Qua bài học các em cần hiểu rõ đoạn thơ Cảnh ngày xuân là bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng được gợi lên qua từ ngữ, bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình của Nguyên Du.
→ Bút pháp miêu tả, gợi, sử dụng những từ ngữ giàu chất tạo hình cảnh ngày hiện ra mới mẻ, tinh khôi và tràn đầy sức sống với những đặc điểm riêng.
⇒ Dùng các từ ghép liên tiếp, từ Hán Việt, từ láy, phép ẩn dụ gợi tả không khí cảnh hội mùa xuân rộn ràng, náo nức, vui tươi cùng những nghi thức trang nghiêm mang tính chất truyền thống của người Việt tưởng nhớ đến người đã khuất.
⇒ Bâng khuâng xao xuyến, lặng buồn về một ngày chơi xuân đang còn mà sự linh cảm về điều sắp xảy ra xuất hiện.
Đề: Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
a. Bốn câu thơ đầu: Gợi tả khung cảnh ngày xuân
b. Tám câu thơ tiếp theo: Gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.
c. Sáu câu thơ cuối: Cảnh tan hội lúc chiều ta.
3. Kết bài
Cảnh ngày xuân là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Với bài soạn tóm tắt đoạn trích, các em sẽ thấy được một bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ với những cánh én bay liệng, cỏ non xanh rợn trải dài đến chân trời hiện ra qua ngòi bút tài tình của Nguyễn Du. Để nắm được toàn bộ những nội dung và nghệ thuật của đoạn trích, các em có thể tham khảo thêm: Bài soạn Cảnh ngày xuân.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Cảnh ngày xuân là đoạn trích sau phần giới thiệu gia thế nhà Thúy Kiều. Với đề bài Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân, các em sẽ cảm nhận được bức tranh mùa xuân với những hình ảnh của chim én liệng, của cỏ non xanh tận chân trời cùng hình ảnh đi hội vui tươi trong tiết thanh minh của chị em nhà Thúy Kiều. Bên cạnh bài soạn, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Đóng vai Thúy Kiều kể lại đoạn trích Cảnh ngày xuân
- Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân
- Cảm nhận sáu câu thơ cuối đoạn trích Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du
- Cảm nhận bốn câu thơ đầu đoạn trích Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du
- Cảm nhận về đoạn trích Cảnh ngày xuân
- Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du
- Cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong đoạn trích Cảnh ngày xuân
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Thuyết minh đoạn trích "Cảnh ngày xuân" của Nguyễn Du.
Câu trả lời của bạn
Tuyệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du không chỉ mang những giá trị xã hội sâu sắc mà còn làm say lòng người đọc ở những đoạn thơ tả cảnh tuyệt bút. Một trong số đó là đoạn trích “Cảnh ngày xuân” (trích Truyện Kiều, sách Ngữ văn 9, tập một - NXB Giáo dục, 2008).
Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm. Vào ngày Tết Thanh minh, chị em Thúy Kiều đi tảo mộ. Thiên nhiên và con người ngày xuân hiện lên tươi tắn, xinh đẹp đông vui nhộn nhịp dưới đôi mắt “xanh non biếc rờn” của những chàng trai, cô gái tuổi đôi tám.
Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng:
“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quan chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”…
Không gian mùa xuân được gợi nên bởi những hình ảnh những cánh én đang bay lượn rập rờn như thoi đưa. Sự mạnh mẽ, khỏe khắn của những nhịp cánh bay cho thấy rằng mùa xuân đang độ viên mãn tròn đầy nhất. Quả có vậy: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” có nghĩa là những ngày xuân tươi đẹp đã qua đi được sáu chục ngày rồi, như vậy bây giờ đang là thời điểm tháng ba.
Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được hoạ nên bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra bao la: “Cỏ non xanh tận chân trời”, sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn mềm mượt êm ái. Huống chi cái sắc ấy trải ra “tận chân trời” khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Có lẽ chính hình ảnh gợi cảm ấy đã gợi ý cho Hàn Mặc Tử hơn một thế kỉ sau viết nên câu thơ tuyệt bút này: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Trên nền xanh tươi, trong trẻo ấy điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ là “vài bông” bởi những bông hoa lê đang thì chúm chím chưa muốn nở hết. Hoa như xuân thì người thiếu nữ còn đang e ấp trong ngày xuân. Chữ điểm có tác dụng gợi vẻ sinh động, hài hoà. ở đây, tác giả sử dụng bút pháp hội hoạ phương Đông, đó là bút pháp chấm phá.
Hai câu thơ tả thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du có thể khiến ai đó liên tưởng đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: hương thơm của cỏ non, màu xanh mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cành lê có điểm một vài bông hoa. Nhưng cảnh trong hai câu thơ này đẹp mà tĩnh tại. Trong khi đó gam màu nền cho bức tranh mùa xuân trong hai câu thơ của Nguyễn Du là thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời. Trên cái màu xanh của cỏ non ấy điểm xuyết một vài bông lê trắng (câu thơ cổ Trung Quốc không nói tới màu sắc của hoa lê). Sắc trắng của hoa lê hoà hợp cùng màu xanh non mỡ màng của cỏ chính là nét riêng trong hai câu thơ của Nguyễn Du. Nói gợi được nhiều hơn về xuân: vừa mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống lại vừa khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết.
Thiên nhiên trong sáng, tươi tắn và đầy sức sống, con người cũng rộn ràng, nhộn nhịp để góp phần vào những chuyển biến kì diệu của đất trời.
Sáu câu thơ tiếp của bài thơ tái hiện phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh) trong tiết Thanh minh. Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bởi hàng loạt các từ ghép tính từ, danh từ, động từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức. Chúng được đặt cạnh nhau dồn dập gợi nên không khí đông đúc, vui tươi sôi nổi. Đó không chỉ là không khí lễ hội mà còn mang đậm màu sắc tươi tắn, trẻ trung của tuổi trẻ:
“Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”.
Nhưng hội họp rồi hội phải tan. Sau những giây phút sôi nổi, chị em Thúy Kiều phải rời buổi du xuân trở về:
“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang” …
Bên cạnh vẻ thanh thoát, dịu nhẹ của mùa xuân như ở những câu thơ trước, khung cảnh mùa xuân đến đây đã mang một sắc thái khác với bức tranh lễ hội rộn ràng, nhộn nhịp. Cảnh vật toát lên vẻ vương vấn khi cuộc du xuân đã hết. Các từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ vừa gợi tả sắc thái cảnh vật vừa gợi ra tâm trạng con người. Dường như có cái gì đó đang mơ hồ xâm lấn, cảnh vật đã nhuốm sắc thái vương vấn, man mác của tâm trạng con người, ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để mượn cảnh vật mà diễn tả những rung động tinh tế trong tâm hồn những người , thiếu nữ. Những từ láy được sử dụng trong đoạn thơ đểu là những từ láy có tính giảm nhẹ. “Tà tà” diễn tả bóng chiều đang từ từ nghiêng xuống; “thơ thẩn” lại diễn tả tâm trạng bâng khuâng dịu nhẹ không rõ nguyên nhân (nó gần với nỗi buồn “tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” của Xuân Diệu sau này) “thanh thanh” vừa có ý nghĩa là sắc xanh nhẹ nhàng vừa có ý nghĩa là thanh thoát, thanh mảnh; từ “nao nao” trong câu thơ diễn tả thế chảy của dòng nước nhưng đồng thời diễn tả tâm trạng nao nao buồn và từ “nho nhỏ” gợi dáng nhỏ xinh xắn, vừa vặn với cảnh với tình. Khung cảnh thiên nhiên cũng theo đó mà nhỏ đi để phù hợp với tâm trạng con người: “ngọn tiểu khê” - dòng suối nhỏ, phong-cảnh thanh thoát, dịp cầu “nho nhỏ” lại nằm ở “cuối ghềnh” ở phía xa xa,... Cảnh và người như có sự tương liên để giao hòa trong bầu không khí bâng khuâng, lưu luyến, khe khẽ sầu lay. Có thể mớ hồ cảm nhận được cảnh vật đang tạo ra dự cảm về những sự việc sắp xảy ra.
Đoạn trích Cảnh ngày xuân có bố cục cân đối, hợp lí. Mặc dù không thật rõ ràng nhưng cũng có thể nói đến kết cấu ba phần: mở đầu, diễn biến và kết thúc. Nguyễn Du đã cho thấy một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên điêu luyện, sắc sảo. Trong đoạn trích, mặc dù chủ yếu là miêu tả cảnh ngày xuân nhưng vẫn thấy sự kết hợp với biểu cảm và tự sự (diễn biến cuộc tảo mộ, du xuân của chị em Thúy Kiều, dự báo sự việc sắp xảy ra).
“Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức tranh thiên nhiên trong sáng vô ngần mà còn cảm nhận được vẻ đẹp trong một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông: tiết Thanh minh. Và qua đây, Nguyễn Du cũng thể hiện nét tài hoa trong việc dựng lên một bức tranh tả cảnh ngụ tình tinh tế,... Với những điều đó, “Cảnh ngày xuân” sẽ luôn sống lại trong lòng người yêu thơ vào mỗi dịp đầu năm khi chúa xuân về với đất trời.
Bức tranh lễ hội trong đoạn trích Cảnh ngày xuân.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Du không chỉ là bậc thầy về ngôn ngữ trong việc miêu tả tâm lý nhân vật mà còn là “họa sĩ” vẽ tranh bằng chữ. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” trích Truyện Kiều là một ví dụ điển hình. Người đọc phải khâm phục và ngưỡng mộ khả năng quan sát cũng như những nét vẽ tài hoa của Nguyễn Du. Bức tranh ngày xuân hiện lên với những nét đẹp tươi mới, tràn đầy sức sống nhất.
Có thể nói mùa xuân là đề tài bất tận trong thi ca, khơi nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ. Mỗi người có một cảm nhận riêng về mùa xuân. Đối với Nguyễn Du, mùa xuân gắn với cảnh vật và con người, với những ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bao trùm lên cả đoạn thơ này là một bức tranh thiên nhiên đẹp, hữu tình nhưng có nhuốm màu buồn khi ngày đã ngả về chiều hôm.
Những câu thơ đầu được sử dụng với chất liệu ngôn ngữ đẹp như tranh, sự mượt mà của câu chữ đã tạo nên sự mượt mà của cảnh sắc thiên nhiên khi xuân về:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Một không gian đầy chất thơ, thi vị và hữu tình biết bao nhiêu. Sự rộng lớn của đất trời khi mùa xuân về được diễn tả một cách tinh tế và tràn ngập niềm vui. Cánh én chính là báo hiệu cho mùa xuân về, một mùa gợi lên sự ấm áp, sự sống căng đầy và niềm vui trọn vẹn. Với từ ngữ “đưa thoi” vừa gợi lên khung cảnh bầu trời tràn ngập cánh én, vừa diễn tả sự trôi đi quá nhanh của thời gian. Có phải chăng ý niệm về thời gian của Nguyễn Du có phần giống với Xuân Diệu, thời gian trôi đi nhanh, mùa xuân và tuổi trẻ cũng trở nên chông chênh hơn. Đồng nghĩa với thời gian trôi đi, tuổi trẻ trôi đi thì đời người bỗng nhiên ngắn lại.
Trong lúc đấy, chỉ với hai nét vẽ Nguyễn Du như vẽ lên trang giấy một bức tranh thiên nhiên mùa xuân đẹp tuyệt vời. Nghệ thuật điểm xuyết chấm phá đã được sử dụng dứt điểm, khiến cho câu thơ trở nên mềm mại và căng tràn sức sống hơn. Màu xanh của cỏ non tạo nên sự tươi mới và tinh khiết của đất trời. Từ “rợn” vừa tả cái xa, vừa gợi cái rộng lớn của mùa xuân, của cảnh vật khi xuân về. Nó làm cho câu thơ như được ngân dài ra, bứng sang lên sức sống tràn đầy Trên nền xanh của cỏ, của bầu trời có điểm xuyết “một vài bông hoa” trắng tinh khiết. Chính sự điểm xuyết này khiến cho cả bài thơ như bừng lên một sức sống mãnh liệt, khó có thể dập tắt.
Có thể nói với chỉ 4 câu thơ này, Nguyễn Du như người họa sĩ tài hoa vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, có sự giao thoa và hòa quyện giữa đất và trời. Không khí mùa xuân, hương sắc mùa xuân và cả ý vị mùa xuân cứ thế tràn ra trong từng câu thơ đẹp như vậy.
Không khí mùa xuân như tươi đẹp hơn với lễ hội tảo mộ tháng Ba:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Có lẽ không khí vui tươi, tưng bừng, phấn khởi của con người trong dịp đi tảo mộ thật sự khiến cho người đọc như sống lại với không khí những ngày xuân tươi mới nhất. Con người cũng hiện lên như tô điểm thêm bức tranh ngày xuân tươi đẹp đó
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Mùa xuân là dịp để “tài tử giai nhân” được vui chơi, giãi bày tâm sự với nhau. Có vẻ như mùa xuân là thời điểm thích hợp cho chuyện tình yêu nảy nở, cho những yêu thương còn bỏ ngỏ được phép căng trào ra. Hình ảnh “ngựa xe”, “áo quần” gợi lên sự tấp nập, nhộn nhịp và huyên náo. Nguyễn Du đã rất tài tình khi sử dụng một loạt hình ảnh có tính chất gợi hình, ảnh tả khiến cho người đọc có cảm giác như đang bước vào không khí của mùa xuân.
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay
Những phong tục tập quán khi mùa xuân về, khi được đi tảo mộ đã được Nguyễn Du vẽ lên chân chất, mộc mạ, gợi nhớ và gợi thương. Đó chính là tấm lòng thành kính hướng về quá khứ với một sự biết ơn chân thành nhất. Hai câu thơ này thực sự khiến người đọc xúc động khi nhớ về những người đã khuất, những người tạo dựng nên cuộc sống hiện nay của chúng ta.
Tuy nhiên những câu thơ cuối dường như cảnh vật và con người trở nên buồn vã và đìu hiu hơn:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn phong khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nhịp thơ trở nên nhẹ nhàng, trầm bổng khiến cho tâm trạng của con người trở nên nặng nề và buồn rầu hơn. Với từ láy “tà tà” đã phần nào gợi tả thời gian đã xế chiều và không gian dường như tĩnh mịch và ảm đạm hơn. Mỗi bước chân cũng trở nên nặng nề hơn khi màn đêm sắp buông xuống, con người cũng cảm nhận được một nỗi buồn nào đó len vào trong trái tim. Tâm sự của con người như nhuốm vào cảnh sắc thiên nhiên, khiến cho nó trở nên tiêu điều và xơ xác hơn.
Có thể nói dù cảnh trong thơ Nguyễn Du buồn hay vui thì vẫn mang phong vị riêng của nhà thơ. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một ví dụ điển hình như thế. Bức tranh ngày xuân vui tươi, rộn rang, náo nức và có chút buồn phiền được Nguyễn Du khắc họa thành công với sự cảm nhận tinh tế cũng như sự tài hoa trong cách dụng công xây dựng ngôn ngữ.
Qua đoạn trích Cảnh ngày xuân, hãy trình bày suy nghĩ về tuổi xuân.
Câu trả lời của bạn
Thanh xuân là khoảng thời gian tươi đẹp nhất, vui vẻ nhất mà mỗi người có được. Đó là một đoạn của cuộc đời mà ta đã sống hết mình, hăng hái, nhiệt huyết nhất của tuổi trẻ và cũng là đoạn thời gian không thể nào quên của ta. Thanh xuân là thời gian, mà thời gian thì luôn muốn bỏ rơi con người, chỉ cần ta loay hoay với suy nghĩ thì thời gian đã trôi xa rồi.
Thanh xuân của tôi gắn liền với trường học, thầy cô, bạn bè, với những vui buồn nắng mưa và cả những rung động học trò ngây thơ. Là học sinh cuối cấp, thanh xuân đối với tôi chỉ là con đường từ nhà đến trường và từ trường về nhà, là đóng bài vở to đùng. Lúc ấy tôi thấy thật nhàm chán, muốn thời gian trôi thật nhanh đi. Nhưng đến khi sắp phải xa ngôi trường này tôi mới phát hiện nó quan trọng thế nào. Những điều mà tôi cho là nhàm chán đã trở thành những kỉ niệm khó quên và tôi sẽ không quê đi chúng. Nhớ những giờ ra chơi vui vẻ trò chuyện cùng các bạn, nhớ đến ngày 8-3 mà các bạn nam không tặng quà, nhớ đến con bạn cùng bàn, nhớ đứa cùng tổ hay những lần ngủ gục trong lớp, tôi nhớ tất cả… tất cả các bạn. Khi đi xa, cái bàn cái ghế cũng trở nên lưu luyến ta, những vật dụng ta dùng hằng ngày nay phải chia xa. Những thứ ấy ta đã trao tình cảm cho chúng lúc nào không hay. Tôi nhớ ngày hội thao của trường, lớp rất đoàn kết, chơi rất hay và giành rất nhiều giải thưởng. Thanh xuân vui nhất là được đến trường, được học và vui chơi cùng các bạn.
Đối với tôi, thanh xuân còn là vấn vương những câu chuyện tình học trò ngu ngơ. Lớp tôi rất thích ghép đôi, đặt biệt là cho tôi. Lớp rất ít nam nhưng hình như tôi "phải thích" gần hết lớp rồi. Đúng thật tôi có thích một bạn nam những bị bọn lớp chọc ghẹo mãi khiến chúng tôi càng tránh mặt nhau và đã không nói chuyện với nhau nữa. Bọn lớp rất đáng yêu, cứ vài ngày là xin lỗi vì đã làm lỡ duyên của tôi. Tôi thấy rất tức cười, tôi biết đó chỉ là rung động thôi vì vài ngày sau là tôi thích người khác rồi nhưng lớp tôi vẫn cứ tự trách trông rất đáng thương.
Dựa vào đoạn trích ''Cảnh ngày xuân" kể lại chuyến du xuân của chị em Thúy Kiều.
Câu trả lời của bạn
Nhà viên ngoại họ Vương có hai người con gái xinh đẹp, yêu kiều và đều đang ở độ tuổi thanh xuân. Người em là Thúy Vân, mang một vẻ đẹp nhân hậu, trang trọng. Người chị là Thúy Kiều lại sắc sảo, mặn mà, so bề tài sắc lại là phần hơn. Mỗi người một vẻ, đều mang vẻ đẹp lý tưởng, hoàn thiện trong chân dung và toàn mỹ trong phẩm hạnh.
Nhân dịp Tết thanh minh, hai chị em Kiều rủ nhau đi chơi xuân. Ngày xuân trôi qua mau như con thoi dệt cửi, thắm thoắt đã sang tháng ba. Tiết xuân ấm áp, đã không còn cái oi bức của mùa hè, cái se lạnh của mùa thu hay giá buốt của mùa đông. Trong tháng này, những cánh én vẫn rộn ràng bay liệng giữa bầu trời rộng bao la, mang theo cái hơi ấm của mùa xuân. Ẩn nấp dưới không gian đầy khoáng đạt, trong trẻo, những tia sáng tuyệt đẹp, diệu kì của mùa xuân như đang tỏa ánh hào quang rực rỡ bao trùm vạn vật. Dù mùa xuân đã trôi qua hơn sáu mươi ngày nhưng ánh sáng ấy vẫn mạnh mẽ, kiên trì tỏa một sự bình yên, ấm áp đến lạ kỳ. Trên nền không gian ấy, nổi bật lên một bức họa tuyệt đẹp về những thảm cỏ non xanh tươi, được mẹ thiên nhiên ban tặng một sức sống mãnh liệt. Màu xanh óng chuối, mỡ màng như đang vận động, cựa quậy để tuôn trào sức sống vào bầu trời xanh thẳm, rộng đến khôn cùng. Những thảm cỏ nối đuôi nhau bạt ngàn, trải rộng tựa như một cây cầu vĩ đại nối liền mặt đất với bầu trời, cùng hòa hợp để tận hưởng cái không khí tươi vui của mùa xuân. Sắc xanh của bầu trời và sắc xanh của cỏ cây như vẽ vào trong lòng người một bức tranh xuân ngọt ngào, rực rỡ sắc màu. Trong không gian rộng lớn ấy, điểm suốt một màu trắng thuần khiết của những bông hoa lê rung rinh trước gió. Đó là sắc trắng – sức sống của mùa xuân khiến con người như thấy được mầm sống đang cựa quậy, bừng tỉnh sau một giấc ngủ đông dài. Màu trắng là biểu tượng của sự tinh khôi, trong trẻo, nếu thiếu đi nó thì mùa xuân sẽ không còn cái thanh mát, dịu nhẹ như trước. Màu trắng ấy lại tô điểm cho bức tranh xuân. Sự hòa quyện giữa xanh và trắng khiến cho bức tranh như được mở ra với chiều cao của bầu trời, chiều rộng của những bãi cỏ xanh và được thu gần trên một cành hoa lê mới nở. Trước một cảnh đẹp nên thơ ấy, lòng người sao không khỏi xao xuyến. Mở lòng mình theo âm hưởng du dương của mùa xuân, sức xuân thiên nhiên như gọi dậy sức xuân của lòng người.
Cùng với nhịp bước của mùa xuân, hai chị em Thúy Kiều cũng hòa vào dòng mình đi lễ, trảy hội. Trong tiết thanh minh, mọi người đi tảo mộ, viếng và sửa sang phần mộ của người thân. Không khí đông vui, rộn ràng như thêm phần náo nhiệt khi đoàn người trảy hội đều là những “tài tử giai nhân”, nam thanh nữ tú. Trên con đường nhỏ, ngựa xe đi lại tấp nập, ai cũng muốn trong tiết trời xuân ấm áp dành thời gian để nhớ về tiên nhân, tri ân những công lao của người đã khuất. Những nén hương được thắp lên, những thoi vàng, tiền giấy được rắc ra như những cây cầu nối liền giữa âm và dương để nhắc nhở con cháu không bao giờ được quên quá khứ, nguồn cội của mình. Đó là một truyền thống tốt đẹp của ông cha ta từ ngàn đời nay.
Thời gian trôi đi, mặt trời dần ngả về phía tây, hoàng hôn đã bảng lảng khắp đất trời. Chị em Thúy Kiều cùng nhau trở về nhà. Ánh nắng hồng ban mai của buổi sáng đã nhường chỗ cho những tia sáng yếu ớt để lại trên những cành cây muôn vệt nắng mờ. Hai chị em bước đi thật chậm, nhẹ nhàng, thướt tha, yêu kiều như vẫn còn luyến tiếc cho một ngày du xuân. Trong buổi hoàng hôn, thay cho sự rộn ràng, nhộn nhịp của ban ngày là một không khí bình yên, êm ả đến nao lòng. Hai chị em bước đi trên con đường men theo một dòng suối nhỏ, uốn mình như dải lụa. Cuối ghềnh là một cây cầu vắt ngang như một nét thơ tạc vào đất trời.
Khung cảnh chiều xuân man mác một nỗi u buồn, nhuốm một chút nhạt phai. Thúy Kiều thấy lòng mình xôn xao, tĩnh lặng lại trong những suy nghĩ, thương cảm trước một tấm mồ vô chủ. Cuộc du xuân với nàng không chỉ đơn giản là ngắm nhìn đất trời, thu vào lòng mình cái tình với thiên nhiên mà còn là mở lòng ra đón lấy những âm thanh trong trẻo của tình yêu, xao xuyến trong tình thương người…
Phân tích 12 câu thơ đầu trong đoạn trích Cảnh ngày xuân.
Câu trả lời của bạn
Trong nền văn học Việt Nam, hiếm có một tác phẩm nào nhận được nhiều sự ngưỡng vọng như Truyện Kiều. Người ta ngưỡng vọng bởi giá trị tư tưởng, cách xây dựng nhân vật, cách miêu tả tâm lý và cách miêu tả bức tranh thiên nhiên vô cùng sống động mà Nguyễn Du đã vận dụng bút lực đưa vào tác phẩm. Trong 12 câu thơ đầu trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” có thể coi là một trong những đoạn thơ hay nhất khi vẽ nên bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, náo nhiệt.
Ngay từ những câu thơ đầu tiên, thi nhân không chỉ gợi tả thời gian ngày xuân mà còn gợi tả cả không gian bừng sáng trong khí trời thanh tân những ngày đầu năm mới:
“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.”
Nghệ thuật hoán dụ kết hợp với bút pháp chấm phá, vừa gợi ảnh mà lại vừa gợi tình. Bức tranh xuân được Nguyễn Du miêu tả không hề tĩnh lặng mà lại rất sống động bởi hình ảnh “con én đưa thoi”. Trước hết, hình ảnh này là hình ảnh tả thực, cũng giống như hoa cúc là đặc trưng của mùa thu, khi nhắc đến những cánh chim én là người ta nghĩ ngay đến tiết trời mùa xuân mát mẻ. Vào những ngày cuối xuân, những cánh chim chao liệng giữa nền trời như tận hưởng trọn vẹn khoảng thời gian đẹp nhất trong năm. Những cánh chim không ngừng chao liệng tựa như con thoi trên khung dệt ẩn dụ chỉ thời gian trôi qua nhanh chóng. Thoắt cái “đã ngoài sáu mươi”, nghĩa là ánh sáng ấm áp của ngày xuân đang trong những ngày cuối cùng còn vương lại. Từ nền trời cao rộng ấy, thi nhân chuyển điểm nhìn sang thiên nhiên mở ra trước mắt, đó là mặt đất, là cuộc đời trần thế với bức tranh tuyệt bút:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Trong bức tranh ấy xuất hiện hai hình ảnh, hai màu sắc, hai cá tính tạo nên bức tranh sơn thủy đượm vẻ xanh non đầy sức sống: “cỏ non xanh”, “cành lê trắng”. Chữ “tận”, như miêu tả một vùng đất đầy cỏ xanh kéo mãi đến chân trời, màu xanh mát ấy làm ta liên tưởng đến câu thơ “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời” của Hàn Mặc Tử sau này. Nhưng trong bức tranh của mình, Nguyễn Du đã để những bông hoa lê trắng muốt tự điểm xuyết trên nền cỏ xanh ấy. Chỉ bằng một từ “điểm”, nhà thơ đã làm cho bức tranh sinh động hơn, cảnh vật có hồn hơn, chứ không tĩnh tại, lặng lẽ. Cách thay đổi trật tự từ trong câu thơ làm cho màu trắng hoa lê càng thêm sống động và nổi bật trên cái nền màu xanh bất tận của đất trời cuối xuân. Cách ngắt nhịp câu thơ theo nhịp 3/1/4 cũng độc đáo vô cùng, nhấn mạnh màu sắc của cành lê, tạo nên vẻ đẹp cho một bức tranh ngày xuân thanh tân, thanh khiết.
Tám câu thơ tiếp theo, tác giả tiếp tục gợi tả về sự nhộn nhịp và tấp nập của con người giữa tiết trời đầu năm. Đó là lễ tảo mộ và hội đạp thanh:
“Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.”
Giữa không gian rợn ngợp cùng không khí thanh tân của đất trời, tâm hồn con người cũng rộn ràng và nô nức hẳn lên. Trai thanh, gái lịch chuẩn bị trẩy hội, trước là viếng mộ ông bà, sau là du xuân mong điều tốt lành cho một năm trọn vẹn. Cái rợn ngợp của đất trời hòa vào tâm trạng khiến con người ta cũng nô nức bộ hành, tìm người kết tóc se duyên:
“Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.”
Bằng việc sử dụng nhiều từ láy, từ ghép và các từ loại giàu sắc thái biểu cảm, Nguyễn Du đã rất tinh tế vẽ nên khung cảnh ngày xuân sống động và nhộn nhịp. Nhiều danh từ ghép chỉ đối tượng như “yến anh”, “tài tử”, “giai nhân”, “chị em”, “ngựa xe”,” áo quần” gợi tả sự đông vui tấp nập kết hợp cùng các tính từ “nô nức”, “gần xa”, động từ “sắm sửa”, “dập dìu” làm rõ hơn tâm trạng phấn khởi, rộn ràng, đông vui của những người đi trẩy hội. Những từ ngữ ấy khi kết hợp với nhau lại tạo nên hiệu quả nghệ thuật theo cấp độ tăng tiến. Hình ảnh “nô nức yến anh” là một ẩn dụ gợi lên hình ảnh từng đoàn nam thanh, nữ tú nô nức đi chơi xuân như những đàn chim én, chim oanh bay ríu rít. Những so sánh rất giản dị “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” gợi tả sự đông vui.
Du xuân không chỉ là cuộc chơi, mà còn là dịp người ta sắm sửa lễ vật viếng người đã khuất. Trong tiết thanh minh, giữa lúc nô nức, náo nhiệt, mọi người rắc những con thoi vàng vó, đốt giấy tiền vàng để tưởng nhớ hương hồn và cầu mong sự bình an dành cho những người đã khuất:
“Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng gió rắc, tro tiền giấy bay.”
Nguyễn Du đã rất tài tình khi tách hai từ Lễ hội ra làm đôi để gợi tả hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: Lễ tảo mộ, Hội đạp thanh. “Lễ” là hồi ức và tưởng niệm quá khứ theo truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “hội” là khát khao và hoài vọng nhìn về phía trước của cuộc đời. Lễ và hội trong tiết Thanh minh là một sự giao hoà độc đáo. Chứng tỏ nhà thơ rất yêu quý, trân trọng vẻ đẹp và giá trị truyền thống văn hoá dân tộc.
Đoạn thơ là một trong những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nhất trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Bút pháp tả cảnh giàu chất tạo hình, miêu tả cảnh sắc mùa xuân bằng việc huy động sự đa dạng của các từ loại cùng các biện pháp ẩn dụ, hoán dụ, so sánh v.v… càng chứng minh được tài năng và tầm vóc của Nguyễn Du xứng đáng được mệnh danh là thi hào dân tộc
Viết đoạn văn miêu tả lại bức tranh thiên nhiên trong 4 câu thơ đầu đoạn trích "Cảnh ngày xuân".
Câu trả lời của bạn
“Cảnh ngày xuân” đoạn trích đặc sắc trong truyện Kiều. Đoạn trích vị trí đầu của Truyện Kiều. Trong phần này thì Nguyễn Du trình trình bày bối cảnh Thúy Kiều gặp nấm mồ Đạm Tiên và gặp Kim Trọng, đó là lúc cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh, chị em Kiều đi chơi xuân. Cảnh ngày xuân tươi đẹp hiện ra trước mắt họ đó là:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
“Ngày xuân con én đưa thoi” tả không gian ngày xuân, những đàn chim én trở về, chao liệng ngập trời, trong đó tác giả muốn nói đến ngày xuân trôi nhanh quá, tựa như cánh én trên bầu trời. Câu thơ thứ hai “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” có ý muốn nói đến thời gian: chín chục ngày xuân mà nay đã ngoài sáu mươi ngày như vậy là đã đến tháng ba của tiết Thanh minh.
Hai câu thơ đầu báo hiệu thời gian hai câu thơ sau là bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân với hai sắc màu xanh và trắng giúp cho không gian xuân thêm thơ mộng.Có non những thảm màu xanh trải dài đến “tận” chân trời, không gian thật bát ngát, thảm cỏ non chính là làm nền cho bức tranh xuân. Trên nền màu xanh điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng, vẻ đẹp như thanh kiết, tinh khôi và rất nhẹ nhàng. Không gian lúc này không chỉ đứng im mà có những nét sinh động. Cách thay đổi trật tự từ trong câu thơ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” đã làm cho màu trắng hoa lê thêm sống động trên cái nền màu xanh của cỏ non, nền xanh của thiên nhiên.
Chỉ với 4 câu thơ đầu tác giả đã mô tả sinh động không gian xuân đang về thật đẹp, thiên nhiên luôn mang lại cho con người nhiều cảm xúc.
Phân tích đoạn trích "Cảnh ngày xuân".
Câu trả lời của bạn
Đoạn thơ đã mở ra trước mắt ta một khung cảnh mùa xuân trong tiết thanh minh, qua bốn câu thơ đầu:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Nguyễn Du vẽ lên bức tranh xuân thật đẹp, đặc biệt nhà thơ đã lựa chọn chi tiết tiêu biểu mang nét đặc trưng của ngày xuân để khắc họa bức tranh ấy. Đọc hai câu thơ đầu, ta cảm nhận được cách tính thời gian khá độc đáo, nghệ thuật miêu tả ước lệ bộc lộ rõ đã tái hiện hình ảnh báo hiệu mùa xuân ” chim én”, ” thiều quang” gợi sự ấm áp, dịu dàng, khẳng định mùa xuân đang ở độ đẹp nhất, chín nhất, sung mãn nhất. Qua đó câu thơ thứ hai đã chỉ rõ ngày xuân trôi qua nhanh như con thoi dệt cửa, đã qua tháng giêng, tháng hai, bây giờ là tháng ba, tiết trời trong xanh, những con én rộn ràng chao liệng như nhịp thoi đưa trên bầu trời, gợi ra một không gian, thoáng đãng cao rộng gợi lên nhịp trôi chảy của thời gian và nhịp điệu sôi động của mùa xuân, đồng thời còn tỏ ý tiếc nuối thời gian trôi quá nhanh của Nguyễn Du, để rồi, thiên nhiên đẹp hơn bởi sắc “xanh” của cỏ non, sắc “trắng” của “một vài bông hoa” lác đác.
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Đây mới thực sự là bức tranh tuyệt mĩ. Tác giả sử dụng biện pháp chấm phá tái hiện bức tranh xuân tươi tắn, sống động gợi liên tưởng về sự sinh sôi nảy mở. Màu xanh của cỏ non gợi sức sống mạnh mẽ, bất diệt, không gian mênh mông, thoáng đạt, trong trẻo. Trên nền xanh ấy có điểm xuyến một vài bông hoa lê trắng. Văn cổ thi Trung Quốc được Nguyễn Du học tập một cách sáng tạo ” Phương thảo niên bích/ Lê chi sổ điểm hoa”. Nếu hai câu thơ Trung Quốc dùng hình ảnh ” phương thảo” (cỏ thơm) thiên về mùi vị thì Nguyễn Du thay bằng ” cỏ non” thiên về màu sắc: màu xanh nhạt pha với màu vàng chanh tươi thắm hợp với màu xanh lam của nền trời làm thành gam nền cho bức tranh. Trên đó điểm xuyến sắc trắng thanh khiết, tinh khôi của hoa lê tạo thành bức tranh đẹp hài hòa, tươi mát, mới mẻ. Chữ ” trắng” được Nguyễn Du thêm vào và đảo lên trước càng gây ấn tượng mạnh, Chữ ” điểm” làm cho cảnh vật trở nên có hồn, sinh động chứ không tĩnh lại hay gợi lên bàn tay họa sĩ – thi sĩ vẽ lên thơ lên họa như bàn tay tạo hóa điểm tô cảnh xuân tươi khiến cho bức tranh càng trở nên sinh động. Ngòi bút của Nguyễn Du tài hoa, nghệ thuật phối sắc tài tình, giàu chất tạo hình ngôn ngữ biểu cảm, gợi tả thể hiện tâm hồn người tươi vui, phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo hồn nhiên, nhạy cảm tha thiết với vẻ đẹp thiên nhiên. Bốn câu thơ lục bát nhẹ nhàng – một không gian thoáng đãng mà ấm áp của mùa xuân, một màu sắc tinh khôi mãi để lại dấu ấn trong lòng độc giả.
Mùa xuân là mùa khởi đầu trong một năm là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc, tâm hồn con người phơi phới, mùa xuân cũng là mùa có nhiều lễ hội diễn ra nhiều nhất, trong thơ của Nguyễn Du, đó là khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh, tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trảy hội tưng bừng, náo nhiệt:
“Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”
Tác giả đã đưa ta về với lễ nghi phong tục tập quán của người phương Đông, lễ tảo mộ là hướng về cội nguồn, tổ tiên, truyền thống văn hóa tâm linh tri ân với quá khứ. Đi tảo mộ là đi sửa sang, thắp hương để tưởng nhớ người đã khuất, Còn ” hội đạp thanh” là cuộc du xuân là cuộc vui chơi trên đồng cỏ xanh của những trai tài, gái sắc, nam thanh nữ tú, hội đạp thanh còn là cuộc sống hiện tại và có thể tìm đến những sợi tơ hồng cho mai sau. Ở bốn câu thơ tiếp theo, tác giả đã gợi tả không khí lễ hội bằng một loạt các từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm như từ láy “nô nức”, “dập dìu” “sắm sửa” và từ ghép, từ Hán Việt: “tài tử”, “giai nhân”, “bộ hành”, “ngựa xe” “gần xa”, “yến anh” kết hợp với các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh đã khắc họa thật sinh động cảnh đông vui, tưng bừng, náo nhiệt đang diễn ra ở khắp nơi nơi mọi miền đất nước.
“Dập dìu tài tử giai nhân”
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”
Lễ thanh minh – lễ hội điển hình vào tháng ba, từng đôi lứa “tài tử giai nhân” ” dập dìu” du xuân, gặp gỡ hò hẹn. Trong dòng người “nô nức” đó có ba chị em Thúy Kiều cũng sắm sửa hòa nhập vào cái đẹp, cái tưng bừng của tuổi trẻ. Hình ảnh so sánh thật giản dị “ngựa xe như nước, áo quần như nêm”, gợi tả không khí náo nức của lễ hội, từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân trong bộ áo quần đẹp đẽ, tươi thắm màu sắc, họ như từng đàn chim én, chim hoàng anh ríu rít bay về hội tụ trong lễ hội. Tác giả còn miêu tả một nét đẹp của nền văn hóa lâu đời của Việt nam chúng ta trong ngày Tết thanh minh. Đó là sắc thoi vàng, đốt giấy tiền để tưởng nhớ người thân đã khuất:
“Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó sắc tro tiền giấy bay”
Nhịp điệu thơ 2/4 và 4/4 thoáng ra một nét buồn. Phải chăng đó là trái tim đầy tình thương sẻ chia của đại thi hào Nguyễn Du đối với những người đã khuất. Cái tâm thánh thiện, niềm tin phác thực dân gian, đầy ắp nghĩa tình. Dưới ngòi bút miêu tả tinh tế của nhà thơ, lễ và hội trong tiết thanh minh là một sư giao hòa độc đáo, chứng tỏ nhà thơ rất trân trọng vẻ đẹp và giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc.
Nếu như những dòng thơ trên phác họa khung cảnh nhộn nhịp, đông vui của lễ hội thì sáu câu thơ cuối tạo nên một nhịp điệu trữ tình man mác buồn theo từng bước chân của chị em Thúy Kiều:
“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dạng tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốc quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
Hội tan sao chẳng buồn? có thể nói sáu câu trên đã diễn tả sâu sắc cảnh chị em Thúy Kiều trên đường trở về với một khung cảnh yên ả, dường như đối lập với cảnh lễ hội lúc trước. Cảnh mang nét thanh thanh, dìu dịu của buổi chiều xuân với nắng nhạt, khe nước nhỏ, nhịp cầu bắc ngang như nhuộm màu tâm trạng. Bóng dương đã chênh chếch xế tà, ” tà tà” bóng ngả về tây” nhưng đây không phải là hoàng hôn của cảnh vật mà dường như con người cũng chìm vào cảm giác bâng khuâng, khó tả. Buổi chiều tà thường gợi lên một cảm giác buồn khó tả. Ở đây, cuộc vui đã tàn, lễ hội tưng bừng náo nhiệt đã hết, tâm hồn con người cũng “chuyển điệu” cùng cảnh vật, Dưới cái tài miêu tả của Nguyễn Du, không khí lễ hội lúc tan không ảm đạm, buồn bã mà có phần thanh ịu, lặng lẽ mơ mộng, không gian thu hẹp lại, thời gian trôi chậm hơn, cảnh vật như nhạt dần, nhạt dần, lặng lẽ theo bước chân thơ thẩn trên dặm đường về, phảng phất nỗi tiếc nuối, lưu luyến của lòng người. Mọi chuyển động nhẹ nhàng đều đều thể hiện qua tâm trạng giai nhân đa sầu, đa cảm bằng hàng loạt các từ láy “tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ” vừa gợi tả cảnh, vừa gợi tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến từ dư âm ngày vui xuân vừa như đã dự báo, linh cảm về điều sắp xảy ra trong tâm hồn nhạy cảm của Thúy Kiều. Và đúng như vậy, Thúy Kiều đã gặp nấm mồ bất hạnh “Đạm Tiên” – một ca nhi tài sắc mà mệnh yểu và cả sự ngẫu nhiên gặp chàng nho sinh “phong tư tài mạo tót vời”- Kim Trọng, để rồi “tình trong như đã mặt ngoài còn e” như một định mệnh tiền duyên, rõ ràng cảnh đã nhuốm màu tâm trạng của nhân vật. Như vậy sáu câu thơ cuối của đoạn trích với việc sử dụng từ láy đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình- cảnh gắn với tình – cảnh tình tương hợp đã làm cho lòng người hòa vào cảnh vật như đang lắng lại cùng cảnh vật. Từ đó, ta thấy được tâm trạng nhạy cảm cùng niềm vui cuộc sống của tác giả.
Tóm lại, bằng cách sử dụng hệ thống từ ghép, từ láy giàu chất tạo hình, giàu sức gợi tả, đoạn trích “cảnh ngày xuân” xứng đáng là bức tranh đẹp vào loại bậc nhất, tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm “Truyện Kiều”. Đồng thời, với cây bút miêu tả thiên nhiên tài tình của Nguyễn Du, cảnh vật hiện lên tươi đẹp, trong sáng và còn nhuộm màu tâm trạng, đây là yếu tố tạo nên thành công của đoạn trích và đưa tên tuổi của đại thi hào Nguyễn Du đến gần với bạn đọc khắp năm châu ở mọi thế kỷ.
Cảm nhận của em về 4 câu thơ đầu trong đoạn trích Cảnh ngày xuân.
Câu trả lời của bạn
Mùa xuân từ lâu đã trở thành đối tượng thẩm mĩ, khơi nguồn cảm hứng cho biết bao nhiêu văn nhân, tài tử chấp bút để sáng tác nên những thi phẩm tuyệt vời viết về mùa xuân. Trong văn học trung đại Việt Nam, ta có thể kể đến một số tác phẩm như: "Cáo tật thị chúng" của thiền sư Mãn Giác, "Cuối xuân tức sự" của Nguyễn Trãi, "Chơi xuân kẻo hết" của Nguyễn Công Trứ... Và cũng góp một tiếng thơ hay về một mùa khởi đầu của một năm ấy chúng ta không thể không nhắc tới Nguyễn Du trong đoạn trích "Cảnh ngày xuân". Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn, 28 chữ cái, nhà thơ đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi thắm, giàu sức xuân:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu thơ đầu vừa có sức gợi về thời gian, lại vừa có sức gợi về không gian. Ngày xuân thấm thoát trôi qua thật nhanh như thoi đưa. Cả mùa xuân có chín mươi ngày thì nay đã qua tháng giêng, tháng hai và bước sang tháng thứ ba. Ánh sáng của ngày xuân nhè nhẹ, trong veo, lan tỏa, trải dài khắp muôn nơi. Trên nền trời cao là những đàn chim én mùa xuân đang chao nghiêng bay lượn, dưới mặt đất là một thềm cỏ xanh non bất tận trải dài xa tít tắp. Động từ “tận” làm cho không gian mùa xuân như đang giãn nở, ngày càng mở rộng ra biên độ và bao trùm cả không gian xuân là một màu xanh biếc của cỏ lá. Trên nền cỏ xanh tươi ấy là những bông hoa lê điểm vài sắc trắng gợi lên sự tinh khôi, mới mẻ. Biện pháp đảo ngữ có tác dụng tô đậm thêm và làm nổi bật hơn sức trắng của hoa lê trên nền cỏ mùa xuân.
Ở hai câu thơ cuối, nhà thơ đã vận dụng khéo léo, tài tình từ hai câu thơ cổ bên Trung Quốc để viết nên những vần thơ của mình:
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa.
Nguyễn Du đã dùng "cỏ non" thay cho "cỏ thơm" (phương thảo) để tô đậm về sắc màu của cỏ. Màu "cỏ non" là màu xanh nhạt, gợi nên sự tơ non, phát triển, giàu sự sống của cảnh vật thiên nhiên. Dưới ánh sáng dịu nhẹ của mùa xuân, cỏ cây như đâm chồi, nảy lộc, mang một màu xanh non bất tận. Trên cái phông nền bức tranh ấy, điểm xuyết màu trắng của những bông hoa lê. Và cái màu sắc trắng ấy sau này cũng đã xuất hiện trong thơ của Tố Hữu trong bài thơ "Theo chân Bác":
"Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ..."
Hay trong bài thơ "Việt Bắc", Tố Hữu cũng đã từng viết:
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng..."
Tuy nhiên, nếu như trong thơ Tố Hữu, sắc trắng của hoa mơ là một gam màu chủ đạo, bao trùm lên cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân thì trong câu thơ của Nguyễn Du, màu sắc trắng của hoa lê chỉ "điểm" vài nét vào nền xanh của cỏ cây. Chính chữ "trắng" và nghệ thuật đảo là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Du. Chữ "điểm" gợi cảnh động chứ không tĩnh, như có bàn tay của người họa sĩ – thi sĩ hay bàn tay tài hoa của tạo hóa đang vẽ nên thơ, nên họa. Tất cả đều tươi mát, lặng lẽ, thanh tao, căng tràn sức xuân.
Tóm lại, chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn, cô đúc nhưng dưới ngòi bút và cách miêu tả thần tình, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh xuân tinh khôi, trong trẻo, thanh khiết và giàu sức sống, mang đậm hơi thở của hồn xuân đất Việt. Đoạn thơ rất tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh độc đáo của nhà thơ.
Từ bức tranh Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du, em hãy cảm nhận được vẻ đẹp nào trong cuộc sống đang diễn ra.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Du không chỉ là bậc thầy về ngôn ngữ trong việc miêu tả tâm lý nhân vật mà còn là “họa sĩ” vẽ tranh bằng chữ. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” trích Truyện Kiều là một ví dụ điển hình. Người đọc phải khâm phục và ngưỡng mộ khả năng quan sát cũng như những nét vẽ tài hoa của Nguyễn Du. Bức tranh ngày xuân hiện lên với những nét đẹp tươi mới, tràn đầy sức sống nhất.
Có thể nói mùa xuân là đề tài bất tận trong thi ca, khơi nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ. Mỗi người có một cảm nhận riêng về mùa xuân. Đối với Nguyễn Du, mùa xuân gắn với cảnh vật và con người, với những ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bao trùm lên cả đoạn thơ này là một bức tranh thiên nhiên đẹp, hữu tình nhưng có nhuốm màu buồn khi ngày đã ngả về chiều hôm.
Những câu thơ đầu được sử dụng với chất liệu ngôn ngữ đẹp như tranh, sự mượt mà của câu chữ đã tạo nên sự mượt mà của cảnh sắc thiên nhiên khi xuân về:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Một không gian đầy chất thơ, thi vị và hữu tình biết bao nhiêu. Sự rộng lớn của đất trời khi mùa xuân về được diễn tả một cách tinh tế và tràn ngập niềm vui. Cánh én chính là báo hiệu cho mùa xuân về, một mùa gợi lên sự ấm áp, sự sống căng đầy và niềm vui trọn vẹn. Với từ ngữ “đưa thoi” vừa gợi lên khung cảnh bầu trời tràn ngập cánh én, vừa diễn tả sự trôi đi quá nhanh của thời gian. Có phải chăng ý niệm về thời gian của Nguyễn Du có phần giống với Xuân Diệu, thời gian trôi đi nhanh, mùa xuân và tuổi trẻ cũng trở nên chông chênh hơn. Đồng nghĩa với thời gian trôi đi, tuổi trẻ trôi đi thì đời người bỗng nhiên ngắn lại.
Trong lúc đấy, chỉ với hai nét vẽ Nguyễn Du như vẽ lên trang giấy một bức tranh thiên nhiên mùa xuân đẹp tuyệt vời. Nghệ thuật điểm xuyết chấm phá đã được sử dụng dứt điểm, khiến cho câu thơ trở nên mềm mại và căng tràn sức sống hơn. Màu xanh của cỏ non tạo nên sự tươi mới và tinh khiết của đất trời. Từ “rợn” vừa tả cái xa, vừa gợi cái rộng lớn của mùa xuân, của cảnh vật khi xuân về. Nó làm cho câu thơ như được ngân dài ra, bứng sang lên sức sống tràn đầy Trên nền xanh của cỏ, của bầu trời có điểm xuyết “một vài bông hoa” trắng tinh khiết. Chính sự điểm xuyết này khiến cho cả bài thơ như bừng lên một sức sống mãnh liệt, khó có thể dập tắt.
Có thể nói với chỉ 4 câu thơ này, Nguyễn Du như người họa sĩ tài hoa vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, có sự giao thoa và hòa quyện giữa đất và trời. Không khí mùa xuân, hương sắc mùa xuân và cả ý vị mùa xuân cứ thế tràn ra trong từng câu thơ đẹp như vậy.
Không khí mùa xuân như tươi đẹp hơn với lễ hội tảo mộ tháng Ba:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Có lẽ không khí vui tươi, tưng bừng, phấn khởi của con người trong dịp đi tảo mộ thật sự khiến cho người đọc như sống lại với không khí những ngày xuân tươi mới nhất. Con người cũng hiện lên như tô điểm thêm bức tranh ngày xuân tươi đẹp đó
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Mùa xuân là dịp để “tài tử giai nhân” được vui chơi, giãi bày tâm sự với nhau. Có vẻ như mùa xuân là thời điểm thích hợp cho chuyện tình yêu nảy nở, cho những yêu thương còn bỏ ngỏ được phép căng trào ra. Hình ảnh “ngựa xe”, “áo quần” gợi lên sự tấp nập, nhộn nhịp và huyên náo. Nguyễn Du đã rất tài tình khi sử dụng một loạt hình ảnh có tính chất gợi hình, ảnh tả khiến cho người đọc có cảm giác như đang bước vào không khí của mùa xuân.
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay
Những phong tục tập quán khi mùa xuân về, khi được đi tảo mộ đã được Nguyễn Du vẽ lên chân chất, mộc mạ, gợi nhớ và gợi thương. Đó chính là tấm lòng thành kính hướng về quá khứ với một sự biết ơn chân thành nhất. Hai câu thơ này thực sự khiến người đọc xúc động khi nhớ về những người đã khuất, những người tạo dựng nên cuộc sống hiện nay của chúng ta.
Tuy nhiên những câu thơ cuối dường như cảnh vật và con người trở nên buồn vã và đìu hiu hơn:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn phong khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nhịp thơ trở nên nhẹ nhàng, trầm bổng khiến cho tâm trạng của con người trở nên nặng nề và buồn rầu hơn. Với từ láy “tà tà” đã phần nào gợi tả thời gian đã xế chiều và không gian dường như tĩnh mịch và ảm đạm hơn. Mỗi bước chân cũng trở nên nặng nề hơn khi màn đêm sắp buông xuống, con người cũng cảm nhận được một nỗi buồn nào đó len vào trong trái tim. Tâm sự của con người như nhuốm vào cảnh sắc thiên nhiên, khiến cho nó trở nên tiêu điều và xơ xác hơn.
Có thể nói dù cảnh trong thơ Nguyễn Du buồn hay vui thì vẫn mang phong vị riêng của nhà thơ. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một ví dụ điển hình như thế. Bức tranh ngày xuân vui tươi, rộn rang, náo nức và có chút buồn phiền được Nguyễn DU khắc họa thành công với sự cảm nhận tinh tế cũng như sự tài hoa trong cách dụng công xây dựng ngôn ngữ.
Bình giảng bài thơ “Cảnh ngày xuân”.
Câu trả lời của bạn
Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã bao lần dụng công khắc họa những bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mang theo tâm trạng của con người. Cảnh nào cũng đẹp, cũng có hồn, cũng như một dự cảm về tương lai. “Cảnh ngày xuân” là một bức tranh như thế. Đoạn trích miêu tả bức tranh thiên nhiên ngày xuân trong tiết Thanh minh tươi đẹp, trong sáng với lễ hội mùa xuân tưng bừng, náo nhiệt.
Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” nằm ở phần một “Gặp gỡ và đính ước”, ngay sau đoạn tả tài sắc chị em Thúy Kiều là đến đoạn tả cảnh ngày xuân trong tiết thanh minh. Đoạn trích miêu tả bức tranh thiên nhiên ngày xuân trong tiết thanh minh tươi đẹp, trong sáng với lễ hội mùa xuân tưng bừng, náo nhiệt. Mạch cảm xúc men theo trình tự thời gian, không gian, theo bước chân của chị em Thúy Kiều trong buổi du xuân. Những câu thơ đầu tiên mở ra cảnh ngày xuân tươi đẹp:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
Hai câu thơ vừa gợi không gian, vừa gợi thời gian. Giữa bầu trời bao la, mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như đưa thoi. Hình ảnh ảnh “én đưa thoi” là một ẩn dụ nhân hóa rất gợi hình, gợi cảm: con én chao liệng trên bầu trời xuân rất nhanh như con thoi chạy đi chạy lại trên khung dệt gợi ra thời gian trôi rất nhanh cùng cảm giác bâng khuâng, tiếc nuối trong lòng người khi ngày vui không còn nhiều. Cảm giác tiếc nuối được thể hiện rõ nhất trong hình ảnh “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” – ánh sáng ấm áp của mùa xuân đã trở đi trở lại hơn sáu mươi ngày, tiết trời đã vào cuối xuân. Hai câu thơ tiếp là một bức họa tuyệt đẹp về cảnh ngày xuân:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Ở đây thảm cỏ xanh non trải rộng tới chân trời là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông lê màu trắng. Màu sắc có sự hài hòa đến mức tuyệt diệu: cỏ xanh, hoa trắng, hai gam màu dịu nhẹ làm tôn lên vẻ đẹp của nhau. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống, nhẹ nhàng mà thanh khiết. Chữ “điểm” làm cho cảnh vật trở nên sống động, bức tranh xuân trở nên có hồn mà không hề tĩnh tại.
Tám câu thơ tiếp theo là nét vẽ về cảnh lễ và hội trong tiết Thanh minh:
“Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Trong ngày Thanh minh có hai hoạt động diễn ra cùng một lúc là lễ tảo mộ và hội đạp thanh. Một loạt những từ hai âm tiết là danh từ, động từ, tính từ xuất hiện. Các danh từ “yến anh, chị em, tài tử, giai nhân” gợi lên sự đông vui, nhiều người cùng đến dự hội. Các động từ “sắm sửa, dập dìu” gợi lên sự tưng bừng, náo nhiệt của ngày hội. Các tính từ “gần xa, nô nức” làm rõ tâm trạng của những người đi hội. Cùng với các hình ảnh so sánh “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” và cách nói ẩn dụ “nô nức yến anh” gợi lên sự đông vui, nhộn nhịp, ngựa xe trẩy hội như dòng nước, áo quần chen chúc như nêm, từng đoàn người đi chơi xuân như chim én, chim oanh ríu rít. Trong lễ hội mùa xuân, đông vui, tấp nập nhất là những nam thanh, nữ tú trong đó có chị em Thúy Kiều. Niềm vui từ tâm hồn họ hòa cùng niềm vui của mọi người lan tỏa rộn ràng như sóng cỏ mùa xuân. Qua cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều, tác giả còn khắc họa một truyền thống văn hóa, lễ hội xa xưa của người Việt:
“Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay.”
Trong tiết Thanh minh, mọi người sắm sửa lễ vật để đi tảo mộ, người ta rắc thoi vàng, đốt giấy tiền vàng mã để tưởng nhớ tới những người thân đã mất.
Ngày tàn, hội tan, những câu thơ cuối đoạn trích gợi cảnh chị em Kiều du xuân trở về:
“Tà tà, bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
Cảnh vật vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng đương nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp cầu bắc ngang, mọi chuyển động đều nhẹ nhàng. Mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân con người thơ thẩn. Cái không khí rộn ràng, náo nhiệt của ngày hội không còn nữa mà tất cả đang nhạt dần, lặng dần. Những từ láy được sử dụng với mật độ dày: tà tà, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ. Các từ láy không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người: hai chữ “nao nao” dễ nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Đó không chỉ là cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày vui xuân sắp tàn mà còn là dự cảm về một điều sắp xảy ra. Dòng nước uốn quanh, nao nao như muốn báo trước ngay sau lúc này đây, Kiều sẽ gặp nấm mộ Đạm Tiên là hiện thân cho kiếp đoạn trường mười lăm năm lưu lạc.
Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” đã cho thấy nghệ thuật tả cảnh tài tình của Nguyễn Du. Cảnh được tả bằng sự kết hợp giữa bút pháp gợi tả và đặc tả có xa, có gần, có thấp, có cao, có điểm, có diện, có hình khối, có đường nét, màu sắc. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đạt đến độ sắc sảo, tinh tế của một ngòi bút có tầm Nguyễn Du, tả cảnh mà gợi được tâm trạng của Thúy Kiều.
Đoạn trích là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, trong sáng. Đoạn thơ cho thấy tình yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ với mùa xuân, tạo sức hấp dẫn trong lòng người đọc.
Câu trả lời của bạn
Nghị luận văn học đoạn trích Cảnh ngày xuân.
Câu trả lời của bạn
Nếu như trong đoạn trích "Chị em Thúy Kiều", người đọc thấy được tài năng nghệ thuật tả người của Nguyễn Du trong việc khắc họa bức chân dung duyên dáng, sắc tài toàn vẹn của hai chị em Vân - Kiều thì đến với đoạn trích "Cảnh ngày xuân", người đọc một lần nữa lại thấy được nghệ thuật tả cảnh, tả tình độc đáo của Nguyễn Du trong bức tranh mùa xuân thấm đượm tâm hồn con người.
Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" nằm ngay sau đoạn tả tài, tả sắc của chị em Thúy Kiều. Qua đoạn thơ, Nguyễn Du dựng lên bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân trong tiết Thanh minh thật tươi sáng, sống động. Đây là đoạn thơ tiền đề, dẵn dắt hoàn cảnh để rồi trong cuộc du xuân của Kiều, Kim – Kiều đã gặp nhau rồi tự do đính ước...
Trước hết, bốn câu thơ mở đầu, với nghệ thuật chấm phá độc đáo tả ít gợi nhiều, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, giàu sức xuân:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu thơ đầu vừa có sức gợi về thời gian, lại vừa có sức gợi về không gian. Ngày xuân thấm thoát trôi qua thật nhanh như thoi đưa. Cả mùa xuân có chín mươi ngày thì nay đã qua tháng giêng, tháng hai và bước sang tháng thứ ba. Ánh sáng của ngày xuân nhẹ nhàng, trong veo, lan tỏa, trải dài khắp muôn nơi. Trên nền trời cao là những đàn chim én mùa xuân đang chao nghiêng bay lượn. Dưới mặt đất là một thềm cỏ xanh non bất tận chạy ra xa tít tắp. Động từ “tận” làm cho không gian mùa xuân như đang giãn nở, ngày càng mở rộng ra biên độ và bao trùm cả không gian xuân là một màu xanh biếc của cỏ lá. Trên nền cỏ xanh tươi ấy là những bông hoa lê điểm vài sắc trắng gợi lên sự tinh khôi, mới mẻ. Biện pháp đảo ngữ có tác dụng tô đậm thêm và làm nổi bật hơn sức trắng của hoa lê trên nền cỏ mùa xuân. Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn nhưng dưới ngòi bút và cách miêu tả thần tình, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh xuân tinh khôi, trong trẻo, thanh khiết và giàu sức sống, mang đậm hơi thở của hồn xuân đất Việt.
Tám câu thơ tiếp theo, là khung cảnh lễ - hội trong tiết thanh minh mùa xuân. Ở hai câu thơ đầu, tác giả đã giới thiệu khái quát về hai hoạt động chính của mùa xuân: Lễ tảo mộ và hội đạp thanh trong tiết tháng ba mùa xuân.
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Lễ tảo mộ là một nét đẹp văn hóa, biểu trưng cho đạo lí biết ơn, tri ân tiên tổ bằng việc sửa sang phần mộ của gia đình người thân đã khuất. Sau khi lễ hội tảo mộ diễn ra xong thì đây cũng là cơ hội cho những trai tài gái sắc được gặp gỡ, hẹn hò, giao duyên trong lễ hội đạp thanh. Không khí tưng bừng, nhộn nhịp và tấp nập trong những ngày lễ hội mùa xuân đã được Nguyễn Du miêu tả qua hệ thống những từ ngữ giàu tính tạo hình và biểu cảm:
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Từ ghép (gần xa, yến anh, chị em, ngựa xe, áo quần) kết hợp với các từ láy (nô nức, dập dìu, sắm sửa) có tác dụng gợi nên không khí hội xuân hết sức đông vui, rộn ràng. Hình ảnh ẩn dụ: “nô nức yến anh” gợi lên hình ảnh từng đoàn người nhộn nhịp đi du xuân như chim én, chim oanh xôn xao, náo nức, tình tứ. Hình ảnh so sánh: “Ngựa xe như nước; áo quần như nêm" miêu tả những đoàn người trong hội xuân rất nhộn nhịp; từng đoàn, từng đoàn người chen vai ních cánh đi trẩy hội, đông vui, rộn ràng
Tóm lại: Bằng việc sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, kết hợp với hệ thống những từ ngữ giàu tính chất tạo hình và biểu cảm, nhà thơ đã gợi lên một không khí mùa xuân vừa đông vui, tấp nập; lại vừa tình tự và duyên dáng khi có sự góp mặt của các nam thanh nữ tú, trai tài, gái sắc.
Trong ngày hội xuân ấy không chỉ có niềm vui mà còn có những khoảng lặng của lễ tảo mộ trong hai câu thơ:
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay
Nếu Hội đạp thanh hiện lên với không khí hết sức tươi vui, rộn rã, náo nức thì Lễ tảo mộ lại gợi một chút đượm buồn và hướng tới đạo lí tốt đẹp ở đời qua hành động rắc thoi vàng và đốt vàng mã cho người đã khuất. Đó là truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” và lối sông ân nghĩa, thủy chung tốt đẹp của văn hóa dân tộc.
Qua tám câu thơ, tác giả đã khắc họa thành công truyền thống văn hóa lễ hội mùa xuân của dân tộc. Đồng thời, đây cũng là một dụng ý nghệ thuật sâu sắc của tác giả: mượn ngày hội lớn làm bối cảnh, tiền đề để miêu tả cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Thúy Kiều và Kim Trọng.
Đến sáu câu thơ cuối, bằng nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình", Nguyễn Du đã miêu tả thời điểm kết thúc của ngày hội xuân thấm đượm hồn người một chút buồn xao xuyến. Đó là khung cảnh chị em Kiều du xuân trở về:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Cảnh vẫn mang cái dịu nhẹ, êm đềm của ngày xuân nhưng bóng dương đã “tà tà ngả về tây”. Khung cảnh náo nức, tưng bừng của ngày hội xuân cũng đã kết thúc. Trong lòng người xen lẫn những xúc cảm bâng khuâng xao xuyến. Cảnh vật không gian đã được co gọn lại trong bước chân của người ra về, của dòng nước tiểu khê và chiếc cầu nho nhỏ. Những từ láy: “nao nao, tà tà, thơ thẩn, thanh thanh” không chỉ có tác dụng miêu tả trạng thái của cảnh vật mà còn biểu lộ tâm trạng của con người: lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng hoàn toàn đối lập với không khí với ngày lễ hội mùa xuân vào buổi sáng sớm. Đồng thời gieo vào lòng người đọc những linh cảm về một điều sắp sửa xảy ra, như là sự dự báo trước cuộc gặp gỡ nấm mồ Đạm Tiên và sự gặp gỡ của hai con người trai tài gái sắc: Thúy Kiều – Kim Trọng. Tóm lại, với bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với việc sử dụng hệ thống những từ láy, hình ảnh giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã khắc họa bức tranh chiều tà trong ngày hội xuân thấm đượm tâm trạng của con người nhân vật. Qua đó cho thấy được tài năng miêu tả tâm trạng con người của Nguyễn Du.
Nếu như trong "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, tác giả chỉ có đúng một câu dẫn dắt "một hôm nhằm vào tiết Thanh minh..." để rồi sau đó kể về cuộc gặp gỡ nấm mồ Đạm Tiên và Kim Trọng nhưng Nguyễn Du đã dựa vào đó vẽ lên một bức tranh xuân thắm bằng thơ, với vẻ đẹp riêng, mang đậm cảnh xuân đất trời nước Việt. Như vậy, qua đoạn trích "Cảnh ngày xuân", chúng ta thấy được tài năng nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" hết sức độc đáo của Đại thi hào Nguyễn Du. Dưới ngòi bút sáng tạo thần tình,cùng những dung cảm nghệ thuật độc đáo về mùa xuân, Nguyễn Du đã phác họa thành công một bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng và sống động, thấm đượm lòng người.
Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này đã chinh phục trái tim bao thế hệ bạn đọc trong gần hai trăm năm qua. Đọc đoạn trích "Cảnh ngày xuân", chúng ta càng cảm phục bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình và man mác xúc cảm của tác giả.
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã gợi tả khung cảnh mùa xuân tuyệt đẹp:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Qua việc miêu tả không gian, thời gian nghệ thuật, tác giả đã gợi lên một khung cảnh khoáng đạt và tràn trề sức sống. Cách nói dân gian “thời gian thấm thoắt thoi đưa” đã nhập hồn vào thơ ca Nguyễn Du để ông sáng tạo nên một câu thơ vừa miêu tả không gian, vừa gợi tả thời gian. Chim én được xem là loài chim biểu tượng của mùa xuân. Những cánh én chao liệng như “thoi đưa” ấy đã gợi lên một bầu trời bao la, thoáng đãng đầy sức xuân. Đến câu thơ tiếp theo, tâm trạng tiếc nuối ấy đã hiện lên thật rõ. “Thiều quang” nghĩa là ánh sáng đẹp, ánh sáng ấm áp của mùa xuân, cũng là ẩn dụ để chỉ ngày xuân. Cách tính thời gian như thế thật là ý vị và nên thơ: tiết trời trong sáng, đẹp đẽ của chín mươi ngày xuân nay “đã ngoài sáu mươi” rồi, tức là đã sang đầu tháng Ba rồi. Từ “đã ngoài” ở đây kết hợp vời từ “đưa thoi” ở trên đã gợi lên trong lòng người đọc một sự tiếc nuối rằng mùa xuân sao đi qua nhanh thế. Nguyễn Du nhớ mùa xuân ngay trong mùa xuân, tưởng đó là một nghịch lí, nhưng nó lại có thật. Hơn hai trăm năm sau, Xuân Diệu lại một lần nữa cảm thấy như thế: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa / Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.” (Vội vàng). Làm sao không tiếc mùa xuân được cơ chứ khi vào lúc này, xuân đã hết dư vị của mùa đông nhưng vẫn chưa ngấp nghé vào hạ nên khung cảnh rất đẹp, rất xuân:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân đã được vẽ nên bằng những nét phác họa, chấm phá tài tình của văn thơ cổ. Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ gợi hình gợi cảm để vẽ nên bức tranh ấy: “non” (sự mới mẻ, đổi thay của đất trời), “xanh” (sự sống, đâm chồi nảy lộc), “trắng” (tinh khôi, trong sáng, dịu dàng),… Những từ ngữ ấy vừa đem khí xuân đến tràn đầy trong từng lời thơ, vừa giàu chất tạo hình tới nỗi ta có cảm tưởng như trong thơ có họa. Lấy cảm hứng từ hai câu thơ cổ của Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa”, tác giả chỉ thêm vào hai từ “xanh”, “trắng” mà đã khiến cho sắc trắng của hoa lê nổi bật lên trên cái nền “xanh tận chân trời”, gợi lên vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết và khoáng đạt của mùa xuân. Lời thơ tưởng như chiếc cọ của người họa sĩ đang phối sắc cho từng đường nét của bức vẽ. Câu thơ tám chữ vốn có nhịp đôi, nhịp chẵn bỗng chuyển sang nhịp 3/5. Từ nhịp điệu bằng phẳng, quen thuộc, cách ngắt nhịp tài tình mang đầy dụng ý ấy của Nguyễn Du khiến câu thơ xôn xao với cái thần rất mới, rất lạ. Bức tranh ấy đã đẹp, nay lại được đại thi hào phả hồn vào đó bằng một chữ “điểm”. Có thể nói từ ấy chính là nhãn tự của cả đoạn trích, vừa làm câu thơ sống động hơn, vừa là nét vẽ hoàn chỉnh của bức tranh xuân. Chỉ cần một chút đảo ngữ ở “trắng điểm” và “điểm trắng” thôi đã đủ để nâng câu thơ lên một tầm cao mới. Tả mùa xuân đẹp và sống động như thế, hật không còn từ ngữ nào để nói lên sự tài tình trong bút pháp miêu tả gợi hình gợi cảm của Tố Như.
Tiếp nối bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp ấy, Nguyễn Du đưa người đọc đến với một khung cảnh tươi đẹp không kém – cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Mở đầu cho bức tranh ấy là hai câu thơ giới thiệu khái quát về thời gian cũng như hoạt động của con người:
Thanh minh trong tiết tháng Ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Tiết Thanh minh là dịp để mọi người đi viếng thăm, quét dọn, sửa sang và cúng bái, khấn nguyện trước phần mộ những người đã khuất. Từ lâu, đây đã là một phong tục cổ truyền của dân tộc ta. Và tất nhiên, sau lễ là hội, hội “đạp thanh”, tức là giẫm lên cỏ xanh mà đi chơi xuân. “Tảo mộ" là dịp để ta tìm lại những ký ức xa xưa, nối lại mối dây liên hệ giữa người đã khuất với người còn sống. Còn “đạp thanh” lại gợi lên cảnh các chàng trai, cô gái gặp gỡ, làm quen và rất có thể dẫn đến những sợi tơ hồng kết duyên mai sau. Bên cạnh điệp từ “là”, cặp tiểu đối “lễ là tảo mộ” – “hội là đạp thanh” được đặt cạnh nhau trong một câu thơ không chỉ nói lên sự nối tiếp liên tục của những tươi vui, nhộn nhịp, rộn ràng trong ngày lễ hội, mà còn muốn nói một điều gì hơn thế. Nguyễn Du đã gửi vào đó những suy ngẫm về khát khao, hy vọng của những người đi chơi xuân, hay cụ thể hơn – của Thúy Kiều về những điều tốt đẹp của cuộc đời phía trước. Và với suy nghĩ ấy, chị em Thúy Kiều hòa mình vào dòng người tấp nập đi trẩy hội:
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm
Ở đây, một lần nữa ta lại được gặp nghệ thuật miêu tả ước lệ. Mùa xuân là lúc chim yến , chim oanh tụ họp lại ríu rít bay lượn trên không trung. Tác giả đã vận dụng hình ảnh ấy dưới cách nói ẩn dụ “nô nức yến anh” để gợi tả hình ảnh những đoàn người đi du xuân trong không khí rộn ràng, đông vui. Xuân không chỉ về trong thiên nhiên mà còn tràn ngập trong lòng người. Các tính từ “gần xa”, “nô nức” đã đặc tả cảnh người người khắp nơi cùng tụ hội lại trong tâm trạng náo nức, vui tươi của lễ hội. Đó cũng chính là tâm trạng của chị em Thúy Kiều khi: “Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”. Sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”, những cô thiếu nữ như họ ít có dịp được tham gia một cuộc vui nhộn nhịp như lần này, nên dù chưa đến hội, hai chị em đã như mở hội trong lòng. Động từ “sắm sửa” đã diễn tả được sự háo hức, trông mong ấy của họ. Rất tự nhiên, họ hòa vào dòng người nườm nượp những nam thanh nữ tú. Dưới cách nhìn phơi phới xuân xanh của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã biến một cảnh lễ hội tưởng như năm nào cũng có thành một ấn tượng khó phai trong mắt người đọc. Nếu như ở hai câu thơ trước có “yến anh” thì ở hai câu sau cũng rất xứng với “tài tử giai nhân”, làm bật lên cảnh những chàng trai cô gái phong lưu, thanh lịch, áo quần tươi thắm trong buổi hội xuân đang “Gặp tuần đố lá, thỏa lòng tìm hoa”. Từ láy “dập dìu” gợi lên từng đoàn, từng đoàn người đi lại tấp nập, đông đúc nhưng vẫn rất uyển chuyển, nhịp nhàng như những đợt sóng. Nhịp điệu ấy làm chậm lại dòng chảy trong “ngựa xe như nước”, và cho dù “áo quần như nêm” nhưng lễ hội lại không chật cứng mà vẫn có một điều gì đó rất khoan thai trong từng chiếc xe, từng bước chân. Ấy là sự khoan thai, thơ mộng và trữ tình của tâm hồn tuổi trẻ đang say sưa trong không khí mùa xuân. Hai hình ảnh so sánh được đặt liên tiếp nhau trong câu thơ càng khiến cho khung cảnh ấy thêm sống động. Nguyễn Du đã vô cùng khéo léo trong việc biến đổi phép đối, khi thì dồn lại giữa “tài tử” và “giai nhân”, khi thì tách giãn “ngựa xe như nước” và “áo quần như nêm”, khi ẩn khi hiện một sức hút khó tả và rất riêng của cảnh ngày xuân. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng hàng loạt những từ có hai âm tiết thuộc nhiều từ loại khác nhau để miêu tả không khí lễ hội thật rộn rã: danh từ (yến anh, chị em, tài tử, giai nhân), động từ (sắm sửa, dập dìu), tính từ (gần xa, nô nức). Trong đó vừa có từ ghép, vừa có từ láy, tự sự hòa vào với miêu tả, làm sống lại trước mắt người đọc một ngày hội đậm chất trữ tình, khiến cho ta cũng như ngây ngất trong không khí tràn đầy sức xuân ấy. Và tất nhiên, tả lễ hội trong tiết Thanh minh thì không thể thiếu một phong tục rất quen thuộc:
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay
Phong tục cổ truyền đã có từ nghìn xưa được Nguyễn Du đưa vào câu thơ thật sinh động. “Ngổn ngang gò đống” không chỉ gợi tả cảnh những ngôi mộ mà còn muốn nói đến những đống tro tàn vương vãi khắp nơi trên mặt đất. Đi tảo mộ, không thể không rắc thoi vàng vó, đốt tiền vàng mã, để tưởng nhớ những người đã khuất. Trong cảnh tượng khói bay nghi ngút ấy như âm ỉ cháy những lời thì thầm vọng về từ quá khứ, từ ông bà tổ tiên. Sự cách trở âm dương tưởng chừng như bị xóa nhòa, quá khứ được kéo gần hơn tới hiện tại trong không gian thiêng liêng đầy thành kính ấy. Không hề có sự nặng nề, âm u tưởng chừng như luôn chập chờn đâu đó khi ta nhắc đến mồ mả, mà thay vào đó là một nét đẹp rất thanh tao của văn hóa phương Đông về nghĩa tình với những người đã khuất. Có thể trong thời buổi hiện đại ngày nay, phong tục ấy được xem là sự mê tín cổ hủ, nhưng giá trị nhân văn trong những vần thơ của Tố Như vẫn làm ta xúc động về đời sống tâm linh của người xưa. Vẫn là bút pháp gợi hình gợi cảm, nhưng bằng hàng loạt từ ngữ miêu tả, Nguyễn Du đã tái hiện lại cảnh "hội" mùa xuân thật sống động, rộn ràng và tươi vui nhưng cũng không làm mờ đi chữ "lễ" qua những phong tục cổ truyền của dân tộc.
Buổi du xuân vui vẻ cũng dã tới chỗ phải nói lời tạm biệt. Vẫn là cảnh mùa xuân, vẫn là không khí của ngày hội lễ, nhưng bây giờ là giây phút cuối ngày:
"Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong canh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nuóc uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang."
Nếu câu thơ mở đầu của "Cảnh ngày xuân" chan hòa ánh sáng "thiều quang" thì đến đây, hoàng hôn dường như bắt đầu nhuốm dần xuống phong cảnh và con người. Hội đã hết, ngày đã tàn nên nhịp thơ không còn cái rộn ràng, giục giã mà trái lại thật chậm rãi, khoan thai. Cảnh vật vì thế mang cái vẻ nên thơ, dịu êm, vắng lặng trong ánh nắng nhạt dần. Dòng khe có chiếc cầu nho nhỏ cuối ghềnh tạo thành đường nét thể hiện linh hồn của bức tranh một buổi chiều xuân. Nhịp chân có chút tâm tình man mác nên "thơ thẩn" và đến đây là "bước dần", chẳng có gì nao nức, vội vàng. Các từ láy "tà tà", "thanh thanh", "nho nhỏ", "nao nao" góp phần làm nên sự yên ắng và nỗi buồn của cảnh vật, của con người. Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút phá ước lệ cổ điển nhưng vẫn gợi cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen vì nó đã thấm hồn dân tộc, mang bóng dáng cảnh sắc quê hương Việt Nam.Rõ ràng, cảnh ở đây được nhìn qua tâm trạng nhân vật tham gia vào lễ hội. Hai chữ "nao nao" (Nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Dòng nước nao nao, trôi chậm lưu luyến bên chân cầu nho nhỏ, phải chăng cũng là nỗi lưu luyến, tiếc nuối của lòng người khi ngày vui chóng qua? Nguyễn Du đã từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tươi mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này, Nguyễn Du không chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà hình như, ông chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là một dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua.
Nguyễn Du đã cho ta thấy một ngày xuân nô nức, vui tươi. Nghệ thuật tả cảnh, tả tình của ông như thế thật khéo và cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.
Câu trả lời của bạn
Khác với khung cảnh rạo rực, vui tươi vào buổi sớm của tiết thanh minh, buổi chiều Cảnh Ngày Xuân lại được Nguyễn Du khắc họa nhuốm một màu mang mác, trầm lắng. 6 câu thơ cuối trong bài Cảnh ngày xuân vẽ lên một nỗi niềm ưu tư, một nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đầy dụng ý bậc cao của tác giả:
“ Tà tà bóng ngả về Tây
Chị em thở thẩn giang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
Không còn những nô nức, hồ hởi như ở đoạn đầu, đến đây giọng thơ lắng xuống, chậm dãi từng khắc như kéo dài ra một nỗi buồn da diết mênh mang, lênh láng đến xót lòng. Trong cái bức tranh buổi chiều man mác ấy có sự đan xen hài hòa của 3 màu sắc hữu tình: đó là thời gian là cảnh vật và không thể thiếu đó là con người.
Nguyễn Du thật khéo léo, tài tình khi mở ra khung cảnh hoàng hôn trữ tình, xuyến xao thật nhẹ nhàng, thật tự nhiên:
“Tà tà bóng ngả về Tây”
“Tà Tà” gợi ra những ánh nắng nhè nhẹ đang lả lướt buông về phía cuối phương trời xa. Một chút chậm rãi, một chút chùng chình như muốn níu lại những khoảnh khắc tươi đẹp cuối cùng còn sót lại của cảnh ngày xuân. Cái nhịp sống chậm rãi, vô tình, đỏng đảnh ấy khiến cho buổi chiều hiện về không mang màu sắc thê lương, buồn tủi, đớn đau quen thuộc như trong văn học cổ.
Những ánh nắng xế chiều buông xuống, khoác lên cảnh vật chiếc áo bảng lảng nỗi buồn:
“Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
Tác giả đã vận dụng linh hoạt các cảnh vật: ngọn tiểu khê; dòng nước; dịp cầu, ghềnh nước để tô vẽ nên bức tranh cảnh trời chiều. Đây là những cảnh vật đặc sắc, có thể khắc họa được rõ nét nhất dòng chuyển dịch chậm rãi của thời gian. “Ngọn tiểu khê” đang in những bóng dài lên cung đường; dòng nước quẩn quanh uốn khúc, róc rách; dịp cầu cuối ghềnh bắc ngang,…tất cả như đang ánh lên một nỗi bâng khâng, nuối tiếc, tiếng nấc rủ rỉ, trơ trọi, vướng mắc đến nao lòng.
Hàng loạt các từ láy được đặc tả như: “nao nao; thanh thanh; nho nhỏ” làm dịu lại khung cảnh chiều tà; không đìu hiu; héo hắt mà vẫn thanh tao, lãng mạn. Dù nhỏ bé, cô quạnh, lững lờ nhưng vẫn đẹp, vẫn dịu nhẹ đến nao lòng người. Một nét vẽ với gam màu ấm lững lờ làm nức lòng bao lữ khách thanh minh.
Các cảnh vật được soi chiếu dưới ống kính từ gần đến xa, từ nhỏ bé đến to lớn. Một vài nét khắc họa lại vẽ được trọn vẹn một bức tranh xế chiều tuyệt đẹp đến thế. Thật huyền diệu và uyên bác biết chừng nào.
Một bức tranh muốn đẹp, muốn có hồn, muốn đậm sâu trong lòng độc giả thi không thể không có nhưng dáng dấp nhỏ bé của con người. Nguyễn Du sâu sắc vô cùng khi vận dụng khéo léo quy luật tả cảnh ngụ tình trong thơ văn xưa cổ : “ Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu / Người buồn người có vui đâu bao giờ.” Cảnh vật thời gian như nhuốm màu tâm trạng của lòng người tơ vương:
“ Chị em thơ thẩn dang day ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
….
Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh.”
Nếu như vào tiết trời sáng thanh minh tươi đẹp, dịu mát, căng tràn nhựa sống thì đến đây trời đã về cái cuối chiều, bữa tiệc vui nào cũng đến hồi kết. Con người trở về với cái chốn bình yên, với cái nhịp sống chậm rãi cuối ngày tàn. Những từ láy không chỉ miêu tả tâm trạng mà còn gợi nên lòng người. Hai chữ “thơ thẩn” bộc lộ trạng thái bần thần, nuối tiếc, lạc lõng, bơ vơ của chị em Kiều khi ra về. Hàng loạt các từ láy được đặt liên tiếp cuối mỗi câu thơ: “nao nao; thanh thanh; nho nhỏ” như một điệp khúc láy lại, xoáy sâu vào nỗi vô thức của dòng cảm xúc sâu lắng ấy. Một nuỗi buồn da diết, miên man, kéo dài man mác.
Cảnh vật tĩnh lặng nhưng lòng người lại chẳng bình yên. Cụm từ “dang tay” được đăt chen ngang giữa dòng thơ như đang cố níu lại, cố tận hương nốt những dư vị ngọt ngào, đẹp đẽ cuối cùng còn sót lại của tiết thanh minh Tháng 3. Và phải chăng “dang tay” như cái ôm sẻ chia, cái ôm đồng cảm với nỗi niềm dạt dào của 2 chị em Kiều.
Cảnh và người như giao hòa vào nhau, nâng đỡ nhau, tô điểm nhau làm nên một bức tranh cuối ngày thật đẹp, thật hòa quyện, khe khẽ sầu cay.
Đoạn thơ tuy ngắn nhưng lại được tác giả đầu tư công phu nhiều bút pháp nghệ thuật độc đáo, vừa cổ điển vừa hiện đại lại đậm chất thi vị. Nhịp thơ như dòng trôi nhẹ nhang, lững lờ với các thanh trắc đan xen, nối nhau liên tiếp. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cổ điển đặc sắc. Tất cả đã vẽ nên một bức tranh ánh chiều chan chứa màu sắc; âm thanh; và cả hồn người lay động. Một bức tranh chân thực nhưng lại ý nghĩa, tâm trạng vô ngần.
Bức vẽ cũng như cánh cửa mở ra những dự cảm bất lành, chông chênh trong cuộc đời Kiều về sau này.
Hội xuân kết thúc cũng là lúc Kiều trở về với cuộc sống như ngày thường? Nhưng liệu rằng Kiều có còn được “bình yên sống trọn một kiếp người” trốn khuê các? Liệu rằng cuộc sống của Kiều có êm đềm, tươi đẹp như sắc tài của nàng. Bức tranh Cảnh ngày xuân đặc biệt là 6 câu thơ cuối đã hé lộ phần nào cuộc đời của người con gái sắc sảo ấy. Những câu thơ như làm dậy lại một nỗi niềm xưa cũ đầy bâng khuâng luyến lưu đầy dư vị.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Phân tích so sánh cảnh mùa xuân trong câu thơ cổ Trung Quốc với thơ Nguyễn Du
Câu trả lời của bạn
Phân tích, so sánh cảnh mùa xuân trong câu thơ cổ Trung Quốc: Phương thảo liên thiên bích, Lê chi sổ điểm hoa (Cỏ thơm liền với trời xanh, Trên cành lê có mấy bông hoa) với cảnh mùa xuân trong câu thơ: Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa (Truyện Kiều) để thấy được sự tiếp thu và sáng tạo của Nguyễn Du.
Trong văn chương đông tây kim cổ, vẻ đẹp tràn đầy sức sống của mùa xuân đã trở thành nguồn thi hứng bất tận để các thi sĩ làm thơ ca ngợi. Biết bao bức tranh phong cảnh thiên nhiên mùa xuân được vẽ nên bằng những ngôn từ trác tuyệt, làm rung động hồn người mà hai câu thơ cổ Trung Quốc sau đây là ví dụ tiêu biểu:
Phương thảo liên thiên bích,
Lê chi sổ điểm hoa.
(Cỏ thơm liền với trời xanh,
Trên cành lê có mấy bông hoa.)
Vẻn vẹn chỉ mười chữ mà miêu tả được đặc điểm nổi bật của khung cảnh mùa xuân – mùa của sự sống sinh sôi, nảy nở. Hiển hiện trước mắt ta là triền cỏ tốt tươi kéo dài bát ngát, tưởng chừng như nối liền với trời xanh. Giữa không gian mênh mông ấy, nổi bật lên sắc trắng của dăm đóa hoa lê mới nở trên cành. Hai màu xanh, trắng hòa hợp tạo nên vẻ đẹp thanh cao, tao nhã của bức tranh. Bầu không khí sực nức hương thơm của cỏ non (phương thảo). Hương thơm ấy thấm đẫm bầu trời, mặt đất, thấm đẫm hồn người, khiến con người có cảm giác lâng lâng sảng khoái, như muốn tan hòa vào vạn vật xung quanh.
Bút pháp miêu tả của thi nhân xưa đã đạt đến mức thần điệu. Con mắt quan sát, ngòi bút, tài hoa, sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc, đường nét… thể hiện khả năng của một họa sĩ tài ba. Cho nên, dẫu chỉ đọc có một lần thì hai câu thơ ấy vẫn đọng lại mãi mãi trong tâm hồn ta.
Là một đệ tử của cửa Khổng sân Trình, bản thân lại học rộng, hiểu nhiều nên Nguyễn Du đã tiếp thu được tinh hoa của những câu thơ như thế. Trên cơ sở đó, ông viết ra hai câu thơ có dấu ấn sáng tạo của riêng mình. Nguyễn Du tả cảnh thiên nhiên trong tiết Thanh minh. Đây là bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thảm cỏ non trải rộng tới chân trời là gam màu làm nền cho bức tranh xuân. Trên cái nền màu xanh non ấy, điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Màu sắc có sự hài hòa tới mức tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi và giàu sức sống. Chữ điểm làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn.
Mới đọc qua không ít người sẽ cho rằng hai câu thơ trên chỉ là sự chuyển thể thành lục bát hai câu thơ ngũ ngôn chữ hán kia mà thôi. Nhưng đọc kĩ thì không hẳn là như thế.
Trong nguyên văn, nhà thơ cổ Trung Hoa tả màu xanh của cỏ nối liền với màu xanh của da trời và nhấn mạnh độ rộng, độ dài của không gian cùng hương thơm của cỏ. Còn câu thơ của Nguyền Du lại thiên về miêu tả màu xanh mơn mởn của cỏ non để thông qua đó thể hiện sức sống, nhịp sống bừng bừng của mùa xuân. Màu xanh mướt của cỏ non không chỉ chiếm lĩnh vạn vật mà còn chiếm lĩnh tâm hồn, đem lại cho con người tình yêu thiên nhiên tha thiết.
Trên cái nền xanh mênh mông của cỏ non kéo dài đến tận chân trời, nổi bật lên một vài đốm trắng của hoa lê. Hai màu tương phản tôn thêm vẻ đẹp cho nhau. Cỏ càng xanh, hoa lê càng trắng và ngược lại. Tất cả đều thanh khiết, trong sáng tuyệt vời!
Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du có xa, có gần; có thấp, có cao; có diện, có điểm; có hình khối, đường nét; màu sắc hài hòa. Đơn giản mà hoàn mĩ, ngắn gọn mà hàm súc. Trong thơ có họa là vậy. Chỉ mười bốn chữ mà đủ cánh, đủ tình, phản ánh sự mẫn cảm, tinh tế và tài năng sáng tạo điêu luyện của Nguyễn Du.
Hướng dẫn soạn bài " Cảnh ngày xuân" - Trích "Truyện Kiều" - Nguyễn Du - Văn lớp 9
Câu trả lời của bạn
(Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Bố cục:
- Phần 1 (bốn câu thơ đầu): Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tuyệt đẹp.
- Phần 2 (tám câu thơ tiếp theo): Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh.
- Phần 3 (sáu câu thơ cuối): Cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về.
Câu 1:
Bốn câu thơ đầu gợi tả khung cảnh thiên nhiên với vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Đó là hình ảnh chim én chao liệng như thoi đưa giữa bầu trời xuân trong sáng, thảm cỏ non xanh mượt mà của bức tranh xuân điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Màu sắc có sư hài hòa tới mức tuyệt diệu. Tất cả hòa quyện, gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân mới mẻ, tinh khôi, tràn trề sức sống (cỏ non), khoáng đạt, trong trẻo (xanh tận chân trời), nhẹ nhàng, thanh khiết (trắng điểm một vài bông hoa). Chữ "điểm" làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có tâm hồn, không tĩnh tại. Trong đoạn thơ cùng với bút pháp ước lệ vừa gợi thời gian vừa gợi không gian mùa xuân, tác giả còn dùng nhiều từ ngữ giàu chất tạo hình gợi tả màu sắc, đường nét, cái hồn của cảnh vật.
Câu 2: Khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh Minh được gợi tả trong tám câu thơ tiếp:
- Phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh)
- Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bởi hàng loạt các từ ghép tính từ, danh từ, động từ:
+ Từ ghép danh từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân.
+ Từ ghép động từ: sắm sửa, dập dìu.
+ Từ ghép tính từ: gần xa, nô nức.
Câu 3:
Sáu câu cuối gợi tả cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về. Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp cầu như bắc ngang. Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng. Mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thần, dòng nước uốn quanh. Tuy nhiên, cái không khí nhộn nhịp, rộn ràng của lễ hội không còn nữa, tất cả đang nhạt dần, lắng dần. Cảnh thay đổi bởi không gian, thời giant hay đổi, và cảnh lúc này được cảm nhận qua tâm trạng. Những từ láy: "tà tà", "thanh thanh", "nao nao" không chỉ gợi ta sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Từ "nao nao" như nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Đó là cảm giác bâng khuâng xao xuyến, thấm đượm một nỗi buồn man mác dịu nhẹ.
Câu 4:
Đoạn trích Cảnh ngày xuân có bố cục cân đối, hợp lí. Mặc dù không thật rõ ràng nhưng cũng có thể nói đến kết cấu ba phần: mở đầu, diễn biến và kết thúc.
Tác giả đã sử dụng nhiều từ ngữ giàu chất tạo hình những từ láy gợi hình, tình tứ tả màu sắc, từ ghép… Tác giả kết hợp tài tình bút pháp tả cụ thể, chi tiết và bút pháp gợi có tính chất chấm phá, điểm xuyết.
Nguyễn Du đã cho thấy một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên điêu luyện, sắc sảo.
Câu 1 (trang 87 SGK):
+ Nguyễn Du đã tiếp thu ý tưởng từ câu thơ câu thơ cổ Trung Quốc để miêu tả bức tranh thiên nhiên mùa xuân. Bức tranh mùa xuân ở hai câu thơ hiện lên với những nét vẽ tương đồng với nhau:
→ Cỏ xanh trải dài tận chân trời, mở ra không gian bao la, ngút ngàn (cỏ thơm liền với trời xanh - cỏ non xanh tận chân trời).
→ Cành lê với những bông hoa lê trắng điểm xuyết.
+ Sự sáng tạo của Nguyễn Du so với cổ nhân thể hiện tập trung ở câu thơ thứ hai.
→ Ở câu thơ cổ Trung Quốc chỉ đơn thuần là miêu tả lại trên cành lê nở mấy bông hoa.
→ Câu thơ "Cành lê trắng điểm một vài bông hoa" của Nguyễn Du đặc biệt nhất mạnh vào bút pháp chấm phá điểm xuyết. Trọng tâm trong bức tranh của Nguyễn Du chính là những bông hoa lê trắng giữa nền xanh bao la của đất trời. Tác giả đã sử dụng phép đảo ngữ, đặt động từ "điểm" lên trước cụm danh từ "một vài bông hoa".
Câu 2 (trang 87 SGK): Học thuộc lòng đoạn thơ
- Qua đoạn trích, học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, lễ hội ngày xuân tươi đẹp trong sáng.
- Đồng thời, học sinh phân tích được những giá trị nghệ thuật thể hiện qua từ ngữ và bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình của đại thi hào Nguyễn Du.
Đoạn trích : "Cảnh ngày xuân " nằm ở phần nào của tác phẩm "Truyện Kiều" :
Câu trả lời của bạn
nằm ở phần I ngay sau 'chị em Thúy Kiều'
Sau đoạn tả tài sắc chị em Thúy Kiều, đoạn này tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của chị em Kiều
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *