Qua bài học giúp các em hiểu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong Bài ca nhà tranh bị gió thu phá. Thấy được đặc điểm bút pháp hiện thực của nhà thơ Đỗ Phủ được thể hiện trong bài thơ.
“Tháng tám, thu cao, gió thét già,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta.
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa,
Mảnh thấp quay lộn vào mương sa.”
→ Cảnh tượng tan tác, tiêu điều
“Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,
Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,
Cắp tranh đi tuốt vào lũy tre
Môi khô miệng cháy gào chẳng được,
Quay về chống gậy lòng ấm ức!”
→ Đau đớn trước cảnh xã hội loạn lạc, vô đạo
“Giây lát, gió lặng, mây tối mực,
Trời thu mịt mịt đêm đen đặc.
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê
Đem dài ướt át sao cho trót?”
→ Cảm nhận được nỗi khổ cùng cực.
“Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn !
Than ôi ! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt,
Riêng lều ta nát chịu chết rét cũng được”
→ Ước vọng khó thành vì xã hội bế tắc
⇒ Ngời sáng tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà thơ
⇒ Biểu cảm trực tiếp: Mơ ước dám xả thân vì người khác.
Đề bài 1: Cảm nghĩ về bài "Nhà tranh bị gió thu phá" của Đõ Phủ.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
a. Nỗi khổ tâm của nhà thơ trước cảnh căn nhà tranh bị gió thu thổi tốc mái
"Tháng tám thu cao gió thét già
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta"
→ Thời gian là cuối thu (Thu cao), gió thổi rất mạnh (gió thét già), cả mái nhà bị gió thu thổi bay (cuộn mất ba lớp tranh..). Mảnh treo trên ngọn cây cao trong rừng xa, mảnh rơi vào mương nước trước mặt...
⇒ Tâm trạng đau xót và bất lực của nhà thơ: Trước cảnh lũ trẻ lao vào cướp những tấm tranh lợp nhà, nhà thơ đau lòng nhưng
"Môi khô miệng cháy gào chẳng được,
Chống gậy quay về lòng ấm ức".
b. Tình cảnh khốn, khổ của gia đình nhà thơ trong đêm mưa lạnh
c. Ước mơ cao cả xuất phát từ tấm lòng nhân ái của nhà thơ
3. Kết bài
Bài văn mẫu
Đỗ Phủ (712-770), nhà thơ nổi tiếng đời Đường ở Trung Quốc. Tên chữ của ông là Tử Mĩ, bút hiệu là Thiếu Lăng, quê ở tỉnh Hà Nam. Sau khi đỗ đạt, ông có ra làm quan trong một thời gian ngắn. Tướng An Lộc Sơn nổi dậy chống triều đình, Đỗ Phủ tình nguyện xin nhà vua cho đi đánh dẹp nhưng không được nhà vua tín nhiệm. Năm 759, ông từ quan, đưa gia đình về vùng Tây Nam. sống trong cảnh đói nghèo, bệnh tật, mùa đông năm 770, nhà thơ qua đời trên một chiếc thuyền nhỏ cắm sào bên dòng sông Tương (tỉnh Hồ Nam).
Thời gian ở Thành Đô, Đỗ Phủ được bạn bè giúp đỡ dựng cho một căn nhà tranh bên khe Cán Hoa. Mới ở được mấy tháng thì căn nhà đã bị gió thu thổi mạnh làm cho tốc mái. Xuất xứ bài thơ là từ sự việc đó.
Bài ca nhà tranh bị gió thu pháphản ánh cuộc sống cơ cực của gia đình nhà thơ và thể hiện lòng nhân ái, vị tha đáng quý của nhà thơ trước những cảnh đời bất hạnh như mình:
Tháng tám, thu cao, gió thét già,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta.
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa,
Mảnh thấp quay lộn vĩ/i mương sa.
Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,
Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,
Cắp tranh đi tuốt vào lũy tre
Môi khô miệng cháy gào chẳng được,
Quay về, chống gậy lòng ấm ức!
Giây lát, gió lặng, mây tối mực,
Trời thu mịt mịt đêm đen đặc.
Mền vải lầu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghè
Đêm dài ướt át sao cho trótĩ
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch hàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét củng được!
Bài thơ gồm có bốn phần. Phần một tả cảnh gió thu cuốn mất mấy lớp tranh lợp nhà. Phần hai là sự bất lực của nhà thơ khi lũ trẻ con hùa nhau cướp những tấm tranh. Phần ba tả nỗi khổ của gia đình Đỗ Phủ trong đêm mưa. Phần bốn là ước mơ và tấm lòng nhân ái của nhà thơ.
Phần đầu bài thơ tả cảnh ngôi nhà đơn sơ bị gió thu tàn phá: Tháng tám, thu cao, gió thét già,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta,
Tranh hay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa,
Mảnh thấp quay lộn vào mương sa.
Đỗ Phủ đã dùng bút pháp miêu tả kết hợp với kế chuyện để nói lên nỗi khổ ghê gớm nhất của một đời người đó là cảnh sống không nhà hoặc phải ở trong một căn nhà chật hẹp, rách nát. Gió thu mạnh như thét, như gào, thổi tốc mái, cuốn những tấm tranh bay vung vãi khắp nơi. Nhiều tấm bay tít sang bên kia sông. Có tấm treo tận ngọn cây cao trong rừng xa. Có tấm rơi xuống mương sâu. Nhìn mái nhà tan nát, lòng nhà thơ cũng nát tan.
Phần hai của bài thơ tả tình thế .bối rối, bất lực của vị chủ nhà đáng thương:
Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,
Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,
Cắp tranh đi tuốt vào lũy tre
Môi khô miệng cháy gào chẳng được,
Quay về, chống gậy lòng ấm ức!
Nhà thơ kể lại diễn biến sự việc bằng giọng điệu ngậm ngùi, chua xót. Bất chấp sự ngăn cản, van xin của ông lão già yếu, lũ trẻ trong thôn hùa nhau cướp giật những tấm tranh rồi chạy tuốt vào lũy tre đầu làng. Không làm gì được, không còn hơi sức đế kêu gào, nhà thơ đành ấm ức chống gậy quay về, đứng run rẩy ngậm ngùi trước căn nhà tốc mái tan hoang. Đằng sau sự mất mát về vật chất là nỗi đau nhân tình thế thái. Cuộc sống cơ cực đã biến lũ trẻ thành những đứa bé hư đốn, nhẫn tâm, không biết xót thương.
Phần ba tả nỗi khổ của gia đình Đỗ Phủ trong đêm mưa. Đây là phần cảm động nhất của bài thơ:
Giây lát, gió lặng, mây tối mực,
Trời thu mịt mịt đèm đen dặc.
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê
Đêm dài ướt át sao cho trót?
Cuồng phong đã lặng. Màn đêm ập xuống, tối đen như mực. Cả gia đình khốn khổ nằm co quắp trong đống chăn đệm cũ rách, lạnh ngắt như sắt. Buổi chiều, gió nối làm tốc mái tranh. Đến đêm, mưa lại đổ xuống rỉ rả không ngừng. Nhà dột khắp nơi, chẳng biết tránh đâu. Lũ con thơ vừa đói vừa rét cứ lục đục hoài, nằm không yên chỗ. Cảnh tình thật đáng thương!
Nhà thơ miêu tả và kể chuyện theo trình tự thời gian. Chỉ vài chi tiết: Trời thu mịt mịt đèm đen đặc... Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt, nhà thơ đã làm nổi bật được đặc điểm của mưa thu là dai dẳng và lạnh lẽo.
Suốt đêm dài, nhà thơ thao thức, trằn trọc, chỉ mong trời mau sáng. Từ độ loạn lạc tới giờ, Đỗ Phủ ít ngủ. Đêm nay, bao nhiêu nỗi khổ dồn dập đến với nhà thơ: nhà dột, mưa ướt dầm dề, các con đóilạnh...! Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê là một nét nhấn làm nổi bật nỗi khổ tinh thần của Đỗ Phủ. Ông lo cho mình một phần, lo cho thiên hạ muôn phần, ông hiểu rằng tình cảnh gia đình mình đã khổ, nhưng nhiều người khác còn khổ hơn.
Phần bốn phản ánh ước mơ cao cả của nhà thơ.
Trong cảnh bị mưa vùi gió dập, trái tim nhà thơ quặn thắt không phải chỉ vì chuyện lều ta rách nát mà còn vì cảnh không nhà của hàng ngàn kẻ sĩ nghèo trong thiên hạ. Từ hiện thực đau khổ của cuộc sống cá nhân, nhà thơ đã thốt lên lời ao ước thiết tha: có được ngôi nhà rộng rãi, vững bền để có thể che gió che mưa cho tất cả những kẻ sĩ bần hàn: ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiền hạ kể sĩ nghèo đầu hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt,
Riêng lều ta nát, chịu chết rét củng được!
Lòng nhân ái của Đỗ Phủ đã đến mức xả thân. Ông chấp nhận riêng mình chịu khổ, miễn sao mọi người được hạnh phúc. Ước mơ của Đỗ Phủ tuy mang màu sắc ảo tưởng song nó đẹp đẽ, cao quý, làm xúc động trái tim người đọc.
Giả thử không có năm dòng thơ cuối, trước mắt ta vẫn là một bài thơ hay, có giá trị biểu cảm cao bởi vì nhà thơ đã phản ánh chân thực nỗi khổ của một người nghèo trước cảnh căn nhà bị gió thu phá nát.
Tuy nhiên, nhờ có năm dòng thơ cuối mà nỗi khổ đau của một con người, một gia đình mới trở thành tấm gương phản chiếu nỗi khổ đau của muôn người, muôn nhà.
Đỗ Phủ không dừng lại ở mức miêu tả nỗi thống khổ của bản thân mà thông qua đó để thế hiện sự thống khố của tất cả kẻ sĩ nghèo trong thiên hạ, từ đó phản ánh hiện thực ảm đạm của xã hội.
Bài ca nhà tranh bị gió thu phá là một tác phẩm nổi tiếng của Đỗ Phủ. Bút pháp hiện thực cũng như tinh thần nhân đạo cao cả của nhà thơ đã ảnh hưởng khá sâu rộng đến thơ ca Trung Quốc đời sau.
Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực lớn nhất trong lịch sử thơ ca cổ điển Trung Quốc. Thơ ông được mệnh danh là “thi sử” (sử bằng thơ) vì đã phản ánh chân thực, sâu sắc bộ mặt lịch sử đường thời. Nhà thơ Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiềunổi tiếng của nước ta đã tôn vinh Đỗ Phủ là Bậc thầy muôn đời của văn chương muôn đời.
Đề bài 2: Phân tích năm câu thơ cuối bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá của Đỗ Phủ.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
“Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”.
2. Thân bài
a. Để thấy được cái hay, cái đẹp của năm câu thơ cuối ta cần phải biết qua một vài nét của phần đầu bài thơ.
→ Đoạn thơ như cuốn phim làm sống lại cảnh lầm than cực khổ của một nhà thơ tài ba mà bất hạnh trong xã hội loạn li.
b. Trước nỗi đau ấy, con người gục xuống khóc than? Không! Tâm hồn nhà thơ sáng ngời.
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”.
3. Kết luận
Bài ca nhà tranh bị gió thu phá được Đỗ Phủ sáng tác vào thời gian ông từ quan về quê sống. Nội dung bài thơ phản ánh cuộc sống cơ cực của gia đình và thể hiện lòng nhân ái cao cả của Đỗ Phủ trước những cảnh đời bất hạnh như mình. Chi tiết bài soạn văn sẽ cho các em thấy được những điều đó. Chi tiết bài soạn, các em có thể tham khảo tại đây: Bài soạn Bài ca nhà tranh bị gió thu phá.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Bài thơ Nhà tranh bị gió thu phá được xem là một trong những bài thơ hay nhất trong số 100 bài tiêu biểu của Đỗ Phủ được sáng tác vào những năm cuối đời sống ở Thành Đô. Bài thơ nói về cảnh sống nghèo nàn, túng quẫn của người dân trong cuộc bin biến An Lộc Sơn. Để hiểu hơn về bài thơ này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Nêu cảm nghĩ bài Bài ca nhà tranh bị gió thu phá của Đỗ Phủ
-- Mod Ngữ văn 7 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Đời Đường - Trung Quốc trong khoảng những năm 618-907 thi ca nghệ thuật phát triển vô cùng mạnh mẽ và thu được những thành tựu rực rỡ. Với hơn 2.300 thi sĩ và khoảng hơn 48.000 bài, thơ Đường được liệt vào hàng thơ ca ưu tú nhất của nhân loại. Trong số đó không thể không kể đến Đỗ Phủ (712- 770) nhà thơ giàu lòng yêu nước thương dân, được tôn vinh là "thi thánh". Tính hiện thực và tinh thần nhân đạo là chủ đề xuyên suốt trong thơ. Bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá là một trong những bài thơ như vậy.
Bài thơ này được xem là một trong những bài thơ hay nhất trong số 100 bài tiêu biểu của Đỗ Phủ được sáng tác vào những năm cuối đời sống ở Thành Đô. Cùng thời gian đó loạn An Lộc Sơn vẫn chưa dứt, bài thơ lấy gốc sâu xa từ điệu dân ca cổ. Đã có rất nhiều nhà thơ có cách viết thế ca này: Thu Phô ca (Lý Bạch), Trường hận ca (Bạch Cư Dị).
Mở đầu bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá như kể lại về trận gió thu. Đây không phải là cơn gió heo may mát lành mà đây là một trận bão tố, cơn lốc vào tháng tám Gió thét gào.
Tháng tám, thu cao, gió thét gào,
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta
Tranh bay sang sông rải khắp bờ,
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa
Mảnh thấp quay lộn vào mương sa.
Căn nhà lợp tranh yếu ớt bị cơn thu phong lật tung cuộn bay khắp nơi. Có tấm tranh bay rải khắp bờ sông. Có tấm bay tận rừng xa, có tấm rơi nơi mương nước... Việc lặp lại từ tranh đến 2, 3 lần chứng tỏ trận bão tố rất ghê gớm. Căn nhà được bạn bè giúp đỡ để nương thân qua ngày giờ đây tan thương.
Ngước nhìn từng tấm tranh theo gió bay đi mà lòng xót xa, bất lực. Tiếng thơ như lời than thở, khóc lóc cho cảnh sống khổ cực của thi nhân.
Sự đau đớn xót xa được thể hiện sâu sắc hơn ở khổ thơ kế tiếp. Nhà thơ phải chứng kiến sự phá phách căn nhà của mình cùng với trận bão tố mà nhà thơ gọi là "đạo tặc".
Trẻ con thôn nam khinh ta già không sức,
Nỡ nhè trước mặt xô cướp giật,
Cắp tranh đi tuốt vào luỹ tre
Môi khô miệng cháy gào chẳng được
Quay về, chống gậy lòng ấm ức.
Chiến tranh liên miên, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, loạn lạc. Đạo đức suy đồi đến cùng cực. Lũ trẻ hàng xóm không ai dạy dỗ, không chỗ học hành chúng ngang tàng kéo đến cướp tranh nhà Đỗ Phủ. Chúng không còn biết lễ giáo, lễ phép gì nữa. Chúng khinh nhà thơ "già yếu", trơ tráo lạnh lùng trước tiếng kêu than “Môi khô miệng cháy” của tác giả. Vậy là sau thiên tai, gia đình nhà thơ lại gặp nạn "Đạo tặc". Trước mắt nhà thơ là lũ quần đồng, hạ lưu, kẻ cướp. Đó chính là sản phẩm của một xã hội đang trên đà xuống dốc. Người người sống với nhau gian tham, xã hội thì đảo điên; tấm lòng nhà thơ đau đớn vô cùng, nhìn cuộc đời, con người trong xã hội mà lòng ấm sức, căm hận biết bao. Muốn gào lên, thét lên mà không nói thành lời.
Vậy là căn nhà bị gió phá, lũ đạo tặc phá. Nó làm sao đủ sức chống lại những trận cuồng phong, mưa rét đêm thâu. Trời mưa rả rích đêm thâu mà mái nhà bị gió thu phá nát. Gió lặng, mây đen phủ kín bầu trời. Mưa tầm tã suốt đêm thâu, nhà dột không ngủ được. Đoạn thơ nêu lên một hiện thực đau lòng và khốn khổ của nhà thơ trong đêm mưa.
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa mưa chẳng dứt.
Tuổi già, sức yếu, bệnh tật... lại phải ngồi dưới mưa, trong thâm tâm Đỗ Phủ thương mình thì ít nhưng thương cho vợ con, gia đình thì nhiều. Nỗi đau như dồn nén lại thành một khối, trút một con người bất hạnh, đau khổ gần cả cuộc đời. Nhà thơ như thấy mưa lâu hơn, nhiều hơn, đêm như dài hơn và nỗi buồn thương không dứt.
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê
Đêm dài ướt át sao cho trót?
Thật là phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí. Tai hoạ với nhà thơ là một đêm thu trời mưa nhà dột. Thân già, sức yếu ngồi co ro trong mưa rét, nhìn vợ con đang nằm dưới mưa lòng sao không đau quặn. Cái nghèo nó đeo đẳng mãi, chăn cũ lâu năm con đạp rách, nhà dột... Sự cùng cực của một gia đình tàn tạ dưới thời loạn lạc, li tán.
Trong đêm mưa rét mất ngủ ấy, nỗi lòng nhà thơ vẫn tin yêu vào cuộc sống, chất nhân văn vẫn dâng trào lo cho đời cho dân cho nước.
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió mưa chẳng núng, vững như thạch bàn!
Than ôi! bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!
Trong nỗi đau thương phũ phàng của cuộc đời, con người ta rất dễ rơi vào sự khủng hoảng tinh thần. Đôi khi gục đầu cam chịu, than thân trách phận nhưng với Đỗ Phủ thì hoàn toàn khác, ông ngồi trong đêm mưa lạnh cóng, có người sẽ nghĩ rằng ông sẽ ước có mái lều, tấm chăn, bát cơm... cho vợ con và bản thân ông khỏi vất vả. Thật bất ngờ trong niềm mong ước của ông, ước mơ có một ngôi nhà kỳ vĩ: “Muôn ngàn gian” vô cùng vững chắc. Ngôi nhà ấy không phải để che cho ông và gia đình mà “Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan”. Ông thương cho những người nghèo khổ không chỗ trú thân, che nắng che mưa cho dân. Thật là một tấm lòng nhân hậu. Yêu thương bao la Thường xuyên lo cho dân nghèo, than thở đến nóng gan, cháy ruột” dù cuộc đời đầy rẫy nhưng vất vả, loạn lạc. Và vì vậy ông rất đồng cảm cho cảnh ngộ muôn dân tan nát gia đình vì chiến tranh, đói khổ vì nghèo túng, bệnh tật. Đau xót cho dân cho nước, ước mơ đất nước thái bình, nhân dân no ấm nên ông quên đi cái khổ cực của bản thân. Có thể nói Đỗ Phủ có tình thương lớn của một nhà nho chân chính sống và ứng xử theo phương châm “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Qua bài thơ trên ta thấy Đỗ Phủ mang nặng tấm lòng nhân ái bao la của một con người trải qua nhiều bất hạnh giữa thời loạn lạc. Ông mong mỏi, và khao khát hạnh phúc cho muôn dân. Bài thơ chất chứa chất nhân văn cao cả của bậc vĩ nhân quên đi bản thân mình mà lo cho dân cho nước.
Câu trả lời của bạn
Giá trị hiện thực trong bài thơ
- Cuộc sống khốn khổ của nhà thơ nói riêng và của nhân dân Trung Quốc nói chung dưới chế độ phong kiến nhà Đường thế kỉ thứ tám.
- Bức tranh hiện thực còn thể hiện ở cảnh cướp tranh của bọn trẻ thôn nam
→ Dùng chính cảnh nhà mình để phản ánh tình hình đất nước, thời đại làm cho bài thơ có tính chân thực rất cao.
Giá trị nhân đạo trong bài thơ
- Ngay giữa cảnh ngộ khốn cùng của bản thân, ông vẫn nghĩ đến biết bao cảnh ngộ khác trên đời.
- Đỗ Phủ có ý nguyện hi sinh bản thân mình để cầu ước cho những kẻ sĩ khác được may mắn hơn, êm ấm hơn.
Câu trả lời của bạn
Tháng tám giữa thu, trời bắt đầu chuyển lạnh. Suốt mấy ngày, mây xám giăng giăng trên dãy núi trập trùng. Khung cảnh miền sơn cước mới ảm đạm, hiu quạnh làm sao! Căn nhà tranh ba gian vừa được dựng bên khe Càn Hoa của nhà thơ Đỗ Phủ trông giống như một chiếc tổ chim bám cheo leo trên vách đá. Từ ngày thôi làm quan, Đỗ Phủ đưa gia đình về đây ở ẩn, lánh xa chốn triều đình nhiễu nhương, thối nát, lành ít, dữ nhiều.
Suốt mấy năm trời, thi sĩ mắc bệnh mất ngủ không chỉ vì bệnh tật của bản thân và sự nghèo đói của gia đình mà còn vì lo lắng cho vận dân, vận nước. Lũ quan lại sâu mọt thi nhau đục khoét dân lành. Thượng bất chính, hạ tắc loạn. Kỉ cương phép nước đã tới hồi suy tàn. Thêm vào đó là cảnh vỡ đê xảy ra liên miên dẫn đến nạn đói khủng khiếp kéo dài, loạn lạc nổi lên khắp chốn. Những người có nhiệt tình, có tam huyết như Đỗ Phủ trước tình trạng đau lòng ấy, sao tránh khỏi buồn đâu, khắc khoải đến bạc đầu?!
Sống trong cảnh đói không cơm, đau không thuốc, sức khỏe của nhà thơ yếu đi nhiều lắm. Nhìn vợ con nheo nhóc, ông tủi cho phận làm chồng, làm cha chưa trọn, nhưng tình thế xã hội rối ren đến mức này, biết phải làm sao?! Lực bất tòng tâm, ông đành ôm mối sầu hận trong lòng. Cũng may mà được bạn bè thương tình giúp đỡ, dựng cho mái tranh sơ sài để che sương che nắng qua ngày. Những tưởng được sống bình yên những năm cuối đời, vậy mà trời già tai ác vẫn muốn thử thách sức chịu đựng của con người khốn khổ đó.
Vào một buổi chiều, bỗng dưng mây xám ùn ùn kéo tới, giông gió nổi lên cuồn cuộn, réo ù ù như xay lúa. Cây cối vật vã, ngả nghiêng, gãy cành, rụng lá. Cơn lốc xoáy dữ dội bứt tung mái tranh, ném đi muôn ngả. Nhiều tấm tranh bay tít sang tận bên kia sông, nằm bừa bãi khắp nơi. Có tấm treo tận ngọn cây cao trong rừng xa, có tấm rơi xuống mương sâu gần nhà.
Bất chấp sự ngăn cản, lũ trẻ trong thôn hùa nhau cướp giật những tấm tranh ngay trước mắt nhà thơ. Chúng cắp tranh chạy tuốt vào lũy tre đầu làng. Muốn đòi tranh lại nhưng hơi sức chẳng còn, không thể kêu gào, nhà thơ đành ấm ức chống gậy quay về, đứng run rẩy, ngậm ngùi trước căn nhà bị gió thu phá tan hoang.
Lát sau gió lặng, màn đêm ập xuống tối đen như mực. Buổi chiều, gió xoáy làm tốc mái tranh. Đến đêm, trời lại đổ mưa. Mưa rơi xối xả xuống ngôi nhà tốc mái như trút nước. Nhà dột khắp nơi, chẳng biết tránh vào đâu. Cả gia đình Đỗ Phủ nằm co quắp trong đống chăn đệm cũ rách, lạnh ngắt như đồng. Lũ trẻ đói bụng ngủ không yên giấc, lại đạp nát thêm. Tình cảnh thật thương tâm!
Nhà thơ Đỗ Phủ thao thức, trằn trọc suốt năm canh, chỉ mong trời mau sáng. Từ đó loạn lạc tới giờ, ông ít ngủ. Đêm nay, bao nhiêu nỗi khổ dồn dập ập đến: mái nhà bị gió thu phá nát, trống toang; mưa to khiến nền nhà sũng nước; chiếu chăn cũ rách không đủ ấm, trong đầu bao nỗi lo lắng, giày vò... Đúng là cảnh cơ hàn, khốn khó. Vậy mà Đỗ Phủ lo cho mình một phần, lo cho thiên hạ muôn phần. Ông hiểu rằng mình đã khổ, người khác còn khổ hơn. Đỗ Phủ cảm thấy đời mình thật bất hạnh nhưng cũng thấy hiểu nỗi khổ của người khác. Họ cũng giống như mình, đều đói rách tả tơi.
Trong cảnh bị mưa gió dập một cách tàn nhẫn, trái tim nhà thơ đau thắt không phải vì chuyện căn nhà bị gió thu tốc mái mà còn vì cảnh không nhà của bao kẻ sĩ nghèo trong thiên hạ. Từ hiện thực đau khổ tột cùng ấy đã vút lên ước mơ cao cả, chan chứa lòng vị tha. Ông thầm ước có được ngôi nhà rộng muôn ngàn gian, vững như bàn thạch trước gió mưa để có thể che chở cho tất cả những kẻ sĩ cùng những người nghèo khổ như ông: Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt, riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được! Lòng vị tha của Đỗ Phủ đã đạt đến mức xả thân, sẵn sàng hi sinh tất cả vì hạnh phúc chung. Ông chấp nhận nỗi khổ về mình, miễn sao mọi người thoát khỏi cảnh lầm than và được hạnh phúc. Ước mơ ấy tuy mang màu sắc ảo tưởng song rất cảm động vì nó bắt nguồn từ trái tim nhân ái của nhà thơ.
Tưởng tượng ra căn nhà rộng muôn ngàn gian, trong lòng Đỗ Phủ thoáng một chút vui. Ngoài kia, trời vẫn mưa không dứt và gió thu lạnh lẽo vẫn rít ù ù dọc khe núi vắng.
Đỗ Phủ là ngòi bút thiên về hiện thực đầy đau khổ, bất hạnh của nhân dân mà qua đó ta thấy được phần nào cuộc sống của chính nhà thơ. Một trong những bài thơ tái hiện lại quãng đời bất hạnh của ông là bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá. Bài thơ như một câu chuyện kể lại chân thực về cuộc sống vất vả, tủi nhục khi căn nhà tranh của ông bị gió thu thổi tốc mái.
Vào một đêm tháng tám, bão lốc ập đến, trời bỗng đổ mưa, kèm với nó là những âm thanh ghê rợn như tiếng thét gào của sấm và chớp, tiếng rít của gió. Mái nhà tranh nằm nép mình ven rừng dường như không còn chịu đựng được sức mạnh của trận cuồng phong, chỉ trong chốc lát mái tranh tung lên trời để lại căn nhà trống huếch, chống hoác. Mái tranh bay lả tả khấp nơi, mảnh thì bay sang sông, rải khắp bờ, mảnh thì bay cao treo tót lên ngọn cây trong rừng xa. Mảnh thì bay ra ngoài mương. Để có được căn nhà đó, ông phải nhờ đến sự giúp đỡ cùa bạn bè, ngờ đâu ông được sống yên ổn khi tuổi đã già sức đà yếu, vậy mà chỉ sau vài tháng, trận bão lốc đã cướp đi sự bình yên hiếm hoi ấy. Hoàn cảnh của nhà thơ thật đáng thương.
Trong tình cảnh đó, ông rất cần sự động viên an ủi của bạn bè, láng giềng. Ấy vậy mà lũ trẻ trong thôn thấy Đỗ Phủ sức yếu đã tranh nhau chạy đến cướp những mảnh còn lại. Đọc những câu thơ này, ta có thể mường tượng ra hình ảnh một ông già quần áo xộc xệch, tay chống gậy, bất lực nhìn cảnh lũ trẻ cướp giật và bỏ chạy. Sức kiệt, mệt mỏi, chán nản ông chỉ biết đứng kêu gào nhìn theo lũ trẻ.
Nếu 8 câu thơ đầu nhà thơ nói đến cái rủi, cái đau về sự bạc bẽo vô tâm của bọn trẻ trước nỗi khổ, bất hạnh của ông thì ở khổ thơ thứ ba nhà thơ đưa ta trở về với căn nhà sau trận cuồng phong của ông. Một khung cảnh ảm đạm, khắp nơi đều đã ướt hết tất cả, chiếc giường của các con ông vẫn nằm cũng ướt sũng những nước, đầu giường cũng đã ướt mền chẳng còn chỗ để nằm. Cả nhà phải đắp chiếc chăn cũ lạnh cóng như sắt. Nhà thơ ngồi trong căn nhà rách nát trong lòng đau đớn xót xa, thương vợ con nheo nhóc, thương thân mình đến tận cuối đời vẫn vất vả đói nghèo.
Thế nhưng đến khổ thơ cuối cùng thì tính nhân đạo của ông thực sự đã hiện lên rất rõ. Trong ngôi nhà dột nát, đói nghèo ấy lẽ ra ông có quyền được mơ ước đến một cuộc sống no đủ hạnh phúc cho riêng mình, thế nhưng trong hoàn cảnh đó ông lại mơ đến một ngôi nhà rộng “muôn ngàn gian” không phải cho riêng ông mà là để “Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan”. Chúng ta thật bất ngờ trước ước mơ của ông. Đó là một ước mơ vì nhân loại. Ông không chỉ nói về cái khổ của cá nhân ông, mà thông qua đó, ông nói lên cái khổ của tất cả kẻ sĩ nghèo trong thiên hạ.
Bài thơ đã thể hiện rất rõ bản chất nhân đạo của nhà thơ Đỗ Phủ. Ông luôn nghĩ đến hạnh phúc của mọi người. Thông qua bài thơ, ta còn cảm nhận được lý tưởng cao cả của ông, đó là khao khát thay đổi chế độ, cải thiện xã hội, xóa bỏ hiện thực đen tối này. Những suy nghĩ của nhà thơ khiến chúng ta xúc động và bất ngờ.
Câu trả lời của bạn
Thẩm Đức Tiềm thời Thanh đã từng nhận xét về tài năng của Đỗ Phủ: “Cái tài của ông thật cao, sức viết thật giỏi, dẫu có gió trời sóng biến hay chuông vàng khánh bạc cũng không bắt chước được như vậy”. Những lời ngợi ca đó dường như không còn xa lạ với một “thi Thơ Đỗ Phủ có những nét đặc biệt của một tài nhân, vừa giản dị mà sâu sắc, vừa phản ánh hiện thực một cách khách quan và thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả, xứng đáng là một nhà thơ giàu lòng yêu nước thương dân. “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông. Bài thơ đã giúp người đọc hiểu thêm về nỗi thống khổ mà nhà thơ và những người dân lao động phải hứng chịu, cùng ước mơ cao đẹp của ông.
Đỗ Phủ là cây đại thụ của nền văn học cổ điển Trung Hoa, ông sống vào giai đoạn cực thịnh, sau đó là suy vong của đời Đường, nên đã chứng kiến những cảnh chiến tranh liên miên, thiên tai địch họa, bao cảnh thương tâm, khổ cực của dân chúng dưới chế độ phong kiến đương thời. Vào những năm cuối đời sau khi đã nếm trải đủ những tủi nhục, Đỗ Phủ được bạn bè và người thân giúp đỡ dựng được một ngôi nhà tranh bên cạnh Cán Hoa phía tây Thành Đô. Ong vừa ở nhà được mấy tháng thì căn nhà đã bị gió phá nát. Có lẽ đó chính là nguồn cảm hứng để ông sáng tác lên bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” như để thổ lộ tiếng lòng và những tâm sự của mình. Bước vào tác phẩm người đọc như đang được chứng kiến một trận thu phong vào tháng tám thật dữ dội:
Tháng tám, thu cao, gió thét già
Cuốn mất ba lớp tranh nhà ta
Tranh bay sang sông rải khắp bờ
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa
Mảnh thấp quay lộn vào mương sa
Căn nhà yếu ớt không đủ sức chống chọi với trận cuồng phong. Cơn gió đã làm cho các lớp tranh bị lật tung, bay lộn ra khắp nơi. Dường như ta đang được nghe tác giả tâm sự với chất giọng ngậm ngùi, xót xa và đầy sự tiếc nuối. Những câu thơ liệt kê như vẽ lên khung cảnh dữ dội khi ấy. Có tấm tranh bay rải rác khắp bờ sông, có tấm bay tận rừng xa, có tấm rơi xuống mương nước. Ngước nhìn từng từng tấm tranh theo gió bay đi trong lòng nhà thơ hẳn rất xót xa, đau khổ. Vậy là thiên nhiên vô tình chẳng buông tha cho người áo vải bao năm tháng bôn ba mưu sinh giờ đây mới làm được ngôi nhà để trú mưa trú nắng. Nhà thơ và gia đình đang phải đối mặt với cảnh rối loạn của xã hội, cùng sự mất mát rất lớn về nhà cửa do thiên tai gây ra. Thật là như dồn kẻ khốn khó đến bước đường cùng. Đau đớn hơn khi nhà thơ phải chứng kiến cảnh bọn trẻ thôn Nam cướp giật tranh mà không thể làm gì được:
Trẻ con thôn Nam khinh ta già không sức
Nỡ nhè trước mặt cô cướp giật
Cắp tranh đi tuốt vào luỹ tre
Mỗi khô miệng cháy gào chẳng được
Quay về chống gậy lòng ấm ức.
Trong những năm diễn ra sự biến An-sử, đất nước xảy ra chiến tranh liên miên, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, loạn lạc, ly tán. Một xã hội đảo điên như vậy thì chắc chắn đạo đức con người cũng bị xuống cấp nghiêm trọng. Lũ trẻ thôn Nam nghịch ngợm đến cướp giật tranh đi mất. Chúng không còn biết đến lễ giáo, lễ phép gì nữa, mặc cho tiếng kêu than của nhà thơ. Trước sự trơ tráo của lũ trẻ, nhà thơ chẳng còn biết làm sao, ông thấy đau khổ, giận dữ, chống gậy quay về ngôi nhà tuềnh toàng đã bị phá nát. Đám trẻ con ấy là sản phẩm tất yếu của xã hội đương thời, một xã hội đảo điên, loạn lạc. Trong lòng tác giả đang oán giận, trách móc và cũng rất thông cảm, thấu hiểu cho hành động của lũ trẻ. Những kẻ đáng trách ở đây không phải lũ trẻ mà là xã hội đương thời thối nát đã đẩy con người ta đến cảnh khốn cùng. Có lẽ trong lòng nhà thơ có cả sự thương cảm cho đám trẻ tinh nghịch, đói nghèo, thất học tràn lan, lấy ai nuôi dạy chúng khi đất nước không còn thái bình, mọi nơi rối loạn, đạo đức đang bị đi xuống tưởng chừng không thể cứu vãn. Vị “thi thánh” đã hướng tấm lòng nhân đạo của mình đến những cảnh ngộ khác nữa. Ông quay trở lại với những bước chân mỏi mệt, đắng cay và bất lực. Căn nhà đã bị phá nát bởi những cơn gió, về đêm thời tiết cũng gây khó khăn cho gia đình ông:
Giây lát, gió lặng mây tối mực.
Trời thu mịt một đêm đen đặc
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà giột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt
Gia cảnh của nhà thơ giờ đây bế tắc vô cùng, mưa thu kéo dài dai dẳng suốt đêm. Nhà dột lung tung khác chi ở ngoài trời, Chăn, mền cũ bị con quấy đạp rách hết cả. Trong cảnh ngộ trớ trêu ấy, Đỗ Phủ thương mình ít mà thương vợ con thì nhiều. Cơn mưa dầm dề mãi không dứt, trời lại càng lạnh hơn, làm sao nhà thơ có thể ngủ được.Ta thấy hiện lên trên khuôn mặt nhà thơ sự đau khổ, cay đắng:
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê
Đêm dài ướt át sao cho trót?
Tuổi già, sức yếu lại phải ngồi dưới mưa, nỗi đau nghèo khó như.. dồn nén thắt lại trong trái tim nhà thơ. Không gian xung quanh ông là đêm đen mịt mù, lạnh lẽo giống như cảng ngộ lầm than của gia đình ông và những người dân nghèo khổ đang sống. Cũng trong hoàn cảnh éo le ấy, ta càng trân trọng tấm lòng cao cả, thương dân như con của Đỗ Phủ. Những lời tâm sự cuối bài đã làm sáng tỏ điều đó:
Ước một nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bàn!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt,
Riêng đều ta nát, chịu chết rét cũng được!
Một khổ thơ ta thấy có đến bao câu cảm thán, phải chăng cảm xúc của nhà thơ đã dồn nén đến những giây phút cuối cùng này. Đoạn thơ thực sự gây xúc động sâu sắc cho người đọc bởi giá trị tinh thần nhân đạo, tình yêu thương bao la của nhà thơ. Chắc hẳn không ít người sẽ nghĩ nếu có mơ ước, Đỗ Phủ sẽ ước mình có mái lều, tấm chăn ấm để che chở cho vợ con và bản thân ông khỏi vất vả. Nhưng thật bất ngờ, trong niềm mong ước của ông hiện lên một ngôi nhà kì vĩ “muôn ngàn gian”vô cùng vững chắc. Ngôi nhà ấy không để che cho ông và gia đình mà dành cho tất cả kẻ sĩ nghèo trong thiên hạ. Thực tế xưa nay không có ngôi nhà nào rộng đến muôn ngàn gian như thế. Khổ thơ được sáng tạo bằng biện pháp tu từ so sánh và thậm xưng để diễn tả ước mơ to lớn và cảm hứng lãng mạn dạt dào, làm sáng bừng lòng nhân ái bao la của một con người từng trải biết bao bất hạnh giữa thời loạn lạc. Điều đáng quý hơn cả, trong ước mơ ấy gắn với sự hi sinh thân mình để thực hiện mơ ước cho muôn người, chính ước mơ cao đẹp ấy đã tạo nên sức sống mãnh liệt của bài thơ cùng tên tuổi của Đỗ Phủ – một nhà thơ với tấm lòng yêu thương bao la.
Dù đã qua hơn mười hai thế kỉ nhưng bài thơ vẫn giữ được cho mình chỗ đứng trong trái tim người đọc bởi giá trị nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm. Một điều không thể thiếu tạo nên giá trị ấy chính là tấm lòng yêu nước thương dân của Đỗ Phủ. Ông luôn mong mỏi và khao khát hạnh phúc cho nhân dân. Bài thơ chứa chan giá trị nhân đạo cao cả của bậc vĩ nhân hy sinh bản thân vì mọi người.
Câu trả lời của bạn
Đỗ Phủ là một trong những nhà thơ hiện thực vĩ đại của văn học Trung Hoa với những sáng tác chạm sâu vào trái tim người đọc. Thơ ông là những bức tranh sinh động, chân thực về xã hội phong kiến, về những mảnh đời cơ cực và về những khát khao có cuộc sống bình dị nhất. Ông hiểu thấu nỗi đau của muôn kiếp vì chính bản thân mình cũng đã trải qua. "Bài ca nhà tranh bị gió thu phá" được sáng tác khi ông đã nếm trải biết bao nhiêu cay đắng ở đời, phản ánh được hiện thực khốc liệt và tình yêu thương đồng loại của Đỗ Phủ.
Những năm tháng Đỗ Phủ phải sống trong cảnh nghèo khó, cơ cực. Cuộc sống gia đình ông túng thiếu, sống trong một mái nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoa phía Tây Thành Đô.
Những ngày mưa mùa thu gió lùa đã khiến cho mái nhà tốc mái. Có lẽ đây chính là cảm hứng, cũng chính là hiện thực để cho ông viết lên những dòng thơ này.
Đoạn thơ đầu tiên viết về một trận cuồng phong tháng tám:
Tháng tám, thu cao, gió thét gào
Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta
Tranh bay sang sông rải khắp bờ
Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa
Mảnh thấp quay lộn vào mương xa
Chỉ với mấy câu thơ nhưng đã khái quát được hiện thực tàn khốc từ thiên nhiên, những cơn gió tháng tám đã lật tung mái nhà tranh nghèo. Thật cảm cảnh cho mái nhà tranh rách nát của Đỗ Phủ, ông đành bất lực nhìn thiên nhiên tàn phá. Một hiện thực đầy xót xa mà người đọc nhận ra chính là thiên nhiên cứ vô tình với cuộc đời nhiều đắng cay của một người vẫn mải miết cống hiến cho đời những vần thơ thật đẹp.
Đây cũng chính là thời điểm loạn lạc mà nhân dân Trung Hoa phải đối mặt và trải qua. Binh biến loạn lạc, người dân mất nhà mất cửa, mất người thân, đạo đức suy thoái nghiêm trọng. Đỗ Phủ bất lực nhìn xã hội đang rơi vào ngõ cụt:
Môi khô, miệng cháy gào chẳng được
Quay về chống gậy lòng ấm ức
Nhà thơ già dẫu có "gào" khô cả môi cũng không ai thấu, không ai hiểu, đành ngậm ngùi "chống gậy lòng ấm ức". Nỗi xót xa hiển hiện ngay trong từng câu từng chữ càng khiến người đọc không kìn được cảm xúc. Xã hội tàn khốc, lòng người lạnh lẽo làm sao cứu vãn nổi.
Và tác giả như trào ra sự căm tức và oán hận:
Ngoài biên máu chảy thành biển đỏ
Mở cõi nhà vua ý chưa bỏ
Hiện thực chiến tranh tàn khốc đang phô bày ra trước mắt nhưng nhà vua nào đâu có thấu, có hiểu. Những năm tháng chinh phạt đã khiến cho cuộc sống của nhân dân thêm lầm than và rơi vào ngõ cụt không thể cứu vãn.
Cảnh mưa gió ngày thu tàn phá căn nhà khiến cho Đỗ Phủ không thể chợp được mắt, thương vợ, thương con và thương chính bản thân mình:
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê
Đêm dài ướt át sao cho trót
Câu thơ như cứa vào lòng người nỗi khắc khoải, xót xa cho một kiếp người, kiếp nghèo long đong lận đận.
Nỗi đau đớn, tủi nhục của một người tài giỏi nhưng lận đận, tù tùng, cái nghèo cứ bám riết lấy. Ông tự trách bản thân mình vô dụng không thể đỡ dần, giúp đỡ cho vợ con. Đất nước chiến tranh loạn lạc, nhân dân lầm than. Một bức tranh hiện thực xã hội Trung Hoa nhiều xót xa và nước mắt. Bằng ngòi bút chân thực, ông đã vẽ lên trước mắt người đọc hiện thực xã hội nhiều ám ảnh.
Và rồi ông càng mong muốn, càng khát khao được ấm no và mong và nhân dân qua khỏi cơ cực, nhọc nhằn:
Ước được nhà rộng muôn ngàn gian
Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan
Gió mưa chẳng núng vững vàng như thạch bàn
Than ôi bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát chịu chết rét cũng được.
Đây là một khổ thơ giàu giá trị nhân đạo, là tấm lòng cao cả, vị tha và đầy yêu thương của nhà thơ nghèo Đỗ Phủ dành cho nhân dân Trung Hoa. Niềm ao ước có căn nhà rộng "muôn ngàn gian" để giúp cho nhân dân đỡ lạnh, đỡ khổ trong những ngày mưa gió. Ước muốn nhỏ nhoi ấy đã nói lên tấm lòng yêu thương vô bờ bến của ông dành cho những người nghèo khổ như ông. Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là ông không "ước' cho mình, chỉ ước cho mọi người. Câu thơ cuối thực sự khiến người đọc nghẹn ngào:
Riêng lều ta nát chịu chết rét cũng được
Dù nghèo đói, dù cơ cực nhưng ông vẫn tràn đầy lòng vị tha. Dù chịu cánh "chết rét" ông cũng can tâm để mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân.
Bài thơ "Bài ca nhà tranh bị gió thu phá" của Đỗ Phủ đã phản ánh được hiện thực của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ, đồng thấy người đọc thấy được tấm lòng nhân ái, vị tha của ông đối với cuộc đời, với mọi người.
Câu trả lời của bạn
Tháng tám giữ thu trời bắt đầu chuyển lạnh. Căn nhà ba gian của tôi vừa được dựng. Từ ngày thôi làm quan, tôi đưa gia đình về đây, xa chốn triều đình. Suốt mấy năm trời, tôi mệt mỏi vì bệnh tật của bản thân và sự nghèo đói của gia đình. Sống trong cảnh đói không cơm, đau không thuốc tôi yếu đi nhiều lắm. Vào một buổi bỗng dưng mây đen ùn ùn kéo đến, gió nổi lên cuồn cuộn. Cây cối gãy cành, rụng lá. Cơn lốc xoáy dữ dội tung mái tranh, tốc nóc bay xa. Ba tấm tranh bay sang bên kia sông. Có tấm treo ngọn rừng, có tấm rơi xuống mương gần nhà. Trẻ con trong thôn cướp giật ba tấm tranh ngay truớc mắt tôi. Trẻ con cướp tranh chạy tuốt vào luỹ tre đầu làng. Tôi môi khô miệng cháy gào, nhưng không lấy được. Tôi quay về nhà mà lòng ấm ức và buồn cho mình già yếu, bất lực. Lát sau gió lặng đêm ập xuống tối đen như mực. Đến đêm, trời lại đổ mưa. Mưa rơi xuống ngôi nhà. Cả nhà tôi nằm chăn đêm củ rác. Nhưng từ chính hiện thực đau khổ cùng ấy đã vút lên ước mơ trong tôi. Tôi ước mong cho mọi người thoát khổ, được sống hạnh phúc. Chỉ cần tưởng tượng ra căn nhà rộng muôn ngàn gian ấy ở trong lòng thôi, tôi đã thấy lòng mình rạo rực. Ngoài kia trời vẫn mưa, gió thu vẫn lạnh.
Tháng tám giữ thu trời bắt đầu chuyển lạnh. Căn nhà ba gian của tôi vừa được dựng. Từ ngày thôi làm quan, tôi đưa gia đình về đây, xa chốn triều đình. Suốt mấy năm trời, tôi mệt mỏi vì bệnh tật của bản thân và sự nghèo đói của gia đình. Sống trong cảnh đói không cơm, đau không thuốc tôi yếu đi nhiều lắm. Vào một buổi bỗng dưng mây đen ùn ùn kéo đến, gió nổi lên cuồn cuộn. Cây cối gãy cành, rụng lá. Cơn lốc xoáy dữ dội tung mái tranh, tốc nóc bay xa. Ba tấm tranh bay sang bên kia sông. Có tấm treo ngọn rừng, có tấm rơi xuống mương gần nhà. Trẻ con trong thôn cướp giật ba tấm tranh ngay truớc mắt tôi. Trẻ con cướp tranh chạy tuốt vào luỹ tre đầu làng. Tôi môi khô miệng cháy gào, nhưng không lấy được. Tôi quay về nhà mà lòng ấm ức và buồn cho mình già yếu, bất lực. Lát sau gió lặng đêm ập xuống tối đen như mực. Đến đêm, trời lại đổ mưa. Mưa rơi xuống ngôi nhà. Cả nhà tôi nằm chăn đêm củ rác. Nhưng từ chính hiện thực đau khổ cùng ấy đã vút lên ước mơ trong tôi. Tôi ước mong cho mọi người thoát khổ, được sống hạnh phúc. Chỉ cần tưởng tượng ra căn nhà rộng muôn ngàn gian ấy ở trong lòng thôi, tôi đã thấy lòng mình rạo rực. Ngoài kia trời vẫn mưa, gió thu vẫn lạnh.
Câu trả lời của bạn
Đỗ Phủ (712 - 770) là nhà thơ hiện thực lớn nhất, không chỉ của đời Đường và của cả lịch sử thi ca cổ Trung Quốc. Ông để lại hàng nghìn bài thơ tuyệt tác, được người đời mệnh danh là "thi thánh".
- Cuộc đời ông lưu lạc lênh dênh, nếm trải nhiều đau khổ, nên tâm hồn ông chan hòa với nhân dân lầm than trong xã hội loạn lạc. Ông là "nhà thơ dân đen" (Phan Ngọc).
"Bài ca nhà tranh bị gió thu phá " là một kiệt tác của Đỗ Phủ. Năm câu thơ cuối là những câu thơ đẹp nhất trong bài thơ, lấp lánh tư tưởng nhân đạo sâu sắc của thi hào Đỗ Phủ:
... "ước gì ngàn vạn gian nhà rộng
Che khắp thế gian, dân rét mừng
Vững như núi, gió mưa, chẳng chuyển
Than ôi, bao giờ mắt thấy ngôi nhà ấy
Dẫu lều tan, riêng ta chết cũng cam lòng"
Để thấy được cái hay, cái đẹp của năm câu thơ cuối ta cần phải biết qua một vài nét của phần đầu bài thơ. Những dòng thơ tự sự chân thật, cảm động kể chuyện gió thu tốc nhà. Tai họa dồn dập trút lên gia đình nhà thơ trong một ngày đêm. Gió thu thổi tốc nhà “tranh bị rải khắp ven sông...". Bao nhiêu tranh bị trẻ con xóm Nam cướp sạch. Nhà thơ "khản tiếng, rát hầu, đành chịu mất". Thời loạn lạc đạo lí suy đồi. Tai họa dồn dập, nỗi khổ tưởng chừng không thể nào chịu đựng nổi. Mưa gió suốt đêm, nhà dột, chăn cũ mỏng và rách, rét lạnh thấu xương, thêm tuổi già bệnh tật:
Từ ngày loạn lạc sinh ít ngủ
Dầm nước thâu đêm, chịu nổi sao!
Đoạn thơ như cuốn phim làm sống lại một cảnh lầm than cực khổ cùa một nhà thơ tài ba mà bất hạnh trong xã hội loạn lạc.
Trước nỗi đau ấy, con nguời gục xuống khóc than? Không! Tâm hồn nhà thơ ngời ngời. Quên hết nỗi đau của riêng mình, lòng ông hướng về bao người cần lao trong xã hội. Ông mơ ước, khát khao: Có ngôi nhà ngàn vạn gian “Che khắp thế gian dân rét mừng, Vững như núi, gió mưa chẳng chuyển". Thật vô cùng cảm động, nhà thơ nguyện quên mình cho hạnh phúc của nhân dân:
"Than ôi, bao giờ mắt thấy ngôi nhà ấy
Dẫu lều tan, riêng ta chết cóng cũng cam lòng"
Cái hay, cái sâu sắc của đoạn thơ là bằng bút pháp tương phản: Cảnh đời và nỗi lòng, nỗi khổ và niềm mong ước. Đoạn thơ như một lời tâm sự, chân thực và cảm động được diễn tả qua hình ảnh ngôi nhà to lớn trong ước mơ của tác giả... Yếu tố hiện thực, yếu tố trữ tình lãng mạn kết hợp một cách hài hòa làm sáng lên tư tưởng, tình cảm nhân ái, lí tưởng nhân đạo bao la của Đỗ Phủ.
Ở năm dòng cuối bài thơ, ước vọng nhân đạo chân thành thấm đượm tình nguời của Đỗ Phủ sáng mãi cùng thời gian. Giả sử nếu bài thơ dừng lại câu thơ tả thực ở phần trên thì có không phải là tác phẩm của bậc “thi thánh” nữa. Thi pháp cổ gọi năm câu thơ ấy là loại câu "cảnh cú" (làm rung chuyển lên cả bài thơ). Câu thơ để lại dấu ấn một hồn thơ, một tấm lòng, dọc thời gian từ đó đến nay đã 13 thế kỷ mà ta đọc lên vẫn xiết bao cảm động!
Đọc "Bài ca nhà tranh bị gió thu phá", ta như thấy hiện lên trước mắt hình một ông già gầy yếu ngồi trong một gian nhà bị dột dưới mưa gió tầm tã, tấm chăn mỏng ướt sũng, đôi mắt đăm chiêu, tư lự nhìn xa xăm... Hình ảnh ấy như một hình ảnh chập chờn mãi trong lòng ta.
Đỗ Phủ (712 - 770) là nhà thơ hiện thực lớn nhất, không chỉ của đời Đường và của cả lịch sử thi ca cổ Trung Quốc. Ông để lại hàng nghìn bài thơ tuyệt tác, được người đời mệnh danh là "thi thánh".
- Cuộc đời ông lưu lạc lênh dênh, nếm trải nhiều đau khổ, nên tâm hồn ông chan hòa với nhân dân lầm than trong xã hội loạn lạc. Ông là "nhà thơ dân đen" (Phan Ngọc).
"Bài ca nhà tranh bị gió thu phá " là một kiệt tác của Đỗ Phủ. Năm câu thơ cuối là những câu thơ đẹp nhất trong bài thơ, lấp lánh tư tưởng nhân đạo sâu sắc của thi hào Đỗ Phủ:
... "ước gì ngàn vạn gian nhà rộng
Che khắp thế gian, dân rét mừng
Vững như núi, gió mưa, chẳng chuyển
Than ôi, bao giờ mắt thấy ngôi nhà ấy
Dẫu lều tan, riêng ta chết cũng cam lòng"
Để thấy được cái hay, cái đẹp của năm câu thơ cuối ta cần phải biết qua một vài nét của phần đầu bài thơ. Những dòng thơ tự sự chân thật, cảm động kể chuyện gió thu tốc nhà. Tai họa dồn dập trút lên gia đình nhà thơ trong một ngày đêm. Gió thu thổi tốc nhà “tranh bị rải khắp ven sông...". Bao nhiêu tranh bị trẻ con xóm Nam cướp sạch. Nhà thơ "khản tiếng, rát hầu, đành chịu mất". Thời loạn lạc đạo lí suy đồi. Tai họa dồn dập, nỗi khổ tưởng chừng không thể nào chịu đựng nổi. Mưa gió suốt đêm, nhà dột, chăn cũ mỏng và rách, rét lạnh thấu xương, thêm tuổi già bệnh tật:
Từ ngày loạn lạc sinh ít ngủ
Dầm nước thâu đêm, chịu nổi sao!
Đoạn thơ như cuốn phim làm sống lại một cảnh lầm than cực khổ cùa một nhà thơ tài ba mà bất hạnh trong xã hội loạn lạc.
Trước nỗi đau ấy, con nguời gục xuống khóc than? Không! Tâm hồn nhà thơ ngời ngời. Quên hết nỗi đau của riêng mình, lòng ông hướng về bao người cần lao trong xã hội. Ông mơ ước, khát khao: Có ngôi nhà ngàn vạn gian “Che khắp thế gian dân rét mừng, Vững như núi, gió mưa chẳng chuyển". Thật vô cùng cảm động, nhà thơ nguyện quên mình cho hạnh phúc của nhân dân:
"Than ôi, bao giờ mắt thấy ngôi nhà ấy
Dẫu lều tan, riêng ta chết cóng cũng cam lòng"
Cái hay, cái sâu sắc của đoạn thơ là bằng bút pháp tương phản: Cảnh đời và nỗi lòng, nỗi khổ và niềm mong ước. Đoạn thơ như một lời tâm sự, chân thực và cảm động được diễn tả qua hình ảnh ngôi nhà to lớn trong ước mơ của tác giả... Yếu tố hiện thực, yếu tố trữ tình lãng mạn kết hợp một cách hài hòa làm sáng lên tư tưởng, tình cảm nhân ái, lí tưởng nhân đạo bao la của Đỗ Phủ.
Ở năm dòng cuối bài thơ, ước vọng nhân đạo chân thành thấm đượm tình nguời của Đỗ Phủ sáng mãi cùng thời gian. Giả sử nếu bài thơ dừng lại câu thơ tả thực ở phần trên thì có không phải là tác phẩm của bậc “thi thánh” nữa. Thi pháp cổ gọi năm câu thơ ấy là loại câu "cảnh cú" (làm rung chuyển lên cả bài thơ). Câu thơ để lại dấu ấn một hồn thơ, một tấm lòng, dọc thời gian từ đó đến nay đã 13 thế kỷ mà ta đọc lên vẫn xiết bao cảm động!
Đọc "Bài ca nhà tranh bị gió thu phá", ta như thấy hiện lên trước mắt hình một ông già gầy yếu ngồi trong một gian nhà bị dột dưới mưa gió tầm tã, tấm chăn mỏng ướt sũng, đôi mắt đăm chiêu, tư lự nhìn xa xăm... Hình ảnh ấy như một hình ảnh chập chờn mãi trong lòng ta.
Câu trả lời của bạn
- Phương thức biểu đạt: miêu tả kết hợp tự sự và biểu cảm.
Câu trả lời của bạn
- Nỗi khổ vì ngôi nhà bị gió cuốn: cái thì bay sang sông, cái thì treo trên ngọn cây, cái nhào xuống lòng mương tơi tả. Cảnh tượng thật kinh hoàng. Cách miêu tả của tác giả rất cụ thế mang đến cho người đọc một cái nhìn chua chát và sự bất lực của nhà thơ khi thấy mái tranh nhà mình bỗng chốc tan hoang. Đó chính là nỗi khổ đầu tiên trong bài thơ mà Đỗ Phủ miêu tả.
- Đằng sau sự mất mát về vật chất là nỗi đớn đau về mặt tinh thần (khi tác giả chứng kiến cảnh trẻ con cướp những tấm tranh – cuộc sống cùng cực quá đã làm thay đổi tính cách trẻ thơ), một bên ông già chống gậy lọm khọm, miệng gào thét đến khô cháy mà chẳng đòi lại được.
- Nỗi khổ phải nằm trong mưa lạnh: Đêm tối mù mịt, nhà dột, chăn nát, còn bị con thơ đạp làm rách thêm… cơm mưa kéo dài suốt đêm không dứt càng làm cho nỗi khổ thêm chồng chất.
- Những nỗi khổ trên chỉ là bức phông nền cho sự xuất hiện nỗi khổ đến tận cùng giáng xuống đầu tác giả: tuổi cao lại do cảnh loạn li nên tác giả suốt một đêm không ngủ, để rồi trong nỗi đau khổ của bản thân người chỉ biết nghĩ đến cho thiên hạ, cho kẻ sĩ nghèo.
Câu trả lời của bạn
- Cách miêu tả của nhà thơ rất sinh động, cụ thể, đồng thời tính hàm súc rất cao, chỉ bằng một vài câu ngắn gọn người đọc đã hình dung được cả cảnh tượng, nỗi khổ đó đã được nhân lên gấp bội và dấy lên sự xót xa, thương cảm trong lòng người đọc.
Câu trả lời của bạn
- Tinh thần nhân đạo, nhân văn cao cả của bài thơ được tác giả gửi gắm vào khổ thơ cuối cùng. Vậy nếu bài thơ chỉ dừng lại ở các khổ thơ trên sẽ chỉ làm rõ được giá trị hiện thực, đó chỉ là lời tự thán cho nỗi khổ đau mà tác giả gặp phải và qua đó cũng chỉ dừng lại ở việc khơi gợi niềm thương xót của người đọc dành cho tác giả mà thôi. Do đó, giá trị biểu cảm của bài thơ sẽ giảm đi ít nhiều.
Câu trả lời của bạn
- “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” không chỉ thể hiện nỗi thống khổ của bản thân Đỗ Phủ mà còn là nỗi khổ của bao kẻ sĩ nghèo trong thiên hạ. Tấm lòng yêu nước thương dân và lí tưởng, khát vọng cao cả của tác giả sẽ mãi còn mãi trong tâm khảm và trái tim của độc giả.
Câu trả lời của bạn
Đỗ Phủ.
Câu trả lời của bạn
Lí giải:
- Đoạn 3 khá bất thường, dài tới 8 câu. Tác giả tập trung miêu tả những chi tiết về sự cực khổ trong đêm mưa: nhà dột, rét buốt không ngủ được, ông đã thao thức. Điều đó đã khiến cho ý thơ nhiều hơn, dài hơn.
- Trong khố thơ cuối, câu thơ dài hơn các khổ thơ trên để diễn đạt những tâm tư, tình cảm và khát vọng cao đẹp và hùng vĩ của nhà thơ.
Câu trả lời của bạn
Phật thơ.
Câu trả lời của bạn
4 đoạn.
Câu trả lời của bạn
Cho thấy cả nỗi khổ của những người trong xóm.
Câu trả lời của bạn
Miêu tả, tự sự và biểu cảm.
Câu trả lời của bạn
Gió lốc thét gào.
Câu trả lời của bạn
Nhà tranh dột nát, con thơ đói khát.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *