Qua bài học giúp các em nắm được tình yêu quê hương bền chặt, sâu nặng của Hạ Tri Chương chợt nhói lên trong một tình huống ngẫu nhiên, bất ngờ được ghi lại một cách hóm hỉnh trong bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Thấy được tác dụng của nghệ thuật đối và vai trò của câu cuối trong bài thơ tuyệt cú.
"Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi .
Hương âm vô cải, mấn mao tồi".
→ Tình cảm buồn, bồi hồi, gắn bó với quê hương trước sự trôi chảy của thời gian và tuổi tác.
"Nhi đồng tương kiến, bất tương thức .
Tiếu vấn: Khách tòng bà xứ lai?"
→ Cảm giác ngỡ ngàng, thấm thía, ngậm ngùi, xót xa khi bị coi như khách lạ ngay trên mảnh đất quê hương.
Đề bài: Cảm nghĩ về bài thơ "Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê" của Hạ Tri Chương.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
3. Kết bài
Bài văn mẫu
Hạ Tri Chương (659 – 744) là một trong những thi sĩ lớn đời Đường. Ông còn là bạn vong niên của thi tiên Lí Bạch. Bài thơ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê là một trong số những bài thơ hay nổi tiếng viết vể đề tài tình yêu quê hương đất nước. Bài thơ ngắn gọn nhưng đã thể hiện khá rõ tình cảm tha thiết, nỗi lòng của một người con xa quê hương sau mấy chục năm mới trở về.
Có lẽ trong cuộc đời mỗi con người, điểu khiến người ta buồn nhất, khắc khoâi nhất là phải sống xa quê. Mà sẽ là buồn hơn nữa nếu lại phải xa quê mấy chục năm không được một lần trở lại. Đến cuối đời may mắn được trở vể thăm quê hương thì có lẽ sẽ chẳng còn ai nhớ đến, đứng giữa quê mình mà chẳng ai còn nhận ra, người ta cứ ngỡ khách 1ạ vô làng. Và Hạ Tri Chương đã rơi vào tình cảnh ấy. Mờ đầu bài thơ tác giả viết:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
( Trẻ đi, già trở lại nhà)
Câu thơ nói về một hoàn cành đối lập, đó là ngày Hạ Tri Chương ra đi và ngày trở về của ông. Trong cuộc đời con người sự ra đi hay trở về sẽ chỉ là những chuyến đi bình thường nếu người ta đi vài ngày hay vài năm nhưng sẽ là vấn đề nếu thời gian ra đi kéo dài hàng mấy chục năm. Ngày ra đi, Hạ Tri Chương vẫn còn rất trẻ và cho đến ngày trở về đã thành một ông lão. Cả một quãng thời gian quá dài đủ khiến một con người tình nghĩa như nhà thơ nhớ quê đến mức độ nào. Có lẽ, chúng ta ai cũng có thể hiểu được đó là một nỗi nhớ quê da diết dẫu cho cuộc sống của ông những ngày xa quê đầy đủ và sung túc. Tình cảm gắn bó, tha thiết với quê hương được thể hiện ở câu tiếp theo:
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
(Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu)
Xa quê đã mấy chục năm nhưng tình cảm với quê hương trong ông vẫn vẹn nguyên. Điều đó được thể hiện ở giọng quê ông vẫn giữ được. Giữ được giọng quê đối với người xa quê mấy chục năm là một điều vô cùng quý giá. Thực tế trong cuộc sống có rất nhiều người xa quê thì họ sẽ thay đổi tất cả từ giọng nói cho đến phong cách, cử chi nhưng với Hạ Tri Chương thì điều đó không hề xảy ra. Điều này chứng tỏ ông không hề quên nơi đã sinh ra mình, cho mình một cuộc sống, nơi có biết bao kỉ niệm, có người mẹ đã nuôi ông lớn lên bằng dòng sữa ngọt ngào, ru ông bằng những câu hát ân tình, tha thiết… Như vậy thời gian chỉ có thể làm thay đổi dược mái tóc, được vẻ bề ngoài cùa con người chứ không thể thay đổi được những nét bên trong, nét quê ẩn chứa trong ông. Ta thấy tình cảm của ông đối với quê hương thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao nhiêu. Bởi ta biết rằng ông từng làm quan to trong triều đình, được bao người trọng vọng và ở một môi trường như thế con ngưòi rất dễ thay đổi. Thực tế không ít người quay lưng lại với quê hương mình bằng cách thay đổi giọng nói cho phù hợp với nơi đô thị. Hạ Tri Chương quả có một tâm hồn thuỷ chung, nghĩa tình với quê hương của mình.
Một con người yêu quê hương tha thiết như ông sẽ càng buồn hơn khi xa quê, nhớ quê mà chẳng được về thăm quê mà phải mấy chục năm sau mới được trở về với biết bao bồi hồi và xúc động. Tuy nhiên, về đến làng, ông phải đối diện với một nghịch lí là trước đây nơi này đã sinh ra mình thì nay ông chỉ là một người xa lạ:
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức
Tiểu vấn: Khách tong hà xứ lai?
(Gặp nhau mà chẳng biết nhau,
Trẻ cười, hỏi: “Khách từ đâu đến làng”)
Có điều gì đó hóm hỉnh trong câu thơ này khiến ta phải bật cười nhưng dường như đó là một cái cười chẳng trọn vẹn bởi một người con được sinh ra chính từ mảnh đất ấy nay lại được xem như một người khách lạ. cảnh cũ còn đây nhưng bạn cũ người xưa ai còn ai mất tác giả chẳng biết và dường như chẳng còn ai nhận ra mình nữa. Dường như chẳng còn ai nhận ra tác giả là chàng Hạ Tri Chương năm xưa đã sinh ra từ ngôi làng này. Họ ngỡ đâu khách lạ về thăm làng. Có cái gì đó thật nghịch lí, người của làng mà lại trở thành khách lạ. Trẻ con hồn nhiên chào hỏi: có phải là khách lạ từ phương xa đến. Đọc những câu thơ này, ta có thể lường tượng một người đàn ông với khuôn mặt vừa vui mừng, sung sướng vì được đứng trên mảnh đất thân yêu nhưng lại vừa thoảng nét buồn vì những người qua lại chẳng ai biết mình, một cảm giác thất vọng, hẫng hụt khi đứng giữa quê mình. Bao năm xa quê mong ngày trở lại thăm quê vậy mà khi đứng trên mảnh đất thân yêu của mình thì dường như tất cả không còn là của mình nữa. Song thực ra điều đó cũng là tất nhiên bởi thời gian mà Hạ Tri Chương xa quê đâu phải vài ngày, vài năm mà đã hơn nửa thế kỉ nên người trẻ không biết là lẽ thường tình. Dẫu vậy bài thơ cũng giúp ta thấy được tình cảm chân thành, thuỷ chung của tác giả, một người đã từng có danh vọng cao sang nhưng vẫn không quên được tình cảm với quê hương. Đó là một con người đáng trân trọng. Nhà thơ Tố Hữu trong bài Nước non ngàn dặm cũng từng có câu thơ nói về tình cảm của người xa quê.
Người đi, tóc hãy còn xanh,
Mai về, dù bạc tóc anh cũng về.
Tình cảm quê hương là tình cảm thiêng liêng đối với mỗi con người và bài thơ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê của Hạ Tri Chương là một bài thơ rất hay. Tất cả tấm lòng nhà thơ được gói gọn trong bốn câu thơ đầy ý nghĩa. Tác giả đã rất thành công khi sử dụng thủ pháp nghệ thuật như tiểu đối hay tính hàm súc, nói ít gợi nhiều. Bài thơ đã giúp người đọc thấu hiểu hơn tâm trạng của người khách li hương. Bài thơ khép lại nhưng vẫn để lại dư âm khó quên trong lòng người đọc.
Bài thơ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê nói về tình yêu quê hương bền chặt, sâu nặng của Hạ Tri Chương khi ông phải làm quan ở xa nay mới được quay trở về làng quê cũ. Để cảm nhận được những tình cảm ấy, các em có thể tham khảo bài soạn văn tại đây:
Bài soạn Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Hạ Tri Chương đã bộc lộ tình cảm sâu nặng từ tận tâm can đối với quê hương xứ sở cùng dòng cảm xúc buồn vui xen lẫn, để lại cho bạn đọc nỗi băn khoăn, khắc khoải với chính bản thân mình. Để hiểu hơn về tình cảm ấy, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích bài Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê
-- Mod Ngữ văn 7 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Hồi hương ngẫu thư là một trong số các bài thơ xuất sắc nhất của Hạ Tri Chương. Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương giản dị, nhẹ nhàng mà sâu sắc của một trái tim nồng hậu thiết tha. Đọc bài thơ ít ai trong chúng ta không thấy xúc động bồi hồi, nhất là khi chúng ta cũng bất ngờ trước ý thơ cua hai câu thơ cuối:
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu vấn: Khách tòng há xứ lai?
(Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi)
Hạ Tri Chương xa quê đã bao năm nay trở về như con ngựa già quay đầu về quê cũ. Bao năm bươn trải khiến mái tóc đã pha sương. Thế nhưng ngần ấy năm cũng là khoảng thời gian mà lúc nào trong lòng của kẻ ly hương cũng canh cánh một nỗi niềm gửi về quê cũ. Vì thế mà khi vừa mới đặt chân về đến quê hương lòng người lữ thứ xao động lắm. Mọi thứ giờ đã đổi thay và mình cũng đã già rồi thế nhưng tự đáy lòng mình, mình thấy mình vẫn đang gắn bó sâu sắc lắm với quê hương. Bao năm xa cách nơi chôn rau cắt rốn, mình vẫn tự hào vì giọng quê chẳng có chút đổi thay.
Bài thơ cứ thế trôi đi. Cuộc trở về cũng tưởng cứ theo cái mạch ấy mà diễn ra suôn sẻ. Thế nhưng bất ngờ một tình huống nghịch lý đã xảy ra:
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
Về đến quê hương, vừa bước chân qua khỏi cổng làng, nhà thơ gặp một đám trẻ con, có lẽ nhỏ hơn cái ngày ra đi thủa trước. Đang xúc động bởi hình như đám trẻ gợi về cho mình bao kỷ niệm tuổi thơ. Thế nhưng càng nhìn lại càng thấy lạ. Mình cũng lạ và bọn trẻ lại càng thấy mình lạ lẫm hơn.
Tình huống bất ngờ nảy sinh từ đó. Lũ trẻ "tương kiến bất tương thức” (nhìn mà khổng biết). Thế nên rất hồn nhiên, lũ trẻ cười hỏi một câu mà khiến nhà thơ cứ thế lặng câm và đau nhói. Thì ra mình đã quá già rồi. Bao năm xa quê dài đằng đặc khiến mình đã trở thành người lạ lẫm trên chính mảnh đất yêu thương. Bạn bè ngày xưa không biết ai còn ai mất. Và cũng không biết trong ngôi làng nhỏ bé này còn ai nhớ đến khuôn mặt, còn ai nghĩ đến sự tồn tại của bản thân ta? Thế là từ một câu hỏi hồn nhiên ngây thơ của nhi đồng, nhà thơ cứ thế đuổi nhau bao câu hơi man mác, bâng khuâng và buồn đau da diết.
Hai câu thơ hay bởi lời ít mà ý tứ sâu xa. Nó giản dị, nhẹ nhàng mà thâm trầm, sâu lắng. Đọc bài thơ chúng ta mặc sức liên tưởng về những bi kịch và nỗi lòng của khách ly hương. Từ đó chúng ta cũng cảm nhận được tình yêu quê hương đất nước sâu sắc và cao quý biết nhường nào.
Hồi hương ngẫu thư là một trong số các bài thơ xuất sắc nhất của Hạ Tri Chương. Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương giản dị, nhẹ nhàng mà sâu sắc của một trái tim nồng hậu thiết tha. Đọc bài thơ ít ai trong chúng ta không thấy xúc động bồi hồi, nhất là khi chúng ta cũng bất ngờ trước ý thơ cua hai câu thơ cuối:
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu vấn: Khách tòng há xứ lai?
(Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi)
Hạ Tri Chương xa quê đã bao năm nay trở về như con ngựa già quay đầu về quê cũ. Bao năm bươn trải khiến mái tóc đã pha sương. Thế nhưng ngần ấy năm cũng là khoảng thời gian mà lúc nào trong lòng của kẻ ly hương cũng canh cánh một nỗi niềm gửi về quê cũ. Vì thế mà khi vừa mới đặt chân về đến quê hương lòng người lữ thứ xao động lắm. Mọi thứ giờ đã đổi thay và mình cũng đã già rồi thế nhưng tự đáy lòng mình, mình thấy mình vẫn đang gắn bó sâu sắc lắm với quê hương. Bao năm xa cách nơi chôn rau cắt rốn, mình vẫn tự hào vì giọng quê chẳng có chút đổi thay.
Bài thơ cứ thế trôi đi. Cuộc trở về cũng tưởng cứ theo cái mạch ấy mà diễn ra suôn sẻ. Thế nhưng bất ngờ một tình huống nghịch lý đã xảy ra:
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
Về đến quê hương, vừa bước chân qua khỏi cổng làng, nhà thơ gặp một đám trẻ con, có lẽ nhỏ hơn cái ngày ra đi thủa trước. Đang xúc động bởi hình như đám trẻ gợi về cho mình bao kỷ niệm tuổi thơ. Thế nhưng càng nhìn lại càng thấy lạ. Mình cũng lạ và bọn trẻ lại càng thấy mình lạ lẫm hơn.
Tình huống bất ngờ nảy sinh từ đó. Lũ trẻ "tương kiến bất tương thức” (nhìn mà khổng biết). Thế nên rất hồn nhiên, lũ trẻ cười hỏi một câu mà khiến nhà thơ cứ thế lặng câm và đau nhói. Thì ra mình đã quá già rồi. Bao năm xa quê dài đằng đặc khiến mình đã trở thành người lạ lẫm trên chính mảnh đất yêu thương. Bạn bè ngày xưa không biết ai còn ai mất. Và cũng không biết trong ngôi làng nhỏ bé này còn ai nhớ đến khuôn mặt, còn ai nghĩ đến sự tồn tại của bản thân ta? Thế là từ một câu hỏi hồn nhiên ngây thơ của nhi đồng, nhà thơ cứ thế đuổi nhau bao câu hơi man mác, bâng khuâng và buồn đau da diết.
Hai câu thơ hay bởi lời ít mà ý tứ sâu xa. Nó giản dị, nhẹ nhàng mà thâm trầm, sâu lắng. Đọc bài thơ chúng ta mặc sức liên tưởng về những bi kịch và nỗi lòng của khách ly hương. Từ đó chúng ta cũng cảm nhận được tình yêu quê hương đất nước sâu sắc và cao quý biết nhường nào.
Phân tích hai câu thơ cuối bài thơ Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương
Hồi hương ngẫu thư là một trong số các bài thơ xuất sắc nhất của Hạ Tri Chương. Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương giản dị, nhẹ nhàng mà sâu sắc của một trái tim nồng hậu thiết tha. Đọc bài thơ ít ai trong chúng ta không thấy xúc động bồi hồi, nhất là khi chúng ta cũng bất ngờ trước ý thơ cua hai câu thơ cuối:
Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu vấn: Khách tòng há xứ lai?
(Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi)
Hạ Tri Chương xa quê đã bao năm nay trở về như con ngựa già quay đầu về quê cũ. Bao năm bươn trải khiến mái tóc đã pha sương. Thế nhưng ngần ấy năm cũng là khoảng thời gian mà lúc nào trong lòng của kẻ ly hương cũng canh cánh một nỗi niềm gửi về quê cũ. Vì thế mà khi vừa mới đặt chân về đến quê hương lòng người lữ thứ xao động lắm. Mọi thứ giờ đã đổi thay và mình cũng đã già rồi thế nhưng tự đáy lòng mình, mình thấy mình vẫn đang gắn bó sâu sắc lắm với quê hương. Bao năm xa cách nơi chôn rau cắt rốn, mình vẫn tự hào vì giọng quê chẳng có chút đổi thay.
Bài thơ cứ thế trôi đi. Cuộc trở về cũng tưởng cứ theo cái mạch ấy mà diễn ra suôn sẻ. Thế nhưng bất ngờ một tình huống nghịch lý đã xảy ra:
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
Về đến quê hương, vừa bước chân qua khỏi cổng làng, nhà thơ gặp một đám trẻ con, có lẽ nhỏ hơn cái ngày ra đi thủa trước. Đang xúc động bởi hình như đám trẻ gợi về cho mình bao kỷ niệm tuổi thơ. Thế nhưng càng nhìn lại càng thấy lạ. Mình cũng lạ và bọn trẻ lại càng thấy mình lạ lẫm hơn.
Tình huống bất ngờ nảy sinh từ đó. Lũ trẻ "tương kiến bất tương thức” (nhìn mà khổng biết). Thế nên rất hồn nhiên, lũ trẻ cười hỏi một câu mà khiến nhà thơ cứ thế lặng câm và đau nhói. Thì ra mình đã quá già rồi. Bao năm xa quê dài đằng đặc khiến mình đã trở thành người lạ lẫm trên chính mảnh đất yêu thương. Bạn bè ngày xưa không biết ai còn ai mất. Và cũng không biết trong ngôi làng nhỏ bé này còn ai nhớ đến khuôn mặt, còn ai nghĩ đến sự tồn tại của bản thân ta? Thế là từ một câu hỏi hồn nhiên ngây thơ của nhi đồng, nhà thơ cứ thế đuổi nhau bao câu hơi man mác, bâng khuâng và buồn đau da diết.
Hai câu thơ hay bởi lời ít mà ý tứ sâu xa. Nó giản dị, nhẹ nhàng mà thâm trầm, sâu lắng. Đọc bài thơ chúng ta mặc sức liên tưởng về những bi kịch và nỗi lòng của khách ly hương. Từ đó chúng ta cũng cảm nhận được tình yêu quê hương đất nước sâu sắc và cao quý biết nhường nào.
Câu trả lời của bạn
Hạ Tri Chương (659 – 744) là một trong những thi sĩ lớn đời Đường, là bạn vong niên của Thi tiên Lý Bạch. Quê ông ở Cối Kê, thuộc tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Đậu tiến sĩ năm 36 tuổi, là đại quan của triều Đường, được hoàng đế Đường Thái Tông và quần thần trọng vọng.
Thơ của Hạ Tri Chương thanh đạm, nhẹ nhàng, gợi cảm, biểu lộ một trái tim hồn hậu đáng yêu. ‘Hồi hương ngẫu thư’ là bài thơ xuất sắc của ông, được nhiều người truyền tụng. Tình yêu quê hương là cảm xúc chủ đạo của bài thơ thất ngôn tứ tuyệt này:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
Câu thơ thứ nhất dùng thủ pháp tiểu đối nêu lên một cảnh ngộ: phải ly biệt gia đình từ ấu thơ, sống nơi đất khách quê người, mãi đến lúc về già mới được trở về thăm cố hương:
‘Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi’
(Khi đi trẻ, lúc về già)
‘Thiếu tiểu’ với ‘lão đại’, ‘li gia’ với ‘hồi’ hương, đối nhau. Với Hạ Tri Chương, thời gian ly biệt quê hương gia đình không chỉ 3 năm, 15 năm mà hơn nửa thế kỉ, gần suốt một đời người, sao không thương nhớ? Cảnh ngộ ấy là bi kịch của vị đại quan đời Đường trên con đường công danh? Với Hạ Tri Chương, công danh thì thành đạt, nhưng suốt cuộc đời phải ‘li gia’. Nỗi sầu ‘ly gia’ là một trong những nỗi đau của đời người xưa nay.
Câu thơ thứ hai, tác giả một lần nữa sử dụng tiểu đối tương phản rất đặc sắc, để nói lên sự gắn bó thiết tha với quê nhà:
‘Hương âm vô cải mấn mao tồi’
(Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu)
Suốt một đời xa quê, khách ly hương giờ đây mái tóc đã bạc phơ, tóc mai đã rụng, nhưng ‘giọng quê’ (hương âm) vẫn không đổi thay! Chi tiết ‘hương âm vô cải’ (giọng quê không đổi) là một biểu hiện cảm động về tấm lòng tha thiết gắn bó với quê hương. Dòng sữa ngọt ngào, tiếng ru, tình thương của mẹ hiền, công ơn của mẹ cha, đã thấm sâu vào tâm hồn mỗi đứa con. ‘Giọng quê’ chính là tâm hồn của mỗi con người yêu thương, gắn bó với đất mẹ quê cha. Chỉ có kẻ mất gốc, kẻ bạc tình mới thay đổi ‘giọng quê’, mới coi thường tiếng mẹ đẻ!
Trong cái biến đổi ‘mấn mao tồi’ và cái không thể biến đổi ‘hương âm vô cải’, nhà thơ chân thành thổ lộ tấm lòng son sắt thủy chung, sự gắn bó thiết tha của khách ly hương đối với nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tình cảm ấy rất đẹp, rất đáng tự hào đối với Hạ Tri Chương. Hơn nửa thế kỉ làm quan tại kinh đô Tràng An, đứng trên đỉnh cao danh vọng, sống trong cảnh vàng son, thế mà tình cố hương của ông vẫn vơi đầy trong trái tim, ‘giọng quê’ vẫn đậm đà như xưa. Đó là một sự kỳ diệu của tấm lòng đôn hậu đáng trân trọng ngợi ca.
Hai câu cuối rất hóm hỉnh ghi lại một tình huống nói về một nghịch lí trong cuộc đời. Có câu hỏi và nụ cười hồn nhiên khi gặp ‘người khách lạ’:
‘Nhi đồng tương kiến bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?’
Kẻ đi xa, nay trở về làng đã trở thành khách lạ. Trẻ con gặp mà không biết. Thời gian xa quê dài dằng dặc bao năm tháng. Bạn bè tuổi thơ ngày xưa, ai còn ai mất? Vì thế mới có chuyện lạ đời:
‘Trẻ con nhìn lạ không chào,
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?’
Một câu hỏi hồn nhiên ngây thơ của nhi đồng để lại bao man mác, bâng khuâng trong lòng li khách. Vì cảnh ngộ mà phải xa quê. Tuổi già sức yếu vẫn trở lại cố hương. Tình yêu quê hương của Hạ Tri Chương mới thắm thiết biết bao! Tình cảm ấy rất đẹp, rất chân thành: son sắt và thủy chung. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
‘Ngày đi, tóc hãy còn xanh,
Mai về, dù bạc tóc anh, cũng về!’
(‘Nước non ngàn dặm’)
‘Hồi hương ngẫu thư’ của Hạ Tri Chương là một bài thơ hay, cho ta nhiều xúc động. Tác giả sử dụng tiểu đối rất thành công, tạo nên những vần thơ hàm súc, nói ít mà gợi nhiều, đem đến cho người đọc bao liên tưởng về bi kịch và nỗi lòng của khách ly hương. Một hồn thơ thâm trầm, nhẹ nhàng và hồn hậu. Tình yêu thương và tấm lòng son sắt thủy chung của nhà thơ đối với quê hương thấm đẫm trên từng vần thơ.
‘Thơ là tiếng lòng trang trải…’, ‘Hồi hương ngẫu thư’ là tiếng lòng của Hạ Tri Chương. Tiếng lòng ấy mới hồn hậu và đằm thắm biết bao!
Bình giảng tác phẩm Hồi hương ngẫu thư
Hạ Tri Chương (659 – 744) là một trong những thi sĩ lớn đời Đường, là bạn vong niên của Thi tiên Lý Bạch. Quê ông ở Cối Kê, thuộc tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Đậu tiến sĩ năm 36 tuổi, là đại quan của triều Đường, được hoàng đế Đường Thái Tông và quần thần trọng vọng.
Thơ của Hạ Tri Chương thanh đạm, nhẹ nhàng, gợi cảm, biểu lộ một trái tim hồn hậu đáng yêu. ‘Hồi hương ngẫu thư’ là bài thơ xuất sắc của ông, được nhiều người truyền tụng. Tình yêu quê hương là cảm xúc chủ đạo của bài thơ thất ngôn tứ tuyệt này:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
Câu thơ thứ nhất dùng thủ pháp tiểu đối nêu lên một cảnh ngộ: phải ly biệt gia đình từ ấu thơ, sống nơi đất khách quê người, mãi đến lúc về già mới được trở về thăm cố hương:
‘Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi’
(Khi đi trẻ, lúc về già)
‘Thiếu tiểu’ với ‘lão đại’, ‘li gia’ với ‘hồi’ hương, đối nhau. Với Hạ Tri Chương, thời gian ly biệt quê hương gia đình không chỉ 3 năm, 15 năm mà hơn nửa thế kỉ, gần suốt một đời người, sao không thương nhớ? Cảnh ngộ ấy là bi kịch của vị đại quan đời Đường trên con đường công danh? Với Hạ Tri Chương, công danh thì thành đạt, nhưng suốt cuộc đời phải ‘li gia’. Nỗi sầu ‘ly gia’ là một trong những nỗi đau của đời người xưa nay.
Câu thơ thứ hai, tác giả một lần nữa sử dụng tiểu đối tương phản rất đặc sắc, để nói lên sự gắn bó thiết tha với quê nhà:
‘Hương âm vô cải mấn mao tồi’
(Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu)
Suốt một đời xa quê, khách ly hương giờ đây mái tóc đã bạc phơ, tóc mai đã rụng, nhưng ‘giọng quê’ (hương âm) vẫn không đổi thay! Chi tiết ‘hương âm vô cải’ (giọng quê không đổi) là một biểu hiện cảm động về tấm lòng tha thiết gắn bó với quê hương. Dòng sữa ngọt ngào, tiếng ru, tình thương của mẹ hiền, công ơn của mẹ cha, đã thấm sâu vào tâm hồn mỗi đứa con. ‘Giọng quê’ chính là tâm hồn của mỗi con người yêu thương, gắn bó với đất mẹ quê cha. Chỉ có kẻ mất gốc, kẻ bạc tình mới thay đổi ‘giọng quê’, mới coi thường tiếng mẹ đẻ!
Trong cái biến đổi ‘mấn mao tồi’ và cái không thể biến đổi ‘hương âm vô cải’, nhà thơ chân thành thổ lộ tấm lòng son sắt thủy chung, sự gắn bó thiết tha của khách ly hương đối với nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tình cảm ấy rất đẹp, rất đáng tự hào đối với Hạ Tri Chương. Hơn nửa thế kỉ làm quan tại kinh đô Tràng An, đứng trên đỉnh cao danh vọng, sống trong cảnh vàng son, thế mà tình cố hương của ông vẫn vơi đầy trong trái tim, ‘giọng quê’ vẫn đậm đà như xưa. Đó là một sự kỳ diệu của tấm lòng đôn hậu đáng trân trọng ngợi ca.
Hai câu cuối rất hóm hỉnh ghi lại một tình huống nói về một nghịch lí trong cuộc đời. Có câu hỏi và nụ cười hồn nhiên khi gặp ‘người khách lạ’:
‘Nhi đồng tương kiến bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?’
Kẻ đi xa, nay trở về làng đã trở thành khách lạ. Trẻ con gặp mà không biết. Thời gian xa quê dài dằng dặc bao năm tháng. Bạn bè tuổi thơ ngày xưa, ai còn ai mất? Vì thế mới có chuyện lạ đời:
‘Trẻ con nhìn lạ không chào,
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?’
Một câu hỏi hồn nhiên ngây thơ của nhi đồng để lại bao man mác, bâng khuâng trong lòng li khách. Vì cảnh ngộ mà phải xa quê. Tuổi già sức yếu vẫn trở lại cố hương. Tình yêu quê hương của Hạ Tri Chương mới thắm thiết biết bao! Tình cảm ấy rất đẹp, rất chân thành: son sắt và thủy chung. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
‘Ngày đi, tóc hãy còn xanh,
Mai về, dù bạc tóc anh, cũng về!’
(‘Nước non ngàn dặm’)
‘Hồi hương ngẫu thư’ của Hạ Tri Chương là một bài thơ hay, cho ta nhiều xúc động. Tác giả sử dụng tiểu đối rất thành công, tạo nên những vần thơ hàm súc, nói ít mà gợi nhiều, đem đến cho người đọc bao liên tưởng về bi kịch và nỗi lòng của khách ly hương. Một hồn thơ thâm trầm, nhẹ nhàng và hồn hậu. Tình yêu thương và tấm lòng son sắt thủy chung của nhà thơ đối với quê hương thấm đẫm trên từng vần thơ.
‘Thơ là tiếng lòng trang trải…’, ‘Hồi hương ngẫu thư’ là tiếng lòng của Hạ Tri Chương. Tiếng lòng ấy mới hồn hậu và đằm thắm biết bao!
Hạ Tri Chương (659 – 744) là một trong những thi sĩ lớn đời Đường, là bạn vong niên của Thi tiên Lí Bạch. Quê ông ở Cối Kê, thuộc tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Đậu tiến sĩ năm 36 tuổi, là đại quan của triều Đường, được hoàng đế Đường Thái Tông và quần thần trọng vọng.
Thơ của Hạ Tri Chương thanh đạm, nhẹ nhàng, gợi cảm, biểu lộ một trái tim hồn hậu đáng yêu. ‘Hồi hương ngẫu thư’ là bài thơ xuất sắc của ông, được nhiều người truyền tụng. Tình yêu quê hương là cảm xúc chủ đạo của bài thơ thất ngôn tứ tuyệt này:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi dồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
1. Câu thơ thứ nhất dùng thủ pháp tiểu đối nêu lên một cảnh ngộ: phải li biệt gia đình từ ấu thơ, sống nơi đất khách quê người, mãi đến lúc về già mới được trở về thăm cố hương:
‘Thiếu tiểu li gia II lão đại hồi’
(Khi đi trẻ, lúc về già)
‘Thiếu tiểu’với ‘lão đại’, ‘li gia’ với ‘hồi’ hương, đối nhau. Với Hạ Tri Chương, thời gian li biệt quê hương gia đình không chỉ 3 năm, 15 năm mà hơn nửa thế kỉ, gần suốt một đời người, sao không thương nhớ? Cảnh ngộ ấy là bi kịch của vị đại quan đời Đường trên con đường công danh? Với Hạ Tri Chương, công danh thì thành đạt, nhưng suốt cuộc đời phải ‘li gia’. Nỗi sầu ‘li gia’ là một trong những nỗi đau của đời người xưa nay.
Câu thơ thứ hai, tác giả một lẩn nữa sử dụng tiểu đối tương phản rất đặc sắc, để nói lên sự gắn bó thiết tha với quê nhà:
‘Hương âm vô cải II mấn mao tồi’
(Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu)
Suốt một đời xa quê, khách li hương giờ đây mái tóc đã bạc phơ, tóc mai đã rụng, nhưng ‘giọng quê’ (hương âm) vẫn không đổi thay! Chi tiết ‘hương âm vô cải’ (giọng quê không đổi) là một biểu hiện cảm động về tấm lòng tha thiết gắn bó với quê hương. Dòng sữa ngọt ngào, tiếng ru, tình thương của mẹ hiền, công ơn của mẹ cha, đã thấm sâu vào tâm hồn mỗi đứa con. ‘Giọng quê’ chính là tâm hồn của mỗi con người yêu thương, gắn bó với đất mẹ quê cha. Chỉ có kẻ mất gốc, kẻ bạc tình mới thay đổi ‘giọng quê’, mới coi thường tiếng mẹ đẻ!
Trong cái biến đổi ‘mấn mao tồi’ và cái không thể biến đổi ‘hương âm vô cải’, nhà thơ chân thành thổ lộ tấm lòng son sắt thủy chung, sự gắn bó thiết tha của khách li hương đối với nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tình cảm ấy rất đẹp, rất đáng tự hào đối với Hạ Tri Chương. Hơn nửa thế kỉ làm quan tại kinh đô Tràng An, đứng trên đỉnh cao danh vọng, sống trong cảnh vàng son, thế mà tình cố hương của ông vẫn vơi đầy trong trái tim, ‘giọng quê’ vẫn đậm đà như xưa. Đó là một sự kì diệu cùa tấm lòng đôn hậu đáng trân trọng ngợi ca.
2. Hai càu cuối rất hóm hỉnh ghi lại một tình huống nói về một nghịch lí trong cuộc đời. Có câu hỏi và nụ cười hồn nhiên khi gặp ‘người khách lạ’:
‘Nhi đồng tương kiến bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?’
Kẻ đi xa, nay trở về làng đã trở thành khách lạ. Trẻ con gặp mà không biết. Thời gian xa quê dài dằng dặc bao năm tháng. Bạn bè tuổi thơ ngày xưa, ai còn ai mất? Vì thế mới có chuyên lạ đời:
‘Trẻ con nhìn lạ không chào,
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?’
Một câu hỏi hồn nhiên ngây thơ của nhi đồng để lại bao man mác, bâng khuâng trong lòng li khách. Vì cảnh ngộ mà phải xa quê. Tuổi già sức yếu vẫn trở lại cố hương. Tình yêu quê hương của Hạ Tri Chương mới thắm thiết biết bao! Tinh cảm ấy rất đẹp, rất chân thành: son sắt và thủy chung. Nhà thơ Tô' Hữu đã từng viết:
‘Ngày đi, tóc hãy còn xanh,
„ Mai về, dù bạc tóc anh, cũng về!’
(‘Nước non ngàn dặm’)
‘Hồi hương ngẫu thừ’của Hạ Tri Chương là một bài thơ hay, cho ta nhiều xúc động. Tác giả sử dụng tiểu đối rất thành công, tạo nên những vần thơ hàm súc, nói ít mà gợi nhiều, đem đến chongười đọc bao liên tưởng về bi kịch và nỗi lòng của khách li hương. Một hồn thơ thâm trầm, nhẹ nhàng và hồn hậu. Tình yêu thương và tấm lòng son sắt thủy chung của nhà thơ đối với quê hương thấm đẫm trên từng vần thơ.
‘Thơ là tiếng lòng trang trải…’, ‘Hồi hương ngẫu thư’là tiếng lòng của Hạ Tri Chương. Tiếng lòng ấy mới hồn hậu và đằm thắm biết bao!
Câu trả lời của bạn
- Nếu như bài thơ “Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch là nỗi nhớ về quê cũ của người xa xứ thì bài thơ trên lại viết về quê hương ngay cả khi tác giả đã trở về sau một thời gian khá dài xa quê. Nay trở về nỗi buồn đau dâng lên khi bản thân bị xem là “khách” trong ngày đầu tiên trở về quê hương. Khi đó, cảm xúc đã xuất hiện một cách ngẫu nhiên nhưng vì một điều bức xúc trong tình cảm mà trào dâng ra thành thơ.
Câu trả lời của bạn
Hai câu đầu của bài thơ này có hình thức tiểu đối:
- Hai quãng đời đối lập nhau của đời người. Hai hành động trái ngược nhau trẻ ra đi, già quay về ⇒ thể hiện tấm lòng luôn hướng về quê của con người đã gần đi hết cuộc đời mình.
- Hai câu đối, mỗi câu hai vế, mỗi vế có hai bộ phận đối nhau rất chỉnh.
- Câu thứ hai nêu bật lên yếu tố thay đổi (mái tóc đã bạc) và khẳng định một yếu tố không thay đối (giọng quê). Tiếng nói quê hương dù bao năm xa quê nhưng vẫn luôn khắc sâu trong tâm trí nhân vật trữ tình.
- Như vậy, hai câu thơ đầu tác giả đã sử dụng phép đối để thể hiện những sự đối lập, những điều thay đổi và những điều vẫn còn giữ mãi theo thời gian.
Câu trả lời của bạn
- Hai câu thơ đầu có giọng điệu nhẹ nhàng, bình thản, khách quan song pha lần nỗi buồn ngậm ngùi bởi quá lâu rồi tác giả mới về thăm quê.
Trẻ đi, già trở lại nhà
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu
- Hai câu sau là giọng điệu hóm hỉnh, bi hài chứa đựng một nỗi buồn ngậm ngùi, cô đơn của tác giả khi về đến quê nhà. Mâu thuẫn trong nội tâm là ở chỗ tình cảm sâu nặng thủy chung của nhà thơ đối với quê hương nhưng nay bỗng thành người xa lạ. Câu hỏi hồn nhiên của các em nhỏ làm cho tác giả vừa vui, vừa buồn.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
Câu trả lời của bạn
- Giá trị nội dung: Bài thơ thể hiện một cách chân thực mà sâu sắc, hóm hỉnh mà ngậm ngùi tình yêu quê hương thắm thiết của một người sống xa quê lâu ngày, trong khoảnh khắc vừa mới đặt chân trở về quê cũ.
- Giá trị nghệ thuật:
+ Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.
+ Giọng thơ hóm hỉnh, ngậm ngùi.
+ Phép đối.
+ Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự và biểu cảm.
Câu trả lời của bạn
- Giống nhau: Lí Bạch và Hạ Chi Trương là hai người bạn vong niên và hai bài thơ Tĩnh dã tứ, Hồi hương đều bộc lộ tình cảm tha thiết, sâu nặng của họ với quê hương mình.
- Khác nhau:
+ Bài “Tĩnh dạ tứ” được viết khi Lí Bạch đang xa quê hương, trong đêm khuya thanh vắng, ánh trăng sáng đã gợi nỗi nhớ khắc khoải về quê hương. Đó là cách biểu lộ tình cảm trực tiếp của Lí Bạch bằng ngôn từ chắt lọc, nhẹ nhàng và thấm thía nỗi niềm nhớ quê.
+ Còn “Hồi hương ngẫu thư”, được viết khi tác giả đặt chân về quê hương sau bao năm xa quê. Tình cảm với quê hương được biểu lộ gián tiếp qua lời kể, miêu tả của nhà thơ. Giọng thơ vừa hóm hỉnh vừa chân thực đã thể hiện một tình yêu quê hương tha thiết.
Câu trả lời của bạn
Bài thơ cho ta hiểu về tình cảm của nhà thơ đối với quê hương thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao nhiêu. Bởi ta biết rằng ông từng làm quan to trong triều đình, được bao người trọng vọng, ở một môi trường như thế con người rất dễ thay đổi, thực tế không ít người quay lưng lại với quê hương mình bằng cách thay đổi giọng nói cho phù hợp với nơi đô thị. Hạ Tri Chương quả có một tâm hồn thủy chung, nghĩa tình với quê hương của mình.
Câu trả lời của bạn
- Bài thơ được viết nhân lần tác giả tình cờ về thăm quê vào năm 744, khi ông đã 86 tuổi.
Câu trả lời của bạn
Hạ Tri Chương.
Câu trả lời của bạn
Giọng quê không đổi nhưng tóc mai đã rụng.
Câu trả lời của bạn
Xa quê lâu nay mới trở về.
Câu trả lời của bạn
Ngậm ngùi, hẫng hụt khi trở thành khách lạ giữa quê hương.
Câu trả lời của bạn
Đúng.
Câu trả lời của bạn
- Tình cảm quê hương thể hiện ở tên bài thơ: Tên bài thơ là Hồi hương ngẫu thư nghĩa là ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê. Hạ Tri Chương tác giả bài thơ thi đậu tiến sĩ làm quan trên 50 năm ở Trường An mới về quê. Điều này đáng trân trọng đúng như hai câu thơ nổi tiếng của Khuất Nguyên: “Hồ tử tất thủ khâu. Quyện điểu quy cựu lâm. (Cáo chết tất quay đầu về phía núi gò. Chim mỏi tất bay về rừng cũ.) Ngẫu thư là ngẫu nhiên viết chứ không phải là tình cảm phát sinh bộc lộ một cách ngẫu nhiên. Nói ngẫu nhiên viết vì nhà thơ không chủ định viết. Nhưng do tình huống bị gọi là “khách” ở cuối bài làm tác giả xót xa là duyên cớ ngẫu nhiên ông phải chấp bút đề thơ.
- Đằng sau duyên cớ ngẫu nhiên đó là một điều kiện tất yếu đó là tình yêu sâu nặng, luôn luôn canh cánh trong lòng bất cứ lúc nào cũng có thể thổ lộ ra của nhà thơ. Có thể so sánh tình cảm đó như một sợi dây đàn căng thẳng và chỉ cần chi tiết chân thực nhưng vô lí ở cuối bài va đập vào là ngân lên, ngân mãi.
Câu trả lời của bạn
- Hai câu đầu của bài thơ này có hình thức tiểu đối: Thiếu tiểu li gia / lão đại hồi, Hương âm vô cải / mấn mao tồi. Hai câu đối, mỗi câu hai vế, mỗi vế có hai bộ phận đối nhau rất chỉnh. Lí gia đối với đại hồi, hương âm đối với mấn mao là chỉnh cả ý lẫn lời ; thiếu tiểu đối với lão, vô cải đối với tồi. Tuy có hơi chênh về lời song về ý rất chỉnh (thiếu tiểu: còn nhỏ ; lão: về già ; vô cải: không thay đổi ; tồi: chỉ sự thay đổi). Xét về ý nghĩa ngữ pháp, thiếu tiểu và lão đều là chủ ngữ cũng như vô cải và tồi đều là vị ngữ, hai câu đối đọc lên nghe rất hài hoà.
- Hình thức tiểu đối trong hai câu này đã giúp nhà thơ thể hiện những ý nghĩa rất khái quát trong một lượng câu chữ ít ỏi. Câu thơ đầu nói về quãng thời gian gần suốt cả cuộc đời xa quê đồng thời hé lộ tình cảm quê hương của nhà thơ. Câu thơ thứ hai dùng một yếu tố thay đổi (mái tóc) để làm nổi bật yếu tố không thay đổi (tiếng nói quê hương). Nói hương âm vô cải là đã động đến phần tinh tế trong sâu thẳm tâm hồn (người thấy tiếng nói quê hương không thay đổi qua mấy chục năm trời hẳn là người luôn nghĩ về quê hương).
Câu trả lời của bạn
- Hai câu trên: Giọng điệu miêu tả, tự sự và thoáng chút ngậm ngùi, tâm sự của người con xa quê lâu ngày nay mới được trở về.
- Hai câu dưới: Giọng điệu hóm hỉnh, bi hài:
+ Sự ngây thơ, hồn nhiên của trẻ thơ.
+ Hoàn cảnh trớ trêu, bị gọi là khách ngay trên quê nhà.
+ Cảm giác bơ vơ, lạc lọng khi trở về quê không còn người thân thích, quen biết, nỗi ngậm ngùi đau xót.
+ Câu hỏi hồn nhiên của các em nhỏ làm cho tác giả vừa vui, vừa buồn.
Câu trả lời của bạn
So sánh hai bản dịch thơ:
- Giống: đều dịch theo thể lục bát và sát với bản dịch nghĩa.
- Khác: Bản của Phạm Sĩ Vĩ không có hình ảnh tiêu biểu (trẻ cười), còn bản dịch của Trần Trọng San âm điệu câu cuối không được mềm mềm mại, hơi hụt hẫng.
Câu trả lời của bạn
- Phần 1 (2 câu đầu): Những thay đổi và không thay đổi của con người.
- Phần 2 (2 câu cuối): Tâm trạng nhà thơ khi bị coi là khách ở quê.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *