Qua bài học giúp các em nắm được nội dung ý nghĩa và một số hình thức nghệ thuật tiêu biểu của những bài ca dao có nội dung châm biếm. Thông qua bài học còn rèn luyện cho các em kĩ năng đọc diễn cảm và bước đầu biết phân tích một bài ca dao trào phúng, châm biếm; đồng thời biết tránh xa những thói hư, tật xấu trong xã hội.
a. Bài ca số 1:
Bài ca dao có 2 phần:
- Hai câu đầu:
+ Vừa để bắt vần
+ Vừa là để chuẩn bị cho việc giới thiệu nhân vật.
- Bốn câu tiếp theo: “cái cò vẽ chân dung ông chú” ra trước mắt cô gái:
- Ông chú:
+ “Hay tửu hay tăm”:
+ “Hay nước chè đặc”
-> Nghiện rượu, chè
+ “Hay năm ngủ trưa”
+ Ngày: ước ngày mưa
+ Đêm: ước đêm thừa trống canh
-> Lười biếng tài ngủ
-> Đó là bức chân dung được biếm hoạ, giễu cợt và mỉa mai.
- Chữ “hay" rất mỉa mai
-> Là giỏi, nhưng giỏi rượu, chè và ngủ -> đáng chê.
- Nghệ thuật: Có sự đối lập: “Cô yếm đào” : trẻ, đẹp - hình ảnh “chú tôi”: nhiều tật xấu.
=> Bài ca chế giễu những hạng người nghiện ngập, lười biếng. Hạng người này nơi nào, thời nào cũng có và cần phê phán.
b. Bài cao dao số 2:
- Những lời thầy bói nói với người đi xem bói một cách khách quan.
- Nghệ thuật: “gậy ông đập lưng ông” tác dụng gây cười, châm biếm sâu sắc
- Thầy bói phán: Toàn những chuyện hệ trọng về số phận “cô gái” rất cụ thể?
+ Giàu – nghèo Phán theo kiểu nói dựa
+ Cha - mẹ nước đôi. Nhưng lại nói
+ Chồng - con về sự hiển nhiên
- Lời phán trở nên vô nghĩa, nực cười
=> Bài ca dao lên án, phê phán, châm biếm những kẻ hành nghề mê tín, dốt nát, lừa bịp lợi dụng lòng tin của người nhẹ dạ để kiếm tiền.
- Châm biếm sự mê tín mù quáng của những người ít hiểu biết, tin vào sự bói toán phản khoa học.
c. Bài ca dao số 3:
- Nội dung: Bài ca dao phê phán những hủ tục lạc hậu trong xã hội xưa.
- Nghệ thuật: Hình ảnh ẩn dụ là mỗi con vật tượng trưng cho một tầng lớp người trong xã hội xưa:
=> Đám ma giống như một bữa tiệc với đông đủ các thành phần đến tham dự, không ai tỏ ra đau lòng hay thương xót người đã mất.
d. Bài ca dao số 4:
- Nội dung: Bài ca dao là lời phê phán những hạng người không có gì (tài năng, của cải, quyền lực) nhưng thích thể hiện, khoe mẽ với thái độ kệch cỡm trong xã hội.
- Nghệ thuật: Cậu cai: Tức cai lệ, chúc thấp nhất trong quân đội thời phong kiến. Hình ảnh cậu cai được miêu tả chi tiết:
=> Bức tranh chân dung hiện ra: lố bịch, kệch cỡm.
- Nội dung: Phơi bày, giễu cợt, phê phán hiện tượng xấu, nực cười trong xã hội.
- Nghệ thuật: Khai thác cách nói ngược, ẩn dụ tượng trưng, phóng đại, kết hợp tự sự với biểu cảm.
Đề bài 1. Sưu tầm một số bài ca dao châm biếm
Gợi ý làm bài
"Chồng người đánh giặc sông Lô
Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần
Chồng người đi ngược về xuôi
Chồng em ngồi bếp cầm muôi đánh ruồi".
"Bà Bảy đã tám mươi tư
Ngồi trông cửa sổ gửi thư kén chồng".
"Bà già đi chợ Cầu Đông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?
Thầy bói gieo quẻ nói rằng,
Lợi thì có lợi, nhưng răng không còn"
"Bước sang tháng sáu nước giá chân,
Tháng chạp nằm trần bức đổ mồ hôi.
Con chuột kéo cầy nồi nồi,
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong.
Vườn rộng thì thả rau rong.
Ao sâu vãi cải lấy ngồng làm dưa.
Đàn bò đi tắm đến trưa,
Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương.
Voi kia nằm ở gậm giường,
Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn.
Chuồn chuồn thấy cám liền ăn,
Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua.
Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.
Hùm nằm cho lợn liếm lông,
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười
Con gà nậm rượu nuốt người lao đao
Lươn nằm cho trún bò vào
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô
Thóc giống cắn chuột trong bồ
Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm
Đồn rằng quan tướng có danh
Cưỡi ngựa một mình chẳng phải vịn ai.
Vua khen rằng,Ấy mới tài,
Ban cho cái áo với ba đồng tiền.
Đánh giặc thì chạy trước tiên
Xông vào trận tiền cởi khố giặc ra
Giặc sợ, giặc chạy về nhà
Trở về gọi mẹ mổ gà khao quân."
"Học hành ba chữ lem nhem
Thấy gái thì thèm như chửa thèm chua"
"Hai tay cầm hai quả hồng,
Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai.
Đêm nằm vuốt bụng thở dài,
Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều."\
"Hoài hơi mà đấm bị bông
Đấm được bên nọ, nó phồng bên kia."
"Nhà cô có con chó đen
Người lạ nó cắn, người quen nó mừng
Một hôm uống rượu lâng lâng
Người quen nó cắn, nó vồ gãy tay"
Buồn buồn ngồi đốt đống rơm
Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào
Khói bay lên tận thiên tào
Ngọc Hoàng phán hỏi: thằng nào đốt rơm
Đề bài 2. Nói về ca dao hài hước, châm biếm, có ý kiến cho rằng: “Cùng với truyện cười, về sinh hoạt, những bài ca dao hài hước, châm biếm đã thể hiện tập trung các nét đặc trưng của nghệ thuật trào lộng Việt Nam nhằm tạo ra tiếng cười giải trí và phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người đáng cười trong xã hội”. Bằng hiểu biết của mình về ca dao hài hước, châm biếm Việt Nam, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
→ Nhân dân phê phán tất cả những hiện tượng, con người ấy.
3. Kết bài
Bài văn mẫu
Ca dao hài hước, châm biếm chiếm một vị trí đáng kể trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng: “Cùng với truyện cười, vè sinh hoạt, những bài ca dao hài hước, châm biếm đã thể hiện tập trung các nét đặc trưng của nghệ thuật trào lộng Việt Nam nhằm tạo ra tiếng cười giải trí và phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người đáng cười trong xã hội”.
Quả thật, nội dung cảm xúc và chủ đề của ca dao Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Bên cạnh những bài ca dao yêu thương, tình nghĩa và những bài than thân, còn khá nhiều bài ca dao hài hước, châm biếm. Những bài ca dao này góp phần tạo nên tiếng cười trong cuộc sống còn nhiều vất vả của nhân dân lao động.
Góp phần tạo nên tiếng cười trong văn học dân gian có truyện cười, hò, vè sinh hoạt...; những bài ca dao châm biếm, hài hước góp thành một mảng riêng, đặc sắc.
Tiếng cười trong ca dao hài hước, châm biếm mang đặc trưng của nghệ thuật trào lộng dân gian. Tiếng cười trong nghệ thuật dân gian khác với tiếng cười trong các loại hình nghệ thuật bác học. Tiếng cười ấy khỏe khoắn, gắn bó với đời sống hằng ngày của dân lao động; có sự hồn nhiên, tươi vui để giải trí, giải khuây cho chính người lao động, nhưng đôi khi cũng mang tính chất phê phán các thói hư tật xấu, những đối tượng đáng cười trong xã hội.
Bên cạnh đó, tiếng cười trong ca dao hài hước, châm biếm còn mang tính giải trí. Chúng ta đều biết, đời sống của người dân Việt . ngày xưa vất vả, khó nhọc, do vậy tiếng cười cất lên nhằm làm cho cuộc sống tươi vui, đỡ nhọc nhằn. Nó không nhằm phê phán, đả kích ai. Chẳng bạn, là một kiểu nói khoác cho... vui vẻ:
"Ở đâu mà chẳng biết ta?
Ta con ông Sấm, cháu bà Thiên Lôi.
Xưa kia ta ở trên trời,
Đứt dây rơi xuống làm người trần gian".
Đôi khi, trong nhân dân, nếu cần phê phán ai đó, người dân thường dùng thơ văn hài hước:
"Bắc thang lên đến cung mây,
Hỏi sao Cuội phải ấp cây đa cả đời?
Cuội nghe thấy nói, Cuội cười:
- Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc đa."
Người dân lao động phải vất vả quanh năm nhưng lại bị áp bức, khổ cực. Trái lại, nhiều kẻ ăn trắng mặc trơn đóng vai “phụ mẫu” của dân rồi sống bằng sự lừa lọc những người cả tin..., kẻ không đáng gì mà ra vẻ đạo đức... Nhân dân phê phán tất cả những hiện tượng, con người ấy.
Những trường hợp nhát gan, lười biếng, siêng ăn nhác làm cũng được đưa vào ca dao:
"Làm trai cho đáng nên trai
Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào.
Làm trai cho đáng nên trai
Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng".
Những người làm nghề bói toán, lợi dụng sự cả tin của người khác:
"Hòn đất mà biết nói năng,
Thì thầy địa lí hàm răng chẳng còn".
Bọn địa chủ, quan lại phong kiến:
"Từ nay tôi kệch đến già,
Tôi chẳng dám cấy ruộng bà nữa đâu.
Ruộng bà vừa xấu vừa sâu,
Vừa bé hạt thóc, vừa lâu đồng tiền.
Từ ngày Tự Đức lèn ngôi:
Cơm chẳng thấy nồi, trẻ khóc như ri.
Bao giờ Tự Đức chết đi,
Thiên hạ bình thì lại dễ làm ăn."
Tiếng cười trong ca dao hài hước, châm biếm nói riêng không có những hình thức nghệ thuật mang tính ước lệ của văn chương bác học. Rất hiếm khi gặp điển cố. điển tích trong ca dao dân ca. Nếu có, đó là những điển tích ai cũng biết, ai cũng hiểu. Trái lại, ca dao hài hước, châm biếm sử dụng nhiều thủ pháp quen thuộc để tạo nên tiếng cười. Đó có thể là thủ pháp đối lập:
"Nói thì đâm năm chém mười,
Đến bữa tối trời chẳng dám ra sân, hoặc chơi chữ:
Anh hùng là anh hùng rơm,
Ta cho mồi lửa hết cơn anh hùng."
Các hình thức nghệ thuật trên thường kết hợp với nhau để tạo nên cách nói mỉa mai châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, hoặc cần thiết thì đả kích không thương xót.
Như vậy, ca dao hài hước, châm biếm là một loại hình sinh hoạt văn học dân gian chiếm một vị trí đáng kể trong cuộc sống lao động của người dân. Nó góp phần tạo ra tiếng cười giải trí và phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người đáng cười trong xã hội.
Trong ca dao - dân ca, ngoài những câu hát yêu thương, tình nghĩa, những câu hát than thân... còn nhiều câu hát mang nội dung hài hước, châm biếm nhằm phơi bày các hiện tượng ngược đời, phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người và hiện tượng ngược đời, những thói hư tật xấu, những hạng người và hiện tượng đáng cười trong xã hội. Để hiểu sâu hơn về văn bản này, các em có thể tham khảo bài soạn dưới đây: Bài soạn Những câu hát châm biếm.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Để nắm vững hơn kiến thức về bài Những câu hát châm biếm, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích Những câu hát châm biếm
-- Mod Ngữ văn 7 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Bài 1" giới thiệu " về "chú tôi" như thế nào? Hai dòng đầu có ý nghĩa gì? Bài này châm biếm hạng người nào trong xã hội
Giúp mình với mình đang cần gấp
Câu trả lời của bạn
Bài 1:
- Chân dung của chú tôi:
+Là người nát rượu nghiện ngập (hay tửu hay tăm)
+là người thích hưởng thụ ăn chơi (hay chè đặc, hay ngủ trưa)
+Là người lười biếng lao động (ước ngày mưa, ước đêm thừa)
=> Đây là một người chú đầy những thói hư tật xấu, nhìn vào chân dung này ai cũng lắc đầu ngán ngẩm… Như vậy, bằng vài nét biếm họa, tác giả dân gian đã dựng nên bức chân dung của “chú tôi” đầy giễu cợt, mía mai và châm biếm.
Cái Cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm
Hay nước chè đặc,hay nằm ngủ trưa
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh
- Số cô chẳng giày thì nghèo
Ngày 30 tết thịt treo trong nhà
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà cha cô đan ông
Số cô có vợ có chồng
Sinh con đầu lòng,chẳng gái thì trai
Từ 2 bài ca dao trên hãy chỉ ra đối tượng châm biếm,nội dung châm biếm,cách thể hiện
Câu trả lời của bạn
Một anh mà cả ngày lần đêm đều cứ nghĩ, cứ ước đến chuyện ăn, chuyên ngủ thì chắc chắn là một anh lười đích thực và nhất quyết không thể chọn làm chồng cho được. Bài ca dao khép lại cũng chính là lời phủ định mạnh mẽ, sâu xa.
=>Có thể nói những câu hát châm biếm dân gian là những nụ cười dí dỏm. Nó không nhằm vùi dập đối tượng nhưng nó làm cho đối tượng phải xấu hổ mà tự thay đổi bản chất đi. Chính vì thế mà những câu hát châm biếm dân gian đã góp phần làm trong sạch xã hội con người.
Viết 1 đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về bài ca dao số 2 trong bài những câu hát than thân,châm biếm
Câu trả lời của bạn
Ở bài thứ hai, tác giả nhại lời thầy bói, ghi âm nguyên văn những lời phán của thầy trước một cô gái mê tín. Thầy đoán về những điều gì và phán thế nào ? Toàn là những điều quan trọng mà cô "đệ tử" ước ao điều tốt lành, điều mới mẻ. Nhưng thầy phán toàn là những lời vô nghĩa, những điều vốn nó như thế, hiển nhiên chẳng cần bói toán, suy đoán gì cả. "Số cô chẳng giàu thì nghèo - Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà...", đấy là thầy đoán về "tài lộc" của cô gái. Còn về "gia cảnh", về "nhân duyên" thì... "cô có mẹ, mẹ là đàn bà, có cha, cha là đàn ông, cô sẽ có chồng, có chồng sẽ có con, con gái hoặc con trai"... Rõ ràng cái nhà ông thầy bói này chỉ ba hoa, mồm mép, nói những điều ai cũng biết. Tục ngữ ta có câu "thầy bói nói mò". Ông thầy bói này không chí "nói mò" mà nói lăng nhăng, vô vị, thật đáng cười. Đáng cười hơn nữa là giọng nói của thầy. Tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật "nói nước đôi", nói phóng đại, càng nói càng vô vị, vô nghĩa. Rõ ràng, bài ca dao đã phê phán những ke hành nghề mê tín dị doan, lừa bịp lòng tin của người khác để kiếm tiền. Đồng thời, bài ca cũng giễu cợt, phê phán những người ít hiểu biết, thiếu niềm tin cuộc sống, tìm đến sự bói toán, lễ bái vu vơ, phản khoa học, nhiều khi thêm lo nghĩ không cần thiết "Bói ra ma, quét nhà ra rác". Cha ông ta từng nhắc nhở như thế. Phê phán ông thầy bói, bài ca dao đồng thời cảnh tỉnh chúng ta.
3. Cái cò lặn lội bờ ao,
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng
Chú tôi hay sửu hay tằm,
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
4. Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai.
Nội dung châm biếm của mỗi bài
Câu trả lời của bạn
3.Nó thường sử dụng các hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng, các biện pháp nói ngược, phóng đại để lập ý nhằm phơi bày và phê phán những thói hư tật xấu như tham ăn, lười làm, hay ngủ, mải chơi… trong dân gian. Bài ca dao này là một bài ca phê phán người lười. Nó có cách đặt vấn để rất hay và độc đáo.
4.
"Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan"
Em có hiểu dụng ý về quan lại thời xưa
Câu trả lời của bạn
"Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan"
Câu ca dao trên có hình thức chống lại chế độ phong kiến, chống lại bộ máy quan lại thối nát chỉ biết bóc lột, hạch sách dân chúng. Ca dao tập trung vạch trần bộ mặt xấu xa cùng những tội ác của bọn quan lại phong kiến. Là giai cấp trực tiếp đứng ra lo cho cuộc sống của nhân dân nhưng những tên quan lại thời ấy lại ra sức bóc lột sức lao động, tước đoạt của cải, ruộng đất của người dân và đẩy họ vào bế tắc của sự cùng khổ.
Bài ca dao số cô chẳng giàu thì nghèo phê phán điều gì ?
Câu trả lời của bạn
Phê phán sự mê tín dị đoan của con người trong quá khứ lẫn hiện tại và sự lừa lọc của ông thầy bói
phê phán mê tín dị đoan của con người
không chịu lao động
Những điều vốn thế, hiển nhiên thế chẳng cần phải tìm đến bói toán người ta cũng biết lại được thầy nói bằng cái vẻ nghiêm trang, nghiêm trọng. Lại nữa, bằng cách nói nước đôi theo kiểu chẳng thế này thì thế nọ. Chấn tướng của thầy càng rõ hơn. Bộ mặt thật của kẻ chuyên lừa bịp kiếm tiền bị vạch trần, bị phơi bày, bị lôi ra ánh sáng. Nhục nhã và xấu xa, hắn xứng đáng để người ta mỉa mai, bêu riếu. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, tác giả dân gian còn muốn phê phán những người mê tín đến mức lú lẫn, không phân biệt đâu là thực, là hư. Tìm đến lễ bái vu vơ, tiền mất mà tật mang, mua thêm nỗi lo lắng vào lòng. Bời thế tiếng cười lại đa sắc, đa diện và ý nghĩa của nó lại càng thấm thìa, sấu xa.
Bài ca dao trên đây lại phê phán thói mê tín dị đoan của người nông dân trong xã hội xưa, họ không chịu lao động mà chỉ trông mong cái gì tốt đẹp xa vời. Người phụ nữ trong bài ca dao đi xem bói nhưng lại được “thầy” phán những điều tất nhiên mà bất cứ người nào cũng biết, hoàn cảnh sống không giàu thì chỉ có thể là nghèo, và dẫu có nghèo đến mấy thì ngày ba mươi tết cũng có thịt để treo trong nhà. Và câu trả lời mẹ cô đàn bà cha cô đàn ông khiến cho chúng ta phải bật cười, đây đều là những sự thật, quy luật của cuộc sống, những điều ai cũng biết thì đâu cần xem bói. Bài ca dao phê phán những thầy bói rởm, dùng những lời lẽ bịa đặt để ăn tiền, và châm biếm những con người thụ động, mê tín chỉ biết trông vào sự may mắn của số phận.
Cơ bản lời thầy bói là đúng chỉ có điều đúng mà không mới mẻ, không ích lợi gì. Về cách nói, chúng ta thấy thầy bói nói nước đôi, ngả nào cũng được (chẳng nghèo thì giàu.. chẳng gái thì trai...); nói dựa (dựa vào tập quán: ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà); nói vòng vo, luẩn quẩn trở lại chuyện đã nói chẳng theo trình tự nào cả. Về nội dung được đề cập thì những vấn đề mà thầy bói nêu đều là chuyện trọng đại của con người: chuyện tài lợi (tiền của, lợi lộc), chuyện phụ mẫu (liên quan cha mẹ), chuyện hôn nhân, tử tôn (lấy vợ lấy chồng, sinh con đẻ cháu)... Những điều trên có thể kết hợp lại: thầy bói thường nói về những chuyện quan tâm hàng đầu của con người theo kiểu nước đôi, kiểu nói dựa, chẳng đem lại lợi ích gì, do vậy đó là lời nói nhăng cuội, tuyệt không thể nghe theo. Bài ca dao đã mô phỏng kiểu nói năng của thầy bói qua việc xem số cô nhằm đả kích, cười cợt thầy tức là dùng gậy ông đập lưng ông. Để làm điều này, lời thầy bói phải đúng cách thầy bói, phải loại trừ chuyện chân lý thuộc về thầy và phải hay.
Like for me
1. Những câu hát châm biếng có gì giống với truyện cười dân gian ?
Câu trả lời của bạn
- Đều hướng đến châm biếm những hạng người đáng chê cười về tích cách , bản chất .
- Đều sử dụng một số hình thức gây cười .
- Để tạo được những tiếng cười sảng khoái cho độc giả.
b) Những câu hát châm biếm vừa học có gì giống nhau về nội dung và nghệ thuật ?
Câu trả lời của bạn
Điểm giống nhau của những câu hát châm biếm :
+ Về mặt nội dung
- Phê phán những thói hư tật xấu
- Chê bai những người không có suy nghĩ, mê tín dị đoan
- Mang lại ý nghĩa sâu sắc cho bài học
+ Về mặt nghệ thuật
- Đều sử dụng phương pháp nói ngược hay cường điệu phóng đại
tìm 5 bài ca dao về đấu tranh giai cấp
Câu trả lời của bạn
Những bài ca dao chống phong kiến, thực dân
Bài 1 :
Ruộng ta ta cấy ta cày,
Không nhường một bước cho bầy Nhật – Tây
Chúng mày lảng vảng tới đây,
Rủ nhau gậy, cuốc đuổi ngay khỏi làng.
Bài 2 :
Ai lên Vĩnh Thông, bước qua cầu sắt,
Nghe con trẻ hát hiu hắt chiều chiều.
Bên phe quạ nói với diều,
Vĩnh Thông cầu sắt có nhiều xác Tây.
Bể Đông có lúc vơi đầy,
Mối thù đế quốc có ngày nào quên.
Bài 3 :
Thóc đâu mà nộp cho Tây,
Nó ăn cho béo, nó đầy đọa ta.
Hỡi này các bạn nông gia,
Bảo nhau đừng nộp thóc ta cho thù.
Bài 4 :
Đất này đất tổ đất tiên,
Đất này chồng vợ bỏ tiền ra mua.
Bây giờ Nhật, Pháo kéo hùa,
Chiếm trồng đay lạc, ức chưa hỡi trời!
Bài 5 :
Bao giờ đuổi giặc Nhật, Tây?
Để em được sống những ngày ấm no.
Cực thân em đẩy xe bò.
Cho phường giặc nước ôtô nhà lầu.
Áo em áo chiếu mo cau,
Áo phường giặc cướp rặt màu tơ len.
Ai về nhắn chị cùng em
Có đi giết giặc cho em theo cùng.
cảm nhận của em về bài những câu hát châm biến
Câu trả lời của bạn
Trong kho tàng - dân ca Việt Nam, cùng với những bài ca về tình cảm gia đình, những bài ca tình yêu quê hương đất nước, con người, những tiếng hát than thân, mảng ca dao châm biếm chiếm một số lượng đáng kể. Những câu hát châm biếm đã thể hiện khá tập trung những nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam. Qua các hình thức ẩn dụ, tượng trưng, biện pháp nói ngược vù phóng đại, v.v. những câu hát châm biếm đã phơi bày các sự việc mâu thuẫn, ngược đời, phê phán những thói hư, tật xấu, những hạng người và hiện tượng đáng cười, đáng chê trách trong cuộc sống. Nói khác đi, ca dao châm biếm là vũ khí tinh thần sắc bén của nhân dân ta. Trong số hàng trăm, hàng ngàn câu ca dao châm biếm, bốn bài trong văn bản Những câu hát châm biếm và ba bài đọc thêm mà học sinh lớp 7 được học có lẽ là tiêu biểu nhất. Trước hết, chúng ta thử điểm mặt xem đối tượng nhân dân ta châm biếm, chê trách là hạng người nào, là hiện tượng gì ? Đó là "chú tôi" - một chàng trai làng - nào đó, là một ông thầy bói, là một "cậu cai" (trong bài học chính). Đó là một ông thầy cúng luôn tay gõ chập cheng, là "con mèo" - một loại quan chức, địa chủ trong làng. Đó còn là ông "quan tướng" (trong phần đọc thêm), về hiện tượng xã hội, ca dao châm biếm tập trung nói tới việc ma chay trong làng (bài 3, văn bản chính), hoặc cưới hỏi, lễ bái ở đình chùa... Tất cả những chân dung con người ấy điển hình cho loại người vô công rồi nghề, loại người chức sắc, quan lại từ nhỏ đến lớn, loại người chuyên nghề mê tín dị đoan,... Họ lười biếng, bê tha, gian dối, tàn ác, sách nhiễu nhân dân, gây ra biết bao hiện tượng tiêu cực trong xóm ngoài làng, gieo biết bao đau khổ cho nhân dân. Họ thật đáng cười, đáng chê trách và lên án. Trước hết là cái anh chàng "chú tồi" mà tác giả bài ca muốn giới thiệu với "cô yếm đào" xinh đẹp, trẻ trung. "Chú" lười biếng và lắm thói hư, tật xấu. "Chú" nghiện rượu (hay tửu, hay tăm), nghiện chè (hay nước chè đặc), thường ngủ muộn, thích nằm dài mong nhiều "ngày mưa", ước đêm kéo dài (thừa trống canh) để không phải ra đồng cày ruộng. Tác giả bài ca đã sử dụng điệp từ ("hay" nhắc lại bốn lần, "ngày" hai lần, "ước" hai lần, "đêm" hai lần) gợi cảm giác kéo dài, quanh quẩn, rất bức bối, khó chịu. Đồng thời, lối chơi chữ, nói ngược (hay tửu, hay tăm, hay nước chè đặc,...) bên ngoài có vẻ như khen ông chú tài giỏi, nhưng thực ra là để giễu cợt, chê trách. Lời nhẹ nhàng, đùa vui hóm hỉnh nhưng ý nghĩa phê phán khá sâu cay. Tiếp sau chân dung "chú tôi" là chân dung ông thầy bói và "cậu cai". Ở bài thứ hai, tác giả nhại lời thầy bói, ghi âm nguyên văn những lời phán của thầy trước một cô gái mê tín. Thầy đoán về những điều gì và phán thế nào ? Toàn là những điều quan trọng mà cô "đệ tử" ước ao điều tốt lành, điều mới mẻ. Nhưng thầy phán toàn là những lời vô nghĩa, những điều vốn nó như thế, hiển nhiên chẳng cần bói toán, suy đoán gì cả. "Số cô chẳng giàu thì nghèo - Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà...", đấy là thầy đoán về "tài lộc" của cô gái. Còn về "gia cảnh", về "nhân duyên" thì... "cô có mẹ, mẹ là đàn bà, có cha, cha là đàn ông, cô sẽ có chồng, có chồng sẽ có con, con gái hoặc con trai"... Rõ ràng cái nhà ông thầy bói này chỉ ba hoa, mồm mép, nói những điều ai cũng biết. Tục ngữ ta có câu "thầy bói nói mò". Ông thầy bói này không chí "nói mò" mà nói lăng nhăng, vô vị, thật đáng cười. Đáng cười hơn nữa là giọng nói của thầy. Tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật "nói nước đôi", nói phóng đại, càng nói càng vô vị, vô nghĩa. Rõ ràng, bài ca dao đã phê phán những ke hành nghề mê tín dị doan, lừa bịp lòng tin của người khác để kiếm tiền. Đồng thời, bài ca cũng giễu cợt, phê phán những người ít hiểu biết, thiếu niềm tin cuộc sống, tìm đến sự bói toán, lễ bái vu vơ, phản khoa học, nhiều khi thêm lo nghĩ không cần thiết "Bói ra ma, quét nhà ra rác". Cha ông ta từng nhắc nhở như thế. Phê phán ông thầy bói, bài ca dao đồng thời cảnh tỉnh chúng ta. Còn "cậu cai" - trong bài thứ tư - thì có gì đáng phê phán và cách phê phán thế nào ? Chân dung "cậu cai" được vẽ bằng hai nét đối chọi nhau. Hằng ngày cậu ăn mặc khá sang trọng, nào "nón dấu lông gà", nào "ngón tay đeo nhẫn". Nhưng khi có công việc, cần sự sang trọng, cần uy quyển thì "Áo ngắn đi mượn, quần dài di thuê", nghĩa là cậu chẳng có của cải, tài năng đích thực gì. Đó là một thân phận rởm, uy quyền rởm mà thôi ! Tác giả dân gian đã dùng nghệ thuật đối lập (bên ngoài oai vệ bên trong tầm thường) kết hợp với cường điệu (ba năm một chuyến sai, áo mượn, quần thuê) để hạ bệ "cậu cai", cũng có nghĩa là châm biếm, phê phán tầng lớp thống trị xưa. Chúng lố lăng, bắng nhắng, nhưng bản chất thì rất tầm thường, quyền hành thảm hại đến nực cười... Cũng với chân dung con người cụ thể, ca dao châm biếm còn vẽ lại khá nhiều bức tranh xã hội dáng chê trách. Đó là cảnh một đám tang ở nông thôn trong bài ca dao thứ ba. Điều thú vị là tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, tượng trưng. Các nhân vật trong đám tang đều là những con vật. Tang chủ là gia đình cò - một loại nhà nghèo, thân phận bé mọn. Có người thân chết, "cò con" lo "làm ma", vừa đau thương vừa bối rối. Vậy mà những bạn bè, người thân xa gần kéo đến thì ồn ào, nhốn nháo, không phải để chia buồn, giúp đỡ việc tang. Trái lại, "cà cuống" thì uống rượu. Chim ri thì "lấy phần". Chào mào "đánh trống". Chim chích "vác mõ đi rao", chắc là để báo tin cho cả làng biết, tiếp tục kéo đến... Mỗi con vật ẩn dụ một loại người trong làng xóm, đủ cả già trẻ, trai gái, bề trên, kẻ dưới,... Những từ đặc tả, từ láy, từ ghép "la đà", "ríu rít", "cởi trần",... chụp được những chân dung cử chỉ, hành động thật cụ thể, rất rõ nét. Cảnh tượng ấy hoàn toàn không hợp với việc tang. Một việc đáng buồn thương, nghiêm chính bỏng trớ nên một màn hài kịch, thành cuộc đánh chén, chia chác om sòm. Thật chua chát, đáng cười và ... đáng khóc. Bài ca dao đã nghiêm khắc phê phán một hủ tục của làng quê ngày xưa... Mỗi bài một giọng điệu, với những biện pháp nghệ thuật, bật ra những tiếng cười khác nhau, nhưng chùm ca dao châm biếm này đều giống nhau là: nghiêm khắc phê phán những con người xấu xa, những hiện tượng xã hội tiêu cực. Đó là vũ khí tinh thần sắc bén mà nhân dân ta đã sử dụng để mong muốn xoá bỏ những cái xấu, cái ác, mong muốn xây dựng một xã hội, những con người lành mạnh, lương thiện. Tuy đây là lời người xưa, nói về ngày xưa, nhưng đọc, rồi hiểu và suy ngẫm, chúng ta vẫn thấm thía những bài học thiết thực cho ngày nay...
Cac ban giup mk neu 1 so cau ca dao cham bien nha !!!
Câu trả lời của bạn
Chồng người đánh giặc sông Lô
Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần
Chồng người cưỡi ngựa bắn cung
Chồng em ngồi bếp cầm thun bắn ruồi.
Con cò chết rũ trên cây,
Cò con mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống uống rượu la đà,
Chim ri ríu rít bò ra lấy phần,
Chào mào thì đánh trống quân
Chim chích cởi trần,vác mõ đi rao.
Bà Bảy đã tám mươi tư
Ngồi trông cửa sổ gửi thư kén chồng.
Bà già đi chợ Cầu Đông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi răng?
Thầy bói gieo quẻ nói rằng,
Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn
Bước sang tháng sáu nước giá chân,
Tháng chạp nằm trần bức đổ mồ hôi.
Con chuột kéo cầy nồi nồi,
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong.
Vườn rộng thì thả rau rong.
Ao sâu vãi cải lấy ngồng làm dưa.
Đàn bò đi tắm đến trưa,
Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương.
Voi kia nằm ở gậm giường,
Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn.
Chuồn kia thấy cám liền ăn,
Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua.
Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.
Hùm nằm cho lợn liếm lông,
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười
Con gà nậm rượu nuốt người lao đao
Lươn nằm cho trúm bò vào
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô
Thóc giống cắn chuột trong bồ
Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm.
bài 3, 4
a) đây là 2 bài ca dao thuộc chủ đề châm biếm. theo em, 2 bài ca dao này châm biếm những đối tượng nào?
Câu trả lời của bạn
3.những người có vai vế,quyền hành trong làng
4.những người hợm hĩnh thích khoe khoang nhưng thực chất ko giàu như vẻ bề ngoài
1.những người thích ăn chơi,rượu chè nhưng lười lao động
2.những người thầy bói chuyên lừa người khác,những người cả tin,mê tín,dị đoan
Soạn văn bài 4:Những câu hát than thân, châm biểm.
trương trình vnen
Câu trả lời của bạn
Câu 1:
Từ hay thường có nghĩa chỉ sự giỏi giang, tài năng, những mặt tốt đẹp của con người như : hát hay, học hay, làm hay. Vậy những cái hay của ông chú trong bài ca dao này có ý nghĩa như vậy không ? Đây là lối nói ngược để giễu cợt, mỉa mai, phổ iến trong ca dao châm biếm.
- Chân dung của chú tôi
Là người nát rượu nghiện ngập hay tửu hay tăm
Là người thích hưởng thụ ăn chơi hay chè đặc, hay ngủ trưa
Là người lười biếng lao động ước ngày mưa, ước đêm thừa
=> Đây là một người chú đầy những thói hư tật xấu, nhìn vào chân dung này ai cũng lắc đầu ngán ngẩm…
- Với lối nói ngược, nhìn bề ngoài thì tưởng như khen nhưng thực ra là mỉa mai, giễu cợt.
- Ý nghĩa hai dòng đầu.
Cô yếm đào – là biểu tượng cho sự trẻ trung, xinh đẹp.
Lặn lội bờ ao – cần cù chăm chỉ.
Hình ảnh cô gái hoàn toàn trái ngược với chú tôi – khác biệt một trời một vực. Ông chú lười biếng, nát rượu như thế mà lại định mai mối cho một cô yếm đào đẹp người, đẹp nết đến vậy => Nhằm tạo nghịch cảnh gây cười.
- Đối tượng châm biếm. Đó là những kẻ lười biếng lao động, nhưng lại thích ăn chơi rượu chè mà xã hội nào, thời đại nào cũng có.
Câu 2:
Bài 2 nhại lời nói của thầy bói với người đi xem bói, bài ca dao lật tẩy bản chất của bọn "nói dựa" - thực chất là lợi dụng tâm lí tò mò của người khác để lừa bịp, kiếm tiền. Sự khẳng định của thầy bói nguỵ biện và rất vô nghĩa (về sự giàu nghèo, giới tính của mẹ cha, con cái) vì chỉ khẳng định những điều có tính tất yếu, ai cũng biết. Mặc dù tác giả dân gian không bình luận, nhưng bài ca vẫn toát lên ý nghĩa châm biếm sâu sắc về hiện tượng mê tín dị đoan trong xã hội.
Câu 3:
- Ý nghĩa tượng trưng của các con vật: Muốn hiểu được ý nghĩa tượng trưng của các con vật trong bài ca dao các em phải tìm hiểu các tục lệ, luật lệ của cuộc sống làng xã ngày xưa.
Con cò tượng trưng cho những người nông dân trong xã hội thân phận nhỏ bé.
Cà cuống là những kẻ có vai vế, địa vị trong làng xã như xã trưởng, lí trường
-> đến đám ma ngồi uống rượu say sưa.
Chim ri, chim mào là những kẻ tay chân của xã trưởng, lí trưởng như: cai lệ, lính lệ - kiếm chác chia phần.
Chim chích là anh mõ đi rao việc làng.
- Sự lí thú trong việc lựa chọn các con vật đóng vai:
Làm cho cảnh tượng trở nên sinh động lí thú. Một xã hội loài người được thực hiện ra qua xã hội của loài vật.
Mỗi con vật có những hành động và đặc trưng riêng đúng với hạng người mà nó đóng vai.
Ý nghĩa phê phán trở nên sâu sắc kín đáo.
- Nhận xét về cảnh tượng trong bài ca dao.
Cảnh tượng đó không phù hợp với đám tang - chủ yếu là từ phía nững người đến dự đám.
Gia đình nhà cò ở trong tình cảnh đáng thương thê thảm : cha mẹ cò chết rũ ở trên cây, cò còn lo lắng chuẩn bị mọi thứ cho đám tang – còn những kẻ khác thì lại tranh nhau đến để kiếm chác, chia phần, đánh chén một cách vô lối.
- Ý nghĩa phê phán của bài ca dao : Phê phán hủ tục ma chay vô lí làm khổ người dân.
Câu 4:
Hai câu đầu của bài ca có kết cấu đặc biệt: Cậu cai nón dấu lông gà. Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai. Hai câu là hai định nghĩa, đồng thời là hai "dấu hiệu" nhận biết một con người: thứ nhất, cậu cai = nón dấu lông gà (dấu hiệu quyền lực) ; thứ hai: ngón tay đeo nhẫn = gọi là cậu cai (dấu hiệu giàu sang). Hai dấu hiệu này không có nghĩa thông báo về tâm hồn, tính cách hay phẩm chất của đối tượng. Nếu bỏ hai tiếng "cậu cai" đi, trong hình dung chỉ còn chiếc "nón dấu lông gà" (quyền lực) và "ngón tay đeo nhẫn" (khoe của) có vẻ rất trai lơ!
Hai câu tiếp theo đối lập về số lượng có tính chất gây cười. Pha một chút phóng đại, chân dung cậu cai được đưa ra châm chọc, mỉa mai, thể hiện thái độ khinh ghét và thương hại của nhân dân.
Về nghệ thuật, khi xây dựng nhân vật cai lệ, tác giả dân gian đã khéo léo chọn từ xưng hô là: cậu cai (một từ vừa có tính chất nịnh bợ, vừa có tính chất châm biếm). Hơn nữa, bằng việc biếm hoạ chân dung cậu cai, tác giả dân gian đã ngầm ý nói lên sự nhố nhăng, bắng nhắng của nhân vật người thường không ra người thường, quyền lực không ra quyền lực này. Việc sử dụng rất thành công nghệ thuật phóng đại cũng có tác dụng làm cho nhân vật cậu cai càng trở nên nực cười và thảm hại hơn.
Những câu hát châm biết đã học có gì giống với chuyện cười dân gian chọn 1 chuyện ngắn cười và 2 bài ca dao châm biết để minh họa
Các bạn giúp mình với !
Câu trả lời của bạn
-đều là để gây cười
-sử dụng nghệ thuật phóng đại
-châm biếm,phe phán hạng người ko tốt trong xã hội
Cái cò lặn lôin bờ ao,
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?
Chú tôi hay tửu hay tăm,
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.
-BÀI CA DAO NÀY CHÂM BIẾM NHỮNG ĐỐI TƯỢNG NÀO VÀ CHÂM BIẾM VỀ NỘI DUNG NÀO ?
Câu trả lời của bạn
châm biếm người lười biếng, ko muốn lao động. nội dung châm biếm người lười nhác khuyên ta hãy chăm chỉ lao động chứ o được mơ ước hão huyền
Nhân vật chính trong bài 1 ( ca dao châm biếm) là ai ? Tại sao lại bắt đầu bằng hai câu thơ có ý nghĩa như một câu hỏi ? Nhân vật chính trong bài ca dao có đặc điểm gì ? Tượng trưng cho lớp người nào trong xã hội?
Câu trả lời của bạn
-nhân vật chính:chú tôi
-đặc điểm:-nghiện rượu
-hay uông nước chè đặc,hay nằm ngủ trưa
-ngày thì ước những ngày mưa,đem thì ước những đêm thưa trống canh
-tượng trưng cho hạng người lười biếng,ăn chơi mà lại muốn có cuộc sống sung sướng
Hãy nêu sự đối lặp trong câu 1 của bài những câu hát châm biếm. Mọi người giúp mình với ạ. Thank you
Câu trả lời của bạn
soạn bài những câu hát than thân châm biếm
Câu trả lời của bạn
các này bạn lên mạng tìm nhé
Soạn bài những câu hát châm biếm I. Đọc – hiểu văn bản Câu 1. - Từ hay thường có nghĩa chỉ sự giỏi giang, tài năng, những mặt tốt đẹp của con người như : hát hay, học hay, làm hay. Vậy những cái hay của ôn chú trong bài ca dao này có ý nghĩa như vậy không ? Đây là lối nói ngược để giễu cợt, mỉa mai, phổ iến trong ca dao châm biếm. - Chân dung của chú tôi + Là người nát rượu nghiện ngập - > hay tửu hay tăm + Là người thích hưởng thụ ăn chơi - > hay chè đặc, hay ngủ trưa + Là người lười biếng lao động - > ước ngày mưa, ước đêm thừa = > Đây là một người chú đầy những thói hư tật xấu, nhìn vào chân dung này ai cũng lắc đầu ngán ngẩm… - Với lối nói ngược, nhìn bề ngoài thì tưởng như khen nhưng thực ra là mỉa mai, giễu cợt. - Ý nghĩa hai dòng đầu. + Cô yếm đào – là biểu tượng cho sự trẻ trung, xinh đẹp. + Lặn lội bờ ao – cần cù chăm chỉ. Hình ảnh cô gái hoàn toàn trái ngược với chú tôi – khác biệt một trời một vực. Ông chú lười biếng, nát rượu như thế mà lại định mai mối cho một cô yếm đào đẹp người, đẹp nết đến vậy = > Nhằm tạo nghịch cảnh gây cười. - Đối tượng châm biếm. Đó là những kẻ lười biếng lao động, nhưng lại thích ăn chơi rượu chè mà xã hội nào, thời đại nào cũng có. Câu 2. - Lời người nói : Bài ca dao này nhại lời của người thầy bói nói với một cô gái (số cô chẳng giàu) đi xem bói. - Nhận xét về lời thầy bói : + Mong muốn của người đi xem bói là muốn biết những gì sẽ đến với mình trong tương lai thế nhưng lời thầy bói ở đây toàn là những điều hiển nhiên, ai cũng thừa sức biết : có mẹ, có cha, mẹ đàn bà, cha đàn ông. + Hai nữa là toàn là những lời nói ngược như : chẳng giàu thì nghèo, chẳng gái thì trai… - Ý nghĩa phê phán : + Phê phán những thầy bói chuyên lừa lọc người khác để kiếm tiền, trục lợi. + Cảnh tình những người mê tín dị đoan, thiếu hiểu biết, nhẹ dạ, cả tin, mất tiền cho kẻ khác một cách vô ích. - Những bài ca dao có nội dung tương tự : ’’Đom đóm đầy ngỡ là ma Thầy bỏ thầy chạy Rơi khăn rơi dãy Rơi cả cục xôi Thầy ngồi thầy réo Ma bắt thầy đi’’ (Có thể đọc thêm ở trang 53 SGK) Câu 3. - Ý nghĩa tượng trưng của các con vật : Muốn hiểu được ý nghĩa tượng trưng của các con vật trong bài ca dao các em phải tìm hiểu các tục lệ, luật lệ của cuộc sống làng xã ngày xưa. + Con cò tượng trưng cho những người nông dân trong xã hội thân phận nhỏ bé. + Cà cuống là những kẻ có vai vế, địa vị trong làng xã như xã trưởng, lí trường - > đến đám ma ngồi uống rượu say sưa. + Chim ri, chim mào là những kẻ tay chân của xã trưởng, lí trưởng như : cai lệ, lính lệ - kiếm chác chia phần. + Chim chích là anh mõ đi rao việc làng. - Sự lí thú trong việc lựa chọn các con vật đóng vai : + Làm cho cảnh tượng trở nên sinh động lí thú. Một xã hội loài người được thực hiện ra qua xã hội của loài vật. + Mỗi con vật có những hành động và đặc trưng riêng đúng với hạng người mà nó đóng vai. + Ý nghĩa phê phán trở nên sâu sắc kín đáo. - Nhận xét về cảnh tượng trong bài ca dao. + Cảnh tượng đó không phù hợp với đám tang - chủ yếu là từ phía nững người đến dự đám. + Gia đình nhà cò ở trong tình cảnh đáng thương thê thảm : cha mẹ cò chết rũ ở trên cây, cò còn lo lắng chuẩn bị mọi thứ cho đám tang – còn những kẻ khác thì lại tranh nhau đến để kiếm chác, chia phần, đánh chén một cách vô lối. - Ý nghĩa phê phán của bài ca dao : Phê phán hủ tục ma chay vô lí làm khổ người dân. Câu 4. - Chân dung cậu cai. + Vẻ bên ngoài : Cai tức là cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến ; cậu – cách gọi người còn trẻ và có ý mỉa mai. Đầu đội nón dấu lông gà – dấu hiệu của con người có quyền hành. Ngón tay đeo nhẫn – dấu hiệu chứng tỏ sự giàu sang thích khoe khoang, tính cách của người thiếu đứng đắn. + Thực chất bên trong : Một người có quyền lực như cậu mà ba năm mới có một chuyến sai, ba năm mới được một lần ra oai – quá ít ỏi. Giàu sang thế mà áo lẫn quần đền không có phải đi mượn đi thuê = > Như vậy ở hai câu sau tất cả cái giàu sang, cái oai vệ của cậu cai đã phơi bày thực chất hết sức thảm hại đáng thương. Cái vỏ bên ngoài của cậu là căn nguyên của sự sĩ diện, thích khoe khoang mà thôi. - Nghệ thuật châm biếm : + Miêu tả có tính chất điểm xuyết. + Nghệ thuật phóng đại Ba năm được một chuyến sai Áo mượn, quần thuê. II. Luyện tập Câu 1. Nhận xét về sự giống nhau của 4 bài ca dao trong văn bản. Cả 4 ý kiến nêu dưới đây đều đúng : Hướng dẫn : - Cả bốn bài đều có hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng. - Tất cả đều sử dụng biện pháp phóng đại. - Cả bốn bài đều có nội dung và nghệ thuật châm biếm. - Nghệ thuật tả thực có trong cả 4 bài. Câu 2. Những câu hát châm biếm trên có đặc điểm gì giống với truyện cười dân gian. - Giống về nội dung : Tập trung phê phán chế giễu các thói hư tật xấu của những hạng người và sự việc đáng cười trong xã hội. - Giống về mặt hình thức : Dùng phương pháp nói ngược hay cường điệu phóng đại. = > Ca dao châm biếm và truyện cười dân gian có những nét gần gũi với nhau.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *