Qua bài học giúp các em nắm được nội dung ý nghĩa và một số hình thức nghệ thuật tiêu biểu của những bài ca dao có nội dung châm biếm. Thông qua bài học còn rèn luyện cho các em kĩ năng đọc diễn cảm và bước đầu biết phân tích một bài ca dao trào phúng, châm biếm; đồng thời biết tránh xa những thói hư, tật xấu trong xã hội.
a. Bài ca số 1:
Bài ca dao có 2 phần:
- Hai câu đầu:
+ Vừa để bắt vần
+ Vừa là để chuẩn bị cho việc giới thiệu nhân vật.
- Bốn câu tiếp theo: “cái cò vẽ chân dung ông chú” ra trước mắt cô gái:
- Ông chú:
+ “Hay tửu hay tăm”:
+ “Hay nước chè đặc”
-> Nghiện rượu, chè
+ “Hay năm ngủ trưa”
+ Ngày: ước ngày mưa
+ Đêm: ước đêm thừa trống canh
-> Lười biếng tài ngủ
-> Đó là bức chân dung được biếm hoạ, giễu cợt và mỉa mai.
- Chữ “hay" rất mỉa mai
-> Là giỏi, nhưng giỏi rượu, chè và ngủ -> đáng chê.
- Nghệ thuật: Có sự đối lập: “Cô yếm đào” : trẻ, đẹp - hình ảnh “chú tôi”: nhiều tật xấu.
=> Bài ca chế giễu những hạng người nghiện ngập, lười biếng. Hạng người này nơi nào, thời nào cũng có và cần phê phán.
b. Bài cao dao số 2:
- Những lời thầy bói nói với người đi xem bói một cách khách quan.
- Nghệ thuật: “gậy ông đập lưng ông” tác dụng gây cười, châm biếm sâu sắc
- Thầy bói phán: Toàn những chuyện hệ trọng về số phận “cô gái” rất cụ thể?
+ Giàu – nghèo Phán theo kiểu nói dựa
+ Cha - mẹ nước đôi. Nhưng lại nói
+ Chồng - con về sự hiển nhiên
- Lời phán trở nên vô nghĩa, nực cười
=> Bài ca dao lên án, phê phán, châm biếm những kẻ hành nghề mê tín, dốt nát, lừa bịp lợi dụng lòng tin của người nhẹ dạ để kiếm tiền.
- Châm biếm sự mê tín mù quáng của những người ít hiểu biết, tin vào sự bói toán phản khoa học.
c. Bài ca dao số 3:
- Nội dung: Bài ca dao phê phán những hủ tục lạc hậu trong xã hội xưa.
- Nghệ thuật: Hình ảnh ẩn dụ là mỗi con vật tượng trưng cho một tầng lớp người trong xã hội xưa:
=> Đám ma giống như một bữa tiệc với đông đủ các thành phần đến tham dự, không ai tỏ ra đau lòng hay thương xót người đã mất.
d. Bài ca dao số 4:
- Nội dung: Bài ca dao là lời phê phán những hạng người không có gì (tài năng, của cải, quyền lực) nhưng thích thể hiện, khoe mẽ với thái độ kệch cỡm trong xã hội.
- Nghệ thuật: Cậu cai: Tức cai lệ, chúc thấp nhất trong quân đội thời phong kiến. Hình ảnh cậu cai được miêu tả chi tiết:
=> Bức tranh chân dung hiện ra: lố bịch, kệch cỡm.
- Nội dung: Phơi bày, giễu cợt, phê phán hiện tượng xấu, nực cười trong xã hội.
- Nghệ thuật: Khai thác cách nói ngược, ẩn dụ tượng trưng, phóng đại, kết hợp tự sự với biểu cảm.
Đề bài 1. Sưu tầm một số bài ca dao châm biếm
Gợi ý làm bài
"Chồng người đánh giặc sông Lô
Chồng em ngồi bếp rang ngô cháy quần
Chồng người đi ngược về xuôi
Chồng em ngồi bếp cầm muôi đánh ruồi".
"Bà Bảy đã tám mươi tư
Ngồi trông cửa sổ gửi thư kén chồng".
"Bà già đi chợ Cầu Đông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?
Thầy bói gieo quẻ nói rằng,
Lợi thì có lợi, nhưng răng không còn"
"Bước sang tháng sáu nước giá chân,
Tháng chạp nằm trần bức đổ mồ hôi.
Con chuột kéo cầy nồi nồi,
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong.
Vườn rộng thì thả rau rong.
Ao sâu vãi cải lấy ngồng làm dưa.
Đàn bò đi tắm đến trưa,
Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương.
Voi kia nằm ở gậm giường,
Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn.
Chuồn chuồn thấy cám liền ăn,
Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua.
Bao giờ cho đến tháng ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.
Hùm nằm cho lợn liếm lông,
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười
Con gà nậm rượu nuốt người lao đao
Lươn nằm cho trún bò vào
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô
Thóc giống cắn chuột trong bồ
Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm
Đồn rằng quan tướng có danh
Cưỡi ngựa một mình chẳng phải vịn ai.
Vua khen rằng,Ấy mới tài,
Ban cho cái áo với ba đồng tiền.
Đánh giặc thì chạy trước tiên
Xông vào trận tiền cởi khố giặc ra
Giặc sợ, giặc chạy về nhà
Trở về gọi mẹ mổ gà khao quân."
"Học hành ba chữ lem nhem
Thấy gái thì thèm như chửa thèm chua"
"Hai tay cầm hai quả hồng,
Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai.
Đêm nằm vuốt bụng thở dài,
Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều."\
"Hoài hơi mà đấm bị bông
Đấm được bên nọ, nó phồng bên kia."
"Nhà cô có con chó đen
Người lạ nó cắn, người quen nó mừng
Một hôm uống rượu lâng lâng
Người quen nó cắn, nó vồ gãy tay"
Buồn buồn ngồi đốt đống rơm
Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào
Khói bay lên tận thiên tào
Ngọc Hoàng phán hỏi: thằng nào đốt rơm
Đề bài 2. Nói về ca dao hài hước, châm biếm, có ý kiến cho rằng: “Cùng với truyện cười, về sinh hoạt, những bài ca dao hài hước, châm biếm đã thể hiện tập trung các nét đặc trưng của nghệ thuật trào lộng Việt Nam nhằm tạo ra tiếng cười giải trí và phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người đáng cười trong xã hội”. Bằng hiểu biết của mình về ca dao hài hước, châm biếm Việt Nam, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
→ Nhân dân phê phán tất cả những hiện tượng, con người ấy.
3. Kết bài
Bài văn mẫu
Ca dao hài hước, châm biếm chiếm một vị trí đáng kể trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng: “Cùng với truyện cười, vè sinh hoạt, những bài ca dao hài hước, châm biếm đã thể hiện tập trung các nét đặc trưng của nghệ thuật trào lộng Việt Nam nhằm tạo ra tiếng cười giải trí và phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người đáng cười trong xã hội”.
Quả thật, nội dung cảm xúc và chủ đề của ca dao Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Bên cạnh những bài ca dao yêu thương, tình nghĩa và những bài than thân, còn khá nhiều bài ca dao hài hước, châm biếm. Những bài ca dao này góp phần tạo nên tiếng cười trong cuộc sống còn nhiều vất vả của nhân dân lao động.
Góp phần tạo nên tiếng cười trong văn học dân gian có truyện cười, hò, vè sinh hoạt...; những bài ca dao châm biếm, hài hước góp thành một mảng riêng, đặc sắc.
Tiếng cười trong ca dao hài hước, châm biếm mang đặc trưng của nghệ thuật trào lộng dân gian. Tiếng cười trong nghệ thuật dân gian khác với tiếng cười trong các loại hình nghệ thuật bác học. Tiếng cười ấy khỏe khoắn, gắn bó với đời sống hằng ngày của dân lao động; có sự hồn nhiên, tươi vui để giải trí, giải khuây cho chính người lao động, nhưng đôi khi cũng mang tính chất phê phán các thói hư tật xấu, những đối tượng đáng cười trong xã hội.
Bên cạnh đó, tiếng cười trong ca dao hài hước, châm biếm còn mang tính giải trí. Chúng ta đều biết, đời sống của người dân Việt . ngày xưa vất vả, khó nhọc, do vậy tiếng cười cất lên nhằm làm cho cuộc sống tươi vui, đỡ nhọc nhằn. Nó không nhằm phê phán, đả kích ai. Chẳng bạn, là một kiểu nói khoác cho... vui vẻ:
"Ở đâu mà chẳng biết ta?
Ta con ông Sấm, cháu bà Thiên Lôi.
Xưa kia ta ở trên trời,
Đứt dây rơi xuống làm người trần gian".
Đôi khi, trong nhân dân, nếu cần phê phán ai đó, người dân thường dùng thơ văn hài hước:
"Bắc thang lên đến cung mây,
Hỏi sao Cuội phải ấp cây đa cả đời?
Cuội nghe thấy nói, Cuội cười:
- Bởi hay nói dối, phải ngồi gốc đa."
Người dân lao động phải vất vả quanh năm nhưng lại bị áp bức, khổ cực. Trái lại, nhiều kẻ ăn trắng mặc trơn đóng vai “phụ mẫu” của dân rồi sống bằng sự lừa lọc những người cả tin..., kẻ không đáng gì mà ra vẻ đạo đức... Nhân dân phê phán tất cả những hiện tượng, con người ấy.
Những trường hợp nhát gan, lười biếng, siêng ăn nhác làm cũng được đưa vào ca dao:
"Làm trai cho đáng nên trai
Một trăm đám cỗ chẳng sai đám nào.
Làm trai cho đáng nên trai
Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng".
Những người làm nghề bói toán, lợi dụng sự cả tin của người khác:
"Hòn đất mà biết nói năng,
Thì thầy địa lí hàm răng chẳng còn".
Bọn địa chủ, quan lại phong kiến:
"Từ nay tôi kệch đến già,
Tôi chẳng dám cấy ruộng bà nữa đâu.
Ruộng bà vừa xấu vừa sâu,
Vừa bé hạt thóc, vừa lâu đồng tiền.
Từ ngày Tự Đức lèn ngôi:
Cơm chẳng thấy nồi, trẻ khóc như ri.
Bao giờ Tự Đức chết đi,
Thiên hạ bình thì lại dễ làm ăn."
Tiếng cười trong ca dao hài hước, châm biếm nói riêng không có những hình thức nghệ thuật mang tính ước lệ của văn chương bác học. Rất hiếm khi gặp điển cố. điển tích trong ca dao dân ca. Nếu có, đó là những điển tích ai cũng biết, ai cũng hiểu. Trái lại, ca dao hài hước, châm biếm sử dụng nhiều thủ pháp quen thuộc để tạo nên tiếng cười. Đó có thể là thủ pháp đối lập:
"Nói thì đâm năm chém mười,
Đến bữa tối trời chẳng dám ra sân, hoặc chơi chữ:
Anh hùng là anh hùng rơm,
Ta cho mồi lửa hết cơn anh hùng."
Các hình thức nghệ thuật trên thường kết hợp với nhau để tạo nên cách nói mỉa mai châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, hoặc cần thiết thì đả kích không thương xót.
Như vậy, ca dao hài hước, châm biếm là một loại hình sinh hoạt văn học dân gian chiếm một vị trí đáng kể trong cuộc sống lao động của người dân. Nó góp phần tạo ra tiếng cười giải trí và phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người đáng cười trong xã hội.
Trong ca dao - dân ca, ngoài những câu hát yêu thương, tình nghĩa, những câu hát than thân... còn nhiều câu hát mang nội dung hài hước, châm biếm nhằm phơi bày các hiện tượng ngược đời, phê phán những thói hư tật xấu, những hạng người và hiện tượng ngược đời, những thói hư tật xấu, những hạng người và hiện tượng đáng cười trong xã hội. Để hiểu sâu hơn về văn bản này, các em có thể tham khảo bài soạn dưới đây: Bài soạn Những câu hát châm biếm.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Để nắm vững hơn kiến thức về bài Những câu hát châm biếm, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích Những câu hát châm biếm
-- Mod Ngữ văn 7 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Những bài ca dao châm biếm có gì giống và khác những bài ca dao có chủ đề về quê hương, gia đình, than thân.
Câu trả lời của bạn
Giống nhau:
+ Nói thân phận, phẩm chất nhân cách của con người
+ Đều mang những ý nghĩa sâu sắc
+ Cách trình bày
Khác nhau:
Châm biếm:
+ phê phán, cười chê người đời
+ Những chuyện mê tín dị đoan không có thật
+ Nói về cuộc sống người đời ( phẩm chất............)
Than thân ( gđ,....)
+ Thân phận ngày xưa và hiện tại
+ MAng những ý nghĩa có thực
+ Đem lại suy nghĩa cho người đọc và người nghe.
Chúc bạn hx tốt!
Cảm nhận của em về một bài ca dao châm biếm mà em thích. Viết thành đoạn văn ngắn khoảng 10-15 dòng.
Câu trả lời của bạn
Mỗi chúng ta đều được lớn lên trong tiếng ru ngọt ngào của bà, của mẹ. Tuổi thơ của chúng ta luôn được đắm chìm trong tiếng sáo diều vi vút trong trẻo và những lời ru, những câu chuyện cổ tích chứa chan nghĩa tình. Và ở nơi đó chúng ta học được bao nhiêu điều hay, lẽ phải. Rất khéo léo và trữ tình, cha ông ta đã gửi gắm những lời giáo dục đạo đức trong những câu ca ngọt ngào. Em đã vô cùng xúc động và thấm thía khi nghe câu ca dao:Công cha như núi Thái SơnNghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy raMột lòng thờ mẹ kính chaCho tròn chữ hiếu mới là đạo conĐây là câu ca dao vô cùng quen thuộc đối với mỗi người. Câu ca đơn giản và vô cùng dễ hiểu nhưng nội dung lại rất sâu sắc và thấm thía. Bài ca dao nói đến công ơn to lớn của cha mẹ và giáo dục đạo lí làm con. Nhân dân ta đã ví công lao của cha mẹ với những hình ảnh hùng vĩ, to lớn. Công cha sừng sững như Thái Sơn – ngọn núi lớn. Hình ảnh so sánh mạnh mẽ và hùng vĩ, vững chãi. Tục ngữ đã có câu: “Con không cha như nhà không nóc”. Người cha là chỗ dựa vững chắc cho những đứa con. Hình ảnh so sánh mang đầy ý nghĩa. Ngọn núi Thái Sơn biểu tượng cho sự vững chãi của người cha. Và càng thú vị hơn khi tìm hiểu ý nghĩa của cặp “Công cha – nghĩa mẹ”. Cha có công nuôi dưỡng giáo dục, mẹ là người mang nặng đẻ đau và sinh thành ra ta. Công cha lớn bao nhiêu thì nghĩa mẹ vô tận bấy nhiêu. Bên cạnh người cha vững chãi như Thái Sơn là mẹ hiền với bao yêu thương. “Nước trong nguồn” vừa trong lành, mát rượi vừa không bao giờ vơi cạn. Hai hình ảnh tạo nên những biểu tượng nghệ thuật đầy ý nghĩa. So sánh giản dị, đời thường mà sao sâu sắc đến vậy. Hai hình ảnh so sánh vừa có ý nghĩa biểu tượng, vừa thể hiện được tính chất của “công cha – nghĩa mẹ”. Cha là núi Thái Sơn bởi chja là người che chở, là chỗ dựa và cũng là đỉnh cao để con hướng tới. Còn mẹ luôn dịu dàng, chăm sóc, yêu thương. Tình thương của mẹ là dòng sữa ngọt lành nuôi ta lớn lên, là lời ru ngọt ngào đưa ta vào những giấc ngủ êm đềm, là những bữa cơm ngon, làn gió mát. Tình thương của cha mẹ dành cho con là vô bờ, chỉ có thể so sánh với những gì vĩ đại nhất của thế giới này. Cha nẹ cho ta cuộc sống, dạy ta cách sống và là chốn bình yên nhất để ta hướng đến mỗi khi nỗi nhọc nhằn của cuộc sống đè nặng lên vai. Mái nhà thân yêu, nơi có mẹ có cha ta chính là bến đỗ bình yên và an toàn trong cuộc đời mỗi con người. Nhà thơ Nga Êxênin đã từng viết về mẹ như thế:Chỉ mẹ là niềm vui ánh sáng diệu kìChỉ mình mẹ giúp đời con vững bướcVì thế mỗi chúng ta phải biết thương yêu, quý trọng cha mẹ, dù còn nhỏ hay đã trưởng thành đều phải biết nghe lời cha mẹ, phải sống cho trọn đạo hiếu. Cha ông đã từng nói:Cá không ăn muối cá ươnCon cưỡng cha mẹ, trăm đường con hưBài ca dao đã nhắc nhở bổn phận làm con của mỗi người. Mỗi chúng ta đều cảm nhận được tình yêu thương mà cha mẹ đã dành cho mình, chúng ta tự biết mình phải sống, phải lao động và học tập như thế nào để không phụ công nuôi dưỡng, thương yêu của mẹ cha. Làm một người tốt, đó là sự trả ơn, là đạo hiếu lớn nhất mà mỗi người con có thể đền đáp cho những nỗi nhọc nhằn của cha mẹ.
Bạn tham thảo nha!
Dựa vào những bài ca dao châm biếm đã học và đọc thêm, hãy nhận xét về nghệ thuật gây cười đặc sắc mà tác giả dân gian đã sử dụng...
Câu trả lời của bạn
- Hướng đến châm biếm những hạng người đáng chê cười về tính cách, bản chất.
a) Tìm thêm một số bài ca dao mở đầu bằng cụm từ " Thân em" . Những bài ca dao có cùng cách mở đầu này nói về ai, về điều gì ?
b) Những câu hát châm biếm vừa học có điểm gì giống nhau về nội dung và nghệ thuật
Câu trả lời của bạn
a) 1- Thân em như giếng giữa đàng,
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.
2- Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
3- Thân em như con hạc đầu đình,
Muốn bay không cất nổi mình mà bay !
* ý nghĩa của bài 1: Người khôn ở đây đâu chỉ là cái hơn người bởi hiểu nhiều hay biết rộng, tính toán tài. Cái khôn ở đây ý nói tới tấm lòng nhân ái. Đó cũng là người biết trân trọng con người vì hiểu rõ cái lý con người vốn bình đẳng. Đó là con người có trí tuệ hiểu rõ đạo lý của cuộc đời.
Rửa mặt là sự coi trọng. Người theo đạo Hồi trước khi đọc Kinh bao giờ cũng rửa mặt. Tín đồ Phật giáo Đại Thừa trước khi vào khóa lễ đọc Kinh hay tụng chú thường rửa tay rửa mặt và đọc các câu chú tịnh thân - khẩu và ý. Rửa chân ám chỉ sự khinh miệt. Chỉ có những kẻ kiêu căng, cậy giàu sang hoặc những kẻ hủ lậu phong kiến mới có thái độ khinh khi người phụ nữ và coi họ như thứ đồ chơi.
ý nghĩa câu 2: Hình ảnh hạt mưa sa lại gợi lên một sắc thái khác. Người phụ nữ cảm thấy thân phận mình quá nhỏ bé, gần như vô nghĩa. Có bao nhiêu hạt mưa từ trời cao rơi xuống trong một cơn mưa?! Mọi hạt mưa đều trong trẻo, mát lành như nhau nhưng chỗ rơi xuống – tức số phận của từng hạt mưa lại không giống nhau.
"Chú tôi" được giới thiệu đáng yêu như thế nào ?Trong bài ca dao 'Cái cò lặn lội bờ ao'
Câu trả lời của bạn
+ Là người nát rượu nghiện ngập - > hay tửu hay tăm
+ Là người thích hưởng thụ ăn chơi - > hay chè đặc, hay ngủ trưa
+ Là người lười biếng lao động - > ước ngày mưa, ước đêm thừa
= > Đây là một người chú đầy những thói hư tật xấu, nhìn vào chân dung này ai cũng lắc đầu ngán ngẩm…
- Giải thích khái niệm than thân, châm biếm
- Áp dụng phương pháp phân tích một bài ca dao để phân bài ca số 2, 3 trong bài " Những câu hát than thân "
- Tìm 3 câu ca dao bắt đầu bằng cụm từ " thân em " và so sánh sự giống và khác nhau về hình thúc và nội dung
giúp mik với các bn đang onl
Câu trả lời của bạn
-Khái niệm:
+ Than thân và châm biếm:
* Ca dao, dân ca thuộc loại trữ tình, phản ánh tâm tư tình cảm, thế giới tâm hồn của con người (trữ: phát ra, bày tỏ, thể hiện ; tình: tình cảm, cảm xúc). Nhân vật trữ tình phổ biến trong ca dao, dân ca là những người vợ, người chồng, người mẹ, người con,... trong quan hệ gia đình, những chàng trai, cô gái trong quan hệ tình bạn, tình yêu, người nông dân, người phụ nữ,... trong quan hệ xã hội. Cũng có những bài ca dao châm biếm phê phán những thói hư tật xấu của những hạng người và những sự việc đáng cười trong xã hội. Ca dao châm biếm thể hiện khá tập trung những nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam.
- Phân tích bài ca dao 2 và 3
+Bài ca dao 2:
*Những nỗi thương thân của người lao động thể hiện qua các hình ảnh ẩn dụ trong bài ca dao số 2: thương con tằm là thương cho thân phận bị bòn rút sức lực cho kẻ khác; thương lũ kiến li ti là thương cho thân phận bé nhỏ suốt đời phải làm lụng kiếm miếng ăn; thương cho con hạc là thương cho cuộc đời phiêu bạt, khốn khó, mỏi mệt không có tương lai (biết ngày nào thôi); thương cho con cuốc là thương thân phận thấp bé, dù có than thở đến kiệt sức thì cũng không có người động lòng, thương xót.
Bốn con vật, bốn nỗi khổ, bốn cảnh ngộ đáng thương khác nhau làm nên nỗi khổ nhiều bề của thân phận người lao động.
+ Bài ca dao 3:
- Trái bần, tên của loại quả đồng âm với từ bần có nghĩa là nghèo khó.
- Hình ảnh trái bần trôi nổi. Không những thế, nó còn bị gió dập, sóng dồi. Sự vùi dập của gió, của sóng làm cho trái bần đã trôi nổi, lại càng bấp bênh vô định. Nó chỉ mong được dạt, được tấpvào đâu đó nhưng nào có được. Câu ca dao là lời than của người phụ nữ trong xã hội cũ về cuộc đời nghèo khó, phải chịu bao sóng gió của cuộc đời và không thể tự quyết định được số phận của mình.
- 3 câu ca dao bắt đầu bằng cụm từ '' thân em''
- Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
-Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa
- Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu
- Các bài ca dao này thường nói về thân phận gian nan, vất vả, thiệt thòi của người phụ nữ trong xã hội xưa.
- Về nghệ thuật, ngoài mô típ mở đầu bằng cụm từ thân em (gợi ra nỗi buồn thương), các câu ca dao này thường sử dụng các hình ảnh ví von so sánh (để nói lên những cảnh đời, những thân phận, những lo lắng khác nhau của người phụ nữ).
Các bạn giúp mik nha mik đang cần gấp!
1. Những câu hat châm biến có gì giống với truyện cười dân gian?
Câu trả lời của bạn
- Giống về nội dung : Tập trung phê phán chế giễu các thói hư tật xấu của những hạng người và sự việc đáng cười trong xã hội.
- Giống về mặt hình thức : Dùng phương pháp nói ngược hay cường điệu phóng đại.
= > Ca dao châm biếm và truyện cười dân gian có những nét gần gũi với nhau.
Sáng mai mik phải nộp rồi các bạn giúp mik nha!
Những nội dung than thân, châm biến trong các bài ca có còn trong xã hội không? Hãy tìm những dẫn chứng cụ thể trong cuộc sông quanh em.
Câu trả lời của bạn
Ai cũng biết, cuộc đời đau khổ chẳng phải là phần riêng dành cho ai, nhưng những người chịu đựng nhiều hơn cả vẫn là phụ nữ và nỗi đau của họ bao giờ cũng có khía cạnh chua xót, tái tê riêng. Những nhà thơ trong xã hội phong kiến đã thấu hiểu tất cả những nỗi đau đó bằng kinh nghiệm của cuộc đời chung và cuộc đời riêng; và bằng tiếng thơ, muốn nói lên những tiếng nói chia sẻ với họ.
Trong lịch sử văn học dân tộc, có lẽ Xuân Hương là người đầu tiên dám cất lên tiếng nói khẳng định tài năng trí tuệ của người phụ nữ, nói lên ước vọng được khẳng định mình. Và cao hơn hết chính là tư tưởng nhân đạo trong thơ Xuân Hương đem lại cho đến nay vẫn còn giá trị.
Có thể nói, tuy chưa phản ánh được những mâu thuẫn lớn của thời đại, chưa có tầm nhìn xa để thấy hết những đau khổ và khát vọng của con người, song những tác phẩm đó cũng đã đóng góp cho nền thơ ca dân tộc một tiếng thơ hết sức độc đáo.
Ngày nay, cuộc sống đã đổi thay nhiều, xã hội đã công bằng hơn với người phụ nữ. Nhưng có những nỗi đau khổ đã trở thành hằng số muôn đời của người phụ nữ và đâu đó xung quanh ta vẫn còn nhiều mảnh đời chị em bất hạnh. Vì vậy, mà những tác phẩm trên vẫn còn vẹn nguyên giá trị và sức sống. Đọc những tác phẩm ấy, không chỉ là để đồng cảm, để sẻ chia mà còn là chiêm nghiệm, suy ngẫm.
phân tích bài ca dao
số cô chẳng giàu thì nghèo
ngày 30 tết thịt treo trong nhf
số cô có mẹ có cha
mẹ cô đàn bà cha cô đàn ông
số cô có mẹ có chồng
sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai
Câu trả lời của bạn
Số cô:
-Chẳng giàu thì nghèo
-Có mẹ có cha
-Có vợ có chồng
-Sinh con, chẳng gái thì trai
=> Châm biếm những người hành nghề mê tín dị đoan và phê phán sự mù oán của một số người mê tín trong xã hội
để tạo nên tiếng cười châm biếm tác giả dân gian đã lựa chon cách nói như thế nào
Câu trả lời của bạn
Lời văn kể chuyện trong truyện cười ngắn gọn, cô đúc và giản dị mang đậm màu sắc dân gian nên khá ổn định, chủ yếu là lời văn của người kể hay biên soạn lại. Do đặc điểm kết cấu giống một màn hài kịch nên ngôn ngữ đối thoại được sử dụng với tần số cao. Đối thoại trong truyện cười bao gồm cả đối thoại hai phía và độc thoại (ngôn ngữ diễn hóa hành động của nhân vật). Trong truyện cười dân gian, cách sử dụng ngôn ngữ khá linh hoạt trong xây dựng tình huống gây cười hay sử dụng các thủ pháp gây cười nên tạo thêm bất ngờ thú vị.
Với những đặc trưng thi pháp thể loại nói trên, mỗi truyện cười dân gian đều ẩn chứa trong nó biết bao điều thú vị và cả sự tài hoa của người đã sáng tạo nên các câu chuyện đó. Vận dụng những đặc trưng thi pháp truyện cười dân gian vào đọc - hiểu những văn bản truyện cười cụ thể không phải việc làm dễ dàng.
những câu hát châm biếng có gì giống với truyện cười dân gian?
Câu trả lời của bạn
Nêu 1 số bài ca dao phê phán, châm biếm lời nói của thầy bói.
Câu trả lời của bạn
1) Phù thuỷ, thầy bói, lái trâu
Nghe ba anh ấy đầu lâu không còn.
Dựa vào các bài ca dao châm biếm đã học hoặc đọc thêm, em hãy nêu nhận xét về nghệ thuật gây cười được nhân dân sử dụng. Hãy viết một đoạn văn cho chủ đề trên
Câu trả lời của bạn
Cái cò giới thiệu về chú của mình với cái giọng cố làm ra vẻ phô trương, trịnh trọng: Chú tôi hay tửu hay tăm, Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa. Ý nghĩa phê phán, chỉ trích nằm cả ở từ hay. Theo cách hiểu dần gian thì hay có nghĩa là tài giỏi, nhưng trong văn cảnh này thì nó có nghĩa ngược lại. Tưởng hay lam hay làm, ai dè lại hay rượu hay chè đến mức nghiện ngập, bê tha. Ý mỉa mai của từ hay còn hàm chứa ở tầng nghĩa sâu hơn nữa. Tuổi thanh niên sức dài vai rộng mà không lo chí thú làm ăn, lại chấp nhận sống đời tầm gửi thì quả là chẳng đáng mặt làm trai. Người xưa có câu: Làm trai cho đáng nên trai, xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên… để khẳng định khí phách nam nhi. Bên cạnh đó cũng có câu: Đời người ngắn một gang tay, Ai hay ngủ ngày còn có nửa gang với nội dung phê phán những kẻ siêng ăn nhác làm. Nhân vật chú tôi trong bài ca dao trên là loại người như thế.
Câu ca dao cụ thể hoá sự lười biếng của nhân vật chú tôi thành những điều ước trái lẽ tự nhiên: Ngày thì ước những ngày mưa, Đêm thì ước những đêm thừa trống canh. Anh ta ước những ngày mưa để không phải đi làm và ước những đêm thừa trống canh để được tha hồ ngủ. Vậy là ngoài nghiện rượu, nghiện chè, chú tôi lại còn thêm nghiện… ngủ (!) Rõ là con người lắm thói hư tật xấu, rất đáng chê cười.
hãy chỉ ra sự giống và khác nhau của những bài ca dao châm biếm với những bài ca dao về tình cảm gia đình , tình yêu đất nước con người , ca dao than thân
Câu trả lời của bạn
Giống nhau:+Đều nói đến thân phận của người lao động trong xã hội phong kiến
+Đều nói lên một ý nghĩa riêng và gửi lời thông điệp đến mọi người xung quanh
Khác:+Châm biếm:Những câu hát châm biếm thường thể hiện khá tập trung nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam. Những câu hát châm biếm ấy đã phơi bày các sự việc mâu thuẫn, phê phán thói hư tật xấu của những hạng người và sự việc đáng cười trong xã hội
+Than thân:Những câu hát than thân có số lượng lớn và rất tiêu biểu trong kho tàng ca dao, dân ca Việt Nam. Những câu hát đó thường dùng các sự vật, con vật gần gũi, nhỏ bé, đáng thương làm hình ảnh biểu tượng, ẩn dụ, so sánh để diễn tả tâm trạng, thân phận con người. Ngoài ý nghĩa "than thân", đồng cảm với cuộc đời đau khổ, đắng cay của người lao động, những câu hát này còn có ý nghĩa phản kháng, tố cáo xã hội phong kiến
Những câu hát châm biếm vừa học có điểm gì giống nhau về nội dung và nghệ thuật?
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
1. đều mang tính chất mua vui, phê phán cái xấu khiến người đọc bị lôi cuốn theo, hình ảnh thực tế khong hoang tưởng, viển vông
2. những câu than thân , châm biến vẫn còn sử dụng trong xã hội đặc biệt là các cụ già trong dòng họ gia đình, vì họ là người đã trải qua nhiều thứ và vẫn theo lời nói ngày xưa.
Nêu nội dung của những câu hát than thân,châm biến?
Câu trả lời của bạn
- Câu hát than thân : Diễn tả tâm trạng thân phận , cuộc đời đau khổ, đắng cay của người lao động vất vả , người phụ nữ xưa đồng thời phản ánh , tố cáo xã hội phong kiến.
- Câu hát than thân: Phê phán thói hư , tật xấu của những hạng người trong xã hội.
em hãy cảm nhận bài ca dao :
" số cô chẳng giàu thì nghèo .....
:( giúp mk chiều nộp òi )
Câu trả lời của bạn
-Các bn ơi!!!Giúp mình với!!!
+ Nội dung của những câu hát châm biếm!
+ Nghệ thuật của những câu hát châm biếm!
Mình cảm ơn nhiều!!!
Câu trả lời của bạn
- Nội dung của những câu hát châm biếm : Phơi bày các sự việc mâu thuẫn, phê phán những thói hư tật xấu, và những sự việc đáng cười trong cuộc sống
- Nghệ thuật của những câu hát châm biếm :
+ Nghệ thuật trào lộng dân gian
+ Hình ảnh ẩn dụ, biện pháp nói ngược
+ Phóng đại, nói quá
+ Hình ảnh quen thuộc
Bài Những câu hát châm biếm có nghệ thuật gì (kể tên nha)
Câu trả lời của bạn
Những câu hát châm biếm có nghệ thuật:
+đều hướng đến châm biếm những hạng người đáng chê cười về tính cách ,bản chất
+đều sử dụng 1 số hình thức gây cười
+đều tạo được những tiếng cười sảng khoái cho độc giả
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *