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích: Buồn tủi, thương nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, xót thương thân phận cay đắng của mình.
Đoạn thơ là một minh chứng cho quan điểm: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của thi hào Nguyễn Du. Cảnh vật thiên nhiên ở đây bị bao phủ một nỗi buồn trĩu nặng bởi Kiều nhìn cảnh bằng cặp mắt u uất, đau thương. Nỗi buồn tơ lòng người thấm vào cảnh vật và cảnh vật hoang vắng, đìu hiu càng gợi mối sầu trong lòng người con gái bất hạnh là Kiều.
Đang sống trong không khí ấm êm, đùm bọc của gia đình; đang say sưa hạnh phúc với mối tình đầu ngọt ngào, trong sáng, Kiều bỗng dưng bị rơi vào cạm bẫy của cuộc đời. Nàng bị lừa gạt trắng trợn, bị đánh đập dã man, bị xúc phạm đến phẩm hạnh. Bao tai biến dồn dập đến với nàng trong một thời gian quá ngắn. Cả thể xác lẫn tâm hồn nàng bị những thế lực đen tối giày xéo, chà đạp không thương tiếc. Giờ đây, một mình ngồi trước lầu Ngưng Bích, giữa chốn đất khách quê người, Kiều hoàn toàn cô đơn, không một người thân thích để chia sẻ tâm sự đau thương. Bởi vậy, nỗi buồn đau càng lớn, càng sâu. Thúy Kiều chỉ còn biết san sẻ nỗi lòng cùng cảnh vật quanh nàng.
Sáu câu đầu là cảnh lầu Ngưng Bích. Cảnh được tác giả vẽ lên bằng những nét chấm phá: Vẻ non xa, tấm trăng gần, bốn bề bát ngát, cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Cảnh đẹp, nhưng thật buồn, mênh mông hoang vắng, lạnh lẽo. Nguyễn Du đã mượn cảnh để nói lên tâm trạng nàng Kiều:
Trước lầu Ngưng Bích khóa son,
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.
Cha mẹ, các em, người yêu,... tất cả đã xa xôi, cách biệt với Kiều. Sống giữa một lũ mặt người dạ thú như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Kiều chẳng khác gì một chú cừu non giữa bầy lang sói. Có ai hiểu nỗi lòng nàng trong tình huống này? Nhìn một dáng núi xa, ngắm một vầng trăng gần, nàng cảm thấy đó là bè bạn. Nhưng những những người bạn không lời này đâu có an ủi, chia sẻ được nỗi buồn đang chất ngất trong lòng nàng? Bởi thế, nỗi buồn không thể nào vơi cạn.
Dõi tầm mắt ra bốn phương, tám hướng, không hướng nào lóe lên được một chút vui:
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Không một bóng người, chỉ có không gian mênh mông, hoang vắng và buồn tẻ. Ướm vào thân phận nàng, nàng nào có khác chi hạt cát, hạt bụi nhỏ nhoi kia? Giữa người với cảnh vừa có nét tương phản, vừa có nét tương đồng. Nỗi buồn của Kiều dường như cũng mở ra đến vô cùng như không gian bát ngát trước mắt nàng. Càng cảm thương cho thân phận, cõi lòng nàng càng tan nát:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Cảnh buồn hay gợi nhớ. Kiều lặng lẽ, âm thầm gạt lệ khi hồi tưởng về bao điều tốt đẹp nay đã thành quá khứ.
Nàng nhớ người yêu cùng với mối tình đầu mãnh liệt và trong sáng:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Hình ảnh hai người cùng uống chén rượu thề trăm năm gắn bó đêm nào dưới vầng trăng vằng vặc giữa trời giờ vẫn còn đậm nét, tươi nguyên trong kí ức nàng. Nàng thương chàng Kim giờ này đang sốt ruột chờ trông tin tức người yêu. Nghĩ về cha mẹ, lòng Kiều xót xa, đau đớn:
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai biết mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Nàng đã đi xa biền biệt, lấy ai chăm sóc mẹ cha? Tuy đã cố dứt chữ tình để đền chữ hiếu nhưng nàng vẫn không khỏi băn khoăn, thổn thức khi nghĩ đến cảnh cha già mẹ yếu tựa cửa hôm mai, mòn mỏi đợi mong con trong vô vọng. Điều đó càng khẳng định rõ nàng là người con hiếu thảo.
Mang một tâm trạng như thế nên Kiều nhìn đâu cũng chỉ thấy buồn:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây, mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Bốn lần, từ "buồn trông” được nhắc lại; mỗi lần mở đầu cho một cảnh. Kiểu kết cấu lặp này gây ấn tượng mạnh về nỗi buồn sâu sắc của Kiều. Tám câu thơ, bốn bức tranh phong cảnh nhỏ trong một bức tranh phong cảnh - tâm tình rộng lớn. Bức thứ nhất: “cửa bể chiều hôm” mênh mông màu xám bạc. Trên cái nền ấy nổi lên một cánh buồm đơn độc, thấp thoáng ẩn hiện, không biết về phương trời nào. Bức thứ hai: “Ngọn nước mới sa” (nước đổ từ trên cao xuống), cuốn theo những cánh hoa bị sóng gió dập vùi, đẩy đưa vào cõi vô định. Bức thứ ba: “Nội cỏ rầu rầu”, héo úa, không còn sức sống. Bức thứ tư: “Gió cuốn mặt duềnh, ầm ầm tiếng sóng...”
Chúng ta bắt gặp ở đây bút pháp quen thuộc của Nguyễn Du. Cảnh vật chỉ mang tính ước lệ nhưng phản ánh rõ tình người, cụ thể là nỗi buồn không giới hạn của Kiều. Mỗi cảnh ngụ một ý, tăng dần lên theo suy nghĩ và mặc cảm về thân phận con người: Lẻ loi, cô độc, trôi nổi, dập vùi, héo tàn và linh tính báo trước về một tương lai đen tối đầy bão tố.
Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, thi hào Nguyễn Du tỏ ra rất tài hoa trong việc tả cảnh, tả tâm lí nhân vật. Ngòi bút của ông đi sâu vào từng ngõ ngách tâm tư sâu kín của nàng Kiều, khiến người đọc thực sự xúc động, xót xa cho số phận bất hạnh của người con gái tài sắc ấy. Cảnh và tình cứ đan xen, hòa quyện, bổ sung ý nghĩa cho nhau, làm nổi bật chủ đề của đoạn trích. Có thể nói, đây là một trong những đoạn hay nhất trong Truyện Kiều.
Câu trả lời của bạn
Nội dung đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện được nỗi niềm đồng cảm sâu sắc với con người.
Nguyễn Du đã diễn tả rất tinh tế tâm trạng của Thúy Kiều khi nàng ở lầu Ngưng Bích.
Trích đoạn thơ “Buồn trông... ghế ngồi”.
Giới thiệu hoàn cảnh của Thúy Kiều:
Thúy Kiều là cô gái tài sắc vẹn toàn, đa sầu, đa cảm.
Khi gia đình gặp tai họa... nàng đã bán mình chuộc cha... khi bị vào lầu xanh, nàng đã không chịu tiếp khách và tìm cách bỏ trốn -> nàng bị Tú Bà bắt lại và đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích -> thực chất là giam lỏng nàng.
Tâm trạng của Thúy Kiều:
Trước lầu Ngưng Bích nhìn ra xa Thúy Kiều thấy: “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.
Từ láy thấp thoáng, xa xa. Đại từ phiếm chỉ “ai”.. Cửa bể buổi chiều -> thời gian gợi buồn. Một cánh buồm nhỏ bé trong cửa bể rộng lớn -> hoang vắng mênh mông buồn tẻ chính là hình ảnh ẩn dụ về cuộc sống lẻ loi đơn chiếc của nàng Kiều, cũng lênh đênh không biết đâu là bến bờ (thuyền trôi vô định, thấp thoáng > số phận mong manh).
Nhìn gần hơn nàng thấy: “hoa trôi man mác biết là về đâu”.
Từ láy: man mác, câu hỏi tu từ về đâu? khiến Thúy Kiều nghĩ về thân phận mình mỏng manh, yêu đuối như cánh hoa mặc cho dòng đời xô đẩy, biết trôi dạt về đâu.
Không chỉ có hoa trôi trên mặt nước, nàng còn nhìn thấy ngọn cỏ rầu rầu... Cỏ trong đôi mắt của Thúv Kiều “rầu rầu” tàn lụi và héo úa. Tác giả tả màu xanh của cỏ tiếp nối màu xanh của bầu trời... xanh xanh đang bị nhòe đi, pha lẫn vào nhau và có phần đơn điệu -> tâm trạng buồn rầu của Kiều.
Cuối cùng nàng còn lắng nghe và cảm nhận “Buồn trông gió cuốn... ầm ầm... kêu quanh ghế ngồi”. Gió cuốn -> mặt biển nổi sóng ập đến ầm ầm chính là dự cảm về những sóng gió sắp ập đến cuộc đời nàng.
Tám câu lục bát chia thành 4 cặp, mỗi cặp đều bắt đầu bàng từ buồn trông từ xa tới gần, cao tới thấp... diễn tả tâm trạng buồn đau của Thúy Kiều.
Đoạn trích có sức gợi cảm mạnh mẽ bởi Nguyễn Du đã dùng điệp từ, từ láy, hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc.
Diễn tả thành công tâm trạng Thúy Kiều chứng tỏ Nguyễn Du thấu hiểu, đồng cảm sâu sắc với tâm tư, số phận của con người.
Câu trả lời của bạn
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *