Qua bài học giúp các em thấy được quang cảnh phủ Thiên Trường, từ đó cảm nhận được bài hồn thơ thấm thiết tình yêu của Trần Nhân Tông qua bài thơ chữ Hán Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra.
Hai câu đầu: Gợi tả cảnh làng quê trong ánh chiều tà mênh mang, yên ả.
"Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biển"
Dịch thơ
"Trước xớm, sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có dường không
Thời gian: Lúc về chiều, trời sắp tối.
Không gian: thôn xóm.
Ánh sáng: Sương khói hòa quyện, bao phủ.
→ Vào buổi chiều tà: thôn trước, thôn sau mờ như khói phủ làm cảnh vật "nửa như có, nửa như không" ⇒ Tả thực khung cảnh thiên nhiên.
=> Cảnh chiều muộn ở thôn quê Bắc Bộ nhạt nhòa trong sương, đẹp, mơ màng và yên tĩnh, thanh bình.
Hai câu cuối: Bức tranh về cảnh đồng quê, dân dã, bình dị.
"Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền".
Dịch thơ
"Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng"
Âm thanh: Tiếng sáo
⇒ Miêu tả không gian thoáng đãng cao rộng, yên ả, trong sạch. Làng quê trầm lặng mà không quạnh hiu bởi sự xuất hiện của con người và đàn cò trắng.
Gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã.
Tình cảm đối với quê hương ấm áp, chân thành.
⇒ Tâm hồn cao quý, thanh khiết.
Bài thơ thể hiện hồn thơ thắm thiết tình quê của vị vua anh minh, tài đức Trần Nhân Tông - vị vua thi sĩ có tâm hồn gắn bó máu thịt với cuộc sống bình dị.
Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đậm chất hội họa, làm hiện lên hình ảnh thơ đầy thú vị.
Dụng cái hư làm nổi bật cái thực và ngược lại, qua đó khắc họa hình ảnh nên thơ, bình dị.
Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Buổi chiểu đứng ở phủ Thiên Trường trông ra (Thiên Trường vãn vọng) của Trẩn Nhân Tông.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
a. Khung cảnh buổi chiều ở phủ Thiên Trường
Hai câu thơ đầu
"Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biển"
Dịch thơ
"Trước xớm, sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có dường không".
→ Hình ảnh giản dị, quen thuộc nhưng rất gợi cảm (thôn xóm, sương khói, bóng chiều...)
Hai câu cuối
"Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền".
Dịch thơ
"Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng"
⇒ Cảm xúc xốn xang, rạo rực trong lòng nhà thơ - một vị vua có tâm hồn thi sĩ, xuất thân từ nông thôn, gắn bó máu thịt với quê hương và dân chúng.
b. Tâm hồn tác giả
Gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã.
Tình cảm đối với quê hương ấm áp, chân thành.
⇒ Tâm hồn cao quý, thanh khiết.
3. Kết bài
Bài văn mẫu
Trần Nhân Tông (1258-1308) tên thật là Trần Khâm, con đầu của vua Trần Thánh Tông. Sau khi lên ngôi, ông tỏ ra là một vị vua nổi tiếng nhân ái và yêu nước. Ông đã cùng vua cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông thắng lợi vẻ vang (1285, 1288). Vốn theo đạo Phật và là người sáng lập dòng thiền Trúc Lâm theo hướng Việt Nam hóa đạo Phật, cuối đời, vào năm 1298, ông đi tu và trụ trì ở chùa Yên Tử (thuộc Quảng Ninh ngày nay). Vua Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của đời Trần.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được ông sáng tác trong một dịp về thăm quê. Các vua đời Trần cho xây ở quê một hành cung gọi là cung Thiên Trường để thỉnh thoảng về nghỉ ngơi. Mỗi dịp về đó, các vua thường có thơ lưu lại, nay còn giữ được vài bài, trong đó có bài này. Ngày tháng sáng tác không thấy ghi cụ thể nhưng chắc chắn bài thơ ra đời sau chiến thắng quân Nguyên - Mông lần thứ ba không lâu, vào giai đoạn cuộc sống yên lành của nhân dân đang được khôi phục (nghĩa là vào khoảng những năm 90 của thế kỉ XIII).
Phiên âm chữ Hán
THIÊN TRƯỜNG VÃN VỌNG
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.
Dịch nghĩa
BUỔI CHIỀU ĐỨNG Ở PHỦ THIÊN TRƯỜNG TRÔNG RA
Sau thôn trước thôn đều mờ mờ như khói phủ,
Cảnh vật bóng chiều chập chờn nửa như có nửa như không.
Mục đồng lùa trâu về nhà tiếng sáo véo von
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.
Dịch thơ
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sảo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch)
Bài thơ tả cảnh buổi chiều ở phủ Thiên Trường. Đây là khung cảnh một vùng quê tĩnh lặng như muôn vàn cảnh quê khác lúc chiều buông. Chỉ đơn sơ vài đường nét: mấy mái nhà tranh thấp thoáng trong làn sương mờ mờ như khói; dăm trẻ mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu thổi sáo, dẫn trâu về chuồng; vài đôi cò trắng chao nghiêng cánh chấp chới liệng xuống đồng...
Hai câu thơ đầu:
"Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên".
Dịch thơ
"Trước xóm, sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không".
Đây là cảnh hoàng hôn, sự vật trước xóm, sau thôn chìm dần vào màn sương đang từ từ buông xuống, hòa lẫn với những làn khói tỏa ra từ mái bếp. Trong bóng chiều man mác, mọi vật thấp thoáng ẩn hiện, dường như có, dường như không. Bức tranh quê với những sắc màu quen thuộc của ánh tà dương vàng còn rớt lại trên ngọn tre, của sương tím, cò trắng, lúa xanh... chỗ đậm, chỗ nhạt cùng tiếng sáo véo von gợi cảm giác về một cuộc sống thanh bình đã trở lại sau bao năm binh lửa.
Hình ảnh trong bài thơ không có gì đặc biệt, rất giản dị, bình thường nhưng lại gây xúc động lạ lùng. Tại sao như vậy? Bởi dân ta đã phải đổ xương máu, phải chịu bao đau thương, tang tóc mới giành lại được cuộc sống yên ấm từ tay lũ giặc dữ xâm lược.
Hai câu thơ cuối:
"Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền".
Dịch thơ
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng".
Nhà thơ đã lựa chọn được hai hình ảnh tiêu biếu cho cảnh đồng quê lúc chiều về: trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về chuồng và cò trắng từng đôi sà xuống cánh đồng đã vắng bóng người.
Lời thơ không đơn thuần là kể -và tả mà nó còn biểu hiện một xúc cảm kì lạ và một niềm vui đang xốn xang, rạo rực trong lòng nhà thơ. Ngắm đàn trâu no căng đang chậm rãi nối đuôi nhau về làng, trên lưng vắt vẻo mấy chú mục đồng ung dung thổi sáo; phóng tầm mắt ra xa (vọng), thấy trên thảm lúa xanh, dăm ba cánh cò trắng muốt đang chao liệng, thử hỏi lòng nào không xao xuyến, bâng khuâng, không dạt dào yêu mến?
Cảnh tượng buổi chiều ở nông thôn được tác giả phác họa rất đơn sơ nhưng vẫn đậm đà sắc quê, hồn quê. Điều đó chứng tỏ tác giả là vị vua xuất thân từ nông dân, đã cùng lăn lộn, cùng vào sinh ra tử với dân để đánh đuổi ngoại xâm, giành lại cho đất nước cảnh sống thanh bình. Dù có địa vị tối cao nhưng tâm hồn nhà vua - thi sĩ vẫn gắn bó máu thịt với quê hương và dân chúng.
Thông qua bài thơ, chúng ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn tác giả gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã. Đồng thời, thể hiện tình cảm đối với quê hương ấm áp, chân thành của một tâm hồn cao quý, thanh khiết.
Bài thơ tuy ngắn nhưng nó xứng đáng là thơ của mọi thời đại bởi cho dù mấy trăm năm đã trôi qua mà sức mạnh rung cảm và chinh phục lòng người của nó vẫn nguyên vẹn như thuở ban đầu.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiền Trường trông ra được vua Trần Nhân Tông sáng tác trong một dịp về thăm lại kinh đô Thiên Trường ở Nam Định. Bằng đôi nét chấm phá, nhà vua - nhà thơ, đã vẽ nên một bức tranh đẹp huyền ảo, thơ mộng, lãng mạn về miền quê thôn dã, xứng đáng là một bức tranh đầy nghệ thuật vẽ cảnh chiều nơi thôn dã. Để nắm được nghệ thuật và nội dung của bài thơ, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Để hiểu được ý nghĩa về bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây
- Phân tích bài Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra
-- Mod Ngữ văn 7 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Cảnh tượng một vùng quê thanh bình, yên ấm, trầm lặng mà không đìu hiu
Câu trả lời của bạn
Cảnh chiều buông man mác, buồn, chầm chậm trong tâm tư vị vua trẻ tuổi, anh hùng như đã sớm hướng tâm linh cuả mình về thiên nhiên thuần phác và vĩnh hằng.
Câu trả lời của bạn
Hai câu đầu: Tả cảnh buồn chiều ở phủ Thiên Trường.
- Người ngắm cảnh là 1 vị vua.
- Đạm tự yên: Làn sương bạc, bình đạm, nhẹ lâng lâng bao bọc, lan toả xung quanh.
– Bán vô bán hữu: cảnh vật nửa như có nửa như không trong bóng chiều.
-> Gợi không khí cảnh buổi chiều, êm đềm, man mác của cảnh quê.
Câu trả lời của bạn
Hai câu 3, 4: Cảnh sắc và con người chan hoà ở các làng quê VN:
+ Tiếng sáo của trẻ chăn trâu còn văng vẳng đâu đây.
+ Từng đôi cò trắng (bạch lộ) chớp cánh, bay liệng xuống đồng( phi hạ điền) kiếm ăn.
Câu trả lời của bạn
> Cảnh sắc và con người chan hoà với nhau, tất cả đều dân dã, bình dị, quen thuộc, thanh bình, no ấm. Tình quê và hồn quê chan hoà, dào dạt.
-> Thấp thoáng và ấm áp chân thành tình cảm của người viết: ngắm cảnh chiều bình yên để suy tư, suy nghĩ tâm hồn cao quý.
-> Bóng dáng đất nước Đại Việt những năm cuối thế kỷ XIII: Đất nước thanh bình, nhân dân yên ổn.
Câu trả lời của bạn
Bài thơ phác hoạ nên cảnh chiều ở thôn quê đơn sơ nhưng vẫn đậm đà sắc quê, hồn quê.
Câu trả lời của bạn
Nội dung:
+ Cảnh chiều ở thôn quê yên bình.
+ Sự gắn bó máu thịt với quê hương dân dã và tâm hồn nghệ sĩ của một vị vua.
- Nghệ thuật: Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, cô động. Sử dụng bút pháp chấm phản ánh
Câu trả lời của bạn
Tác giả là một vị vua có địa vị tối cao nhưng vẫn có tâm hồn thanh cao, giản dị, gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã - một điều không dễ gì có được.
Câu trả lời của bạn
a. Những chữ đã được đưa vào cột Yếu tố Hán Việt: bạch, hậu, tiền,...
b. Những từ chứa các yếu tố trên: bạch lộ, vô tiền khoáng hậu,...
Câu trả lời của bạn
Có thể nói như thế vì:
- Số câu của bài thơ: 4 câu
- Số chữ trong một câu: 7 chữ
- Vần: gieo vần chân
Câu trả lời của bạn
- Cảnh vật trong bài: được miêu tả trong không gian tranh tối tranh sáng của lúc hoàng hôn.
- Cảnh vật được miêu tả trong thế chuyển động nhưng là lấy động để tả tĩnh, nhằm làm nổi bật cái tĩnh lặng.
- Cảnh vật ở đây mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc, là khung cảnh của một đất nước thanh bình vừa bước ra khỏi chinh chiến.
- Bức tranh cảnh vật đã bộc lộ tấm lòng ưu dân ái quốc, lo nghĩ cho nước cho dân và mừng vui trước cảnh đất nước thái bình của nhân vật trữ tình.
Câu trả lời của bạn
- Câu thơ của Ngô Tất Tố dịch hay hơn.
- Vì nó không chỉ nhắc đến tiếng sáo mà còn mô tả được trạng thái của âm thanh ấy, tiếng sáo như vang xa, bao phủ cả cánh đồng làng quê.
Câu trả lời của bạn
- Thể thơ: thất ngôn tứ tuyệt.
- Cụm từ “nửa như có, nửa như không” (bán vô bán hữu) có nghĩa là gì?
- Hãy hình dung quang cảnh được gợi lên ở câu thơ thứ hai của bài thơ “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra”.
Câu trả lời của bạn
Trong bài thơ cảnh vật buổi chiều hiện lên nửa thực, nửa ảo. Cả hai bức tranh ấy lúc ẩn lúc hiện tạo nên một quang cảnh rất nên thơ. Khói trắng mờ êm dịu bay nhẹ nhàng, khiến người ngắm cảnh cảm thấy chỗ tỏ, chỗ mờ, lúc có, lúc không. Hay chính lòng người đang lâng lâng, mơ mộng nên nhìn thấy làng xóm, khói sương êm ả, thanh bình như thế”. Phải chăng đó cũng chính là tâm trạng của con người, một tâm trạng man mác mơ hồ gợi lên một khung cảnh huyền ảo “nửa như có, nửa như không”.
Câu trả lời của bạn
Bài thơ miêu tả cảnh thôn quê lúc hoàng hôn, chiều xuống. Những hình ảnh và âm thanh gợi lên khung cảnh ấy:
- Hình ảnh: tiếng sáo của trẻ chăn trâu đang dẫn những chú trâu no mẫm về nhà, có những cánh cò trắng đang từ từ đáp xuống cánh đồng phía trước, ở phía xa kia.
- Sắc màu thôn quê buổi chiều tà: Một làn khói mỏng phớt lên xóm thôn, ánh chiều tà còn lưu luyến, cò trắng, lúa xanh.
Câu trả lời của bạn
- Bài thơ là một bức tranh thủy mặc với những nét vẽ gợi tả. Gợi lên một khung cảnh làng quê thật thanh bình và êm ả, nên thơ: Xóm thôn mờ trong sương khói, tiếng sáo của trẻ chăn trâu văng vẳng, từng đôi cò trắng đang xoè cánh đậu xuống đồng.
- Ta hình dung tác giả như đang đắm chìm mơ màng trong không gian buổi chiều tà dung dị quyến rũ ấy. Trong lòng trào dâng một tình yêu tha thiết đối với xóm làng quê hương đất nước thân thương.
Câu trả lời của bạn
Bài thơ “Thiên trường vãn vọng” là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp về làng quê trong buổi chiều tà. Mở đầu bài thơ là không gian mở ảo của làng quê, cảnh vật đang nhạt nhòa dần trong sương khói và bóng chiều mập mờ như nửa có nửa không. Hoàng hôn luôn là thời điểm khơi gợi cho ta nhiều cảm xúc, đó là cảm giác bình yên, thư thái trong tâm hồn. Hai tiếng “man mác” như gợi ra nỗi niềm tâm trạng đó ở thi nhân, bởi rất lâu người xa quê nay mới có dịp trở về. Và trong bức tranh thôn quê yên bình ấy, bỗng xuất hiện thanh âm tiếng sáo trong trẻo, bay bổng của chú bé mục đồng đang ngồi vắt vẻo lưng trâu trên con đường về thôn xóm. Tiếng sáo ấy thật bình yên, vui tươi trong khung cảnh chiều muộn. Thời điểm chiều tà cũng là lúc mọi người kết thúc công việc, trở về sum họp vui vẻ bên gia đình. Thiên nhiên, động vật và con người cùng giao hòa trong nhịp sống nhịp nhàng giữa đất trời bao la. Phía xa xa, “từng đôi” cò trắng liệng xuống cánh đồng, gợi nên một cuộc sống bình dị, hữu tình nơi thôn quê. Bức tranh ấy là những màu sắc giao hòa, những thanh âm trong trẻo gợi ra nét thanh bình những cũng vui tươi và đầy sức sống. Chỉ bằng vài ba nét vẽ chọn lọc, lối tả ít gợi nhiều, thi sĩ đã vẽ lên một không gian về cảnh sắc làng quê nên thơ, trữ tình.
- Qua bài thơ “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” em có suy nghĩ gì khi tác giả là một ông vua chứ không phải là một người dân quê?
- Từ đó, em có thể nhận xét gì thêm về thời nhà Trần trong lịch sử nước ta?
Câu trả lời của bạn
- Nơi sinh sống của vua thường ở những nơi kinh thành xa hoa lộng lẫy, khác xa hoàn toàn với cảnh đồng quê thôn dã. Vị vua Trần Nhân Tông dù là một người có địa vị tối cao nhưng luôn gắn bó máu thịt với làng quê, luôn quan tâm và gần gũi với người dân ở thôn quê.
- Qua đó chúng ta thấy tác giả Trần Nhân Tông là một vị vua có tâm hồn gắn bó máu thịt với miền quê thôn dã, gần gũi với đời sống sinh hoạt của người dân, đây là điều mà không phải bất cứ ông vua nào cũng làm được.
- Chính vì gần với nhân dân, hiểu và cảm thông với cuộc sống của họ, được nhân dân trên dưới một lòng ủng hộ mà nhà Trần đã tạo ra sức mạnh quật cường chiến thắng quân Mông – Nguyên.
Câu trả lời của bạn
* Nội dung:
- Bài thất ngôn tứ tuyệt “Thiên Trường vãn vọng” là một bức tranh quê đậm nhạt, mờ sáng, rất đẹp và tràn đầy sức sống. Một bút pháp nghệ thuật cổ điển tài hoa. Một tâm hồn thanh cao, yêu đời. Tình yêu thiên nhiên, yêu đồng quê xứ sở đã được thể hiện bằng một số hình tượng đậm đà, ấm áp qua những nét vẽ tinh tế, gợi hình, gợi cảm, giàu liên tưởng. Qua đó giúp chúng ta thấy rằng, tác giả tuy có địa vị tối cao nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương dân dã.
* Nghệ thuật:
- Kết hợp điệp ngữ và tiểu đối sáng tạo.
- Nhịp thơ êm ái hài hòa.
- Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đậm chất hội họa, lối tả ít gợi nhiều của thi pháp cổ.
- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.
Câu trả lời của bạn
Thất ngôn tứ tuyệt.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *