Qua bài học giúp các em hiểu rõ các yêu cầu đối với bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ, biết và nắm vững cách làm bài văn đáp ứng tốt các yêu cầu đề bài.
Đọc các đề bài trong sách giáo khoa (trang 79) để trả lời các câu hỏi.
a. Các đề bài trên được cấu tạo như thế nào?
b. Các từ trong đề bài như phân tích, cảm nhận và suy nghĩ biểu thị những yêu cầu gì đối với bài làm? (Từ phân tích chỉ định về phương pháp, từ cảm nhận lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ cảu người viết, từ suy nghĩ nhấn mạnh tới nhận định, phân tích của người làm bài. Trường hợp không có lệnh người viết bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề được nêu ra trong đề bài. Sự khác biệt trên chỉ ở sắc thái, không phải là các kiểu bài như khác nhau).
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi
Trong văn bản trên, đâu là phần Thân bài, ở phần này người viết đã trình bày những nhận xét gì về tình yêu quê hương trong bài thơ Quê hương. Những suy nghĩ, ý kiến ấy được dẫn dắt, khẳng định bằng cách nào, được liên kết với phần Mở bài và Kết bài ra sao?
Văn bản có tính thuyết phục, sức hấp dẫn không? Vì sao? Từ đó có thể rút ra bài học gì qua cách làm bài nghị luận văn học này?
Để biết và nắm vững cách làm bài văn đáp ứng tốt các yêu cầu đề bài, các em có thể tham khảo thêm
bài soạn Cách làm bài văn nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 9 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Giúp mik với, mik cần gấp. Cảm nhận câu thơ sau
Những bàn chân từ thanh bụi lầy bùn
Đã bước dưới mặt trời các mạng
Câu trả lời của bạn
+ Những bàn chân từ than bụi lầy bùn
Đã bước dưới mặt trời cách mạng."
Con người Việt Nam đều xuất thân từ than bụi, bùn lầy, từ khó khăn, lầm lũi nhưng với một lòng yêu nước thiết tha, sâu nặng. Những con người rất đỗi bình thường ấy đã góp phần tạo nên chiến thắng của dân tộc như ngày hôm nay. Và những bàn chân ấy đang từng bước tiến tới Mặt trời cách mạng, mặt trời chân lí. Tố Hữu khẳng định, con đường dẫn tới Cách mạng là con đường giải phóng, con đường của tự do, hạnh phúc. Dân tộc ta đang bước đi những bước oai vệ trên con đường ấy.
"Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn, đứng dậy, sáng lòa"
Cho đoạn trích :
" Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn lên sự nghiệp lớn
Tinh thần phải càng cao"
Bằng những bài thơ em đã học, bằng chính cuộc đời của bác em hãy chứng minh ý thơ trên
Giúp mk vs !!!
Mk cảm ơn !
Câu trả lời của bạn
Hồ Chí Minh là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong thế kỉ XX. Ngoài thơ tiếng Việt, Người còn để lại nhiều thơ chữ Hán, tiêu biểu nhất là lập "Nhật kí trong tù" - một tập thơ "trăm bài trăm ý đẹp". Bên cạnh những bài thơ chứa chan tình còn có những bài thơ sáng ngời chất thép. Nói về chất thép trong thơ Hồ Chí Minh, nhà văn Hoài Thanh có viết: "Khi Bác nói trong thơ có thép, ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép ở trong thơ. Có lẽ phải hiểu một cách linh hoạt mới đúng. Không phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép, mới có tinh thần thép". Đó là một nhận xét tinh tế, thú vị.
"Nhật kí trong tù" có một số bài khẳng định dũng khí của người chiến sĩ: "Đề từ", "Bốn tháng rồi", "Nghe tiếng giã gạo"...
"Thân thể ở trong lao
Tinh thần ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao".
(Đề từ)
Không cao đàm khoát luận. Là trang nhật kí, viết để đối thoại với mình, vần như mang tính "hướng nội", lòng tự nhủ lòng, tự an ủi động viên mình trong những tháng ngày "ác mộng’". "Tinh thần ở ngoài lao" "kiên trì và nhẫn nại", "không chịu lùi...", "không nao núng...", là chất thép, là ý chí kiên cường, là tinh thần bất khuất của người chiến sĩ vĩ đại.
"Nhật kí trong tù" có rất nhiều bài thơ trữ tình không nói đến cách mạng, đến tinh thần chiến đấu, có nghĩa là không hề "nói chuyện thép" và "lên giọng thép", ấy thế nhưng "chất thép" lại ẩn chứa sau từng vần thơ, từng hình ảnh, từng câu chữ, hay đằng sau những nụ cười hóm hỉnh, hài hước hoặc mỉa mai.
Trong tù, chân tay bị cùm trói, muỗi rệp, đói rét, "ghẻ lở mọc đầy thân", mà tù nhân vẫn thưởng thức vẻ đẹp của ánh trăng lọt qua cửa ngục, vẫn làm thơ, và "Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu". Đó là chất thép. Nhìn xiềng xích và dây trói quấn đầy mình lại ví: "Rồng cuốn vòng quanh chân với tay - Trông như quan võ quấn tua vai". Mỗi bước chân đi, tiếng xích sắt kêu loảng xoảng, bất chợt nảy ra so sánh thú vị: "Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung". Cái nhìn ấy, nụ cười hóm hỉnh ấy được hiện ra trong cảnh địa ngục trần gian thì chính đó là chất thép của một con người mà "uy vũ bất năng khuất". Có nhiều bài thơ ghi lại cảnh chuyển lao. Có hành trình "Năm mươi ba cây số một ngày - Áo mũ đầm mưa rách hết giày". Có cảnh bị giải đi "Hôm nay xiềng sắt thay dây trói". Có chặng đường khổ ải: "Gió sắc tựa gươm mài đá núi - Rét như dùi nhọn chích cành cây”. Đó là những gian khổ mà Bác đã nếm trải trên con đường lưu đày. Đó cũng là chất thép. Một nội lực ghê gớm, một bản lĩnh phi thường, một tinh thần bất khuất lạc quan mới có thể làm nên chất thép ấy.
Chất thép trong "Nhật kí trong tù" có khi thể hiện trong cách nhìn của Bác đối với thiên nhiên, có lúc là niềm khoái cảm mà người tù cảm nhận được trong khoảnh khắc "tự do". Một tâm hồn chan hòa với thiên nhiên, luôn luôn làm chủ hoàn cảnh. Phong thái của người tù là cốt cách của một tao nhân mặc khách ung dung, tự tại
Các bạn làm giúp mình bài này với
Đọc thơ bác ta thấy rõ lòng yêu thiên nhiên tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ cộng sản trong hoàn cảnh gian khổ ngay cả nơi tù ngục tối tăm.Dựa vào 2 bài thơ ngắm trăng và tức cảnh pác bó của chủ tịch HCM em hãy làm sáng tỏ nhận định trên
Mình đang cần gấp . Cảm ơn các bạn nhiều nha
Câu trả lời của bạn
Có thể nói hình nhiên luôn chiếm một vị trí danh dự trong thơ Bác. Ở hầu hết các bài thơ đều thắm đậm sắc màu của lá, hoa cây cỏ, núi, sông,… Bởi đối với Người được làm cách mạng và sống hòa hợp với thiên nhiên là một niềm vui lớn. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Người luôn dành cho thiên nhiên một tình yêu tha thiết, qua đó thể hiện tinh thần lạc quan và phong thái ung dung, tự tại của Người.
Thiên nhiên vốn là hình ảnh chủ đạo trong thơ cổ. Người xưa lấy cảnh ngụ tình, chuyển tải cái chiêm nghiệm ở đời qua sự vật và hình ảnh. Thiên nhiên trở thành chuẩn mực của cái đẹp, cái cao cả.
Thơ Bác cũng đầy ắp hình ảnh thiên nhiên. Thiên nhiên trong thơ Bác lúc nào cũng tươi đẹp, tràn đầy sức sống, có xu thế vươn lên ánh sáng. Sự vật được sắp xếp hài hòa trong mối tương quan vận động hợp lí. Ít lời mà nhiều ý, gợi ra được cái quy luật của vũ trụ nhân sinh. Người không chú trọng khắc họa chi tiết, Thơ Bác chú trọng đến sự vận đông bên trong của sự vật. Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” thể hiện sâu sắc quan điểm ấy:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”.
Trọn vẹn bài thơ không có màu sắc, không có âm thanh, chỉ là sự ghi nhận thực tại theo đúng trình tự của nó. Ấy thế mà, đọc xong bài thơ, trước mắt người đọc hiện ra một khung cảnh tươi xanh, thắm biếc của núi rừng Pác Bó. Chính hình ảnh bờ suối, rau măng gợi ra không gian của cây xanh, núi dốc, của rừng già, vực sâu. Bất chợt đâu đó vang lên tiếng chim kêu gọi bầy, tiếng vượn hú bên nguồn nước và tiếng gió đại ngàn vi vu thổi. cả không gian rộng lớn được giấu kín giờ hiển hiện, phô bày. Điều kì diệu đó chính là do thủ pháp điểm nhãn, lấy ý gợi hình, nắm bắt được cái thần thái của cảnh vật và quy luật tâm lí con người của Bác.
Với bài thơ “Đi đường”, hình ảnh thiên nhiên hiện ra với bao khó khăn, trắc trở. Đôi khi, thiên nhiên lại cản bước con người. Thế nhưng, đến khi vượt qua hết cách trở ấy sẽ nhận được phần thưởng vô giá mà thiên nhiên ban tặng: đó là cảnh vật vĩ đại nhìn từ trên đỉnh cao:
“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muon trùng nước non”.
Người luôn có ý thức trân trọng thiên nhiên và xem thiên nhiên như một người bạn, đôi khi là người tri kỉ, sẻ chia tâm tình. Dù là khi còn tự do hay lúc bị giam cầm, thiên nhiên lúc nào cũng gần gũi thân tình, hữu ái. Bài thơ “Ngắm trăng” bộc lộ rõ ràng tình cảm ấy:
“Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Mặc dù ở trong ngục tù, Người vẫn dành cho thiên nhiên một sự ưu ái lớn lao. Vầng trăng sáng trên cao là hình ảnh thiên nhiên tràn đầy sức sống, đang gọi mời, tâm tình tỏ bày với người bạn xưa. Trăng cũng có hồn, cũng biết ngắm nhìn và cảm thông. Còn người vượt lên trên nghịch cảnh, vươn tới ánh sáng. Ngục tối có thể giam hãm thân thể Người nhưng không thể nào giam hãm tinh thần Người. Qua đó, có thể thấy, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, lúc còn tự do hay khi bị giam hãm, người vẫn yêu mến thiên nhiên tha thiết với một tinh thần lạc quan, yêu đời đắm say. Không có gì có thể cản trở Người tìm đến và đắm mình trong thiên nhiên hiền hòa.
Không chỉ có thế, thơ Người còn thể hiện một phong thái ung dung, tự tại giữa cuộc đời bão tố. Trong khung cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, Người hiện lên như một vị tiên ông, ung dung, tự tại, điềm tĩnh vô cùng:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang'”.
Dù cuộc đời cách mạng với bao hiểm nguy, khó khăn vất vả thế nhưng Bác vẫn không hề quá lo lắng. Bởi Người luôn nuôi dưỡng khát vọng giải phóng dân tộc. Dù có bao nhiêu vất vả thì Người vẫn không hề than vãn, kêu ca. Trọn cuộc đời Người sống vì nhân dân, vì đất nước. Phong thái ung dung, tự tại không phải là thờ ơ trước cuộc đời mà đó là ý chí sắt đá của người chiến sĩ kiên trung, vượt lên trên khó khăn thử thách, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.
Đường dẫu xa, núi dẫu cao, Người vẫn ung dung bước tới. Và khi đã lên đến tận cùng thì cảnh vật bao la hiện ra trước mắt, đem lại cho Người cảm giác hạnh phúc vô biên của người chiến thắng.
Với thiên nhiên, Bác luôn chân thành và nồng nhiệt, thiết ha. Tinh thần ấy được khẳng định mạnh mẽ hơn trong bài thơ “Ngắm trăng”, được viết lúc người bị giam cầm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch. Không một bản án dành cho Người, không thời hạn để chờ đợi, tin tưởng. Thế nhưng, trước cảnh đẹp đêm nay đã khiến Người “khó hững hờ”. Người tù từ trong bóng tối nhìn ra vầng trăng sáng, còn vầng trăng từ bên ngoài tìm đến nơi người tù. Người và cảnh giao hòa trong trạng thái thanh cao, đẹp đẽ vô cùng:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Hiện lên trong bức tranh tĩnh lặng ấy hình ảnh người tù, người chiến sĩ ung dung, đĩnh đạc mắt hướng về trăng sáng. Bóng tối của ngục tù và sựu lãnh lẽo của buồng giam dường như tan biến mất, chỉ còn đây một tiên nhân đang trong cuộc thưởng du cái đẹp của đất trời.
Một đời Bác đã hi sinh vì nước vì dân. Chưa bao giờ Người nghĩ đến riêng mình. Với thiên nhiên, Người là một người bạn chân tình, thủy chung. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào Người vẫn dành cho thiên nhiên một tình yêu tha thiết, với tinh thần lạc quan yêu đời và phong thái ung dung tự tại, điềm tĩnh rất đáng kính phục.
cảm nhận:
Viet nam dat nuoc ta oi
menh mong bien lua dau troi dep hon
canh co bay la dap don
mây mờ che đỉnh trường sơn sớm chiều
Câu trả lời của bạn
Đoạn thơ bộc lộ cảm xúc dạt dào của tác giả trước những vẻ đẹp bình dị trên đất nước Việt Nam thân yêu. Hình ảnh “biển lúa” rộng mênh mông gợi cho ta nièm tự hào về sự giàu đẹp, trù phú của quê hương. Hình ảnh “cánh cò bay lả dập dờn” gợi vẻ nên thơ, xao xuyến mọi tấm lòng. Đất nước còn mang niềm tự hào với vẻ đẹp hùng vĩ của “đỉnh Trường Sơn” cao vời vợi sớm chiều mây phủ. Đoạn thơ đã giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha yêu quý và tự hào về đất nước của tác giả Nguyễn Đình Thi. Đất nước Việt Nam ta hiện ra trong khổ thơ trên của nhà thơ Nguyễn Đình Thi thật giàu đẹp và đáng yêu, thật nên thơ và hùng vĩ. Sự giàu đẹp và đáng yêu đó đựoc thể hiện qua những hình ảnh: Biển lúa mênh mông hứa hẹn một sự no đủ, cánh cò bay lả rập rờn thật thanh bình, giản dị và đáng yêu. Sự hùng vĩ và nên thơ được thể hiện qua hình ảnh đỉnh Trường Sơn cao vời vợi sớm chiều mây phủ. Đất nước Việt Nam ta tươi đẹp biết nhường nào!
--------------------------
Bài thơ được viết dưới thể lục bát, âm điệu nhẹ nhàng, bay bổng nhưng cũng không kém phần sôi nổi, trầm hùng. Câu thơ mở đầu như câu hát ca ngợi da diết:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.
Từ lâu, 4 câu thơ trên đã đi vào tiềm thức mỗi người dân Việt Nam như một niềm tự hào về quê hương. Nhà thơ đã tinh tế vẽ nên một bức tranh màu sắc hài hòa, tươi đẹp, rất đặc trưng của làng quê Việt. Giữa nền xanh biếc “biển lúa” là hình ảnh đàn cò trắng chao nghiêng rập rờn. Cánh cò ấy không cao vút tầng không mà “bay lả” giữa cánh đồng, dưới những đám mây mờ bị che phủ bởi đỉnh núi, mở ra khung cảnh về một đất nước thanh bình.
Để có được sự thanh bình ấy, dân tộc ta đã phải trải qua bao đau thương, mất mát, chịu bao gông xiềng của phong kiến, đế quốc. Hình ảnh “mảnh áo nâu nhuộm bùn” như minh chứng cho sự gian lao, tảo tần, cho đức hy sinh của những con người thật thà, chất phác. Trước muôn vàn khổ đau, mảnh đất nghèo biến những con người bé nhỏ thành những anh hùng bất khuất, không chịu lùi bước trước bạo tàn mà “chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên”. Trong mọi hoàn cảnh, lòng yêu nước luôn được đặt lên trên hết.
Chiến thắng của nhân dân ta cũng chính ở tinh thần tự cường và ý chí gan dạ ấy. Vần thơ Nguyễn Đình Thi độc đáo ở chỗ, bên cạnh những cụm từ nhanh, mạnh còn là những gam màu nóng của “áo nâu”, “máu lửa”, “đất đen”, thể hiện bản lĩnh kiên định của người dân chân chất yêu chuộng hòa bình. Cao cả hơn là tính nhân văn được tác giả gói gọn trong câu thơ “súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”. Những con người không chỉ anh dũng trong chiến đấu mà còn biết vượt qua mất mát chiến tranh, chịu thương, chịu khó cùng nhau xây dựng đất nước hòa bình, hạnh phúc.
Từ bức tranh làng quê tươi đẹp, thanh bình ở hiện tại, tác giả gợi lại hình ảnh quá khứ hào hùng của dân tộc, để rồi sau đó lại hòa âm điệu nhẹ nhàng, thanh thoát vào nhịp sống mới mẻ. Đó là một Việt Nam chan hòa ánh nắng, nơi “hoa thơm, cỏ ngọt bốn mùa trời xanh”, nơi con người “yêu trọn tấm tình thủy chung”. Đất nước còn mang vẻ hữu tình bởi vô vàn cảnh sắc tươi mới: màu đen đôi mắt trở nên “long lanh” đầy cảm xúc, bàn tay rắn rỏi trong đau thương cũng như có “phép tiên”… Tất cả dệt nên một cuộc sống tinh khôi.
Quê hương không chỉ là nơi ta sinh ra, mà còn là nơi in dấu tuổi thơ, nơi của những “bâng khuâng chuyến đò” mà đêm đêm vọng câu hò Trương Chi. Mảnh đất “chôn rau, cắt rốn” ấy chan chứa bao nghĩa tình, khiến ai đi xa cũng phải nhớ về. Điệp từ “ta đi ta nhớ” càng nhấn mạnh tình yêu son sắt, sự gắn bó bền chặt:
Ta đi ta nhớ núi rừng
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ
Từ nỗi nhớ nước non đến nỗi nhớ những điều dung dị, mộc mạc:
Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô
Bát cơm rau muống quả cà giòn tan
“Ta” lớn lên nhờ đồng ruộng và khoai ngô, nhờ bữa cơm đạm bạc của rau muống, quả cà dầm tương. Thức quà của làng quê giản dị mà nuôi nấng biết bao thế hệ nên người. Dù mai này cất bước đến đâu, bữa cơm ấy vẫn luôn hiện hữu như sợi dây gắn kết để gợi nhớ quê hương. Yêu đất nước cũng chính là yêu từ bao điều bình dị như thế.
Đất nước ngày một khang trang, đời sống nhân dân cũng đổi thay rõ rệt. Vậy nhưng, hình ảnh hào hùng trong quá khứ và niềm vui của con người những năm đầu hòa bình sẽ mãi trường tồn với thời gian. Để mỗi chúng ta có thể tự hào rằng, Việt Nam đất nước ta ơi/ Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn…
Chỉ cần 4 dòng thơ mà tác giả đã đem lại tinh thần dân tộc cho mỗi chúng ta, một bài thơ đậm tinh thần dân tộc sâu sắc
----------------------------------------------
cam nhan doan tho sau
ga me hoi ga con
da ngu chua day ha
ca dan ga nhao nhao
ngu ca roi day a
Câu trả lời của bạn
MB: giới thiệu sơ lược về tác giả và bài thơ
TB: -Phân tích biện pháp nghệ thuật và tác dụng của nó
-Lời nói các nv trong bài
- nói lên sự liên tưởng và tâm trạng của mình
KB: trình bày cảm nhận của em về cái hay cái đẹp cái ngộ nghĩnh của bài thơ
Lời thơ ngộ nghĩnh,nghe như lời của em bé mẫu giáo .Tác giả dùng biện pháp nhân hóa đạt ra tình huống:Gà mẹ hỏi gà con/Đã ngủ chưa đấy hả?Gà đâu biết nói nhưng trong thế giới của các bé chuyện này hoàn toàn được chấp nhận.Gà mẹ dẫn con đi kiếm ăn,nó liên tục kêu cục cục lũ gà con đáp lại chiếp chiếp.Đó là mẹ con nhà gà đang "nói" chuyện đấy.Mà mẹ con gà trong bài thơ lại còn ngộ hơn cơ.Nghe mẹ gà hỏi cả bọn nhao nhao ngủ cả rồi đấy ạ .Sao mà giống mấy bé thế ,rõ ràng ngủ rồi thế mà vẫn trả lời được .Điều không lô gíc trở thành lôgic trong thế giới trẻ thơ từ tình yêu đối với trẻ,từ sự quan sát tinh tế ,cách kể chuyện nhẹ nhàng ,hóm hinh cuả Phạm Hổ .Bài thơ sẽ đồng hành cùng tuổi thơ của nhiều thế hệ Việt Nam. đồng hành cùng tuổi thơ của nhiều thể hệ Việt Nam.
Mẹ bảo em:dạo này ngoan thế
không mẹ ơi/con đã ngoan đâu
áo mẹ mưa bạc màu
đầu mẹ nắng cháy tóc
mẹ ngày đêm khó nhọc
con chưa ngoan chưa ngoan.
các bạn giúp mình cảm thụ bài này với
hay vào nhá
Câu trả lời của bạn
Em nhỏ trong đoạn thơ trên thật hiếu thảo.Khi mẹ đi làm,hầu như tất cả công việc nhà đều do em làm hết.Tối mẹ về,thấy nhà của tươm tất gọn gàng,mẹ keh em:Dạo này ngoan thế.Đây quả là một lời khen xứng đáng cho những việc làm của em.Người đọc chắc chắn sẽ cười và nghĩ,em bé trong đoạn thơ sẽ thẹn thùng không nói lên lời.Nhưng không.Em không những không vậy.Em đã biết nghĩ đến những nỗi gian lao vất vả của mẹ,những ngày mẹ đi lảmtong mưa đến bạc cả áo,những ngày mẹ đi làm trưa nắng cháy cả tóc.Em cảm nhận được những việc làm của mình chỉ là một phần thật nhỏ,thật nhỏ so với những việc mẹ làm,những tình cảm thương yêu mà mẹ dành cho em.Người đọc một phen cảm động trước câu đáp giản dị mà đầy tình thương yêu trong đó:"Không mẹ ơi/Con đã ngoan đâu/Áo mẹ mưa bạc màu/Đầu mẹ nắng cháy tóc/Mẹ ngày đêm khó nhọc/Con chưa ngoan,chưa ngoan..."
cho mk hỏi bài này vs m.n ơi : hãy nêu cảm nhận của e về đoạn trích sau :
" gió đưa cành trúc la đà
tiếng chuông trấn vũ canh gà thọ xương
mịt mù khói tỏa ngàn xương
nhịp chày yên thái mặt gương tây hồ "
làm thế nào bây giờ mk không biết nên trình bày sao nữa ...
Câu trả lời của bạn
Bài ca dao Gió đưa cành trúc la đà là một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh mùa thu vào buổi sáng sớm nơi kinh thành Thăng Long. Mỗi câu thơ là một cảnh đẹp được chấm phá qua ngòi bút đặc sắc của các tác giả dân gian nhằm ca ngợi cảnh đẹp quê hương:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Ca dao dân ca xưa và kể cả không ít những nhà thơ đã tả nhiều về vẻ đẹp thanh bình kinh thành Thăng Long. Cảnh mùa thu thật đẹp, gió nhẹ nhẹ đủ làm gợn sóng mặt hồ Tây, bên bờ hồ liễu rủ biêng biếc. Câu thơ mở đầu cho thấy gió rất nhẹ, gió không thổi mà chỉ đưa nhẹ nhàng làm đung đưa những cành trúc rậm rạp la đà sát mặt đất. Cành trúc được làn gió thu trong trẻo, mát lành vuốt ve êm dịu, cùng vói gió cành trúc khẽ lay động bay cùng chiều gió.
Gió đưa cành trúc la đà
Cảnh đẹp thật gợi cảm, gợi tình trong khí thu mát mẻ trong lành. Câu thơ có màu xanh của trúc, khe khẽ của gió, và đương nhiên khí thu, tiết thu, bầu trời khoáng đạt, những cánh diều vi vu trên không, đằng sau những cành trúc la đà là tiếng oanh vàng thánh thót.
Mùa thu câu cá - Bài thơ nổi tiếng tả cảnh sắc mùa thu nơi đồng bằng Bắc Bộ của Nguyễn Khuyến cũng có gió nhẹ làm mặt ao lăn tăn, chiếc lá thì khẽ đưa vèo. Còn Đỗ Phủ thì “Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc”. Đó chính là những tín hiệu mùa thu.
Nếu như ta chỉ cảm nhận bằng thị giác là chính sau những cành trúc la đà mặt đất thì câu thơ thứ hai lại là động là âm thanh.
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Đây là thủ pháp quen thuộc lấy xa tả gần, lấy động tả tĩnh. Xa xa văng vẳng tiếng chuông Trấn Vũ êm êm gây không khí rộn ràng náo động. Tiếng gà tàn canh Thọ Xương vọng tới. Tiếng chuông ngân vang hoà cùng tiếng gà gáy le te. Âm thanh như tan ra hoà cùng đất trời sương khói mùa thu. Trong làn sương khói, ánh sáng đêm thu bao phủ tràn khắp mọi nẻo, nhịp chuông vang vọng cùng gà gáy như làm cho mọi vật càng mơ màng thơ mộng hơn. Cuộc sống đang say tràn trong niềm vui háo hức:
Mịt mù khói toả ngàn sương
Khói toả mịt mù được đảo lại mịt mù khói toả. Thủ pháp nghệ thuật đảo ngữ làm tăng sự huyền ảo lung linh của cảnh vật, của cuộc sống. Mặt đất một màu trắng mờ, do màn sương bao phủ. Nhìn cận cảnh hay viễn cảnh đều có cảm giác như mặt đất đang chìm trong khói phủ. Cuộc sống yên bình tĩnh lặng, vũ trụ đang quay, thời gian trôi đi, trời trở về sáng. Tiếng chày đều tay từ phường Yên Thái ngân vang dồn dập. Nhịp chày chính là nhịp đập của cuộc sống, sức sống mạnh mẽ của kinh đô này. Bình minh ửng hồng phía đằng Đông xua tan làn sương khói. Hồ Tây mênh mông phẳng lặng như chiếc gương khổng lồ sáng dần lên in hình phố cổ. Đây là hình ảnh trung tâm mặt gương Tây Hồ, một tứ thơ toả sáng làm cho cả bài bừng lên:
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Bài thơ tả cảnh dẹp kinh thành Thăng Long, nhưng thông qua miêu tả cảnh, ẩn chứa tình cảm tự hào về quê hương đất nước:
Rủ nhau chơi khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
Quê hương đang ngày ngày thay da đổi thịt, cảnh tình thấm vào nhau rung động mãi trong hồn ta. Tâm hồn tác giả thật say sưa mới có những vần thơ hay đến vậy.
Bài ca dao để lại trong ta ấn tượng tuyệt vời về Thăng Long. Nó giúp ta yêu hơn tự hào hơn, về kinh đô ngàn năm văn hiến. Bài ca dao mang vẻ đẹp cổ điển hoa lệ như một bài cổ thi trác tuyệt.
Trong bài "một khúc ca xuân"nhà thơ Tố Hữu có viết:
"Nếu là con chim bay hay chiếc lá
Con chim phải hót,chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình"
Từ hình ảnh con chim,chiếc lá,em hãy viết bài văn nêu lên suy nghĩ về lý tưởng sống của thanh niên hiện nay.
Làm bài văn giúp mình vs
Câu trả lời của bạn
Gợi ý nhé bạn :)
1. Mở bài
- Con người sinh ra được “vay mượn” từ tạo hoá, từ cha mẹ, từ mọi người xung quanh.
- Vì vậy, phải nhớ ơn và sống có ích để trả ơn cho đời.
2. Thân bài
- Tô' Hữu mượn hình ảnh con chim, chiếc lá để minh hoạ cho lí tưởng Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.
* Con chim: tạo hoá ban cho giọng hót => Hót phục vụ cho đời.
* Chiếc lá: được thừa hưởng nắng mai, dưỡng khí => lá phải xanh tươi làm đẹp cho cuộc sống.
—> Hạnh phúc nhất là được cống hiến.
* Con người:
- Vay mượn tất cả từ cha mẹ, nhân loại và từ vũ trụ.
- Phải ghi ơn và trả ơn.
- Biểu hiện:
+ Sống lí tưởng, biết tự khẳng định mình trở thành công dân có ích.
+ Giúp đỡ mọi người.
+ Góp phần xây dựng quê hương đất nước.
—> Có như vậy thì mới xứng đáng là một Con Người.
III. Kết bài
- Phải biết sống cống hiến.
- Phát biểu quan niệm nhân sinh tích cực của bản thân.
Đoạn này bạn tham khảo để làm dẫn chứng nhé! :)
Thơ hay không chỉ giàu cám xúc mà còn lấp lánh chất trí tuệ, lí trí, mang hàm nghĩa sâu xa. Tôi rất thích khi đọc đoạn thơ sau đây, rút trong bài Một khúc ca xuân của Tố Hữu viết vào tháng 12 năm 1977:
Nếu là con chim, là chiếc lácảm nhận bài thơ sau và trình bày suy nghĩ của em trước thông điệp về cách ứng xử đối với người bất hạnh mà bài thơ gửi gắm.
Dặn con
Chẳng ai muốn làm hành khất
Tội trời đày ở nhân gian
Con không được cười giễu họ
Dù họ hôi hám úa tàn
Nhà mình sát đường họ đến
Có cho thì có là bao
Con không bao giờ được hỏi
Quê hương họ ở nơi nào
Con chó nhà mình rất hư
Cứ thấy ăn mày là cắn
Con phải răn dạy nó đi
Nếu không thì con đem bán
Mình tạm gọi là no ấm
Ai biết cơ trời vần xoay
Lòng tốt gửi vào thiên hạ
Biết đâu nuôi bố sau này.
(Trần Nhuận Minh)
P/S:Làm thành bài văn giúp mình nhé^^
Câu trả lời của bạn
GỢI Ý:
- Đây là bài làm dạng nghị luận xã hội. Vấn đề xã hội được bàn luận ở đây được dẫn dắt từ một tác phẩm văn học.
- Xác định vấn đề nghị luận: Trên cơ sở hiểu được chủ đề của bài thơ: Thông qua lời người cha trò chuyện với người con về thái độ đối với những người ăn mày, bài thơ khắc sâu đạo lý: Con người phải có lòng trắc ẩn với những ai gặp rủi ro, bất hạnh. Đó chính là tinh thần của các câu tục ngữ: “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách”.
- Bài làm có lí lẽ, có dẫn chứng lấy từ đời sống và cả trong văn học.
a. Yêu cầu về hình thức:
Đúng hình thức một bài văn từ 2-3 trang ( tùy theo sở trường) với kết cấu và lập luận chặt chẽ; văn viết trong sáng, câu chữ gọt rũa, không có sai sót về văn phạm.
b. Yêu cầu về nội dung:
HS trình bày quan niệm của mình, và đây là khoảng không gian tự do nhất trong phát ngôn của các em. Tuy nhiên, văn là người và ngược lại. Cho nên, một bài văn tốt phải được xây dựng trên những suy nghĩ, cảm xúc đúng đắn, hướng thiện, tiến bộ, nhân văn. Vì thế, cần có những ý cơ bản sau:
b.1 Xác định vấn đề nghị luận:
- Vấn đề nghị luận ẩn trong chủ đề bài thơ. Cần tóm tắt ý được diễn đạt trong mỗi phần của bài thơ.
- Có thể thấy các ý sau:
+ Hai dòng đầu khổ một “Chẳng ai muốn làm hành khất – Tội trời đày ở nhân gian” nêu một quan niệm về những người hành khất: Trong cuộc đời, ngoài ý muốn, con người ta có thể gặp những rủi ro, thiệt thòi. Người hành khất, người bất hạnh là người đáng thương xót chứ không đáng bị khinh bỉ.
+ Mười dòng thơ tiếp theo: Căn dặn con cách cư sử với người hành khất: không cười giễu, phải giúp đỡ; giúp đỡ nhưng không làm họ tổn thương; không coi họ như kẻ trộm, không xua đuổi họ (“Con chó…đem bán”).
+ Khổ cuối: Thương người cơ nhỡ, bất hạnh là thương chính mình (“Lòng tốt gửi vào thiên hạ - Biết đâu nuôi bố sau này).
Có thể nói, mạch của bài thơ đi đến đạo lí tình thương: “Lá lành đùm lá rách”. “Thương người như thể thương thân”.
b.2 Bàn luận ( Khẳng định – Chứng minh).
- Những lời người cha dạy con tuy chỉ dựa trên một sự việc, hiện tượng ta thường gặp nhưng thể hiện một thái độ, một đạo lí sống. Đó là một thái độ, một đạo lí sống thân thiện, tốt đẹp, thông minh và thực tế.
- Bởi lẽ:
+ Mọi người sinh ra ai cũng có quyền sống, quyền bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhưng không phải ai cũng hạnh phúc và sung sướng như nhau. Mọi người sống trên đời đều có một hoàn cảnh, một số phận riêng không ai giống ai. Tùy thuộc những sự phân bố vừa ngẫu nhiên vừa tất nhiên mà những số phận khác nhau ấy sẽ may mắn hay hẩm hiu, hạnh phúc hay bất hạnh… không như nhau ( những điều kiện tự nhiên, xã hội và di truyền…). Nghèo khổ, bất hạnh không phải là tội lỗi, chỉ là sự rủi ro. Rủi ro sẽ dẫn đến thiệt thòi. Có thể kể đến các thiên tai, các đại dịch, các châu lục và miền đất có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt; những người bị ốm đau, bệnh tật hiểm nghèo; những em bé mồ côi; những nạn nhân của chiến tranh;…
+ Vì vậy, những người gặp điều kiện tốt, được hưởng cuộc sống tốt lành hơn phải biết chia sẻ, đùm bọc, giúp đỡ những người bất hạnh, thiệt thòi. Đó là lương tâm hướng tới sự công bằng, là trách nhiệm với đồng loại, là thiên tính tự nhiên của nhiều loài, nhất là ở con người. Cha ông ta có câu “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” là vì thế.
+ Giúp đỡ, chia sẻ với người thiệt thòi bất hạnh còn thể hiện sự phong phú, cao quí của tâm hồn và đức hạnh. Càng biết cảm thông, chia sẻ, con người càng bồi dưỡng được sức mạnh của lòng nhẫn nại và tình thương để hướng tới một cuộc sống hữu ích, lớn lao.
+ Đùm bọc, chia sẻ có vai trò quan trọng góp phần xây dựng một xã hội văn minh, nhân ái, làm cho mối quan hệ giữa con người với con người trở nên tốt đẹp hơn.
+ Cuộc sống sẽ tươi đẹp hơn nếu mỗi con người biết “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”.
Một con người thương yêu là một con người cao quí, hạnh phúc. Một xã hội nhân đạo là một xã hội văn minh, phát triển. Một cử chỉ xót thương là một hành động mạnh mẽ, thiết thực.
- Phê phán: hiện tượng một số người sống thiếu sự đồng cảm, sẻ chia, vô cảm trước những bất hạnh, éo le của người khác. Khi chúng ta không tự bồi dưỡng được một cách nhìn, một thái độ và một cách ứng xử tốt đẹp thì hậu quả sẽ tiêu cực: Người thiệt thòi càng khốn khó, mỗi chúng ta không thanh thản,không hoàn thiện, đạo lí tốt đẹp của dân tộc bị mai một, xã hội không phát triển…
b.3 Những hành động thương yêu, chia sẻ của bản thân người viết.
- Nêu cảm nhận cề các câu thơ sau:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao
Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao.
Câu trả lời của bạn
giam cầm trong nhà tù Trung Quốc vào những năm 1942, 1943. Người viết tập thơ này dường như không có ý làm nghệ thuật, lưu danh hậu thế mà chỉ cốt để ngâm ngợi cho khuây khỏa những tháng ngày “mất tự do”. Tuy vậy, Nhật kí trong tù đã trở thành một tác phẩm lớn có giá rị về nhiều mặt trong lịch sử văn học Việt Nam cận, hiện đại. Nó có sức hấp dẫn lâu bền với nhiều thế hệ bạn đọc ở cả trong nước lẫn ngoài nước.
Mấy chục năm qua, kể từ khi tập thơ được công bố, nhiều người đã viết về tập thơ này. Họ nhấn mạnh đến giá trị phản ánh hiện thực, sức mạnh tố cáo của Nhật ký trong tù đối với chế độ nhà tù Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch. Tuy vậy, điều quan trọng nhất cần phải thấy: trước sau đây vẫn là một tập nhật kí bằng thơ, một tập nhật kí “hướng nội”, tác giả chủ yếu viết cho mình. Do đó, sức hấp dẫn của tập thơ chính là hình tượng của nhân vật trữ tình – tác giả Hồ Chí Minh, một chiến sĩ – thi sĩ. Vì vậy, hoàn toàn có lý khi sách giáo khoa Văn 12 đã khẳng định:
“Có thể xem Nhật kí trong tù như một bức chân dung tự họa con người tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh”
Đọc tác phẩm Nhật kí trong tù , chúng ta bắt gặp con người Hồ Chí Minh với tất cả vẻ đẹp, phong phú, sâu sắc trong tâm hồn, trong tính cách, trong cách nhìn, cách nghĩ suy về cuộc đời và con người. Nhật kí trong tù đúng là một “bức chân dung tự họa” bằng thơ về con người tinh thần của người sáng tạo ra nó.
Qua hơn một trăm bài thơ, ta có thể nhận thấy nỗi khắc khoải nóng lòng, sốt ruột ngóng trông tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đọc còn nhớ, mùa thu 1942, với tư cách là đại biểu cho phong trào cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh có trọng trách tìm sang Trung Hoa để bàn cách phối hợp hành động chống bọn đế quốc, phát xít. Nhưng vô cớ, Người bị bọn mật vụ Quốc dân đảng bắt giữ và sau đó, bị giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác, không được xét xử. Người cũng hoàn toàn không được biết đến bao giờ mình mới được trả tự do. Hồ Chí Minh đau khổ vô hạn và thấm thía sâu sắc nỗi “mất tự do”. Nỗi đau khổ này được tác giả bộc lộ trong khá nhiều bài thơ. Chẳng hạn như trong một lần chuyển đổi nhà lao có bọn “cảnh binh khiêng lợn cùng đi”, Bác đã viết những câu thơ đầy cay đắng, biểu lộ một qui luật trong cuộc sống, mà qui luật này Người đã rút ra một cách thấm thía ngay trong cuộc sống đau khổ của chính mình:
Trên đời ngàn vạn điều cay đắng
Cay đắng chi bằng mất tự do
Hay, trong một bài thơ khác, bài Bị hạn chế, Hồ Chí Minh cũng khẳng định: Đau khố chi bằng mất tự do
Nỗi sốt ruột khắc khoải chờ mong kéo dài theo ngày tháng đã chuyển thành sự giận dữ, phẫn nộ. Người đã đặt cho bài thơ một nhan đề hết sức độc đáo là chỉ có một dấu hỏi chấm (?)
Quảng Tây đi khắp lòng oan ức
Giải đến bao giờ, giải tới đâu?
Bên cạnh con người nóng lòng, sốt ruột, đau khổ vô hạn vì mất tự do, người đọc còn bắt gặp trong Nhật kí trong tù một con người hoàn toàn tự chủ về mặt tinh thần, luôn bình thản ung dung, tự tại, tâm hồn như bay lượn trên bầu trời tự do, không sức mạnh của nhà tù nào giam hãm được. Như vậy, có thể nói chúng có thể giam cầm được thể xác Bác, nhưng không khi nào chúng có thể giam cầm được tinh thần Bác. Điều này đã được chính tác giả thể hiện qua hai câu thơ mở đầu, được xem như lời đề từ của tập Nhật kí trong tù:
Thân thể tại ngục trung
Tinh thần tại ngục ngoại
Có nghĩa là:
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao.
Và không ít lần, Hồ Chí Minh thấy mình là “khách tự do”, thanh thản, ung dung, tự tại như là một khách tiên. Điều này được thể hiện qua khá nhiều bài thơ như Đi Nam Ninh, Giải đi sớm, Vào nhà lao huyện Tỉnh Tây và có lẽ tiêu biểu phải kể đến bài Ngắm trăng sau đây:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Trong bài thơ này hoàn toàn không thấy tác giả nói đến nỗi đau khổ, bồn chồn vì bị mất tự do, mà chỉ thấy hình tượng một thi sĩ hết sức nhạy cảm và tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
Thực ra, trong chốn lao tù, ắt hẳn người thi sĩ đâu có được thưởng trăng một cách thoải mái. Có lẽ, song cửa nhà lao chỉ đủ cho lọt qua một chút ánh trăng thấp thoáng mà thôi. Song, cho dù chỉ như thế, nhưng với sức tưởng tượng phong phú, với tâm hồn yêu mến thiên nhiên, Hồ Chí Minh cũng cảm thấy dạt dào thi hứng, cũng cảm thấy bồi hồi xao xuyến trước cảnh đẹp của đêm trăng. Câu thơ thứ hai nguyên văn chữ Hán là:
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Có nghĩa: Trước cảnh đẹp đêm nay biết thế nào?
Câu thơ dường như có một chút bối rối. Cái bối rối rất thi sĩ… Tiếc rằng câu thơ dịch “Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ” đã làm mất “cái bối rối” rất thi sĩ đó. Người xưa thưởng trăng thường hay có rượu và hoa. Ở trong tù, Hồ Chí Minh làm sao có được những thứ này? Cho dù thế, thi hứng của nhà thơ vẫn dạt dào:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Thi nhân và ánh trăng tựa hồ như đôi bạn tri âm, tri kỉ, có sự giao hòa tuyệt diệu. Ánh trăng vô tri vô giác qua tâm hồn của người tù thi sĩ trở thành một nhân vật đáng yêu, có tâm trạng, có linh hồn. Trên đây là những câu thơ đặc biệt ý vị. Ý vị không phải chỉ xuất phát từ kĩ thuật làm thơ mà điều quan trọng nhất vần là tâm hồn, là xúc cảm của người tù – thi sĩ Hồ Chí Minh…
Đúng là đọc Nhật kí trong tù, chúng ta được chứng kiến nhiều cuộc vượt ngục bằng tinh thần của người tù Hồ Chí Minh. Khi thì Người thả hồn theo một áng mây trôi, một cánh chim chiều, một vầng trăng non, lúc thì Người dõi theo một vầng dương buổi sớm, một cảnh làng xóm ven sông, hay cảnh buổi tối khi cô thôn nữ vừa xay xong ngô tối thì lò than đã ửng hồng. Đặc biệt, tâm hồn của Hồ Chí Minh luôn hướng về Tổ quốc, về đồng chí, đồng bào; ngay trong giấc ngủ, Người cũng luôn mơ về đất nước thân yêu. Có những đêm, Bác trằn trọc mãi không sao ngủ được, đến “Canh bốn; canh năm vừa chợp mắt – Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”
Ngoài ra, trong “bức chân dung tự họa” của Hồ Chí Minh ta còn bắt gặp một trí tuệ lớn, một tầm tư tưởng lớn. Trí tuệ lớn trước hết thường được thể hiện qua cái nhìn đối với hiện thực. Hơn ai hết, Bác thấy rõ những bất công vô lí trong nhà tù Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch. Nhà tù này chính là nước Trung Hoa rộng lớn khi đó thu nhỏ. Bên cạnh đó, từ những sự việc nhỏ nhoi, tầm thường hằng ngày, với trí tuệ mẫn tiệp, Hồ Chí Minh rút ra được những khái quát, tìm ra qui luật của cuộc sống thông qua sự từng trải, sự chiêm nghiệm của chính bản thân mình. Vì vậy, một số câu thơ, bài thơ của Người có ý vị triết lí thâm trầm sâu sắc. Chẳng hạn, từ việc “Học đánh cờ”, Người rút ra tầm quan trọng của thời cơ đối với sự thành bại trong hoạt động của con người:
Lạc nước hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời một tốt cũng thành công.
Hay, nhà thơ khẳng định bản chất lương thiện của con người và sự ảnh hưởng của hoàn cảnh giáo dục:
Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền.
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên
Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng có những chiêm nghiệm đúng đắn về “Đường đời hiểm trở”, về sự phức tạp khó khăn trong cuộc sống xã hội:
Núi cao gặp hổ mà vô sự
Đường phẳng gặp người bị tống lao
Tuy nhiên, những nhận xét khái quát về cuộc đời, về con người của Hồ Chí Minh không bao giờ có ý vị yếm thế hay hư vô mà Người luôn hướng con người tới những hành động thiết thực để cải tạo con người, cải tạo hoàn cảnh. Điều đó chứng tỏ lòng tin vững chắc của nhà thơ vào bản chất, tốt đẹp của con người. Khi Bác khẳng định “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn – Phần nhiều do giáo dục mà nên” tức là Người đặt ra vấn đề giáo dục và tin tưởng ở kết quả xây dựng lực lượng cách mạng về sau. Những ai đã được sống gần Hồ Chí Minh đều nhận thấy sức mạnh cảm hóa của Bác. Niềm tin vào con người là hạt nhân quan trọng tạo nên niềm tin vào sự nghiệp cách mạng ở Hồ Chí Minh. Qua bài Đi đường, Bác thể hiện khá tập trung ý tưởng chinh phục khó khăn, hướng tới cuộc sống, hướng tới tương lai:
Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao chập chùng.
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non
Ngay trong cảnh gian khổ, khó khăn, Người vẫn nhìn thấy ánh sáng của tương lai tươi sáng:
Trong ngục giờ đây còn tối mịt
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi.
Hồ Chí Minh luôn có cái nhìn biện chứng về sự vận động của đời sống của tự nhiên. Bởi vậy, thơ Người viết trong tù vẫn khiến cho người đọc thêm niềm tin vào cuộc sống, vào con người. Có đêm gà vừa gáy lần đầu tiên, trời tối, gió rét, Hồ Chí Minh đã phải chuyển lao. Nhưng bỗng chốc, dưới con mắt của người tù thi sĩ, cảnh vật liền biến đổi, ánh sáng bình minh ấm áp rực rỡ xua tan bóng tối, người tù bỗng trở thành thi nhân nồng nàn thi hứng… như trong bài thơ Giải đi sớm. Đây là bài thơ quen thuộc với nhiều người
Dẫu sao, vẫn sẽ là một thiếu sót rất lớn, nếu như viết về “bức chân dung tự họa” nói trên, ta không đề cập tới lòng nhân ái bao la, sâu sắc của Bác Hồ.
Trong bài Bác ơi! Tố Hữu đã viết được những câu thơ rất hay, rất đúng về con người Chủ tịch Hồ Chí Minh
Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người!
Trước hết trái tim ấy dành cho những người lao khổ dù họ là người Trung Quốc hay người Việt Nam
Nhà thơ dễ dàng quên những đau đớn khổ sở mà mình phải chịu, nhanh chóng đồng cảm sâu sắc và phát hiện ra những bất hạnh, đau khổ của những người xung quanh để thông cảm, chia sẻ với họ. Bác thương cảm Vợ người bạn tù đến thăm chồng, đối với Cháu bé trong nhà lao Tân Dương, hay đối với Một người tù cờ bạc vừa chết… Chỉ cần nghe “Người bạn tù thổi sáo”, Bác chẳng những thấu hiểu nỗi lòng nhớ quê của anh ta, mà còn hình dung thấy ở chốn chân trời xa xôi kia có một phụ nữ bước lên một tầng lầu để ngóng trông chồng:
Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu.
Muôn đậm quan hà khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.
Trong tù Bác gọi những người cùng bị giam là “nạn hữu” (bạn tù) và Người cùng chia sẻ với họ những nỗi niềm sâu kín hay cùng đùa vui trong cảnh ghẻ lở khổ sở:
Mặc gấm bạn tù đều khách quý .
Gảy đàn trong ngục thảy tri âm.
Nhìn bao quát, tình yêu thương của Hồ Chí Minh mang tầm nhân loại
rộng lớn. Điều này tạo nên giá trị đặc biệt của tập thơ
Ở con người tác giả, rõ ràng có sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Bên cạnh sự nhạy cảm tinh tế, người đọc có thể nhận thấy ý chí sắt son, nghị lực phi thường, lớn lao, bền bỉ. Chất “tình” và chất “thép” được kết hợp một cách tự nhiên, hài hòa trong tập Nhật kí trong tù. Đúng như cách đây mấy chục năm nhà thơ Hoàng Trung Thông đã nhận xét về thơ Hồ Chí Minh: “Vần thơ của Bác vần thơ thép”. “Thép” chính là tinh thần chiến đấu kiên cường, bất khuất. Nhưng điều đáng quý là chất “thép” ấy được toát ra một cách tự nhiên, bình dị trong tư thế ung dung, tự tại của một con người làm chủ mọi tình huống. Có lần chuyển lao, Bác bị bọn lính xích chân vào thuyền , nhưng Người vẫn phát hiện cuộc sống đông đúc vui tươi của làng xóm bên sông, của những thuyền câu nhẹ lướt. Có lần, sau suốt một ngày đi xa vất vả, chiều xuống, Bác tới một xóm núi, gây ấn tượng đối với Người không phải là nỗi gian truân đã qua hoặc sáp tới mà lại chính là cảnh “Cô em xóm núi xayn ngô tối – xay hết lò than đã rực hồng”… Chất “thép” thể hiện đặc biệt rõ ở sự kiên định vững vàng, sẵn sàng chiến thắng mọi gian lao thử thách khắc nghiệt. Đối với Bác, mọi gian lao đều được coi như là những sự thử thách để rèn giũa con người thêm vững vàng kiên định. “Nghe tiếng giã gạo”, Hồ Chí Minh làm thơ như để khuyên mình: ‘
Gạo đem vào giã bao đau đớn,
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông.
Sống ở trên đời người cũng vậy,
Gian lao rèn luyện mới thành công.
Ý thơ này, Người vẫn hằng tâm niệm. Bởi vậy, ngay ở lời đề từ của tập thơ Bác đã khẳng định “Muốn nên sự nghiệp lớn – Tinh thần càng phải cao”. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến sự rèn luyện tu dưỡng của con người và Bác là một tấm gương sáng về tu dưỡng và rèn luyện này.
Nhật kí trong tù là một tập thơ có giá trị về nhiều phương diện. Sức hấp dẫn của tập thơ này trước hết đúng là sức hấp dẫn trong bức “chân dung tự họa con người tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Hay nói cách khác , sức hấp dẫn của tập thơ chính là sức hấp dẫn của “chất người cộng sản Hồ Chí Minh” (Xuân Diệu) … Là những cách nói khác nhau, nhưng tất cả đều nhằm khẳng định tác giả của Nhật kí trong tù là một nhân vật kiệt xuất, “đại trí”, “đại nhân” và “đại dũng”. Tập thơ thể hiện sinh động nhân vật kiệt xuất này.
nhận xét của em về cái tết trong thơ của Nguyễn Bính :
Bốn đường tàu chạy mưa xuân ấm
Triệu lá cờ bay gió tết lành
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo bánh chưng xanh
Câu trả lời của bạn
Gợi ý:
-Cái tết giản gị, sung túc, ấm no
Cụ thể :
-Câu đầu: Chỉ sự đông đúc, sung túc
-Câu tiếp chỉ sự độc lập :)
-Hai câu cuối đã trở nên "bình dân" như câu cửa miệng của người Việt ta mỗi độ Tết đến xuân về. Vẻn vẹn hai câu thơ mà gói gọn cả cái hồn, cái đặc trưng nhất, điển hình nhất, tinh túy nhất của Tết cổ truyền dân tộc.
văn cảm thụ
e hãy viết một đoạn văn nêu cảm nhận của em về khổ thơ sau
Ngày đầu tiên đi học
Mẹ dắt tay tới trường
Em vừa đi vừa khóc
Mẹ dỗ dành bên em
Ngày đầu như thế đó
Giáo như mẹ hiền
Em bây giờ khôn lớn
Vẫn nhớ về ngày xưa
Ngày đầu tiên đihọc
Mẹ cô cùng vỗ về
ngày đầu tiên đi học [viễn phương]
Câu trả lời của bạn
“Ngày đầu tiên đi học, mẹ dắt em tới trường, em vừa đi vừa khóc. Mẹ dỗ dành yêu thương,...” Đó là những cảm xúc đầu tiên của tôi khi chuẩn bị vào lớp một. Khi tôi ngân nga bài hát này thì lòng tôi lại nhớ đến những kỉ niệm đẹp của ngày đầu tiên đi học.
Nhớ lại lúc ấy, cái thuở tôi còn bé xíu cùng mẹ bước chân vào một ngôi trường tiếu học rộng thênh thang. Khi mới vừa bước chân vào trường thì tôi nắm lấy tay mẹ tôi thật chặt chứ không như những lúc ở nhà; đi đâu cùng được và cũng chẳng sợ gi. Có lẽ vì tôi đã quá quen với từng con hèm nhỏ ở nhà tôi nên tôi chẳng sợ gì cả, tôi chạy ***** lại thật xa. Vậy mà lúc ấy tôi lại chẳng dám rời khỏi mẹ dù chỉ một bước. Giờ học bắt đầu, cồng trường đóng lại, tôi bơ vơ trong lớp nhìn ra ngoài cổng xem còn có mẹ không. Tôi như ở một thế giới hoàn toàn khác khi tôi vừa chia tay mẹ. Lúc đó tôi chẳng biết phải làm gì chỉ biết đứng đỏ mà khóc. Và rồi, cô đến bên tôi, cô nắm lấy tay tôi và cô nói ràng: “Đừng sợ, có cô đây” Tôi nghe cô nói, lời nói thật ngọt ngào và dịu dàng biết bao. Tôi cứ ngỡ cô là người mẹ thứ hai của tôi, che chở, quan tâm, chăm sóc và dạy dỗ tôi. Tôi lúc ấy không còn đi chơi như ngày trước nữa mà tôi đã đi học.
Ngày đầu đi học thật khó, tôi chẳng biết gì cả. Tôi chẳng biết cầm bút, chẳng biết sách vở là gì nhưng điều đó chẳng khó gì khi có cô bên cạnh tôi. Cô đã chỉ tôi cách cầm bút, tập cho tôi viết chữ. Và rồi ba tiếng trống trường vang lên, báo hiệu giờ về đã đến. Những bạn khác thì được ba mẹ đón về nhà. Cô cũng về nhà, chỉ còn lại một mình tôi - cậu học trò lớp một cô đơn trong căn phòng lạnh lẽo. Tôi đã khóc, khóc rất to rồi đột nhiên có ai đó khẽ đặt tay lên vai tôi và nói: “Mình về nhà thôi con”, lúc đó tôi mới nhận ra là mẹ đã ở bên tôi.
Ôi! Sao tôi thương đến thế, sao tôi nhớ đến thế. Cái ngày đầu tiên đi học của tôi. Cái ngày mà tôi có nhiều ki niệm nhất trong tuổi thơ của mình.
cảm nhận đoạn thơ
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống lấp loáng( Tế HAnh)
Câu trả lời của bạn
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất miền Trung - Quãng Ngãi, một vùng đất cằn cỗi, quanh năm chỉ có gió và cát, một vùng quê nghèo. Do hoàn cảnh bắt buộc, ông rời xa quê hương từ thuở thiếu thời. Trong thời gian xa quê ông viết rất nhiều tác phẩm, chủ yếu là về quê hương, bằng tất cả những tình yêu, nỗi nhớ của mình. Một vùng đất đầy thơ mộng và rất đẹp trong thơ Tế Hanh. Trong đó có phần
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Xa quê, xa cả con sông. Có thể nói đó là nỗi đau của ông.
Qua những kỉ niệm, hồi tưởng về con sông trong “nỗi nhớ con sông quê hương”, Tế Hanh đã thể hiện một tình yêu quê hương tha thiết, mãnh liệt, một hình ảnh quê hương thân thiết, ruột rà.
Tâm hồn tôi là buổi trưa hè
Tỏa sáng dưới dòng sông láp loáng
Và cũng thật tự nhiên khi những hồi tưởng của tác giả lại có sức lay động thật mãnh liệt đến độc giả. Khi không gian kỷ niệm hiện lên trong ngần, tỏa nắng và mát rượi, đó cũng là lúc quê hương hiện hữu gần gũi, quyện hòa với hồn người.
:
Đối với Tế Hanh, quê hương luôn là bông hoa đẹp nhất trong vườn hoa.. Dù ở phương trời nào lòng ông vẫn nhớ quê hương, nó luôn dạt dào, cháy bỏng trong ông khiến nhà thơ thấy được hình ảnh quê hương liên tục hiện ra. Quê hương chính là sức sống của ông, ở một khía cạnh nào đó, ta lại thấy tình yêu quê hương của Tế Hanh rất đa chiều và phức tạp. Lúc da diết, ngập tràn với “Nhớ con sông quê hương”, nhưng lúc khác lại cho người đọc thấy một hồn thơ trẻ trung phơi phới của “Quê hương”. Nhưng dù ở góc độ, khía cạnh nào thì nó đều ẩn chứa một tình yêu, nỗi khát khao đoàn tụ, bày tỏ khát vọng gặp gỡ cụ thể. Không như thơ Huy Cận, Lưu Trọng Lư đầy chất mộng ảo, không như thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên hun hút sầu thương, thơ Tế Hanh trong sáng, khoẻ mạnh, đắm đuối rất thực. Bởi ông có một vùng quê bằng xương, bằng thịt, mà ông luôn dõi theo bằng đôi mắt rất thực, bằng trái tim có địa chỉ rõ ràng.
Có thể nói những bài thơ về quê hương trước và hai mươi năm sau Cách mạng Tháng Tám của Tế Hanh đã cất lên một tiếng ca trong trẻo, nồng nàn, thơ mộng về con sông hiền hòa đã. Mỗi chúng ta một lần nữa vui mừng khi được giao tiếp với một hồn thơ khoẻ mạnh, trong sáng song lại rất đỗi bình dị mà sâu sắc. Nó không hề làm nặng đầu ta với những bóng dáng siêu hình hay những vô thức u minh, nó chấp cánh mộng mơ, bồi đắp cho mỗi chúng ta tình yêu quê hương thắm thiết, là điểm trở về bình yên của ta trong cuộc đời nhiều bươn trải, cũng là sự thôi thúc ta vươn lên.
cảm thụ về đoạn thơ sau :
Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?
Nụ cười sẽ ra sao?
Ơi, độc lập!
Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc
Khi tự do về chói ở trên đầu
Câu trả lời của bạn
Dàn ý :
I / Mở bài : Chế Lan Viên là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ Việt Nam hiện đại. Thơ Chế Lan Viên giàu chất suy tưởng, triết lý, phong phú về hình ảnh, với một cảm xúc tinh tế đi liền với một trí tuệ sắc sảo. “NGƯỜI ĐI TÌM HÌNH CỦA NƯỚC” là một bài thơ hay, đặc sắc, thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Chế Lan Viên. Nhà thơ đã diễn tả tâm trạng nhớ thương quê hương, đất nước da diết, khôn nguôi của Bác Hồ trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước và niềm vui sướng, hạnh phúc tột cùng của Người khi đã tìm được chân lý cách mạng “Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác! Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất, Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre. Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ? Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương! Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở, Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương! Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp Giấc mơ con đè nát cuộc đời con! Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp! Một mái nhà yêu rủ bóng xuống tâm hồn. Trǎm cơn mơ không chống nổi một đêm dày Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi Lòng ta thành con rối Cho cuộc đời giật dây! Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ Tìm đường đi cho dân tộc theo đi. Hiểu sao hết Người đi tìm hình của Nước Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người Một góc quê hương, nửa đời quen thuộc, Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi... Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai Thế đi đứng của toàn dân tộc Một cách vinh hoa cho hai mươi lǎm triệu con người. Có nhớ chǎng, hỡi gió rét thành Ba Lê? Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa bǎng giá Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya? Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi, Những đất tự do, những trời nô lệ, Những con đường cách mạng đang tìm đi. Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa. Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây? Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử? Bao giờ dải Trường Sơn bừng tỉnh giấc ngủ Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây? Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao? Nụ cười sẽ ra sao?... Ơi, độc lập! Xanh biếc mấy là trời xanh Tổ quốc Khi tự do về chói ở trên đầu. Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc Sao vàng bay theo liềm búa công nông. Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã khóc Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin. Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin. Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc: "Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!" Hình của Đảng lồng trong hình của Nước. Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười. Bác thấy: dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt Ruộng theo trâu về lại với người cày Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, biển bạc... Không còn người bỏ xác bên đường ray. Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát Điện theo trǎng vào phòng ngủ công nhân Những keó quê mùa đã thành trí thức Tǎm tối cần lao nay hóa những anh hùng. Nước Việt Nam nghìn nǎm Đinh, Lý, Trần, Lê Thành nước Việt nhân dân trong mát suối Mái rạ nghìn nǎm hồng thay sắc ngói Những đời thường cũng có bóng hoa che. Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc Tuyết Matxcơva sáng ấy lạnh trǎm lần Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt Lênin mất rồi! Nhưng Bác chẳng dừng chân. Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi Kìa! Bóng Bác đang hôn lên hòn đất Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai.”
II / Thân bài : Khổ 1: Hình ảnh Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước : “Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi” Cách ngắt nhịp thơ 5/5 và dấu chấm giữa câu làm cho dòng thơ mở đầu mười chữ bị ngắt làm hai đoạn nói lên tình cảnh bức bách và tâm trạng quyến luyến Đau xót trước cảnh quê hương, “đất nước đẹp vô cùng” đắm chìm trong cảnh lầm than, nô lệ nên “Bác phải ra đi”. Trong bóng Người mang nặng nỗi đau mất nước, nhân dân đau khổ, tủi nhục dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nó thôi thúc Bác quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Với niềm xúc động chân thành, Chế Lan Viên đã cảm nhận sâu sắc cuộc hành trình trên đại dương bao la. Nhà thơ như muốn hóa thân thành con sóng đưa Bác vượt trùng khơi : “Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác” Câu thơ đến đột ngột thể hiện tâm trạng vội vàng, cuống quýt như muốn kịp theo chân Bác để cùng chia sẻ những nỗi vất vả, gian truân trong cuộc hành trình. Hình ảnh tưởng tượng làm sống lại giây phút lịch sử thiêng liêng. Nó thể hiện lòng kính yêu, lưu luyến của tác giả Con tàu đưa Bác xa dần, xa dần “Khi bờ bãi dần lui làng xóm khuất Bố phía nhìn không một bóng hàng tre” Hình ảnh “bờ bãi”, “làng xóm”, “hàng tre” có giá trị gợi cảm là biểu tượng cho quê hương xứ sở Từ “bốn phía” gợi không gian mênh mông, rộng lớn. Các từ “dần lui”, “khuất”, “không một bóng” diễn tả tâm trạng bồi hồi, nỗi cô đơn, bơ vơ của người ra đi Động từ “nhìn” biểu lộ tâm trạng nhớ nước nhớ quê nhà pha lẫn nỗi đau thương da diết, nỗi nhớ đầy đau thương như thấm sâu vào lòng người xa xứ Khổ hai: Tiếp tục khơi sâu tình cảm, tâm trạng buồn đau nhớ nước của Bác: “Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương” Trong “Đêm xa nước đầu tiên” ấy, lòng Bác trĩu nặng nỗi nhớ thương quê hương da diết khôn nguôi. Người trằn trọc, thao thức không sao chợp mắt bởi nỗi nhớ của người ra đi thật sâu sắc và thấm thía. Sóng nước nơi nào cũng là sóng nước. Nhưng trái tim có lý lẽ riêng: đã không phải nước trời quê hương thì tất cả đều xa lạ, ngỡ ngàng: “Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương”. Và người ra đi chỉ nằm nghe sóng vỗ ở mạn tàu. Tiếng sóng càng trở nên xa lạ, nỗi đau như tăng dần lên Tâm trạng con người giữa trùng dương mênh mông đi tìm đường cứu nước đang mang nặng tình quê hương sâu nặng : “ Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở Xa nước rồi càng hiểu nước đau thương “ Lòng lưu luyến khi từ biệt làm cho đất nước đẹp vô cùng, khi xa mảnh đất quê hương, xa đất nước thân yêu mới càng thấm thía đất nước đau thương. Hai câu thơ nhẹ nhàng, tha thiết như lời tâm sự sâu lắng của người con nhớ quê hương đất nước da diết, khôn nguôi. Tình yêu nước đó rất đỗi nồng nàn, thiết tha, sâu sắc. Khổ ba: “Đêm mơ nước ngày thấy hình của nước Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà” Với những câu thơ giàu hình ảnh, Chế Lan Viên đã thể hiện thực tinh tế tình cảm yêu nước sâu nặng và nỗi day dứt về vận mệnh đất nứơc, dân tộc của Bác . Đang sống giữa châu Âu tuyết trắng, giữa những hàng cây trơ trụi lá vàng xứ lạnh, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn Bác, trong tiềm thức, làng quê nhiệt đới bốn mùa xanh tươi vẫn hiện về đêm đêm. Giấc chiêm bao “xanh sắcbiếc quê nhà” thể hiện khát khao cháy bỏng của người con xa đất nước. Bác luôn trăn trở, day dứt trước tình cảnh đất nước đang đắm chìm trong cảnh lầm than, nô lệ: “Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa” Hình ảnh đối lập, tương phản “Ăn miếng ngon” _ “đắng lòng vì Tổ quốc”, “chẳng yên lòng”_ “ngắm một nhành hoa” cùng với lời thơ chứa chan cảm xúc đã gợi trong lòng người đọc niềm xúc động trước tâm trạng lo lắng, trăn trở nghĩ suy về vận mệnh đất nước của Bác. Người ăn không ngon, ngủ không yên mỗi khi nghĩ về Tổ quốc đang chịu nhiều thương đau. Trái tim giàu lòng yêu nước của Bác cùng đau với nỗi đau của dân tộc trong cảnh nước mất, nhà tan. Khổ bốn: Trải qua bao gian lao, thử thách trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước, Bác đã tìm được chân lý cách mạng: “Luận cương đến Bác hồ. Và Người đã khóc Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê Nin” Chuyển biến tâm lý của Bác đã được nhà thơ miêu tả thật tinh tế và xúc động. Qua giọt nước mắt sung sướng, cảm động Chế Lan Viên tài tình đặt ra mối quan hệ giữa hai nhân vật vĩ đại của cách mạng vô sản: Lê Nin và Bác Hồ. Thật sung sướng và hạnh phúc biết bao khi Bác Hồ đã tìm ra con đường cứu nước chân chính. Chủ nghĩa Mác_Lê Nin đã soi sáng tâm hồn Bác. Người đón nhận chân lý cách mạng ấy với tất cả trái tim, khối óc của mình: “Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách Tưởng bên ngòai đất nước đợi mong tin” Hình ảnh nhân hóa sinh động, giàu sức biểu cảm “Bức tường im nghe Bác lật từng trang sách” và “đất nước đợi mong tin” đã thể hiện niềm cảm thông sâu sắc. Tất cả như cùng chia sẻ, hòa cùng niềm sung sướng, hạnh phúc của Bác. Tác giả đã tập trung tái hiện giờ phút Bác Hồ đọc Luận cương của Lê Nin, đây là một thời khắc có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Khổ năm: Bác đã tìm ra hình của Nước. Niềm vui mãnh liệt trào dâng trong lòng Bác: “Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc Cơm áo là đây ! Hạnh phúc đây rồi !” Dòng thơ “Cơm áolà đây ! Hạnh phúc đây rồi !” có hai câu cảm liên tiếp, ngắt nhịp 4/4 đã diễn tả niềm vui náo nức, nồng nhiệt. Nhịp thơ nhanh, lời thơ sảng khóai phù hợp với việc diễn tả niềm vui sướng, hạnh phúc tột cùng của Bác trong giờ phút lịch sử thiêng liêng, trọng đại” “Hình của Đảng lồng trong hình của Nước Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười” Hình ảnh “Hình của Đảng lồng trong hình của Nước” thật đặc sắc, độc đáo, mới lạ mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Đó là biểu tượng cho vận mệnh đất nước gắn với vận mệnh của Đảng. Đảng cộng sản Việt Nam là linh hồn của dân tộc. Ánh sáng cách mạng cảu Đảng sẽ soi sáng cho dân tộc vững bước trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do. Nhà thơ đã bày tỏ niềm tin tưởng mãnh liệt, niềm tự hào về Đảng quang vinh. Cảm nhận sâu xa niềm vui sướng, hạnh phúc bất tận của Bác khi tìm ra con đường cứu nước chân chính, Chế Lan Viên đã viết: “Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười”. Hình ảnh đối lập, tương phản trong câu thơ đã tạo được ấn tượng sâu sắc và niềm xúc động trong lòng người đọc. Những giọt nước mắt hạnh phúc và nụ cười sung sướng của Bác còn đọng mãi trong trang sách và cuộc đời hôm nay và mai sau. III / Kết bài: “Người đi tìm hình của Nước” là một bài thơ hay, đặc sắc. Bài thơ là kết quả của sự sáng tạo nghệ thuật mới lạ, độc đáo và cảm xúc tinh tế của Chế Lan Viên. Với các biện pháp tu từ đặc sắc phong phú đạt hiệu quả nghệ thuật cao và hình tượng thơ giàu tính thẩm mĩ, Chế Lan Viên đã tạo nên hình tượng Bác Hồ _ Người đi tìm hình của Nước, khơi dậy trong lòng người đọc niềm xúc động chân thành trước tấm lòng yêu nước thiết tha, sâu nặng và tinh thần phấn đấu, hy sinh vì lý tưởng Cách mạng của vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Đọc bài thơ, en càng thêm yêu kính, cảm phục, biết ơn Bác Hồ, nguyện sống xứng đáng là lớp tuổi trẻ của thành phố được vinh dự mang tên Bác kính yêu .
cảm thụ về đoạn thơ sau :
Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc...
Tuyết Mat-xcơ-va sáng ấy lạnh trăm lần
Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt
Lênin mất rồi. Nhưng Bác chẳng dừng chân
Câu trả lời của bạn
Sự kiện lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê-nin (tháng 7/1920) đánh dấu bước ngoặt lịch sử trên hành trình tìm đường cứu nước của Người. Đó là cuộc gặp gỡ của một người dân Việt Nam đang bị thống trị và tước đoạt, nô lệ và tủi nhục với một lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Về giờ phút lịch sử được tiếp xúc với Luận cương, sau này, Bác Hồ đã kể lại: "Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta". Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế thứ ba". Trong giây phút thiêng liêng ấy, "Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê-nin" bởi Người hiểu "... Đường đến với Lê-nin là đường về Tổ quốc".
Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên (tháng 7/1920), giữa năm 1923, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vượt mọi vòng vây của đủ loại mật thám, từ Pari qua Đức và đến với nước Nga của Lê-nin, quê hương của Cách mạng Tháng Mười, với lòng mong đợi thiết tha là được gặp Lê-nin vĩ đại, nhưng không thể thực hiện được vì Lê-nin ốm nặng. Ngày 21/1/1924, Lê-nin qua đời. Nghe tin Lê-nin từ trần, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sững sờ, lòng đau như thắt lại.
Trong Hồ Chí Minh tuyển tập, NXB Sự thật (Hà Nội) năm 1980, tập 2, trang 175, Người kể lại: Ngày 23/1/1924, "Anh Nguyễn đi trong dòng người vô tận chuyển động một cách chậm chạp về phía cửa tòa nhà trụ sở công đoàn để viếng Lê-nin kính mến. Trời khô và rét tới 30 độ âm. Đường phố ngập tuyết, gió lạnh từ phương bắc thổi giật từng cơn, đâm vào da thịt như muôn vạn mũi kim châm. Hai tay, hai tai anh Nguyễn tê cứng và tưởng như nứt ra… Cùng với dòng người gồm công nhân, nông dân, hồng quân, trí thức, thanh niên và các đại biểu quốc tế, anh Nguyễn dừng lại một phút bên cạnh Lê-nin, cố nhìn Lê-nin. Ôi, lần đầu tiên được nhìn thấy Người, anh cố nhìn lâu hơn một chút để vĩnh viễn ghi lại trong tâm óc nét mặt yêu quý của Người thầy và Người dẫn đường. Khi anh Nguyễn từ nơi viếng Lê-nin đi bộ về khách sạn Lux ở gần đó thì đã khuya. Chân tay anh còn tê cóng, đôi chỗ rớm máu, người rét run. Anh vội gõ cửa buồng một đồng chí ở gần xin một cốc nước chè nóng. Và đêm ấy, dù tay đau cứng, trong buồng số 311 của khách sạn, anh ngồi vào bàn viết bài tưởng nhớ Lê-nin". Nguyễn Ái Quốc muốn thể hiện ngay trên mặt giấy tình cảm đau xót tràn ngập tâm hồn mình, Người viết mà nước mắt cứ trào ra, chảy dài trên đôi má lạnh cóng.
Đúng ngày lễ tang Lê-nin, 27/1/1924, báo Sự thật của Đảng Cộng sản Bônsêvich Liên Xô ra số đặc biệt, đăng trang trọng bài viết của Nguyễn Ái Quốc, đại biểu nhân dân Đông Dương và là người nước ngoài duy nhất, người dân thuộc địa duy nhất có bài viết trong số báo vĩnh biệt Lê-nin này. Với lời văn trong sáng, giản dị, cô đọng, sâu sắc, Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện tình cảm chân thành, nồng cháy với Lê--nin: "... Lê-nin là người dũng cảm nhất trong những người dũng cảm ở nước Nga... Lê-nin là người giải phóng cho chúng ta... Khi còn sống, Người là cha, là thầy học, người đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội".
Đường đến với Lê-nin của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong chặng đường đầu tiên gồm hai sự kiện: Gặp Lê-nin khi đọc tác phẩm của Người và gặp Lê-nin khi đến vĩnh biệt Lê-nin trong tang lễ của Người. Hai sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời của một con người mang tên Ái Quốc, cũng là bước ngoặt của cả dân tộc Việt Nam. Từ lòng yêu nước mà tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lê-nin, "Đường đến với Lê-nin là đường về Tổ quốc", một Tổ quốc Việt Nam độc lập của dân tộc Việt Nam tự do.
Sự gặp gỡ tư tưởng Nguyễn Ái Quốc - Lê-nin này phản ánh những nhu cầu đang đặt ra của lịch sử là xác định một con đường đúng đắn cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam nói riêng và các dân tộc thuộc địa nói chung. Nguyễn Ái Quốc chính là người đảm nhận nhiệm vụ lịch sử đó. Ánh sáng của tư tưởng Lê-nin đã soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc con đường đấu tranh giải phóng, không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà còn cho tất cả các dân tộc còn đang bị áp bức. Luận cương của Lênin chính là tia sáng đầu tiên của dòng ánh sáng đó.
Điều đó lý giải vì sao trong các bài giảng về đường cách mạng (1925 - 1927) thì mở đầu, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nói về tư cách một người cách mạng và tiếp theo là lời khẳng định: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê-nin", "Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam".
Trong một bài viết của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo Người cùng khổ năm 1924 có đoạn: "Không phải chỉ thiên tài của Lê-nin mà chính là tính coi khinh xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao thượng của bậc thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi". Lý tưởng về con người kiểu Lê-nin đã trở thành ngôi sao dẫn đường cho Nguyễn Ái Quốc. Đó chính là tấm gương về đạo đức cách mạng của người cách mạng, xuyên suốt và nhất quán từ Lê-nin đến lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Cũng từ đó, ta càng thấm nhuần sâu sắc ý nghĩa của việc đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
cảm thụ về đoạn thơ sau :
Ê mi-ly, con đi cùng cha
Sau khôn lớn con thuộc đường, khỏi lạc...
- Đi đâu cha?
- Ra bờ sông Pô-tô-mác
- Xem gì cha?
Không con ơi, chỉ có Lầu ngũ giác.
Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe
Ôi con tôi, mái tóc vàng hoe
Đừng có hỏi cha nhiều con nhé!
Cha bế con đi, tối con về với mẹ...
Câu trả lời của bạn
Ngày 2 tháng 11 năm 1965, một công dân Mĩ tên là Mo-ri-xơn đã tự thiêu trước trụ sở Bộ Quốc phòng Mĩ để phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau đây là câu chuyện của anh:
Người đàn ông bế đứa con gái nhỏ trên tay, nhằm thẳng hướng Lầu Năm Góc bước tới. Vẻ mặt anh đăm chiêu, nghĩ ngợi. Bé gái hồn nhiên hỏi cha đi đâu, anh đáp là cha sẽ đưa con ra bờ sông Pô-tô-mác. Bé hỏi tiếp là ra đó để xem cái gì thì anh lắc đầu buồn bã: “Chẳng có gì đáng xem đâu con ạ. Nơi đó chỉ có Lầu Ngũ Giác mà thôi!”.
Đối với anh, Lầu Ngũ Giác là nơi chứa đầy tội lỗi. Bọn người ở trong đó mà đứng đầu là tổng thống Giôn-xơn đã nhân danh “công lí" để mang những máy bay B.52 khổng lồ ném bom na-pan, phun hơi độc xuống đất nước Việt Nam; đốt phá nhà thương, trường học; giết hại hàng vạn trẻ em chỉ biết tung tăng cắp sách tới trường. Chất độc da cam đã giết chết màu xanh của rừng núi, ruộng đồng; giết chết những dòng sông hiền hoà, êm mát của thơ ca nhạc hoạ.
Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam là một cuộc chiến tranh phi nghĩa. Tội ác do lũ quỷ mặt người gây ra cho nhân dân Việt Nam đáng bị lên án ngàn đời. Phải góp phần ngăn chặn bàn tay đẫm máu của lũ hiếu chiến. Phải lên tiếng đòi hoà bình cho đất nước Việt Nam cách xa nước Mĩ nửa vòng trái đất. Mo-ri-xơn sau bao ngày đêm suy ngẫm, cuối cùng, anh đã chọn hành động can đảm là tự thiêu trước trụ sở Bộ Quốc phòng Mĩ để phản đối chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam.
Anh xiết chặt đứa con gái nhỏ vào lòng rồi thủ thỉ nói với con những điều tha thiết nhất: "Ê-mi-li con ơi! Trời sắp tối mất rồi, cha không thể bế con về nhà được nữa! Đêm nay, mẹ sẽ đến đây tìm con. Con hãy ốm lấy mẹ mà hôn và nói với mẹ rằng cha đi vui, xin mẹ đừng buồn! Con hãy gửi chiếc hôn này của cha cho mẹ nhé".
Hôn con xong, anh đặt con xuống thảm cỏ ven đường rồi bước nhanh đến trước Lầu Năm Góc để tự thiêu. Ngọn lửa từ con người anh cháy bùng lên như một ngọn đuốc khổng lổ, toả sáng buổi hoàng hôn ảm đạm mùa đông. Ngọn lửa sáng loà thức tỉnh bao người dân nước Mĩ về sự thật của cuộc chiến tranh phi nghĩa mà chính quyền Mĩ đang tiến hành ở Việt Nam.
Mo-ri-xơn đã đốt thân mình thành ngọn lửa sáng ngời bất diệt trong lòng nhân loại yêu chuộng hoà bình trên thế giới.
Cảm nhận của em về đoạn thơ sau :
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo .
(Đồng chí - Chính Hữu )
Câu trả lời của bạn
Đồng chí! Ôi tiếng gọi nghe sao mà thân thiết nghĩa tình đến vậy! Là một nhà thơ - chiến sĩ, với ngòi bút vừa hiện thực vừa lãng mạn, Chính Hữu đã viết bài thơ Đồng chí với tất cả cảm xúc chân thành nhất của mình. Bài thơ hay khép lại bằng những hình ảnh thật đẹp và đầy ấn tượng:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Cả bài thơ thể hiện tình đồng chí keo sơn gắn bó của những người chiến sĩ trong những tháng ngày gian khổ của cuộc kháng chiến trường kì. Nhạc điệu bài thơ trầm lắng như lời tâm tình của hai người lính trong đêm trăng chờ phục kích công đồn. Tình cảm ấy đã được hình thành từ những thiếu thốn vật chất đến những thử thách ngoài chiến trường. Để rồi từ đó trở thành tình cảm thiêng liêng - tình đồng chí. Hai người lính đến với nhau từ hai phương trời xa lạ nhưng lại có nhiều nét tương đồng, những nét tưởng lạ mà quen. Đó là tình yêu quê hương, xứ sở. Và bây giờ sự gắn bó vẫn đang nảy nở và thắm thiết hơn trong đêm chờ giặc tới!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Khung cảnh thiên nhiên thật khắc nghiệt: rừng hoang sương muối. Chỉ có ai đã từng sống trong khói lửa chiến tranh, thiếu thốn như các anh với áo rách vai, chân không giày mới có thể hiểu được cái rét buốt lạnh cắt da thịt của đêm sương muối ở rừng. Trong cảnh rừng hoang vắng rậm rạp và lạnh lẽo ấy hiện lên hình tượng một con người kì vĩ đẹp lạ thường:
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Câu thơ xua tan đi màn sương mờ ảo, sưởi ấm cả cánh rừng hoang vu. Dưới ánh trăng, người chiến sĩ thật đẹp, thật trong sáng. Từ đứng cạnh bên nhau đã tạo nên bức chân dung hoàn chỉnh về tư thế của các anh. Các anh tuy hai mà một, tuy ít mà nhiều. Các anh đã cùng chia sẻ bao khó khăn, vất vả cùng với những cảm xúc của một người lính trẻ để đi lúc này trong giây phút căng thẳng hồi hộp chờ giặc tới, các anh vẫn luôn ở bên nhau. Đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết, giữa hoà bình độc lập và nô lệ, giữa thiên đường và địa ngục, các anh vẫn nhớ đến đồng đội trao cho nhau hơi ấm của tình người, tình đồng chí.
Đọc thơ Chính Hữu ta như cảm thấy hơi ấm đang toả ra khắp cơ thể, khắp không gian. Hơi ấm ấy phải chăng được bắt nguồn từ cảm xúc chân thành, mộc mạc, giản dị trong lời thơ Chính Hữu. Câu thơ cuối tuy đã khép lại tác phẩm nhưng với em nó mãi là dư âm không bao giờ cạn:
Đầu súng trăng treo
Câu thơ vừa thực vừa ảo cho ta nhiều cảm xúc mới mẻ. Khoảng cách giữa bầu trời và mặt đất, giữa con người và thiên nhiên đã được xích lại gần gũi hơn bởi một từ treo. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp tả thực và lãng mạn vừa xa vừa gần. Phải chăng câu thơ là ước muốn, là hi vọng của Chính Hữu - người lính Cụ Hồ về một cuộc sống hoà bình, tươi đẹp? Sau đêm nay, sau giờ phút căng thẳng, lạnh buốt này sẽ là một sớm mai ấm áp với ánh bình minh sáng ngời Người chiến sĩ, với nhiệm vụ đã thành người thi sĩ với bao cảm hứng dạt dào. Hình ảnh cây súng trong bài thơ Đồng chí khiến ta chợt nhớ đến sông Mã, Tây Tiến trong câu thơ của Quang Dũng:
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Đáng trọng và đáng quí làm sao khi trong thời máu lửa oai hùng đó vẫn có những vần thơ thật hay, thật đẹp và thú vị đến thế!
Như lời kết nhẹ nhàng của bản nhạc du dương, Đồng chí của Chính Hữu đã cho thế hệ trẻ hôm nay phần nào hiểu được giá trị thiêng liêng, cao cả của tình đồng chí, đồng đội thời chiến. Những lời thơ trong Đồng chí đã gieo vào lòng bạn đọc bao cảm xúc và ấn tượng mới mẻ khép lại trang thơ mà hình ảnh Đầu súng trăng treo vẫn hiện ra trong ý nghĩ người đọc như một thứ hào quang soi rọi về một thời quá khứ oai hùng, hướng chúng ta đến những gì tốt đẹp ở tương lai.
có ý kiến cho rằng đoàn thuyền đánh cá huy cận đã miêu tả người dân đánh cá trong đêm ra khơi vs cái nhìn thiêng liêng âu yếm tự hào và 1 tư thế hào hùng hăm hở . Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá lm rõ
Câu trả lời của bạn
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đã giấy lên một phong trào “ mỗi người làm việc bằng hai” vừa xây dựng miền Bắc, vừa chi viện cho chiến trường tiền tuyến miền nam. Khắp nơi mọi người ra sức lao động không quản ngày đêm, khổ cực. Với tinh thần đó, các nhà văn, nhà thơ đã đi sát với cuộc sống của những người lao động để phản ánh và ca ngợi họ. Trong đó, tác phẩm để lại được nhiều ấn tượng nhất, có lẽ là “ Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền ra khơi :
“ Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Bằng giọng thơ gân guốc, với cặp mắt quan sát tinh tế, tác giả đã chọn một thời điểm hết sức đặc biệt đó là lúc hoàng hôn. Mặt trời từ từ lặn sâu xuống lòng biển được tác giả ví như “ hòn lửa”. Với cách so sánh này, làm hiện ra trước mặt người đọc một không gian huy hoàng và tráng lệ làm ngây ngất lòng người. Nhưng không gian đẹp đẽ ấy cũng chỉ diễn ra trong chốc lát rồi nhường chỗ cho màn đêm lan tỏa. Với nghệ thuật nhân hóa “ sóng cài then, đêm sập cửa” đã thể hiện sự dứt khoát về chuyển giao không gian. Sau một ngày làm việc vất vả, vũ trụ đã đi vào nghỉ ngơi, thư giãn. Trong hoàn cảnh đó, con người lại bắt tay vào lao động. Sự đối lập giữa thiên nhiên và con người cùng với các biện pháp nghệ thuật độc đáo đã tạo nên một không gian lộng lẫy, gợi bao cảm xúc cho người đọc. “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”, thể hiện rõ nét đây không phải là lần đầu đi biển mà công việc đó được lặp đi lặp lại một cách đều đặn, thường xuyên. Phải nói rằng, đi đánh cá trên biển đã trở thành nền nếp, không phải của con thuyền mà của cả đoàn thuyền. Họ ra đi với tinh thần đoàn kết, phấn khởi, lạc quan, khí thế khẩn trương trong lao động. Tinh thần đó được thể hiện qua câu hát khỏe khoắn, lời hát của họ như hòa vào trong gió, thổi căng buồm đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi.
Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả nổi bật về nét đẹp của người dân làng chài :
“ Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”
Câu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan và khí thế khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Đi đánh cá từ ngàn đời này may rủi là chuyện thường tình. Vì vậy, trong câu hát ta đọc được những ước mong của họ. Đó là ước mong về trời yên biển lặng, gặp được luồng cá để đánh bắt được nhiều. Giọng điệu lời thơ như ngân lên ngọt ngào, ngân dài và xa mãi. Các hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét snags tạo độc đáo đem đến cho người đọc một cảm nhận thứ vị về con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Ở khổ thơ thứu ba là hình ảnh con thuyền với cảnh đánh bắt cá trên biển :
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa may cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Có thể nói rằng, toàn bộ khổ thơi là một bức tranh sơn mà lộng lẫy. Tất cả các hình ảnh : mây, nước, sao, trời được vẽ nên bằng ngôn ngữ lung linh, huyền ảo. Đặc biệt là hình ảnh con thuyền vừa có tính hiện thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. “ Lái gió” “ buồm trăng” – đọc câu thơ, ta có cảm nhận thiên nhiên cũng góp phần vào công cuộc đánh bắt. Trăng sao như soi rõ hơn cho con người phát hiện ra luồng cá. Giữa biển trơi mênh mông, trời và biển như hòa vào một. Còn đối với người dân chai, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hang hái, lạc quan như thế, thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn.
Ở khổ thơ thứu tư, tác giả dành riêng để miêu tả sự giàu có của biển cả :
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuộc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long
Nếu như cả bài thơ là một bức tranh sáng tạo về không khí lao động của những người đi biển, thì chi tiết về đàn cá là một sáng tạo đặc sắc. Các biện pháp nghệ thuật ở đây được sử dụng một cách linh hoạt, làm người đọc cảm thấy được sự giàu có của biển cả. Hình ảnh cá được miêu tả mơ mộng làm sao : “ cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”. Trong cái giàu có đó, ta nghe được nhịp thở của biển khơi : “ Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”. Có thật sự yêu mến biển, yêu con người lao động thì nhà thơ mới có được những hình ảnh đẹp, những cau thơ hay đến như vậy.
Ở khổ thơ tiếp theo, là hình ảnh bao dung của biển:
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào
Nếu như mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây lại là khúc ca gọi cá. Tiếng hát được vang lên trong những giờ lao động, xua đinh những khó nhọc và làm khô đi những giọt mồ hôi. Trong hương vị mặn mòi của biển, lời hát như khích lệ, giúp cho thành quả lao động được cao hơn. Biển trong khổ thơ này được miêu tả hết sức bao dung và nhân hậu “ cho ta cá như lòng mẹ”. Người dân chai gắn liền cuộc đời mình với biển cả, vì thế biển đối với họ thật gần gũi, thân thiết biết bao.
Sau một đêm lao động vất vả khẩn trương, họ đã gặt hái được những thành quả lao động xứng đáng :
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chum cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng
Thời gian trôi nhanh, sau một đêm dài miệt mài trong lao động, thế nhưng tình thần của những người đi biển vẫn không hề giảm sút. Họ hang hái thu hoạch những mẻ cá đầy khoang. Vì sao vậy ? Phải chăng sau một đêm vất vả, họ đã thu được thắng lợi lơn “ chùm cá nặng”. Hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả sao mà đẹp thế “ vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”. Phải chăng đây chính là tương lai của những người đi biển, tương lai do chính bàn tay họ tạo nên.
Phần cuối bài thơlà hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về :
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Một điều người đọc dễ nhận thấy nhất đó là câu hát được cất lên từ lúc ra đi cho đến lúc trở về. Những câu hát khi trở về thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đổi biển nhô lên thật tuyệt diệu. Và, tuyệt diệu hơn cả đó là đoàn thuyền trở về với cá đầy khoang. Hình ảnh con thuyền trở về được miêu tả khẩn trương như lúc ra đi : “ đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Phải chăng ở đây, những người đi biển đang chạy đua với thời gian để chuẩn bị cho đợt ra biển tiếp theo. Những người lao động không thỏa mãn với những kết quả đạt được. Vì vậy, họ phải chạy đua với thời gian để làm ra được nhiều của cải hơn cho đất nước. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với giọng thơ khỏe mạnh, kết hợp với cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, hoán dụ tài tình, nàh thơ đã vẽ lên được một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình mình.
Công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc đã đi qua. Nhưng mỗi lần đọc lại bài “ đoàn thuyền đánh cá” ta như thấy hiện ra trước mắt tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đếm để làm ra được thêm nhiều của cải cho đất nước. Cả bài thơ là một bức tranh tuyệt đẹp, đẹp về cảnh thiên nhiên, đẹp về tinh thần lao động. Đó là thành công nhất của nhà thơ Huy Cận trong tác phẩm này.
cảm thụ văn học :nêu cảm nghĩ về câu thơ sau
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
ai nhanh mình tick
Câu trả lời của bạn
Ca dao dân ca là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng chúng ta từ thuở lọt lòng. Dòng sữa tinh thần ấy lan xa theo hương lúa, cánh cò, trầm bổng ngân nga theo nhịp chèo của con thuyền xuôi ngược, âu yếm thiết tha như lời ru của mẹ... như khúc hát tâm tình quê hương đã thấm sâu vào tâm hồn tuổi thơ mỗi người. Em nhớ mãi lời ru của bà của mẹ:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Lời ca dao tuy giản dị mà ý nghĩa thật lớn lao, nó ca ngợi công lao trời biển của cha mẹ và nhắc nhở đạo làm con phải lấy chữ hiếu làm đầu.
Vẫn là thi pháp thường thấy trong ca dao, các tác giả dân gian dùng cách nói ví von để tạo ra hai hình ảnh cụ thể, song hành với nhau: Công cha đi liền với nghĩa mẹ. Không phải ngẫu nhiên mà cha ông ta mượn hình ảnh núi Thái Sơn và nước trong nguồn vô tận để so sánh với công lao nghĩa mẹ:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Cha mẹ sinh con ra, nuôi con mau lớn thành người. Tấm lòng cha mẹ dành cho con thật vô tận, nó chỉ có thể sánh với núi sông hùng vĩ trường cửu mà thôi. Công cha lớn lao như núi, cha thức khuya dậy sớm làm lụng vất vả lo cho con có cơm ăn áo mặc, học hành, khôn lớn thành người. Người cha như chỗ dựa tinh thần và vật chất cho con, cha nâng niu ôm ấp chăm chút cho con, ai có thể quên công lao trời biển ấy. Chín tháng mang nặng rồi đẻ đau, mẹ chắt chiu từng giọt sữa ngọt ngào nuôi con khôn lớn. Lúc con khoẻ mạnh cũng như khi ốm đau lòng mẹ giành cho con: như biển Thái Bình dạt dào. Không có cha mẹ làm sao có chúng ta được: con có cha mẹ, không ai ở lỗ nẻ mà lên, tục ngữ đã dạy ta bài học đó. Câu ca dao đã nâng công lao của cha mẹ lên tầm kỳ vĩ sánh với vũ trụ, đất trời. Những hình ảnh tuy giản dị đơn sơ mà thấm đượm lòng biết ơn vô hạn của con cái với mẹ cha.
Công lao trời biển của cha mẹ sao kể hết bằng lời. Trong những dòng trữ tình hàm súc ấy ẩn chứa một chân lí ngàn đời, chân lí ấy phải được chuyển hoá thành hành động, hành động của lòng biết ơn:
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Ông cha ta dạy kẻ làm con phải: thờ mẹ kính cha phải giữ tròn phận sự của kẻ làm con. Đạo làm con phải làm tròn chữ hiếu. Hiếu ở đây là hiếu thuận, hiếu nghĩa, là cư xử làm sao cho kính trọng, yêu thương. Đó cũng là cách sống, cách thức làm người, lẽ sống của con người. Với cha mẹ phải thương yêu ngoan ngoãn vâng lời, lúc nhỏ thì chăm ngoan học giỏi, lớn lên trở thành người công dân tốt, đứa con hiếu thuận trong gia đình. Phải tuân theo những cách thức ứng xử hợp đạo lý. Hai chữ một lòng thế hiện niềm thuỷ chung, son sắt không thay đổi.
Luật gia đình của chúng ta ngày nay quy định bậc con cái phải có nghĩa vụ kính trọng cha mẹ, săn sóc cha mẹ khi già yếu chính là kế tục truyền thống tốt đẹp muôn đời của dân tộc ta uống nước nhớ nguồn. Những kẻ đi ngược lại đạo lý ấy thì sẽ không bao giờ tốt với ai hết, và dĩ nhiên kẻ ấy không bao giờ trở thành một công dân tốt cho xã hội. Những kẻ ấy nếu sống ở trên đời sẽ là những ung nhọt bệnh hoạn của gia đình, xã hội mà chúng ta thường gọi là bất nhân bất nghĩa.
Chúng ta được cha mẹ sinh ra để làm một con người, hãy sống cho xứng đáng là con người. Trên thực tế không phải ở mọi lúc, mọi nơi những đứa con giữ tròn đạo hiếu. Có biết bao cảnh con khinh rẻ cha mẹ, thậm chí đối xử tệ bạc với những người đă sinh ra và nuôi dưỡng mình. Những cách sống của những kẻ như vậy phải bị xã hội trừng trị. Bài ca dao đã đánh thức những kẻ đã và đang sống thiếu lương tri, đồng thời cũng như luồng ánh sáng chiếu rọi vào trái tim mỗi chúng ta - những đứa con.
Ngày nay chữ hiếu không chỉ dừng ở góc độ gia đình, rộng hơn là hiếu với dân, với nước. Có được như vậy mới nhằm xây dựng một xã hội lành mạnh, đẹp đẽ hơn, mà trước hết phải từ gia đình sống với nhau hiếu thuận có đạo đức.
Bài ca dao trên cũng như phần lớn các bài ca dao khác với nghệ thuận so sánh ví von, lời thơ cân xứng hài hoà, hình ảnh giản dị mà hàm xúc... đã nhằm nói lên được tình cảm gia đình sâu sắc. Tính truyền cảm, nội dung giáo dục mạnh mẽ đã làm cho nó sống mãi với chúng ta bao đời nay.
Xem thêm tại: http://loigiaihay.com/phan-tich-bai-ca-dao-cong-cha-nhu-nui-thai-son-c34a1400.html#ixzz52i5zF8Rb
Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi nêu ở dưới.
Cô đơn thay là cảnh thân tù !
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu !
(Tố Hữu)
Trong đoạn thơ trên, tác giả muốn nói đến tâm sự gì ? Tâm sự ấy có điểm gì tương đồng với "lời con hổ ở vườn bách thú" trong bài thơ Nhớ rừng ?
Câu trả lời của bạn
Vậy mà bây giờ bỗng nhiên bị ngăn cách hoàn toàn với cuộc sống bên ngoài - trong hoàn cảnh ấy, một tâm hồn trẻ tuổi ham hoạt động không thể tránh khỏi sựbuồn bực, cô đơn. Thực ra "Cô đơn thay’’ không chỉ là lời than thở mà còn là lời xác nhận một sự thật cay đắng nay đã được thấu hiểu bằng sự trải nghiệm của chính người tù ấy. Cô đơn vì phải xa cuộc chiến đấu của dân tộc, phải xa đồng chí, đồng bào – như thế cũng có nghĩa là cảm giác cô đơn thể hiện sự gắn bó của người chiến sĩ trẻ tuổi với phong trào cách mạng, với xã hội, với cả một thời gian sôi động bên ngoài nhà giam.
Ba câu thơ tiếp theo là hệ quả cảm cô đơn đã được nhấn mạnh ở câu thơ mở đầu. Ở ba câu thơ này, tất cả sự buồn bực, tức giận, tất cả niềm khao khát cuộc sống bên ngoài đã tập trung cao độ trong sự chú ý của thính giác. Tuy vậy không chỉ có ‘ tai mở rộng"... lắng nghe mà người tù còn hình dung và cảm nhận cuộc sống bên ngoài bằng "lòng sôi rạo rực’' nghĩa là bằng cả tâm hồn bồn chồn khao khát tự do của người bị giam giữ. Do đó, qua ô cửa nhỏ bé lại được ráo kín bằng những song sắt kiên cố, Tố Hữu nghe mà như nhìn thấy thật hữu hình, cụ thể âm thanh đang “lăn "ngoài nhà giam mang theo bao cái náo nức của cuộc đời bên ngoài. Chính trong sự đối lập, tương phản thật gay gắt với ‘cảnh thân tù"quá đau khổ cô đơn, nhà thơ mới càng cảm thấy cuộc sống bên ngoài là vui sướng và tự do “ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu”?.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *