Qua bài học giúp các em bước đầu nắm được khái niệm trữ tình và một số đặc điểm nghệ thuật phổ biến của tác phẩm trữ tình, thơ trữ tình. Củng cố kiến thức cơ bản và duyệt lại một số kỹ năng đơn giản đã được cung cấp và rèn luyện, trong đó đặc biệt lưu ý cách tiếp cận 1 tác phẩm trữ tình.
Văn học dân gian | TT | Chùm văn bản | Thể loại | Nội dung | Nghệ thuật |
1 | Những câu hát về tình cảm gia đình. | Ca dao
| Bộc lộ các tình cảm trong gia đình, đó là những tình cảm thiêng liêng nhất trong cuộc đời mỗi con người. | So sánh, ẩn dụ, đối xứng, tăng cấp…; diễn tả tình cảm qua những mô típ; thể thơ lục bát và lục bát biến thể. | |
2 | Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người. | Ca dao
| Tình yêu, niềm tự hào đối với con người, lịch sử , truyền thống văn hóa của quê hương đất nước. | Sử dụng kết cấu chào hỏi, lời mời…;cấu tứ đa dạng, độc đáo; thể thơ lục bát và lục bát biến thể. | |
3 | Những câu hát than thân | Ca dao
| Nỗi niềm cơ cực, buồn tủi của người lao động dưới chế độ cũ và nỗi cảm thông đối với họ . | Sử dụng cách nói tượng trưng, thành ngữ và các biện pháp so sánh, phóng đại… | |
4 | Những câu hát châm biếm. | Ca dao
| Thái độ mỉa mai, châm biếm đối vớinhững thói hư, tật xấu, những hủ tục lạc hậu. | Sử dụng các hình thức giễu nhại , cách nói có hàm ý tạo nên tiếng cười hài hước, châm biếm. |
Văn
học
trung
đại | TT | Tên văn bản | Thể loại | Tác giả | Nội dung | Nghệ thuật |
1 | Sông núi nước Nam | Thất ngôn tứ tuyệt | Lí Thường Kiệt | Lời khẳng định về chủ quyền lãnh thổ của đất nước; ý chí kiên quyết bảo vệ đất nước, bảo vệ độc lập dân tộc. | Ngôn ngữngắn gọn, xúc tích, thiên về nghị luận; giọng thơ dõng dạc, hùng hồn, đanh thép. | |
2 | Phò giá về kinh | Thất ngôn tứ tuyệt | Trần Quang Khải | Hào khí chiến thắng và khát vọng về một đất nước thái bình thịnh trị của dân tộc ta ở thời nhà Trần. | Hình thức diễn đạt cô đọng, hàm xúc;giọng điệu sảng khoái, hân hoan, tự hào. | |
3 | Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra | Thất ngôn tứ tuyệt | Trần Nhân Tông | Bức tranh làng quê thanh bình ở đồng bằng Bắc bộ qua cái nhìn của một vị vua đời Trần. | Ngôn ngữ miêu tả đậm chất hội họa, kết hợp giữa điệp ngữ với tiểu đối, tạo nhịp thơ êm ái, hài hòa. | |
4 | Bài ca Côn Sơn | Lục bát (bản dịch) | Nguyễn Trãi | Cảnh trí Côn Sơn nên thơ; nhân cách thanh cao, sự giao hòa trọn vẹn giữa con người với thiên nhiên. | Sử dụng từ xưng hô “ta”, đan xen giữa tả cảnh và tả người, giọng thơ nhẹ nhàng êm ái. | |
5 | Bánh trôi nước | Hồ Xuân Hương | Thất ngôn tứ tuyệt | Ngợi ca vẻ đẹp, phẩm chất của người phụ nữ; lòng cảm thương sâu sắc đối với thân phận nổi chìm của họ. | Ngôn ngữ thơ bình dị, sử dụng môtíp dân gian, hình ảnh nhiều tầng ý nghĩa. | |
6 | Qua Đèo Ngang | Bà Huyện Thanh Quan | Thất ngôn bát cú | Bài thơ thể hiện tâm trạng cô đơn thầm lặng và nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ trước cảnh vật Đèo Ngang. | Sử dụng thể thơ điêu luyện, bút pháp tả cảnh ngụ tình,sử dụng từ láy, từ đồng âm khác nghĩa, đối. | |
7 | Bạn đến chơi nhà | Nguyễn Khuyến | Thất ngôn bát cú | Bài thơ thể hiện một quan niệm về tình bạn : tình bạn chân thành quí hơn mọi thứ trên đời. | Sáng tạo nên tình huống khó xử khi bạn đến chơi nhà , lập ý bất ngờ, thể thơ điêu luyện. | |
8 | Xa ngắm thác núi Lư | Lí Bạch | Thất ngôn tứ tuyệt | Vẻ đẹp kì vĩ, mạnh mẽ của thiên nhiên và tâm hồn phóng khoáng, bay bổng của nhà thơ Lí Bạch | Kết hợp tài tình giữa cái thực và cái ảo; liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo, ngôn ngữ giàu hình ảnh. | |
9 | Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh. | Lí Bạch | Ngũ ngôn tứ tuyệt | Nỗi lòng đối với quê hương da diết, sâu nặng trong tâm hồn, tình cảm người xa quê. | Xây dựng hình ảnh gần gũi, ngôn ngữ tự nhiên, bình dị. | |
10 | Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê. | Hạ Tri Chương
| Thất ngôn tứ tuyệt | Tình quê hương chân thành và nỗi xót xa khi mới trở về. | Sử dụng các yếu tố tự sự, cấu tứ độc đáo, giọng điệu bi hài. | |
11 | Bài ca nhà tranh bị gió thu phá | Đỗ Phủ | Cổ thể (trường thiên) | Tinh thần nhân đạo, lòng vị tha cao cả vẫn tồn tại ngay cả khi con người phải sống trong hoàn cảnh nghèo khổ, cùng cực. | Bút pháp hiện thưc, kết hợp tự sự, miêu tả và biểu cảm. |
Thơ hiện đại | TT | Tên văn bản | Tác giả | Thể loại | Nội dung | Nghệ thuật |
1 | Cảnh khuya | Hồ Chí Minh | Thất ngôn bát cú | Cảnh đêm trăng ở núi rừng Việt Bắc ; sự gắn bó , hòa hợp giữa thiên nhiên và con người. | Nhiều hình ảnh thơ lung linh, kì ảo; phép tu từ , so sánh, điệp ngữ sáng tạo và nhịp điệu độc đáo . | |
2 | Rằm tháng Giêng | Hồ Chí Minh | Lục bát (bản dịch) | Vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ – chiến sĩ Hồ Chí Minh trước vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. | Sử dụng điệp từ hiệu quả, lựa chọn từ ngữ gợi hình, biểu cảm. | |
3 | Tiếng gà trưa | Xuân Quỳnh | Thơ năm chữ | Những kỉ niệm về người bà, về tuổi thơ tràn ngập yêu thương làm cho người chiến sĩ thêm vững bước trên đường ra trận. | Sử dụng điệp ngữ có tác dụng gợi nhắc kỉ niệm , nối mạch cảm xúc; vừa kể chuyện vừa bộc lộ tâm tình. |
Văn xuôi hiện đại | TT | Tên văn bản | Tác giả | Thể loại | Nội dung | Nghệ thuật |
1 | Một thứ quà của lúa non: Cốm. | Thạch Lam | Tùy bút | Những cảm giác lắng đọng, tinh tế, sâu sắc về lối sống và văn hóa của người Hà Nội . | Lời văn trang trọng, tinh tế, đầy cảm xúc, giàu chất thơ; chi tiết chọn lọc, đan xen kể và tả. | |
2 | Mùa xuân của tôi | Vũ Bằng | Tùy bút | Vẻ đẹp của mùa xuân trên quê hương miền Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của người con xa quê. | Trình bày nội dung theo mạch cảm xúc, lựa chọn từ ngữ, câu văn linh hoạt, giàu hình ảnh, so sánh liên tưởng phong phú, độc đáo. | |
3 | Sài Gòn tôi yêu | Minh Hương | Tùy bút | Lời bày tỏ tình yêu tha thiết, bền chặt của tác giả đối với thành phố Sài Gòn. | Tạo bố cục theo mạch cảm xúc, ngôn ngữ đậm màu sắc Nam Bộ , lối viết nhiệt thành . |
Phân biệt | Ca dao trữ tình | Thơ trữ tình |
Khái niệm | Là loại thơ biểu hiện những tình cảm, nguyện vọng tha thiết và chính đáng, vốn được lưu truyền trong dân gian | Là những tác phẩm thơ biểu hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả trước cuộc sống. |
Tình cảm | Cái chung, phi cá thể. | Mang đậm dấu ấn cá nhân (thông qua những rung động của cá nhân để tìm đến cái chung). |
Thể thơ | Lục bát và lục bát biến thể | Đa dạng, phong phú |
Nghệ thuật | So sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá, diễn đạt tình cảm qua những mô típ quen thuộc… | Nghệ thuật trùng điệp, so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa...biểu đạt tình cảm cá nhân |
Ngôn ngữ |
| Cô đọng, giàu hình ảnh, gợi cảm |
Cách biểu hiện | Cảm xúc của ca dao là cảm xúc toàn dân. |
|
→ Để hiểu rõ, hiểu sâu hơn về văn bản.
Đề bài: Viết đoạn văn cảm nhận về một bài, một đoạn hay một câu… trong một văn bản trữ tình mà em yêu thích.
Gợi ý làm bài
Đề tham khảo: Cảm nghĩ về bài "Cảnh khuya" của Hồ Chí Minh.
1. Mở bài
2. Thân bài
a. Miêu tả cảnh đêm trang rừng êm đềm, thơ mộng
* Câu 1 và 2
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
* Câu 3 và câu 4
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
⇒ Cảnh thiên nhiên dù đẹp đẽ, thơ mộng nhưng không làm cho Bác quên đi trách nhiệm lớn lao của một lãnh tụ cách mạng đối với dân, với nước.
3. Kết bài
Để nắm vững hơn nội dung của bài học, các em có thể tham khảo bài soạn Ôn tập tác phẩm trữ tình.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 7 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
xác định thể thơ của bài anh có về xứ nghệ với em ko
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
- Tác phẩm trữ tình là văn bản biểu hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả trước cuộc sống. Thơ là thể loại văn học phù hợp để biểu hiện tình cảm, cảm xúc, tuy nhiên cũng có thơ tự sự, truyện thơ. Tác phẩm trữ tình là văn bản biểu hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả trước cuộc sống.
CHÚC BẠN HỌC TỐT !
Những văn bản thể hiện tình cảm, cảm xúc của tác giả.
Câu trả lời của bạn
Nguyên văn tác phẩm chinh phụ ngâm khúc được tác giả Đặng Trần Côn viết bằng chữ Hán.
Câu trả lời của bạn
Thơ song thất lục bát.
Câu trả lời của bạn
Qua Đèo Ngang.
Câu trả lời của bạn
Chữ Nôm.
Câu trả lời của bạn
Cổng trường mở ra.
: Cảm nhận của em về cái hay, cái đẹp của những câu tục ngữ sau bằng một đoạn văn khoảng 3-5 câu:
a. Một mặt người bằng mười mặt của.
b. Cái răng cái tóc là góc con người.
c. Đói cho sạch rách cho thơm.
d. Học ăn, học nói, học gói, học mở.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Cụm từ " ta với ta " trong văn bản qua đèo ngang có ý nghĩa gì
Câu trả lời của bạn
+Nói về cái buồn cô đơn thầm kín, buồn lặng không người chia sẻ
I. Trắc nghiệm khách quan (2,5 điểm, 10 câu, mỗi câu 0,25 điểm)
Khoanh tròn vào chỉ một chữ cái trước câu trả lời đúng.
1. Bài thơ Sông núi nước Nam thường được gọi là gì?
A. Hồi kèn xung trận
B. Khúc ca khải hoàn
C. Áng thiên cổ hùng văn
D. Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên
2. Bài Sông núi nước Nam được viết cùng thể thơ với bài nào?
A. Phò giá về kinh
B. Bài ca Côn Sơn
C. Bánh trôi nước
D. Qua Đèo Ngang
3. Bài thơ Sông núi nước Nam ra đời trong hoàn cảnh nào?
A. Ngô Quyền đánh quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.
B. Lý Thường Kiệt chống quân Tống trên sông Như Nguyệt.
C. Trần Quang Khải chống giặc Nguyên ở bến Chương Dương.
D. Quang Trung đại phá quân Thanh.
4. Bài thơ Sông núi nước Nam đã nêu bật điều gì?
A. Nước Nam là đất nước có chủ quyền và không một kẻ thù nào xâm phạm được.
B. Nước Nam là một đất nước có truyền thống văn hiến từ ngàn xưa.
C. Nước Nam rộng lớn và hùng mạnh, có thể sánh ngang với các cường quốc khác.
D. Nước Nam có nhiều anh hùng sẽ đánh tan giặc ngoại xâm.
5. Từ nào sau đây không đồng nghĩa với từ sơn hà?
A. Giang sơn
B. Sông núi
C. Đất nước
D. Sơn thuỷ
6. Nghệ thuật nổi bật của bài thơ Sông núi nước Nam là gì?
A. Sử dụng nhiều biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu cảm xúc
B. Sử dụng điệp ngữ và các yếu tố trùng điệp
C. Ngôn ngữ sáng rõ, cô đúc, hoà trộn giữa ý tưởng và cảm xúc
D. Nhiều hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng
7. Trong các bài thơ sau, bài nào là thơ Đường?
A. Phò giá về kinh
B. Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh
C. Cảnh khuya
D. Rằm tháng giêng
8. Nhận xét nào sau đây không đúng về tác phẩm trữ tình?
A. Tác phẩm trữ tình thuộc kiểu văn bản biểu cảm.
B. Tác phẩm trữ tình chỉ dùng lối bày tỏ trực tiếp tình cảm, cảm xúc.
C. Tác phẩm trữ tình có ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu sức gợi cảm.
D. Tác phẩm trữ tình có thể có yếu tố tự sự và miêu tả.
9. Thành ngữ trong câu "Mẹ đã phải một nắng hai sương vì chúng con." giữ vai trò gì?
A. Chủ ngữ
B. Vị ngữ
C. Bổ ngữ
D. Trạng ngữ
10. Lối chơi chữ nào được sử dụng trong hai câu sau:
"Con cá đối bỏ trong cối đá
Con mèo cái nằm trên mái kèo"
A. Từ ngữ đồng âm
B. Cặp từ trái nghĩa
C. Nói lái
D. Điệp âm
II. Tự luận (7, 5 điểm)
11. (2 điểm): Nhận xét ngắn gọn về sự khác nhau của cụm từ ta với ta trong hai bài thơ Qua Đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan) và Bạn đến chơi nhà (Nguyễn Khuyến).
12. (5,5 điểm): Viết bài văn biểu cảm (có sử dụng yếu tố miêu tả, tự sự) theo một trong hai chủ đề sau:
Câu trả lời của bạn
B
C
B
A
B
C
B
A
C
C
1-d
2-c
3-b
4-a
5-b
6-c
7-b
8-a
9-c
Cảm nghĩ của em về tình bạn thời học sinh
Trong cuộc sống hiện nay có rất nhiều mối quan hệ thân sơ, nhiều cung bậc tình cảm giữa con người với nhau. Tất cả hoà quyện vào nhau, hình thành nên nhiều khúc tình cảm tâm tình : tình cảm gia đình, tình yêu, tình bạn … . Tuy rằng, tình cảm bạn bè không thiêng liêng, cao cả bằng tình cảm gia đình, không nồng nàn, mãnh liệt như tình yêu, nhưng ai cũng cần có một tình bạn chân thành để có thể cùng nhau chia sẽ bao niềm vui và nỗi buồn. Nếu trên thế gian này không có tình bạn thì sẽ tẻ nhạt biết bao. Có thể nói tình bạn đã tiếp thêm cho chúng ta nghị lực để vươn lên trong cuộc sống. Đặc biệt, những tình bạn thời học sinh là những tình cảm hồn nhiên, trong sáng và đẹp đẽ biết bao.
Có khi nào ngồi buồn, bạn tự hỏi mình “ Tình bạn là gì ” chưa ? Tình bạn – friendship. Nếu dịch sát nghĩa từ tiếng Anh, theo như tôi hiểu, là con thuyền của tình bạn. Mỗi chiếc thuyền lớn là một sự gắn kết của biết bao mảnh ghép nhỏ bé. Nếu không có sự liên kết bền chặt thì những mảnh ghép mãi mãi chỉ là những miếng gỗ vô dụng không hơn không kém… Và tình bạn cũng như con thuyền kia, cũng được xây dựng từ những mảnh ghép của sự thông cảm, hiểu biết và chia sẻ. Nếu lỡ một ngày nào đó, một trong hàng ngàn, hàng vạn mảnh ghép nhỏ bé đấy mất đi, hay mai một, đấy là lúc luyển tiếc thay một tình bạn tình bạn bị tan vỡ chỉ vì một chuyện nhỏ. Cũng như những chiếc thuyền lớn, thường xuyên cần được tu sửa. Đấy là khi bạn đã quá mệt mỏi với biết bao lo toan, suy nghĩ giữa những bon chen của cuộc sống và dường như cảm thấy không còn thời gian dành cho những người bạn của mình. Đừng vội trách bạn không chia sẻ, không quan tâm để rồi sẽ làm cho mình xa bạn hơn thôi. Hãy tạm quên đi tất cả và quan tâm hơn đến những người bạn của mình. Đừng để những mối mọt phiền muộn, hiểu lầm làm hư mục, rạn nứt tình bạn. Nếu có người từng ví tình yêu như những chuyến tàu, sẽ đi ngang qua cuộc đời ta hoặc đưa ta đi đến những chặng dừng khác nhau… thì tình bạn chân thành sâu sắc sẽ như những chiếc thuyền vững chắc, cùng ta vượt qua tất cả bão tố, sóng gió của cuộc đời… Luôn luôn thầm lặng và bền bỉ …. Như vậy, một tình bạn sẽ chẳng thể bền vững nếu như thiếu đi những chia sẻ, đồng cảm và hiểu nhau… cũng như 1 chiếc thuyền không thể đối mặt với phong ba, bão táp nếu thiếu đi bất kỳ một mảnh ghép nào, dù là một mảnh ghép rất nhỏ.
Tình bạn được xây dưng từ những giọt kết tinh tình cảm của bạn bè. Đó là người có thể thay đổi cuộc sống của bạn dù chỉ là một phần nhỏ nào đó, là người có thể làm cho bạn cười đến ngặt nghẽo đến nỗi bạn không thể dừng lại, làm cho bạn tin rằng thế giới này thật tốt đẹp, và có thể người đó đã ngồi hàng giờ để thuyết phục bạn rằng “ thật sự cánh cửa cuộc đời vẫn chưa đóng lại với bạn và nó đang cho bạn mở ra” . Người bạn ấy có thể giúp bạn vượt qua những giây phút khó khăn của cuộc sống, lúc buồn và cả những lúc rối trí hay những lúc khi bạn ngã qụy và thế gíơi quanh bạn dường như qúa đen tối và trống rỗng. Người bạn ấy sẽ nắm lấy tay bạn và nói với bạn rằng mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp. Và nếu bạn đã tìm thấy một ngừơi bạn như thế, bạn đã cảm thấy hạnh phúc và đầy đủ, bởi vì bạn không cần lo âu, bạn đã có một tình bạn mãi mãi trong cuộc đời và nó sẽ không bao giờ kết thúc. Bạn sẽ không còn những ngày tháng cô đơn, tẻ nhạt mà sẽ luôn tươi cười, sống một cuộc sống đầy hạnh phúc và ấm áp trong vòng tay bè bạn .
Người bạn bình thường có thể chưa bao giờ thấy bạn khóc, nhưng người bạn thật sự sẽ luôn là đôi vai cho bạn tựa vào mỗi khi bạn buồn khổ. Người bạn bình thường tỏ ra khó chịu khi bạn trễ hẹn, nhưng người bạn thật sự sẽ hỏi xem bạn mắc kẹt chuyện gì. Người bạn bình thường lắng nghe những vướng mắc của bạn, nhưng người bạn thật sự sẽ giúp bạn giải quyết những vướng mắc đó. Người bạn bình thường luôn là khách khi đến thăm bạn, nhưng người bạn thật sự thì luôn tự phục vụ mình khi đến nhà bạn. Người bạn bình thường cho rằng tình bạn sẽ chấm dứt sau những lần cãi cọ, còn người bạn thật sự lại tin rằng tình bạn sẽ càng thân thiết hơn sau những cuộc tranh cãi như vậy. Người bạn bình thường luôn mong muốn bạn sẽ giúp đỡ họ, người bạn thật sự luôn có mặt khi bạn cần sự giúp đỡ. Vậy người bạn thật sự là ai? Là người vẫn gắn bó với bạn ngay cả khi tất cả những người bạn khác xa lánh bạn. Có người nói có một người bạn là điều dễ dàng. Làm một người bạn tốt là một điều khó.
Bước đầu tiên để có một tình bạn đẹp là làm bạn với chính bản thân bạn. Khi chúng ta thật sự yêu thương bản thân mình, chúng ta sẽ tạo được sự lôi cuốn đối với người khác. Vì chúng ta không chú trọng nhiều tới cá nhân chúng ta nên chúng ta sẽ quan tâm đến người khác nhiều hơn. Chúng ta sẽ có niềm tin để dành thời gian cho người bạn của mình vì chúng ta muốn có những giây phút yên bình, vui vẻ bên bạn ấy chứ không phải chúng ta cần người ấy để làm những điều có lợi cho bản thân. Sự gần gũi, thân mật thì quan trọng hơn nhiều so với khoảng thời gian cả hai tiếp xúc nhau. Hãy quyết tâm dành cho nhau những giờ phút vô cùng đặc biệt và đáng nhớ, đừng ngại ngần gì cả. Nếu bạn muốn tình bạn được phát triển, hãy bỏ đi nỗi sợ người ta không muốn làm bạn với bạn. Mời họ ăn trưa hoặc tổ chức một buổi họp nhóm và cùng nhau ăn tối. Khi bạn bè giận nhau, nên là người gọi điện trước nhất. Bạn của bạn cũng đang nóng lòng muốn làm lành với bạn.
Hãy cư xử với bạn của bạn như là cư xử với chính bản thân bạn. Quan tâm người khác hơn là chờ đợi người ấy quan tâm mình. Hãy thông cảm, tránh than phiền về nhau, cũng như việc ngồi lê đôi mách và chỉ trích nhau, hãy luôn nghĩ về những người yêu thương bạn. … Với mỗi người làm bạn khóc, sẽ có ba người làm bạn cười, và một nụ cười sẽ tồn tại thật lâu, thật lâu nhưng giọt nước mắt thì chỉ tồn tại trong một lúc. Nếu ai đó có một điều gì đó tội lỗi, đừng để nó hằn sâu vào bạn. Vì thế để có thể hành động một cách đích xác, hãy nghĩ đến những người yêu thương bạn và đừng để điều gì làm hỏng cái thứ tình cảm cao đẹp ấy
Niềm vinh quang của tình bạn không phải là ở vòng tay giang ra, không phải là ở nụ cười thân mật, cũng không phải là sự vui vẽ bên nhau, đó là nguồn cảm hứng thiêng liêng mà ngươì này cảm nhận được khi phát hiện có ai đó tin tưởng ở mình và vui sướng với sự tin tưởng đó trong tình bạn hữu. Với 1 người bạn thật tình, mình có thể nói thật lòng về 1 điều ngốc ngếch nào đó bởi vì bạn là 1 người đáng tin cậy. Khi niềm vui đến với bạn , nó sẽ lan qua bạn. Ngọn đèn của bạn tôi sáng lên bao nhiêu thì đèn của tôi cũng sáng lên bấy nhiêu. Có tình bạn là có được chiếc chìa khoá mở vào tâm hồn của ngươì khác. Hãy tin cậy người đã giúp bạn vượt qua nỗi sầu muộn, những ngày đen tối hơn là những ngươì chung vui với bạn, những ngày huy hoàng thịnh vượng vì đó mới chình là tình bạn thật sự. Tình bạn sẽ xoa dịu đi mọi lo lắng, xua tan đi mọi buồn phiền và khuyên nhũ ta khi bất hạnh.Tình bạn chân thành là 1 cái cây mọc chậm và phải thử thách nó, phải chịu đựng nhiều nghịch cảnh trước khi được kêu bằng danh hiệu đó. Không ai toàn điện cả và bạn bè là phần mà mình còn thiếu. Tình bạn lí tưởng chỉ có những người bạn tốt và những ng có cùng đức tính tốt. Hãy duy trì một cuộc sống tốt đẹp với bạn bè, đó là ưu điểm của tình bạn. Bạn mới là bạc, bạn cũ là vàng.
Mỗi khi nhắc tới hai tiếng “ tình bạn” thân thương đó, trái tim nhỏ bé của tôi lại xao xuyến hẳn lên. Trăm hoa đẹp nhất bông hồng, không bằng tình cảm trong thời học sinh. Tình bạn thật trong sáng và đẹp đẽ biết bao. Tình bạn cao cả hơn vật chất, luôn tồn tại trong tâm hồn mỗi con người chúng ta, đó là những ngôn lửa hồng ấp ám giúp chúng ta đoàn kết, yêu thương nhau hơn. Nó còn là một vị thuốc tinh thần giúp chúng ta vượt qua mọi sự khó khăn, nguy hiểm, giúp chúng ta luôn hướng tới cái đẹp, cái tốt – một vị thuốc không thể thiếu trong đời người. Việc kết bạn đã khó nhưng giữ gìn được 1 tình bạn thuỷ chung còn khó hơn. Nếu ta biết coi trọng nó, thì tình bạn luôn đâm hoa, kết trái, không bào giờ tạn lụi.Chính vì vậy, khi chúng ta đã có một tình bạn chân chính, thì ta đã là người hạnh phúc nhất rồi. Đúng như Gióoc giơ Hê be đã viết “ Sống không có bạn là chết cô đơn”.
bạn tham khảo nhé
bản thống kê các tác phẩm trữ tình ( thơ).
giúp với mình cần ôn thi hk1
Câu trả lời của bạn
- Bài ca nhà tranh vị gió thu phá
- Qua đèo ngang
- Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê
- Sông núi nước Nam
- Phò giá về kinh
- Tiếng gà trưa
- Bài ca Côn Sơn
- Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh
- Cảnh khuya
cam nghi cua em ve bai song nui nuoc nam
cam nghi cua em ve bai pho gia ve kinh
cam nghi cua em ve bai thien truong van vong
cam nghi cua em ve bai sau phut chia li
cam nghi cua em ve bai banh troi nuoc
cam nghi cua em ve bai qua deo ngang
cam gnhi cua em ve bai ban den choi nha
cam nghi cua em ve bai xa ngam thac nui lu
cam nghi cua em ve bai cam nghi trong dem thanh tinh
cam nghi cua em ve bai hoi huong ngau thu
cam nghi cua em ve bai canh khuya, ram thang gieng
cam nghi cua em ve bai tieng ga trua
giup mk voi dang can gap
Câu trả lời của bạn
Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh
Lí Bạch là nhà thơ nổi tiếng của thơ ca lãng mạn cổ điển Trung Hoa. Nhắc tới ông, người đọc thường nhớ đến những vần thơ trữ tình bay bổng có vẻ đẹp lạ kì. Có thể nói, thơ Lí Bạch tràn ngập ánh trăng. Thuở nhỏ Lí Bạch thường lên núi Nga Mi để ngắm trăng cho rõ. Vì thế hình ảnh Trăng nửa vành thu trên đỉnh Nga Mi đã in sâu vào tâm khảm nhà thơ, trở thành một trong những biểu tượng của quê hương Tứ Xuyên mà nhà thơ thương nhớ suốt cuộc đời.
Từ tuổi 25, Lí Bạch đã xa quê và xa mãi, nhưng hình bóng quê hương luôn in đậm trong tâm khảm của ông. Vì thế mà trên bước đường lữ thứ tha phương, mỗi lần ngắm trăng sáng là ông lại chạnh lòng nhớ quê và chỉ biết gửi gắm tâm sự vào những vần thơ. Bài Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh được Lí Bạch sáng tác trong một hoàn cảnh như vậy.
Nguyên văn chữ Hán:
Tĩnh dạ tứ
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch thơ:
Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Chủ đề của bài thơ là trông trăng nhớ quê (vọng nguyệt hoài hương). Đây là chủ đề quen thuộc trong thơ cổ, không chỉ ở Trung Quốc mà cả ở Việt Nam, song cách thể hiện của Lí Bạch thật độc đáo.
Với những từ ngữ đơn giản mà chắt lọc, bài thơ đã thể hiện tình cảm tha thiết với quê hương của nhà thơ.
Bức tranh được phác họa trong bài thơ là cảnh đêm trăng thanh tĩnh. Nỗi cô đơn trên đất khách quê người khiến cho Lí Bạch trằn trọc, thao thức, không sao ngủ được. Ông muốn chia sẻ tâm sự với vầng trăng – người bạn không lời nhưng gắn bó thân thiết với ông và được ông coi là tri âm, tri kỉ.
Kể từ độ cất bước ra đi, suốt mấy chục năm trường, Lí Bạch làm sao nhớ nổi bao nhiêu lần mình ngắm trăng?! Trăng lung linh rải ánh vàng, ánh bạc trên sông hồ. Trăng buồn tê tái nơi quan ải. Trăng nhạt nhòa, huyền ảo trên mặt đất mênh mông… Đã có lần, thi sĩ uống rượu dưới trăng: Cất chén mời trăng sáng, Ta với bóng lạ ba. Đêm nay, trên đất khách, ánh trăng rọi sáng vào tận đầu giường như tìm đến với bạn tri âm, như muôn chia sẻ cho vơi bớt nỗi cô đơn đang vây phủ tâm hồn thi sĩ:
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
(Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương).
Đây là bài thơ tứ tuyệt tương đối dễ hiểu. Song đơn giản, dễ hiểu không có nghĩa là hời hợt, nông cạn. Ngôn ngữ thơ ca bao giờ cũng chọn lọc và tinh luyện.
Trong hai câu thơ đầu, ta đã thấy thấp thoáng bóng dáng nhân vật trữ tình. Ánh trăng dù đẹp đẽ và tràn ngập nơi nơi nhưng vẫn chỉ là đối tượng để thi sĩ cảm nhận.
Đêm khuya trăng sáng, nhà thơ trằn trọc không ngủ hoặc cũng có thể là đã ngủ rồi chợt tỉnh dậy và không ngủ lại được. Để tả trạng thái mơ màng ấy thì dùng chữ nghi (ngỡ là) và chữ sương là hợp lí. Ánh trăng trắng đục giống như sương là điều có thật mà trước Lí Bạch mấy trăm năm, nhà thơ Tiêu Cương đã viết: Dạ nguyệt tự thu sương (Trăng đêm giống như sương thu).
Chi tiết trăng rọi sáng đầu giường là thực; còn ngỡ mặt đất phủ sương là ảo. Nhà thơ nhìn ánh trăng mà ngỡ là sương bởi ánh trăng được nhìn qua làn nước mắt nhớ thương, sầu muộn đang rớm quanh mi. Nỗi cô đơn tột đỉnh đang thấm lạnh cả tâm tình khiến sương dâng trong hồn, sương giăng trước mắt. Đọc hai câu thơ này, ta hiểu đằng sau từng chữ là cảm xúc bâng khuâng, da diết đang trỗi dậy trong lòng thi sĩ.
Trong thơ cổ có một biểu tượng truyền thống là trăng, vầng trăng tròn tượng trưng cho sự viên mãn đoàn tụ. Cho nên trăng càng sáng, càng tròn thì kẻ xa quê lại càng nhớ quê. Hình ảnh vầng trăng cô đơn trên bầu trời thăm thẳm trong đêm khuya thanh tĩnh thường gợi nên nỗi sầu xa xứ. Ánh trăng thu bàng bạc trong đêm lạnh lại càng khêu gợi tâm trạng buồn thương.
Đêm khuya, thi sĩ trằn trọc không sao ngủ được. Mở mắt thấy ánh trăng rọi sáng đầu giường, mừng như gặp lại cố nhân sau bao ngày xa cách. Nhưng mới nhìn thấy ánh trăng bàng bạc như sương phủ trên mặt đất chứ chưa thấy trăng, nhà thơ cố tìm bằng được vầng trăng quen thuộc:
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương).
Chỉ có ba chữ tả tình trực tiếp: tư cố hương, còn lại đều là tả cảnh, tả người: cử đầu, vọng minh nguyệt, đê đầu. Ngay trong tả cảnh, tình người vẫn được thể hiện rõ. Nỗi nhớ quê hương đã được thể hiện qua hành động.
Khi thấy vầng trăng cũng đơn côi, lạnh lẽo như mình, một nỗi ngậm ngùi, chua xót bất chợt dâng lên trong lòng. Thi sĩ cúi đầu tưởng nhớ quê hương. Cái dáng ngồi bất động, chìm đắm trong suy tư ấy cho thấy tình cảm quê hương của nhà thơ sâu nặng biết chừng nào!
Với bài thơ Tĩnh dạ tứ, nếu chỉ nói tác giả “xúc cảnh sinh tình” thì không đủ. “Tình” ở đây vừa là nhân, vừa là quả: Lí Bạch nhớ quê, thao thức nhìn trăng sáng; Nhìn trăng sáng lại càng nhớ quê! Vọng minh nguyệt, tư cố hương thật ra chỉ là sự diễn đạt cụ thể hơn thành ngữ vọng nguyệt hoài hương dùng đã sáo mòn trong văn thơ cổ. Sáng tạo của Lí Bạch là đã đưa thêm vào hai cụm từ đôi nhau: cử đầu và đê đầu, để thể hiện cách vọng minh nguyệt và tư cố hương của mình. Những hành động ấy đều chất chứa tâm tư.
Hai cầu thơ sau đối ý, đối thanh thật chỉnh. Nhà thơ đã sáng tạo trên cơ sở một câu dân ca quen thuộc: Ngưỡng đầu khán minh nguyệt (Ngẩng đầu nhìn trăng sáng), chỉ thay từ ngưỡng bằng từ cử, từ khán bằng từ vọng. Câu thơ của Lí Bạch là: Cử đầu vọng minh nguyệt. Cũng vẫn giống nhau ở tư thế ngẩng đầu nhìn trăng sáng nhưng cái nhìn trong câu dân ca mang tính khách quan, còn cái nhìn trong thơ Lí Bạch lại đậm tính chủ quan. (Khán: nhìn, ý nghĩa trung hòa. Vọng: nhìn xa, ý nghĩa biểu cảm). Vọng minh nguyệt là cố nhìn ra xa để thấy cho rõ vầng trăng sáng. Tình cảm thiết tha của nhà thơ gửi gắm cả trong từ vọng ấy và chỉ trong khoảnh khắc, cái tư thế Ngẩng đầu nhìn trăng sáng đã chuyển thành Cúi đầu nhớ cố hương. Hai tư thế đối lập nhau nhưng cùng thể hiện một tâm trạng. Niềm vui trước đêm trăng sáng có thể là dạt dào vô tận nhưng nỗi nhớ cố hương cũng day đứt khôn nguôi! Ánh trăng sáng đêm nay là tác nhân gợi nhớ đến vầng trăng xưa trên quê cũ thuở nào. Quả là nỗi nhớ quê hương thiết tha, khắc khoải… luôn ám ảnh trong lòng Lí Bạch.
Câu thơ cuối mở ra một thế giới mênh mang và phức tạp của tâm trạng. Có bao điều mà nhà thơ muốn gửi gắm vào hai chữ cố hương. Cố hương là quê cũ, là dĩ vãng đầy ắp kỉ niệm của tuổi hoa niên. Cố hương là mảnh đất chôn nhau cắt rốn, là nơi có những người thân yêu nhất của ta đang sống hoặc đã gửi nắm xương tàn. Đối với kẻ tha phương, cố hương là một cái gì đó rất đỗi thiêng liêng mà mỗi khi nhắc tới lại cảm thấy trĩu nặng trong lòng, trĩu nặng cả mái đầu đã pha sương sau nửa đời lênh đênh, lưu lạc.
Tết sắp đến, những cơn gió lạnh cùng những cánh én như báo tin về mùa xuân sắp tới. Ai cũng vui mừng mong chờ được đến lúc đoàn tụ, sum họp, được về với gia đình để cùng nhau ôn lại những kỉ niệm đẹp và dành cho nhau những lời chúc phúc yêu thương nhất. Và nhất là với những người xa quê thì họ luôn canh cánh trong lòng những tình cảm của mình. Chỉ có khi trở về với quê hương, họ mới có thể cảm nhận được những mảnh tình cảm còn thiếu của mình. Và nhà thơ Hạ Tri Chương cũng như vậy. Sau bao nhiêu những tháng ngày xa cách, ông cũng được trở về với quê hương nơi sinh ra mình với những tình cảm được chôn giấu trong lòng.
Thiếu tiểu li gia lão đại hồi
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Dịch thơ
Khi đi trẻ lúc về già
Giọng quê không đổi tóc đà khác bao
Mở đầu bài thơ là hai câu thơ nói về tình cảnh của tác giả lúc đó. Khi tác giả li khai quê hương để tạo lập con đường công danh là khi người vẫn còn là một thanh niên có mang đầy những hoài bão và ước mơ của tuổi trẻ, mang những cố gắng cho con đường sự nghiệp, người thanh niên ấy đã quyết tâm đi tới những miền đất mới để có thể cố gắng cống hiến sức lực cho triều đình và cho tổ quốc. Những công việc cùng những lý tưởng ấy đã cuốn người thanh niên học tập và làm việc tại nơi xứ người, đi xa khỏi quê hương đến cả nửa đời người.
Thiếu tiểu li gia lão đại hồi
Trong cùng một câu thơ nhưng lại có rất nhiều những cặp từ ngữ trái nghĩa nhau thể hiện sự thay đổi một cách hoàn toàn, từ trẻ cho tới già, từ li sau đó lại hồi. Tất cả những thứ mà tuổi trẻ đã theo đuổi và không hề chú ý tới thì nay, khi đã về già, những con người ấy lại nhớ về những thứ gì bình dị nhất, những gì đã gắn bó với mình trong suốt những ngày ấu thơ với những điều tưởng chừng như gần gũi mà lại thật quan trọng.
Hương âm vô cải mấn mao tồi
Dù đã đi xa quê cả nửa cuộc đời thế nhưng những thanh âm thuộc về quê hương với những giọng nói của quê hương không hề có sự thay đổi. Những điều đó đi theo ông như luôn gợi nhớ tất cả những gì thuộc về quê hương của người đàn ông đã đi nơi xứ người bao nhiêu năm. Chỉ với hai câu thơ nhưng chúng ta đã cảm nhận được sự tự hào của tác giả khi nói về quê hương của mình và những mong đợi khi tác giả được trở về với quê hương vào nửa cuối cùng của cuộc đời con người.
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiểu vấn: khách tòng hà xứ lai?
(trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: khách ở chốn nào lại chơi?)
Nếu như hai câu thơ đầu giọng thơ có chứa sự tự hào thì ở hai câu tiếp theo, giọng thơ lại mang theo sự chua xót khi tác giả thực sự trở lại quê hương của mình. Đặt chân lên mảnh đất của quê hương, tác giả đã được nhìn thấy những cảnh vật thân thương và gần gũi của quê hương mình. Thế những, lũ trẻ con nhìn thấy ông lại không hề biết ông là ai, còn hỏi rằng ông là khách ở chốn nào. Chua xót thay,, trở về quê hương, trở về nhà của chính mình nơi mà mình đã được sinh ra và lớn lên mà lại bị hỏi là khách ở chốn nào. Đó chính là nỗi buồn của những người xa quê lâu năm như chính tác giả vậy. Những hình ảnh đó có lẽ cũng giống như ông khi ông còn nhỏ. Lúc ấy, ông cũng cùng với những đứa trẻ khác cùng nhau chơi ở ngoài đình và cũng nhìn những người lạ mặt đi từ nơi khác tới. Nay khi tuổi đã già, mái tóc đã không còn đen, làn da không còn hồng hào khỏe mạnh và đôi mắt cũng không còn trong sáng nữa thì lại bị coi như những người lạ tới thăm quê hương.
Bài thơ “ hồi hương ngẫu thư” là một trong số những bài thơ mang tình cảm chân thực về cuộc sống và những trải nghiệm trong cuộc đời của tác giả. Điều đó khiến chúng ta cảm nhận được tình yêu to lớn dành cho quê hương của mình. Qua đây, chúng ta cũng cảm nhận được hoàn cảnh trớ trêu mà chỉ có những người đã phải trải qua mới có thể hiểu được. Đó chính là những thay đổi và cũng là những trớ trêu của số phận khi chúng ta bị xa cách bởi thời gian và nơi chốn.
Cảnh khuya
Bài thơ Cảnh khuya được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào năm 1947, khi quân và dân ta đang thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc. Sông Lô, Đoan Hùng đã đi vào lịch sử bằng những nét vàng chói lọi đầu tiên của ta trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bài thơ thể hiện cảm hứng yêu nước mãnh liệt dạt dào ánh sáng và âm thanh. Đó là ánh sáng của trăng Việt Bắc, của lòng yêu nước sâu sắc:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Cùng với các bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc, Đi thuyền trên sông Đáy, Cảnh khuya thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu nước sâu sắc của Bác trong một đêm trăng nơi núi rừng Việt Bắc.
Hai câu thơ đầu trong bài thơ tả cảnh đêm khuya nơi núi rừng Việt Bắc. Trăng càng về đêm càng sáng. Ánh trăng lan toả bao phủ khắp mặt đất. Đêm vắng, tiếng suối nghe càng rõ. Tiếng suối chảy êm đềm nghe rất trong rì rầm từ xa vọng đến. Cảm nhận của Bác thật tinh tế, nghe suối chảy mà cảm nhận được mức độ xanh trong của dòng nước. Tiếng suối trong đêm khuya như tiếng hát xa dịu êm vang vọng, khoan nhạt như nhịp điệu của bài hát trữ tình sâu lắng. Đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh, tiếng suối rì rầm êm ả, vắng lặng trong đêm chiến khu. Tiếng suối và tiếng hát là nét vẽ tinh tế gợi tả núi rừng chiến khu thời máu lửa mang sức sống và hơi ấm của con người:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Sáu trăm năm trước trong bài thơ Bài ca Côn Sơn Ức Trai đã có cảm nhận cực kỳ tinh tế về dòng suối Côn Sơn:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bền tai
Tiếng suối nghe sao mà êm đềm thơ mộng đến thế. Nó như những giọt của cây đàn cầm vang vọng bên tay. Đầu thế kỷ XX Nguyễn Khuyến đã từng viết về dòng suối như sau:
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo...
Mỗi một vần thơ, mỗi một khung cảnh, âm thanh của suối chảy được cảm nhận tinh tế khác nhau. Sau tiếng suối nghe như tiếng hát xa kia là trăng chiến khu. Ánh trăng chiến khu sao mà sáng và đẹp thế. Tầng cao là trăng, tầng giữa là cổ thụ, tầng thấp là hoa - hoa rừng. Cả núi rừng Việt Bắc đang tràn ngập dưới ánh trăng. Ánh trăng bao phủ khắp không trung mát dịu, len lỏi xuyên qua kẽ lá, tán cây, ánh trăng như âu yếm, hoà quyện cùng thiên nhiên cây cỏ. Ánh trăng như xoáy và lồng vào những tán lá. Và trên mặt đất những đoá hoa rừng đang ngậm sương đêm cùng với bóng cổ thụ đan xen trên mặt đất. Đêm thanh, trên không trung dường như chỉ có vầng trăng ngự trị. Đêm vắng, trăng thanh mặt đất cỏ cây như ngừng thở để đón đợi ánh trăng mát lạnh dịu hiền mơn man ôm ấp:
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Chữ lồng điệp lại hai lần đã nhân hoá vầng trăng, cổ thụ và hoa. Trăng như người mẹ hiền đang tiếp cho muôn vật trần gian dòng sữa ngọt ngào. Trăng trở nên thi vị, trữ tình lãng mạn. Chữ lồng gợi cho ta nhớ đến những câu thơ sau trong Chinh phụ ngâm:
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng...
Trong câu có tiểu đối trăng lồng cổ thụ / bóng lồng hoa tạo sự cân xứng trong bức tranh về trăng, ngôn ngữ thơ trang trọng, điêu luyện tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp tràn đầy chất thơ. Cảnh khuya trong sáng, lung linh huyền ảo. Đọc vần thơ ta nghe như có nhạc, có hoạ, bức tranh cảnh núi rừng Việt Bắc thơ mộng biết bao. Người xưa từng nói thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc quả thật không sai. Đối với Bác trăng đã trở nên tri âm tri kỷ nên làm sao có thể hờ hững trước cảnh đẹp đêm nay. Trong ngục tối bị giam cầm, trước ánh trăng tuyệt đẹp Bác Hồ cũng đã có những vần thơ tuyệt diệu:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ...
(Ngắm trăng)
Một thi sĩ với tâm hồn thanh cao đang sống những giây phút thần tiên giữa cảnh khuya chiến khu Việt Bắc. Giữa bức tranh thiên nhiên rộng lớn và hữu tình như vậy, tâm trạng thi sĩ bỗng vút cao thả hồn theo cảnh đẹp đêm trăng bởi đêm nay Bác không ngủ. Trước cảnh đẹp đêm trăng: có suối, có hoa lá, núi ngàn, và cả tâm trạng của Bác. Bác không chỉ xúc động trước cảnh đẹp thiên nhiên mà:
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Nước nhà đang bị giặc xâm lăng giày xéo, biết bao đồng chí đang bị gông cùm xiềng xích. Cuộc đời còn lầm than cơ cực, bao năm Bác bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ lầm than. Nay nước nhà còn đang chìm trong khói lửa đạn bom lòng Bác sao có thể ngủ yên giấc được. Chưa ngủ không hẳn chỉ vì cảnh đẹp đêm nay mà chưa ngủ vì nỗi nước nhà.
Nỗi nhớ nhà lo cho nước nhà làm cho trái tim Bác luôn thổn thức. Bác thức trong đêm khuya trằn trọc băn khoăn không sao ngủ được. Lòng yêu nước sâu sắc mãnh liệt xiết bao. Đã có biết bao đêm Bác Hồ của chúng ta cũng mất ngủ như vậy:
Một canh, hai canh, lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh
(Không ngủ được)
Hình ảnh sao vàng chính là tự do độc lập, niềm thao thức mơ ngày mai ánh hồng soi đất nước hoà bình. Một tâm hồn nghệ sĩ thanh cao lồng trong cốt cách người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Cảm hứng thiên nhiên chan hoà với cảm hứng yêu nước tha thiết của Bác.
Bài thơ Cảnh khuya là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt cực hay, là một trong những bài thơ trăng đẹp nhất của Bác. Giữa chốn rừng Việt Bắc tràn ngập ánh trăng, lòng Bác luôn thao thức vì nỗi nước nhà. Đó là nét đẹp riêng của bài thơ, cảm hứng thiên nhiên nhiên chan hoà trong lòng yêu nước sâu sắc. Thương dân, lo cho nước, yêu trăng... như dẫn hồn ta vào giấc mộng đẹp. Đọc thơ Bác giúp ta càng biết ơn, yêu kính Bác -Hồ hơn.
Rằm tháng giêng
Cứu quốc” như một đoá hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Xuân Thuỷ đã dịch khá hay bài thơ này. Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lại nguyệt mãn thuyền”.
Đêm nguyên tiêu trăng sáng ngời trên một không gian bao la. Bài thơ nói lên cảm xúc và niềm vui dào đạt trong tâm hồn lãnh tu đêm nguyên tiêu lịch sử.
Hai câu đầu vẽ lên cảnh đẹp tuyệt vời đêm nguyên tiêu. Trên bầu trời, vầng trăng vừa tròn (nguyệt chính viên). Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì mùa xuân làm cho trăng thêm đẹp. Và trăng cũng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình. Đất nước quê hương bao la một màu xanh bát ngát. Màu xanh lấp lánh của “xuân giang”. Màu xanh ngọc bích của “xuân thuỷ” tiếp nối với màu xanh thanh thiên của “xuân thiên”. Ba từ “xuân” trong câu thơ thứ hai là những nét vẽ đặc sắc làm nổi bật cái “thần” của cảnh vật sông, nước và bầu trời.
“Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên”.
(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)
“Xuân” trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả mùa xuân, của sông nước, đất trời vào xuân. Nó thể hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn dạt dào một sức sống trẻ trung, tiềm tàng. Ngoài giá trị miêu tả cảnh đẹp đêm nguyên tiêu, vần thơ còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến.
Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp đêm nguyên tiêu, yêu thiên nhiên cũng là yêu đời tha thiết. Bác yêu thiên nhiên nên sông, núi, cỏ cây, hoa lá, tạo vật trong thơ Bác rất hữu tình. Có “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”. Có “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” trong niềm vui thắng trận. Bác yêu hoa núi, chim rừng Việt Bắc: “Xem sách, chim rừng vào cửa đậu – Phê văn hoá núi ghé nghiên soi”; yêu ngọn núi, chim rừng báo mùa thu chợt đến… Thiên nhiên trong thơ Hồ chí Minh là một trong những yếu tố tạo nên sắc điệu trữ tình và màu sắc cổ điển.
Hai câu thơ cuối nói về dòng sông, khói sóng và con thuyền trăng:
“Yêu ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”.
Ánh trăng ngày trước (1942-1943) chiếu vào ngục lạnh nơi đất khách quê người, thì đêm nguyên tiêu này là (1948), trăng lại soi xuống con thuyền trong đó Bác đang “đàm quân sự” (bàn bạc việc quân). Trăng nguyên tiêu là trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm, được nhân dân đón đợi với bao hy vọng, bao tình cảm nồng hậu. Lại nữa, trường hợp thưởng trăng không phải là trường hợp bình thường diễn ra trên sân nhà, ngõ xóm, hay “đăng lâu vọng nguyệt”, … mà là thưởng trăng trên khói sóng, nơi “yên ba thâm xứ” – cõi sâu kín, bí mật trên dòng sông, giữa núi rừng chiến khu bao la! Người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các tao nhân mặc khách ngày xưa, mà còn là con người hành động, người chiến sĩ đánh giặc, vị lãnh tụ đang “bàn bạc việc quân” để lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ non sông đất nước. Quả thật, đây là một trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự”. “Yên ba” là khói sóng, một thi liệu cổ được Bác vận dụng rất sáng tạo làm hco bài thơ “Nguyên tiêu” mang phong vị Đường thi. Ba chữ đàm quân sự” đã khu biệt thơ Bác với thơ của người xưa, làm cho vần thơ mang màu sắc hiện đại và không khí lịch sử của thời đại.
Sau những canh dài bàn bạc việc quân căng thẳng nơi khói sóng sâu kín, trời đã về khuya. Nửa đêm (dạ bán), Bác trở về bến, tâm hồn sảng khoái vô cùng. Con thuyền của vị thống soái, con thuyền kháng chiến trở thành con thuyền trăng của thi nhân nhẹ bơi trên sông nước mênh mông, chở đầy ánh trăng vàng:
“Dạ bán quy lai, nguyệt mãn thuyền”.
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền).
“Nguyệt mãn thuyền” là một hình ảnh rất đẹp và trữ tình, nó làm ta nhớ đến nhưng vần thơ hoa lệ:
“Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá?
Trăng nước như xưa chín với mười”.
(Triệu Hỗ – Đường thi)
“Thuyền mấy là đông, tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông…”
(Bạch Cư Dị)
“Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,
Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu”
(Nguyễn Trãi)
.v.v….
Trở lại bài thơ Hồ Chí Minh, ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ trên sông, ẩn hiện trong màn khói sóng, mang theo bao ánh trăng, hiện lên một thủ lĩnh quân sự giàu hồn thơ đang lãnh đạo quân dân ta kháng chiến để giành lại độc lập, tự do, để giữ mãi những đêm nguyên tiêu trăng đầy trời của đất nước quê hương thanh bình. Hình ảnh con thuyền trăng trong bài thơ này cho thấy tâm hồn Bác giàu tình yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.
Qua bài thơ “Nguyên tiêu”, ta có thể nói, trăng nước trong thơ Bác rất đẹp. Chính vầng trăng ấy đã thể hiện phong thái ung dung, tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc mang cốt cách nghệ sĩ, nhà hiền triết phương Đông.
“Nguyên tiêu” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, man mác phong vị Đường thi. Bài thơ có đầy đủ những yếu tố của bài thơ cổ: một con thuyền, một vầng trăng, có sông xuân, nước xuân, trời xuân, có khói sóng. Điệu thơ thanh nhẹ. Không gian bao la, yên tĩnh… Chỉ khác một điều, ở giữa khung cảnh thiên nhiên hữu tình ây, nhà thơ không có rượu và hoa để thưởng trăng, không đàm đạo thi phú từ chương, mà chỉ “đàm quân sự”. Bài thơ như một đoá hoa xuân đẹp trong vườn hoa dân tộc, là tinh hoa kết tụ từ tâm hồn, trí tuệ, đạo đức của Hồ Chí Minh.
Văn tức là người. Thơ là tấm lòng, là tiếng lòng cộng hưởng từ một người đến với muôn người. Thơ Bác Hồ tuy nói đến “trăng, hoa, tuyết, nguyệt…” nhưng đã phản ánh tâm tư, tình cảm, lẽ sống cao đẹp của Bác. Bác yêu nước, thương dân tha thiết nên Bác càng yêu đêm nguyên tiêu với vầng trăng xuân thơ mộng. Trong kháng chiến gian khổ, Bác đã hướng tới vầng trăng rằm tháng giêng, hướng tới bầu trời xuân với tâm hồn trong sáng và phong thái ung dung. Cuộc đời không thể thiếu vầng trăng. Biết yêu trăng cũng là biết sống đẹp.
“Nguyên tiêu” là một bài thơ trăng tuyệt tác của nhà thơ Hồ Chí Minh. Con thuyền chở đầy ánh trăng cũng là con thuyền kháng chiến đang hướng tới chiến công và niềm vui thắng trận …
Tiếng gà trưa
Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là nhà thơ nữ dược nhiều người yêu thích. Thơ chị trẻ trung, sôi nổi, giàu chất trữ tình, vốn xuất thân từ nông thôn nên Xuân Quỳnh hay viết về những đề tài bình dị, gần gũi của cuộc sống đời thường như tình mẹ con, bà cháu, tình yêu, tình quê hương, đất nước. Ngay từ tập thợ đầu tay Tơ tầm – Chồi biếc (in chung – 1963), Xuân Quỳnh gây được sự chú ý bởi phong cách thơ mới mẻ. Hơn hai mươi năm cầm bút, chị đã sáng tác nhiều tập thơ có giá trị, tạo ấn tượng khó quên trong lòng người đọc.
Bài thơ Tiếng gà trưa được viết trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ trên phạm vi cả nước. Bị thua đau ở chiến trường miền Nam, giặc Mĩ điên cuồng mở rộng chiến tranh phá hoại bằng máy bay, bom đạn… ra miền Bắc, hòng tàn phá hậu phương lởn của tiền tuyến lớn. Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng ấy, hàng triệu thanh niên đã lên đường với khí thế xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mĩ, Mà lòng phơi phới dậy tương lai. Nhân vật. trữ tình trong bài thơ là người chiến sĩ trẻ đang cùng đổng đội trên đường hành quân vào Nam chiến đâu.
Tiếng gà trưa đã gợi nhớ về những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ và tình bà cháu. Tình cảm gia đình, quê hương đã làm sâu sắc thêm tính yêu đất nước.
Trên đường hành quân xa
Dừng chân bèn xóm nhỏ
Tiếng gà cũ nhảy ổ
Cục… cục tác cục ta
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đờ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ
Quê nhà hiện lên rõ nét trong tâm tưởng và những kỉ niệm tuổi thơ lần lượt sống dậy qua những hình ảnh thân thương. Tiếng gà trưa nhắc nhớ đến ổ rơm hồng những trứng của mấy chị mái mơ, mái vàng xinh xắn, mắn đẻ. Tiếng gà trưa khiến người cháu xa nhà nhớ đến người bà kính yêu một đời tần tảo. Thương biết mấy là cảnh đứa cháu tò mò xem gà đẻ, bị bà mắng : Gà đẻ mà mày nhìn, Rồi sau này lang mặt. Chẳng hiểu hư thực ra sao nhưng cháu tin là thật: Cháu về lấy gương soi, Lòng dại thơ lo lắng. Giờ đây, đứa cháu đã trường thành ao ước trở về thời bé bỏng để lại được nghe tiếng mắng yêu của bà, được thấy bóng dáng quen thuộc của bà khum tay soi trứng, chắt chiu từng mầm hi vọng sẽ có được một đàn gà con đông đúc.
Mấy bn ơi!!!
Nội dung tư tưởng của các tác phẩm này là j z???
1. Qua Đèo Ngang
2. Ngẫu nhiên viết nhân buổi ms về quê
3. Sông núi nước Nam
4. Tiếng gà trưa
5. Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh
6. Cảnh khuya
Mấy bn trả lời nhanh nhanh giùm mk vs nha
Mk đg cần gấp lắm
Câu trả lời của bạn
5)
thơ trữ tình là một kiểu văn bản biểu cảm đúng hay sai
Câu trả lời của bạn
“Thơ trữ tình” là 1 thể loại thơ ca có đặc trưng là bày tỏ, nói nên tư tưởng tình cảm cuả tác giả, thông qua tư tưởng tình cảm phán ánh cuộc sống. Vì vậy, thơ trữ tình không miêu tả quá trình sự kiện, không kể tình tiết đầy đủ câu chuyện, cũng không miêu tả nhân vật, cảnh vật cụ thể, mà mượn cảnh vật để bày tỏ tình cảm (tả cảnh trữ tình).
Yêu cầu: Hãy cho biết thể loại, nghệ thuật tiêu biểu của mỗi tác phẩm:
Cổng trường mở ra
Cuộc chia tay của những con búp bê
Một thứ quà của lúa non: Cốm
Mùa xuân của tôi
Sông núi nước Nam
Phò giá về kinh
Bánh trôi nước
Qua đèo Ngang
Bạn đến chơi nhà
Cảnh khuya
Rằm tháng giêng
Tiếng gà trưa
heo mi
Câu trả lời của bạn
Tác phẩm | Thể loại | Nghệ thuật |
---|---|---|
Cổng trường mở ra | văn bản nhật dụng | Sử dụng hình thức độc thoại để miêu tả tâm trạng cảm xúc của nhân vật |
Cuộc chia tay của những con búp bê | văn bản nhật dụng | - Chọn ngôi kể thứ nhất(nhân vật Thành). - Xây dựng tình huống tâm lí để nhân vật bộc lộ tâm trạng cảm xúc. |
Một thứ quà của lúa non:Cốm | Tùy bút | |
Mùa xuân của tôi | tùy bút | Sử dụng từ ngữ, hình ảnh gợi tả, giọng điệu, biện pháp tu từ để khẳng định tài năng miêu tả của Vũ Bằng cùng với sự cảm nhận, rung cảm tinh tế của ông. |
Sông núi nc nam | thơ đường luật: thất ngôn tứ tuyệt | - Lòng tự hào về dân tộc - Nêu ý chí quyết tâm. => Bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nc nam. |
Phò giá về kinh | ||
Bánh trôi nc | giống sông núi nc nam | hình ảnh ẩn dụ, so sánh,... |
Qua đèo ngang | thất ngôn bát cú đg luật | sử dụng bút pháp "tả cảnh ngụ tình" |
Bn đến chơi nhà | giống qua đèo ngang | sử dụng ngôn ngữ thuần Nôm, sử dụng phép ns quá |
Cảnh khuya | thất ngôn tứ tuyệt đg luật | |
Rằm tháng giêng | thất ngôn tứ tuyệt dg.. | sử dụng thể thơ cổ điển để thể hiện vẻ đẹp tinh thần mới mẻ, hiện đại mang tầm vóc của thời đại. |
Tiếng gà trưa | điệp... |
a.bằng n~ bài ca dao đã học trong chueoeng trình ngữ văn 7,em hãy cmr:"ca dao là tiếng nói của tình cảm gia đình đằm thắm ,tình yêu quê hương đất nước tha thiết
b. nhân dân ta thường khuyên nhủ nhau:"thương ng` như thể thương thân".Em hiểu lời khuyên trên là ntn?
c. nhận định về truyện ngắn sống chết mặc bay của phạm duy tốn có ý kiến cho rằng:"tác phẩm ko chỉ phản ánh nỗi thống khỗ cua nhân dân trg cảnh hộ đê mà còn khắc họa chân thực,sinh động hình ảnh tên quan phụ mẫu thờ ơ,vô trách nhiệm,là 1 kẻ bất nhân".Bằng n~ hiểu biết của em về văn bản sống chết mặc bay,hãy làm sáng tỏ nhận đinh trên.
d.viết đoạn văn ngắn độ dài từ 7-10 câu nghị luận về tình bạn.
e. hãy nêu 1 tình huống cần phải viết văn bản đề nghị.
các bn jup mk vs, mk đang cần gấp
Câu trả lời của bạn
A. Chứng minh :
Những lời hát ấy đã đi sâu vào tiềm thức mỗi người qua tiếng ru của bà, của mẹ và nhắc nhở chúng ta về công ơn trời biển của mẹ cha:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩ mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Bài ca dao như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng mà tha thiết. Phép so sánh được sử dụng liên tiếp khiến hai câu thơ vừa cụ thể, vừa gợi hình, sinh động. Công cha và nghĩa mẹ được ví với những hình ảnh thiên nhiên vĩnh hằng: núi ngất trời, nước biển Đông. Ơn cha to lớn không thể đo đếm còn tình mẹ thương con sâu nặng, đong đầy. Những lời thơ gợi nhắc về công ơn sinh thành dưỡng dục bao la vô tận của mẹ cha. Công ơn ấy được cụ thể hóa bằng “chin chữ”: (em xem chú thích và viết 9 chữ vào đây). Đồng thời, tác giả dân gian khuyên răn kẻ làm con phải có bổn phận chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ để đền đáp công ơn ấy. Những lời ca dao thấm đượm nghĩa tình như ru hồn người vào thế giới của đạo lý, yêu thương.
Không những nhắn nhủ con người về công ơn cha mẹ, ca dao dân ca còn thể hiện tình cảm nhớ thương quê mẹ của người con gái xa:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Câu ca mở ra một âm điệu trầm buồn sâu lắng với hai từ “chiều chiều”. Thời khắc ấy gợi cái tàn lụi của một ngày và cũng gợi cảm giác sum họp gia đình. Ấy là quãng thời gian của buồn, của nhớ và bâng khuâng. Những lời hát của người con gái lấy chồng xa hướng về quê mẹ như thấm đẫm nỗi buồn xa xót ấy. Hai từ “ngõ sau” gợi một không gian khuất nẻo – nơi người con gái có thể bày tỏ nỗi long. Cả thời gian và không gian ấy như đã nói lên tâm trạng con người đang mong nhớ thiết tha. Hai chữ “chiều chiều” mở đầu hô ứng với hai chữ “chin chiều” kết thúc bài ca dao tạo nên hiệu ứng lặp đi lặp lại một nỗi long xót xa, thấm thía của người con gái khi hướng về quê mẹ xa xôi.
Bên cạnh tình cảm cha mẹ – con cái, ca dao còn là những lời nhắn nhủ cảm động về tình cảm ông bà và cháu con:
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
Nuộc lạt – một hình ảnh quen thuộc trên những mái nhà tranh của làng quê Việ Nam đã được đưa vào câu ca dao một cách rất tự nhiên, giản dị và gần gũi. Biện pháp so sánh bao nhiêu – bấy nhiêu đã thể hiện tình cảm nhớ thương, sự gắn bó bền chặt, ruột thịt của cháu con với ông bà. Âm điệu lời thơ tha thiết thể hiện sự kính trọng biết ơn!
Và, có lẽ, những người thân, người lớn trong nhà đã khuyên bào con cháu giữ chặt tình anh em:
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy
Một lần nữa lối ví von so sánh lại được sử dụng thành công trong hai câu ca dao. Tình cảm anh em gắn bó bền chặt không thể tách rời như tay với chân. Sự hòa thuận của an hem chính là niềm vui của cha mẹ gia đình. Bài ca dao là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu sắc về tình cảm ruột thịt, anh em.
Với âm điệu thiết tha, sâu lắng cùng lối ví von so sánh đặc trưng, những câu thơ lục bát đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc và thấm thía.
Nhắc nhở nhẹ nhàng mà không khô khan, khuyên nhủ mà không giáo huấn, ca dao chính là tiếng lòng mang chở cả tư tưởng, triết lý đạo đức của nhân dân. Nó đã trở thành viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam.
Phát biểu cảm nghĩ của em về tình cảm, cảm xúc của những người bình dân trong những vần ca dao nói về tình nghĩa gia đình; những vần ca dao về tình yêu quê hương, đất nước, con người và những câu hát than thân.
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài
Giới thiệu về ca dao dân ca:
+ Trong ca dao dân ca phản ánh những tình cảm tốt đẹp giữa con người và cả quê hương, đất nước
+ Chúng ta biết được nhưng câu ca dao, dân ca về tình cảm gia đình vô cùng ý nghĩa như tình cảm biết ơn của con cái với cha mẹ, tình cảm của người con gái đi lấy chồng xa, tình cảm của con cháu đối với ông bà, tình cảm anh em trong gia đình
2. Thân bài
* Trước hết ta thấy được tình cảm của con cái đối với công lao sinh dưỡng của cha mẹ:
“ Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”
– Qua câu ca dao, chúng ta có thể đoán được đây là lời hát ru của mẹ dành cho con. Lời hát ru ngọt ngào mà sâu lắng để nói về công cha, nghĩa mẹ.
– Lối ví von so sánh “ Công cha – núi ngất trời” , “ Nghĩa mẹ – nước ở ngoài biển Đông”. Tác giả lấy cái vô hình để so sánh cái hữu hình. Lấy cái mênh mông, vĩnh hằng vô hạn của trời đất, thiên nhiên để nói đến công cha nghĩa mẹ
– Qua đó, nổi bật ý nghĩa là ca ngợi công ơn to lớn của cha mẹ
– Thành ngữ “ Cù lao chín chữ” chính là chỉ nỗi vất vả của cha mẹ, không thể đong đếm được
=> Qua câu ca dao, nhắc nhở chúng ta phải biết kính trọng, yêu thương cha mẹ, có hiếu với cha mẹ
* Trong tình cảm gia đình, chúng ta còn thấy nỗi niềm của người con gái đi lấy chồng xa nhớ về mẹ, nhớ quê hương
“ Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
Những từ ngữ chỉ không gian thời gian cụ thể để nói đến nỗi buồn nhớ của người con gái. Ai thấu được nỗi nhớ của người con gái đi lấy chồng xa. “Chiều chiều » gợi khoảng thời gian, kéo dài, chiều chiều gợi nỗi buồn, nỗi nhớ. Khoảng thời gian đó, người con gái “ đứng ngõ sau” thì ngõ sau đấy càng vắng lặng, heo hút
– Không gian ấy gợi đến cảnh ngộ cô đơn của nhân vật trữ tình
– “Ruột đau chín chiều” : Chín chiều là chín bề là nhiều bề.
– Người con gái đi lấy chồng xa quê chiều chiều ra đứng ngõ sau để nhớ về quê hương, nhớ về mẹ. Đây là nỗi đau, buồn tủi của kẻ làm con khi phải xa cách cha mẹ, không đỡ đần chăm sóc được cha mẹ khi về già.
* Tiếp theo, có thể nói đến lòng nhớ thương của con cháu với ông bà mình.
“ Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
– Tình cảm của con cháu với ông bà của mình đó là một tình cảm huyết thống, thể hiện công lao to lớn của ông bà khi xây dựng gia đình.
– Cụm từ “ Ngó lên” ý nói trông lên thể hiện sự tôn kính của con cháu với ông bà. Hình ảnh cụ thể thể hiện sự gắn kết, kết nối tình cảm đó một cách bền chặt gắn bó nhất qua cụm từ “ Nuộc lạt mái nhà”.
– Tình cảm thật sâu đậm qua cặp quan hệ từ “ bao nhiêu- bấy nhiêu” gợi nỗi nhớ da diết của con cháu
=> Qua câu ca dao, nhắc nhở con cháu, dù đi đâu làm gì cũng nên nhớ về ông bà, cha mẹ, huyết thống của gia đình. Luôn biết ơn họ
* Cuối cùng là tình cảm anh em ruột thịt trong gia đình
“ Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy”
tình cảm anh em trong gia đình là tình cảm không bao giờ có thể tách rời, mất đi được. Vì họ cùng một mẹ sinh ra, cùng được cha mẹ nuôi dưỡng, dạy dỗ từ khi còn cất tiếng khóc oe oe cho đến khi trưởng thành và mãi về sau. Vậy nên, tình cảm đó được diễn tả một cạnh cụ thể:
– Lời khẳng định anh em không phải người xa lạ gì. Bởi cùng chung máu thịt. Nhưng chữ « cùng, chung, một” để diễn tả anh em là hai mà như là một, cùng một cha mẹ, cùng chung sống trong một gia đình, được cha mẹ nuôi dưỡng.
– sử dụng hình ảnh tay, chân là những bộ phận rất quan trọng, luôn gắn liền với cơ thể, có quan hệ mật thiết với nhau để nói đến sự bền chặt của tình cảm anh em trong một gia đình,
– Lấy tay, chân để so sánh ví với tình anh em để thể hiện tình cảm an hem trong gia đình gắn bó thân thiết như chân với tay, không thể xa rời phải biết nương tựa nhau.
=> Bài ca dao cũng nhắc nhở anh em trong gia đình phải hòa thuận để cha mẹ vui lòng, biết thương yêu, đùm bọc nhau “ Anh em hòa thuận hai thân vui vầy”
3. Kết bài
Bài ca dao, dân ca về tình cảm gia đình đã cho chúng ta những bài học lời nhắc nhở bổ ích đối với ông bà, cha mẹ, anh em trong gia đình. Những tình cảm đó thật thiêng liêng và đáng trân trọng giữ gìn. Chúng ta nên ghi nhớ những câu ca dao này để luôn nhắc nhở, tình cảm gia đình phải luôn được gìn giữ và bảo tồn.
Ca dao - dân ca là "tiếng hát đi từ trái tim lên miệng", là thơ ca trữ tình dân gian. Ca dao - dân ca Việt Nam là cây đàn muôn điệu của tâm hồn nhân dân, nhất là những người lao động Việt Nam. Rất tự nhiên, tâm hồn, tình cảm con người bao giờ cũng bắt đầu từ tình cảm, ân nhhĩa đối với những người ruột thịt trong gia đình. Truyền thống văn hoá Việt Nam rất đề cao gia đình và tình nghĩa gia đình. Bài ca tình nghĩa gia đình trong kho tàng ca dao - dân ca Việt Nam vô cùng phong phú. Trong đó, bốn bài ca của văn bản Những câu hát về tình cảm gia đình là tiêu biểu, vừa sâu sắc về nội dung, vừa sinh động, tinh tế về ngôn ngữ nghệ thuật: - Công cha như núi ngất trời... - Chiều chiều ra đứng ngố sau... - Ngó lên nuộc lạt mái nhà... - Anh em nào phải người xa... Lời của những bài ca dao trên là lời của ai, nói với ai thế ? Qua âm điệu, ý nghĩa các từ ngữ và hình ảnh những nhân vật trữ tình của chùm ca dao, chúng ta hiểu rằng : đây là lời ru con của mẹ, nói với con ; là lời người con gái lấy chồng xa quê hướng về quê mẹ, nói với mẹ ; là lời của cháu nói với ông và cuối cùng, ở bài thứ tư thì lời nói nghĩa tình ngân lên một khúc hát nhiều bè, có thể là lời của ông bà, hoặc cô bác nói với cháu, của cha mẹ răn bảo con, hoặc của anh em ruột thịt tâm sự, bảo ban nhau. Những câu hát về tình cảm gia đình trong ca dao - dân ca Việt Nam chúng ta đẹp như một bản hợp ca vừa chân thành, thân mật, ấm cúng, vừa thiêng liêng, trang trọng, xuyên thấm từ đời này sang đời khác.
Trong bốn bài ca dao trên, có lẽ lay động sâu sắc tâm hồn, trí tuệ chúng ta nhất là bài 1 và bài 4. Công cha như núi ngất trời, Nghĩa mẹ như nước ở ngoài hiển Đông. Núi cao hiển rộng mênh mông, Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi ! Sáu tiếng mở đầu ngân theo ba nhịp như khúc dạo nhạc nhẹ nhàng, thủ thí của một bài hát ru. Đây là lời ru của mẹ, ru cho đứa con thơ bé ngủ ngon, đồng thời nhắc nhở công lao trời biển của cha mẹ đối với con và bổn phận, trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ. Mẹ sinh ra con, dành tất cả những dòng sữa thơm ngọt nuôi phần xác của con và hằng đêm cất tiếng ru êm dịu rót thêm những dòng sữa âm thanh nuôi lớn phần hồn của con. Là những người con, mỗi chúng ta ai mà chẳng đã từng dược nghe lời ru của mẹ để rồi cùng với sữa mẹ, những bài hát ru ấy đã nuôi lớn chúng ta, hoàn thiện cho ta những bước trưởng thành cả tâm hồn và thể xác. Ở bài hát ru này, người mẹ đã ví công lao sinh thành, nuôi dạy của cha mẹ đối với con cái cao như "núi ngất trời", rộng như "nước biển Đồng". Đây là cách nói ví quen thuộc của ca dao Việt Nam dể ca ngợi công ơn cha mẹ đối với con cái. "Công cha", "nghĩa mẹ" là những ý niệm trừu tượng dược so sánh bời hình ảnh tạo vật cụ thể "núi cao", "biển rộng", biểu tượng cho sự vĩnh hằng bất diệt của thiên nhiên. Những hình ảnh ấy được miêu tá bổ sung bằng những định ngữ chỉ mức độ (núi ngất trời : núi rất cao, ngọn núi lẫn trong mây trời ; biển rộng mênh mông : biển rộng không sao đo được). Một hình ảnh vẽ chiều đứng, hài hoà với hình ảnh vẽ chiều ngang dựng một không gian bát ngát, mênh mang, rất gợi cảm. Thêm nữa, hai từ "núi" và "biển" được nhắc lại hai lần (điệp từ) bổ sung thêm nét điệp trùng, nối tiếp của núi, của biển khiến cho chiều cao của núi càng thêm cao, chiều rộng của biển càng thêm rộng... Chỉ những hình ảnh to lớn, cao rộng không cùng và vĩnh hằng ấy mới diễn tả nổi công ơn sinh thành, nuôi dạy con cái của cha mẹ. "Núi ngất trời", "biển rộng mênh mông" không thể nào đo được, cũng như công ơn cha mẹ đối với con cái không thể nào tính được. Qua nghệ thuật so sánh, dùng từ đặc tả, từ láy và điệp từ, kết hợp giọng thơ lục bát ngọt ngào của điệu hát ru, ba câu đẩu của bài ca dao đã khẳng định và ngợi ca công ơn to lớn của cha mẹ đối với con cái. Đây không phải là lời giáo huấn khó khăn về chữ hiếu mà là những tiếng nói tâm tình truyền cảm, lay động trái tim chúng ta. Do đó, đến câu cuối "Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi !", tuy lời ru chỉ rõ công ơn cha mẹ bằng một thành ngữ "chín chữ cù lao" hơi khó hiểu, nhưng chúng ta vần thấm thía những tình nghĩa cha mẹ đối với con cái. Có thể nói, công ơn cha mẹ đối với con cái không chỉ gói lại ở con số chín (sinh: đẻ, cúc : nâng đỡ, phủ : vuốt ve, súc : cho bú, trưởng : nuôi lớn, dục : dạy dỗ, cố : trông nom, phục : theo dõi, phúc : che chở) mà mở rộng đến vô cùng. Câu thơ tám tiếng chia đều hai nhịp: bốn tiếng đầu "cù lao chín chữ" nhấn mạnh công ơn cha mẹ, bốn tiếng sau "ghi lòng con ơi" nhắc nhở thái độ và hành động của con cái đền đáp công ơn ấy. Về mật bố cục và mạch lạc văn bản, bài hát ru này khá chặt chẽ. Nhiều bài ca dao khác của dân tộc ta cũng thường bố cục tương tự: miêu tả sự vật, kể sự việc, rồi nhắc nhở, răn dạy ; nội dung hiện thực, hài hoà mang tính giáo huấn ; lay động người nghe bằng tình cảm, sau đó mới nhắc nhở bằng lí trí, ý thức. Ngoài bài ca dao mà sách giáo khoa giới thiệu, nhiều người Việt Nam còn nhớ một số bài khác có nội dung tương tự như : Ơn cha nặng lắm ai ơi, Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang. Hoặc : Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra... Cùng với bài hát ru về công cha, nghĩa mẹ, cha ông ta cũng thường hát ru con cháu về tình cảm anh em thân thương ruột thịt. Bài ca dao thứ tư là lời răn dạy về tình cảm ấy và cũng có bố cục gần giống bài thứ nhất. Phần thứ nhất: Người ru, người hát vừa kể vừa tả quan hộ anh em trong một nhà: Anh em nào phải người xa, Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân. Quan hệ anh em khác biệt rõ ràng với quan hệ láng giềng, xã hội. Lời ca dùng phép đối chiếu, dùng hai tiếng "người xa" mớ đầu mang âm diệu bình thản như vô cảm, rồi đối lai bằng một dòng tám tiếng liền mạch "Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân" nghe vừa như thân mật, tha thiết vừa thiêng liêng, trang trọng. Những hình ảnh "bác" (cha), "mẹ", "một nhà" kết hợp các từ "cùng" đã nhấn mạnh quan hệ anh em, thân thương, ruột thịt. Lời ca nhẹ nhàng, tự nhiên, ý nghĩa, nội dung sâu sắc mà khơi gợi biết bao tình cảm mặn nồng, tha thiết. Phần tiếp sau là lời răn bảo cụ thể : Yên nhau như thể tay chân, Anh em hoà thuận, hai thân vui vầy. Lời răn bảo dùng cách so sánh khéo léo. Tình anh em, yêu thương, hoà thuận, trên kính dưới nhường như tay gắn bó với chân, sự gắn bó bằng đường gân, mạch máu. Đây cũng là cách dùng một ý niệm trừu tượng "tình thương yêu" đối chiếu, so sánh với hình ảnh cụ thể "tay, chân", mở ra trong suy nghĩ của người nghe nhiều liên tưởng, tưởng tượng rộng và sâu. Nói khác đi, ông bà, cha mẹ luôn mong muôn con cái trong một nhà thương yêu, giúp dỡ lẫn nhau, gắn bó với nhau như tay với chân trong một cơ thể. Cái cơ thể ấy chính là gia đình. Người tiêu biểu cho gia đình chính là cha mẹ. Tình cảm anh em nằm trong tình thương yêu của cha mẹ. Vì thế, anh em hoà thuận sẽ đem lại niểm vui, hạnh phúc cho cha mẹ "Anh em hoà thuận, hai thân vui vầy". Lời ca kết lại, nhưng cảm xúc và ước vọng vẫn tiếp tục mở ra. Những từ ghép "yêu nhau", "hoà thuận", "vui vầy" thuộc nhóm từ biểu cảm cứ ngân lên, lan toả mãi trong lòng người... Có thể nói ca dao - dân ca là "tiếng hát di từ trái tim lên miệng". Trong những "tiếng hát trái tim" ấy, những lời ru, những bài ca về tình nghĩa gia đình bao giờ cùng dịu dàng, chân thành, đằm thắm nhất. Từ tình cảm cha mẹ, con cái, tình anh em đến tình cảm ông bà, con cháu, tình ruột thịt, huyết thống,... tất cả đều đáng trân trọng và cần phải vun trồng mãi mãi tươi tốt. "Một giọt máu đào hơn ao nước lã", tục ngữ xưa cũng từng đúc kết kinh nghiệm ứng xử như thế. Song đạo lí Việt Nam lại luôn nhắc nhở "tình" phải gắn liền với "nghĩa". Tinh yêu thương, lòng nhớ ơn cha mẹ, ông bà, tình thân đoàn kết anh em ruột thịt chỉ có giá trị khi con người biết làm những việc nhân nghĩa, có những hành động cụ thể thiết thực đề ơn đáp nghĩa những bậc sinh thành, những người gần gũi ruột thịt từng hi sinh cả cuộc đời cho sự sống của mình. Và thiêng liêng cao cả hơn nữa là có thực hiện được tình nghĩa gia đình tốt đẹp thì chúng ta mới rèn giũa được những tình cảm rộng lớn khác như tình yêu quê hương, đất nước, tình đồng bào, lòng nhân ái, tình thương con người,...
Chỉ ra và Nêu rõ kiểu câu và Phân tích tác dụng của biện pháp tu từ Ẩn Dụ trong ví dụ sau :
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
(Bếp lửa-Bằng Việt)
*Vì khó quá mà mình chưa đọc bài thơ này lần nào
nên mong các bạn giúp đỡ *
Câu trả lời của bạn
- Nếu từ đầu bài thơ, hình ảnh bà và bếp lửa song hành thì đến đây hoà vào làm một, nhòe lẫn, tỏa sáng bên nhau.
- Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “Mấy chục năm”, từ láy tượng hình “lận đận”, hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” -> diễn tả cảm nhận của nhà thơ về cuộc đời gian nan, vất vả và sự tần tảo, đức hi sinh, chịu thương,chịu khó của bà. Tình thương yêu tác giả dành cho bà được thể hiện trong từng câu chữ. Tình cảm ấy giản dị, chân thành mà thật sâu nặng thiết tha.
- Suốt cuộc đời, bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình.
- Điệp ngữ “nhóm” được nhắc lại bốn lần với những ý nghĩa phong phú, gợi nhiều liên tưởng. Từ hành động, bà đã nhóm dậy những gì thiêng liêng, cao quý nhất của con người. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai là nhóm lên:
+ Tình yêu thương
+ Niềm vui sưởi ấm
+ Sự san sẻ tình làng nghĩa xóm.
+ Những tâm tình, ước vọng của tuổi thơ
I. Phần đọc - hiểu
Đọc kĩ văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Nước non lận đận một mình
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con.
Câu 1: Bài ca dao trên là lời của ai?
A. Người lao đôộng trong xã hội xưa
B. Người phụ nữ trong xã hội xưa
Câu 2: Trong bài ca dao có sử biện pháp nghệ thuật gì?
A. So sánh
B. Nhân hóa
C. Ẩn dụ
D. Hoán dụ
Câu 3: Bài ca dao trên biểu cảm theo cách nào?
A. Trực tiếp
B. Gián tiếp
C. Cả trực tiếp và gián tiếp
D. Cả 3 ý trên đều sai
Câu 4: Chỉ ra các từ ngữ trong biện pháp nghệ thuật của bài ca dao mà em xác định ở câu 2 và nêu tác dụng của biện pháp đó ?
Câu 5: Viết đôi dòng cảm nghĩ của em được gợi lên từ nội dung của bài ca dao?
Câu trả lời của bạn
câu 1A 2B 3B
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *