Bài học giúp các em củng cố lại kiến thức về khái niệm nghị luận xã hội; biết cách viết một bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lý; nâng cao ý thức rèn luyện tư tưởng, đạo đức để không ngừng rèn luyện nhân cách của mình.
Trong thư gửi thầy hiệu trưởng cúa con trai mình, Tống thông Mĩ A. Lin-côn (1809 – 1865) viết: “Xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi." (Theo Ngữ văn 10, Tập hai, NXB Giáo dục, 2006, tr. 135).
Từ ý kiến trên, anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về đức tính trung thực trong khi thi và trong cuộc sống.
Phát biểu ý kiến về câu nói: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học).
Để củng cố lại kiến thức về khái niệm nghị luận xã hội, biết cách viết một bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lý, các em có thể tham khảo bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Nghị luận xã hội về câu nói: Mất tiền là chẳng mất gì cả, mất danh dự là mất nửa cuộc đời; mất niềm tin và nghị lực là mất cả cuộc đời?
Câu trả lời của bạn
Cuộc đời là một môi trường tranh đua quyết liệt. Để có thể sống một cách mạnh mẽ, người ta rất cần đến lòng can đảm. Lòng can đảm có ảnh hưởng rất lớn tới sự thành công hay thất bại. Tục ngữ Đức có câu: Mất tiền là mất nhỏ, mất danh dự là mất lớn, mất can đảm là mất hết.
Câu tục ngữ trên có ba vế, liên quan chặt chẽ với nhau về mặt ý nghĩa và có sự tăng cấp theo mức độ giá trị con người. Tiền tượng trưng cho sự giàu có. Danh dự tượng trưng cho uy tín, tên tuổi. Can đảm tượng trưng cho ý chí, nghị lực, khí phách của con người.
Thông thường, ai cũng thích làm ra được nhiều tiền để sống đầy đủ, sung sướng nhưng thực ra, số người giàu có trong xã hội chỉ là số ít. Phần đông chỉ đủ ăn và dành dụm được một chút để phòng khi cơ nhỡ, ốm đau… Do đó mà người ta rất quý đồng tiền. Dân gian có câu: Đồng tiền liền khúc ruột.
Đồng tiền được đổi bằng mồ hôi nước mắt lại càng đáng quý, song mất tiền là mất nhỏ vì ta vẫn có thể tiếp tục kiếm tiền bằng cách cần cù, chăm chỉ làm việc. Mất tiền tất nhiên là buồn, nhưng nỗi buồn ấy cũng không ghê gớm đến mức là huỷ hoại cuộc đời của một con người. Thực tế cho thấy để đạt được mục đích làm giàu, nhiều doanh nhân phải chấp nhận những thất bại tạm thời, nhưng với sự kiên nhẫn thua keo này, bày keo khác và lòng can đảm, cuối cùng họ cũng thành công.
So với tiền bạc, danh dự con người đáng quý gấp ngàn lần. Ông cha ta đã dạy: Cọp chết để da, người ta chết để tiếng, hay: Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng; Chết vinh hơn sống nhục… nhấn mạnh đến tầm quan trọng của danh dự. Ngạn ngữ Nga cũng có câu: Hãy giữ gìn chiếc áo từ lúc còn mới. Hãy giữ gìn danh dự từ lúc còn trẻ trung.
Tiền bạc khó kiếm nhưng còn kiếm được chứ danh dự thì chỉ có thế tự thân tạo dựng nên và nhiều khi phải tạo dựng cả đời người mới có được. Danh dự ở đây có thể hiểu là uy tín, thể diện, tiếng tăm của một cá nhân trước gia đình và xã hội. Danh dự là một giá trị tinh thần không thể bán mua, đổi chác, không thể đem ra mà cân đo, đong đếm. Danh dự được coi là thước đo phẩm giá con người nên mất danh dự là mất lớn, khó có thể lấy lại được. Mất danh dự đồng nghĩa với sự tủi nhục, đau đớn, là thiệt hại nặng nề về mặt tinh thần. Những bậc chính nhân quân tử, những người có học xưa kia thường quý trọng danh dự hơn cả mạng sống của mình.
Suy xét kĩ, chúng ta sẽ thấy tiền bạc, danh dự được tạo nên bởi nhiều yếu tố, mà yếu tố quan trọng là lòng can đảm, tức ý chí và nghị lực của mỗi con người.
Sống là chiến đấu, chiến đấu không ngừng suốt cả cuộc đời; là vật lộn với vô vàn thử thách, gian nan trên bước đường mưu sinh, tạo dựng sự nghiệp. Chiến đấu với những thói hư tật xấu trong chính bản thân mình mới thực sự là cuộc chiến đấu gay go, ác liệt nhất. Lòng can đảm giúp ta giữ vững lí tưởng, lập trường, mục đích sống. Lòng can đảm tạo ra sức mạnh thúc đẩy chúng ta phấn đấu để tiến tới thành công.
Mất can đảm là mất tất cả. Đúng như vậy! Không có lòng can đảm, người lính không thể tiêu diệt quân thù. Không có lòng can đảm, một con người bình thường không đủ nghị lực để làm bất cứ việc gì, dù là nhỏ. Không có lòng can đảm, một nhà bác học không thể vượt qua hết thất bại này đến thất bại khác để đi tới thành công. Mất can đảm tức là nhu nhược, yếu hèn, cam chịu mọi nghịch cảnh của số phận. Một con người như thế thì còn sống mà như đã chết, cuộc đời trở nên hoàn toàn vô nghĩa. Vô nghĩa với bản thân, gia đình và xã hội, không đáng được so sánh với những loài vật bé nhỏ mà hữu ích như con ong, cái kiến.
Đường đời vạn nẻo lắm chông gai và nhiều sóng gió vấp ngã, thất bại là lẽ đương nhiên. Mỗi lần ngã là một lần bớt dại (Tố Hữu). Thất bại là mẹ thành công… Đó là những bài học nhân sinh thiết thực, là hành trang tư tưởng không thể thiếu của mỗi chúng ta khi bước vào đời. Lòng can đảm sẽ giúp ta đứng vững, có đủ trí tuệ, nghị lực và sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng mọi thử thách gian nan, khẳng định được vị trí của mình trong cuộc sống.
Xung quanh chúng ta có biết bao tấm gương sáng về lòng can đảm, rất xứng đáng cho chúng ta học tập. Chị Trần Bình Gấm, một học sinh nghèo hiếu học của trường chuyên Lê Hồng Phong, vừa đi học vừa bán vé số, bán khoai luộc để giúp mẹ nuôi các em, vậy mà thi đỗ vào ba trường đại học.
Anh Nguyễn Trường Sơn 1 nạn nhân của chất độc màu da cam, bị tật nguyền, dị dạng mà là sinh viên của hai trường đại học. Chị Hướng Dương bị tai nạn mất cả hai chân vẫn kiên cường sống, làm việc và cống hiến, đem lại ánh sáng trí tuệ cho những trẻ em mù qua hình thức sách nói, thư viện nói… Quả là lòng can đảm đã mang lại cho họ một nghị lực và sức mạnh phi thường.
Lòng can đảm là một phẩm chất quý báu nhưng không phải sinh ra ai cũng có ngay mà phải trải qua một quá trình rèn luyện lâu dài. Muốn thành công trong cuộc đời và sự nghiệp, chúng ta cần giữ vững niềm tin, giữ vững ý chí, thắng không kiêu, bại không nản, hãy ngẩng cao đầu tiến lên phía trước.
Trong cuộc sống, chúng ta cần phải có niềm tin và nghị lực. Thiếu niềm tin và nghị lực chúng ta không thể thành công trong cuộc đời. Niềm tin và nghị lực sẽ giúp ta vượt qua những khó khăn, những bất hạnh, những trở lực trong cuộc sống để vươn lên, tìm thấy một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chính vì vậy mà Hoàng đế Na-pô-lê-ông của nước Pháp đã có một câu nói khá nổi tiếng, trở thành một châm ngôn trong cuộc sống của mỗi chúng ta: “Mất tiền là chẳng mất gì cả, mất danh dự là mất nửa cuộc đời; mất niềm tin và nghị lực là mất cả cuộc đời”.
Để hiểu ý nghĩa vô cùng sâu sắc của câu nói này, trước tiên ta phải hiểu vì sao Na-pô-lê-ông bảo: “Mất tiền là chẳng mất gì cả”. Sở dĩ như vậy là vì mất tiền, chúng ta có thể làm ra tiền trở lại. Trong thực tế cuộc sống có những người bị thiên tai, bão lụt, bị trộm cắp mất hết tài sản… nhưng rồi họ lại đứng lên bằng đôi chân, bàn tay, khối óc của mình để làm ra tiền trở lại.
Điều thứ hai ta cần phải hiểu là tại sao “mất danh dự là mất nửa cuộc đời”? Mất danh dự là ta làm mất niềm tin của kẻ khác đối với ta, mà ta làm mất niềm tin một lần thì những lần sau người ta không còn tin mình nữa. Khi người ta không còn tin mình nữa thì làm việc gì cũng khó, ít có người giúp đỡ. Tuy nhiên, mất danh dự ta có thể lấy lại danh dự nhưng phải mất một thời gian dài, chúng ta phải nỗ lực, cần phải giữ đúng lời hứa với kẻ khác, giữa lời nói và việc làm phải luôn đi đôi với nhau, đừng nói một đàng, làm một nẻo, phải giữ gìn sự chân thật trong mọi công việc… thì chúng ta mới lấy lại được danh dự. Đúng là “mất danh dự là mất nửa cuộc đời”.
Na-pô-lê-ông đưa ra vế câu đầu và vế câu hai: “Mất tiền là chẳng mất gì cả" "mất danh dự là mất nửa cuộc đời” nhằm để nhấn mạnh và làm nổi bật vế câu thứ ba “mất niềm tin và nghị lực là mất cả cuộc đời”. Đây là vế quan trọng nhất và có ý nghĩa sâu sắc nhất. Con người chúng ta trong cuộc sống nếu mất niềm tin và nghị lực thì chúng ta sẽ sống một cách thụ động, bi quan trước cuộc sống không đủ sức vượt qua những trở lực, khó khăn trong cuộc sống, không đủ sức vượt lên chính mình, nghĩa là chúng ta tự đánh mất chính cuộc đời mình chúng ta chẳng làm nên được trò trống gì cho mình và cho xã hội và cuộc đời chẳng thương tiếc gì ta, chúng ta sẽ bị cuộc đời đào thải. Đúng là “mất niềm tin và nghị lực là mất cả cuộc đời”.
Tóm lại, câu nói của Na-pô-lê-ông là một chân lý, một bài học sâu sắc cho mỗi chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn tự nhủ lòng mình muốn thành đạt tới phải luôn giữ lấy niềm tin và nghị lực dù trong bất kì hoàn cảnh nào.
Nghị luận xã hội về câu nói: Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động?
Câu trả lời của bạn
Những phẩm chất cao quý trong tâm hồn con người luôn là một mục tiêu mà chúng ta vươn tới. Đó chính là đức hạnh. Những phẩm chất đó tô điểm cho tâm hồn chúng ta, làm chúng ta luôn hoàn thiện bản thân mình. Muốn thế, chúng ta phải thể hiện qua hành động, qua hành vi cử chỉ hằng ngày của chúng ta. Và vì vậy,”mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”.
Đức hạnh là gì? Đức hạnh là những gì cao quý nhất, trong sáng nhất trong tâm hồn của mỗi con người chúng ta. Hành động là gì? Hành động là những gì biểu hiện ra bên ngoài, qua đó thể hiện những tính cách của mỗi người. Những phẩm chất và hành động của con người là khác nhau, tạo nên sự khác biệt trong tính cách của mỗi thành phần trong xã hội.
Vậy chúng ta phải làm gì để có được những phẩm chất cao quý và trong sáng mà chúng ta gọi là đức hạnh? Thật ra, đức hạnh là một điều không khó để vươn tới. Nó không quá cao siêu, chỉ là những gì nhỏ nhất đủ để đánh giá một con người. Giúp một bà cụ qua đường, tìm mẹ cho một em nhỏ bị lạc, hay đơn giản chỉ là một nụ cười khi ta gặp một người quen ngoài đường, tất cả đã góp phần xây dựng và hoàn thiện nhân cách của mỗi con người chúng ta. Như thế, cuộc sống sẽ dễ dàng hơn với mọi người, làm cho quan hệ giữa người với người càng trở nên tươi đẹp và góp phần biến xã hội chúng ta thành một nơi “tốt hơn cho bạn và cho tôi”.
Đức hạnh chỉ đơn giản, không cầu kỳ, phức tạp để đạt được. Nhưng chúng ta không nên quá đơn giản nó đi. Đừng chỉ nghĩ mà không làm rồi sau đó ru ngủ bản thân rằng: “những gì mình làm đã là tốt nhất”. Nghĩ phải đi đôi với hành động, và những phẩm chất đó cũng cần hành động để thể hiện chúng ta. Bây giờ, mở lòng mình ra với thế giới bên ngoài, nhìn xung quanh và hãy bắt đầu hành động. Không khó để xây dựng đức hạnh trong mỗi con người chúng ta.
Bây giờ, chúng ta là thanh niên, là thế hệ tương lai và kế cận của xã hội sau này. Hãy xây dựng một hình ảnh, một tính cách bằng những hành động của chúng ta, bắt đầu bằng những hành vi nhỏ nhất, để xã hội ngày càng tươi đẹp và tốt hơn. “Cho bạn và cho tôi, cho tất cả mọi người.”. Và hãy nhớ rằng, “mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”.
Ông cha ta cũng từng dạy con cháu rằng: “Muốn đánh giá được người đó như thế nào thì hãy xem việc anh ta làm, đừng nghe anh ta nói”. Thật vậy nhà văn Pháp M. Xi-xê-rông đã đúc kết rằng: “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”.
Vậy chúng ta muốn hiểu rõ ý nghĩa của câu nói này, chúng ta phải hiểu được thế nào là “Đức hạnh”? Đức hạnh là đạo đức và tính nết tốt (Theo từ điển Tiếng Việt). Đức hạnh được thể hiện qua cảm xúc, lời nói, hành động hằng ngày của từng cá nhân trong các mối quan hệ gia đình và xã hội.
Mặt khác, hành động có thể được định nghĩa là những việc làm cụ thể, được bộc lộ hằng ngày, và quan trọng hơn đó là sự thể hiện của đức hạnh. Hành động chính là phẩm chất quan trọng của đức hạnh bởi vì nó vừa là sự chuyển hóa vừa là kết tinh của các phẩm chất khác. Hành động là thước đo đánh giá đức hạnh của một cá nhân, một tập thể và cộng đồng dân tộc. Hành động là yếu tố cao nhất trong bậc thang giá trị nhân phẩm, đồng thời cũng là động lực thúc đẩy quá trình phát triển của cá nhân và xã hội.
Muốn đánh giá một người chúng ta phải dựa vào những việc làm, hành động của người đó đối với những người xung quanh. Ngược lại nếu chỉ đánh giá họ qua lời nói thì đó là cách nhìn nhận phiến diện, thiếu chính xác dễ dẫn đến những hậu quả không tốt, đặc biệt khi chúng ta chọn bạn để kết thân. Nhân cách hay đức hạnh của mỗi người được nhìn nhận không phải thông qua hành động lớn mà có khi chỉ qua những việc rất nhỏ lại đánh giá được đức hạnh của họ.
Thật ra câu trả lời rất đơn giản. Bạn không cần phải làm những việc lớn lao hay hy sinh những thứ quý giá của mình thì mới gọi là những cử chỉ, hành động đẹp. Đơn giản hơn, đó chỉ là những công việc bình thường, như giúp đỡ người già qua đường, nhường chỗ cho phụ nữ có thai và trẻ em trên xe buýt hay biết quan tâm đến người khác, cư xử lễ phép, đối xử tốt với mọi người xung quanh. Tất cả đều là những công việc nhỏ hằng ngày được xuất phát từ một tâm hồn trong sáng, luôn hướng về cái đẹp, cái thiện, điều đó sẽ chính là sự thể hiện của đức hạnh. Danh ngôn có câu:
“Ý nghĩa là nụ
Lời nói là bông hoa
Việc làm mới là quả ngọt.”
Mọi hành động tốt luôn bắt đầu từ những ý nghĩ tốt đẹp, trong sáng cộng hưởng với lòng ham muốn làm việc tốt đó. Chúng ta làm điều đó bằng tất cả tấm lòng, biến những điều ấy từ suy nghĩ, lời nói thành hành động việc làm cụ thể, như vậy mới tạo thành trái ngon, “quả ngọt”.
Tuy nhiên, một số trường hợp cần xem xét trong từng hoàn cảnh để đem đến việc có lợi cho mọi người nhất mà không ảnh hưởng tới người khác. Ví dụ như trong trường hợp một bác sĩ phải nói dối về bệnh tình của bệnh nhân để người ấy yên tâm tiếp tục điều trị, đó lại là một hành động đẹp. Thế nhưng vẫn còn tồn tại rất nhiều những kẻ thiếu đức hạnh. Họ nói ra những điều lớn lao, cao cả nhưng hành động thì ngược lại, vì thực chất, họ làm vậy vì những mục đích ích kỷ riêng của chính họ. Chúng ta không thể loại bỏ họ mà phải làm cho họ phải thay đổi được những ý nghĩ ích kỷ, mưu cầu lợi ích cá nhân ấy.
Một xã hội văn minh, lịch thiệp là một xã hội tồn tại những con người làm nhiều việc tốt, đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích của cá nhân, biết đoàn kết cùng tương trợ lẫn nhau, biết tu dưỡng bản thân, hoàn thiện tâm hồn. Điều đó được xuất phát từ đức hạnh hay cũng chính là sự thể hiện của một con người có mọi phẩm chất tốt đẹp từ đức hạnh.
Danh ngôn có câu “Đức hạnh là nền tảng của mọi thứ và chân lý là bản chất của mọi đức hạnh”. Ý kiến đó có còn nguyên giá trị trong cuộc sống của ngày hôm nay. Chúng ta biết rằng trong cuộc sống phải có nền tảng hay chúng ta gọi đó là gốc rễ để từ đó chúng ta có phương hướng phát triển, rèn luyện để đạt được điều mong muốn. Nền tảng vững chắc thì thân, lá mới tốt mới cho quả ngọt. Đức hạnh cũng chính là thước đo lòng người của xã hội, chân lý cũng phải bắt nguồn từ đức hạnh mà ra.
Mỗi người trong chúng ta có cùng một mục đích là tìm kiếm hạnh phúc nhưng quan niệm về hạnh phúc của mỗi người khác nhau. Có người coi sự thỏa mãn về vật chất, tình cảm của riêng mình là hạnh phúc. Nhưng cũng có không ít người quan niệm hạnh phúc là cống hiến, là trao tặng, là từ “cho”. Đối với họ, cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi con người biết hi sinh cho hạnh phúc nhân loại. Beethoven quan niệm như thế. Những người biết sống vì người khác, đem lại hạnh phúc cho người khác, là những người có tấm lòng nhân hậu; có cuộc sống đầy ý nghĩa cao cả , đáng trân trọng…Khi chúng ta đem lại hạnh phúc cho người khác bản thân chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn người đó, cảm giác tuyệt vời này không phải ai cũng cảm nhận hết được, không phải ai cũng nắm bắt được. Hạnh phúc thật giản đơn và dễ dàng có khi chỉ là giúp đỡ một cụ già qua đường, hay tìm lại bố mẹ cho một em bé bị lạc… Tất cả những điều đó sẽ làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Mỗi học sinh chúng ta tuy đang ngồi trên ghế nhà trường nhưng lại mang tâm hồn, hoài bão của thế hệ trẻ, vì vậy hãy cùng nhau rèn luyện, học tập thật tốt, cùng tham gia công tác cộng đồng giúp đỡ mọi người. Tất cả những hành động nhỏ đó khi chúng ta tích lũy nhiều sẽ tạo nên những thói quen có những hành động tốt, lời nói hay, ý đẹp góp phần xây dựng đất nước văn minh giàu đẹp. Mỗi chúng ta phải tự xây dựng hình ảnh đẹp cho mình, góp công sức tạo nên vẻ đẹp rất riêng, lưu giữ nét văn hóa đậm đà bản sắc Việt Nam.
Nghị luận xã hội về câu nói: Luôn luôn hy vọng, không bao giờ được tuyệt vọng. Đó là bản chất của người có tâm hồn lớn?
Câu trả lời của bạn
Trong cuộc đời, không phải ai trong chúng ta cũng gặp toàn những may mắn, những niềm vui, hạnh phúc mà ngược lại có khi ta gặp những điều cay đắng, đầy bất hạnh, khổ đau, đi từ thất bại này tới thất bại khác. Vậy điều gì có thể nuôi dưỡng cuộc sống chúng ta trong những thời điểm bi đát ấy? Đó là hi vọng. Chính vì vậy mà văn hào G.Flobe có một câu nói rất hay: "Luôn luôn hi vọng, không bao giờ được tuyệt vọng. Đó là bản chất của người có tâm hồn lớn”.
Quả đúng như điều mà G.Flobe đã nói ở trên. Hi vọng, lạc quan, tin tưởng vào ngày mai là một chất liệu không thể thiếu được trong cuộc sống của chúng ta “Luôn luôn hi vọng , không bao giờ được tuyệt vọng” chính là chất men kích thích cho chúng ta vượt qua mọi trở ngại để tìm ra một cuộc sống tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn, đầy ý nghĩa hơn.
Chúng ta còn nhớ trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có bài ca dao “Mười quả trứng”. Bài ca dao này nói về một người phụ nữ nông dân quá nghèo khổ, cơ cực, chẳng có tài sản gì, đã “đi vay, đi dạm được một quan tiền ” rồi "Ra chợ Kẻ Diên – mua con gà mái” với hi vọng là từ con gà mái ấy sẽ sinh sôi nảy nở thành một đàn gà con sau này. Hi vọng của người phụ nữ nông dân ấy cứ lớn dần lên theo từng quả trứng mà con gà mái đẻ ra. Mười quả trứng là mười niềm hi vọng nhưng rồi oái oăm thay niềm hi vọng ấy lại tắt dần theo từng quả trứng ung: “Một trứng ung, hai trứng ung, ba trứng ung, bốn trứng ung, năm trứng ung, sáu trứng ung, bảy trứng ung”. Thế là còn ba trứng, ba trứng nở thành ba con gà con. Tưởng đâu ba con gà con ấy sẽ mang đến một chút gì ấm áp, hi vọng vào ngày mai của người phụ nữ nông dân ấy. Nào ngờ ba con gà con ấy, con thì bị diều tha, con thì bị quạ bắt, con thì bị cắt xơi. Thế là người nông dân ấy tay trắng lại hoàn trắng tay. Tưởng đâu điều ấy sẽ dẫn đến sự tuyệt vọng nhưng nào ngờ người nông dân này vẫn còn giữ được một niềm hi vọng vào cuộc sống:
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây.
Quả đó là “bản chất của người có tâm hồn lớn”. Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong bài hái Tôi ơi đừng tuyệt vọng cũng đã từng khẳng định điều này: “Đừng tuyệt vọng – Tôi ơi đừng tuyệt vọng – Nắng vàng phai như một nỗi đời riêng – Đừng tuyệt vọng em ơi, đừng tuyệt vọng – Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh”. Lời bài hát vừa là lời tự động viên nhắc nhở mình, vừa là lời động viên nhắc nhở chúng la hãy luôn lạc quan, hi vọng vào cuộc sống, đừng có bao giờ tuyệt vọng, bởi tuyệt vọng sẽ thiêu rụi những ước mơ của ta, đẩy ta rơi vào hố thẳm của cuộc đời, là rào cản ngăn bước ta đi về tương lai, chẳng có lợi ích gì cho đời ta.
Tóm lại, câu nói “Luôn luôn hi vọng, không bao giờ được tuyệt vọng. Đó là bản chất của người có tâm hồn lớn ” là một chân lí, là một bài học sâu sắc và rất cần thiết cho chúng ta trong cuộc sống. Bản chất của cuộc sống luôn là một cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ. Niềm hi vọng sẽ giúp ta vững bước trên con đường đi đến tương lai, vững bước đấu tranh để tìm ra sự sống đích thực.
Nghị luận xã hội về câu nói: Lí tưởng là ngọn đèn soi sáng?
Câu trả lời của bạn
Chúng ta đều biết, những con thuyền lênh đênh trên biển cả đều rất cần một ngọn hải đăng dẫn đường, soi sáng để có thể tìm đến bến bờ an toàn và bình yên. Đối với mỗi người, ngọn hải đăng chính là lí tưởng sống. Lí tưởng ấy sẽ chắp cánh đưa ta bay cao cùng những ước mơ và chỉ đường cho ta đến bến bờ hạnh phúc của cuộc sống. Chính vì thế, đại văn hào Nga Lép Tôn – xtôi đã từng nói: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”. Câu nói đó vừa khẳng định tầm quan trọng của lí tưởng, vừa như là một lời nhắc nhở cho những ai không có lí tưởng sống.
Lí tưởng là mục đích cao nhất mà mỗi con người muốn hướng tới, là lí do, sự khao khát mà mỗi người mong mỏi đạt được. Hiểu theo nghĩa đen, “ngọn đèn” được dùng để thắp sáng vào ban đêm, để ta thấy được đường đi và những vật xung quanh. Nhưng trong câu nói, hình ảnh “ngọn đèn” không chỉ được dùng để nói một sự vật cụ thể, mà để tôn lên ý nghĩa của “lí tưởng. Lí tưởng là thứ giúp ta thấy rõ được đường đi, ngay cả trong những phút giây đen tối. “Phương hướng kiên định” là mục tiêu, là đường lối xác định được để ra dựa trên sự quyết tâm giữ vững lập trường. Nếu chỉ hiểu "cuộc sống" là cuộc đời mỗi người, ta chưa thể hiểu được câu nói của Lép Tôn-xtôi. “Cuộc sống” ở đây được hiểu là một cuộc đời có ý nghĩa, khi mà con người sống thực sự chứ không phải chỉ tồn tại. Câu nói mang ý nghĩa rõ ràng: Lí tưởng rất quan trọng. Và sống trên đời, mỗi người cần có một lí tưởng sống, vì sống mà không có lí tưởng thì sẽ không thể xác định những việc nên làm, dẫn đến việc chúng ta sống một cuộc đời thừa, không có giá trị.
Lí tưởng sống cũng không cần phải quá xa vời và lớn lao. Quan trọng là chúng ta phải sống có lí tưởng và thực hiện lí tưởng bằng con đường chân chính. Hãy sống cho mọi người vì chúng ta chỉ tìm thấy hạnh phúc khi “mình vì mọi người'’ và chính nhờ đó, “mọi người sẽ vì mình”.
Tấm gương đại diện cho lí tưởng cao đẹp chính là Bác Hồ kính yêu. Người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi với một lí tưởng suốt đời “tìm ra con đường giải phóng đất nước, quyết tâm vì Tổ quốc độc lập, vì dân tộc Việt Nam tự do và bền vững”. Tuy chỉ có hai bàn tay trắng, lại ở xứ lạ xa quê nhưng trong con tim, Bác vẫn nuôi lí tưởng tìm ra con đường giải phóng dân tộc, quyết vì dân tộc Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc. Vì thế, cuối cùng Bác cũng đã tìm ra được đường lối giải phóng dân tộc, đem lại ấm no, hạnh phúc cho toàn thể đồng bào của mình. Trong thời chiến, nhiều thanh niên giàu lí tưởng Cách mạng như Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám, Cù Chính Lan… đã hi sinh vì dân tộc, trở thành người anh hùng của thời đại. Và còn biết bao chiến sĩ đã có chung lí tưởng cao đẹp đã chiến đấu để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.
Ta còn có thể thấy được lí tưởng sống được thể hiện qua tấm gương khắc phục khó khăn, phấn đấu không ngừng nghỉ của thầy Nguyễn Ngọc Kí. Dù bị liệt hai tay từ thuở nhỏ, gặp bao khó khăn trắc trở, nhưng thầy không bỏ cuộc. Chính lí tưởng mong muốn cống hiến cho đời, quyết không làm phế nhân, làm gánh nặng cho mọi người, thấy đã cố gắng tập viết bằng chân và đã trở thành một nhà giáo ưu tú dẫn dắt nhiều thế hệ học trò đến thành công.
Nếu sống mà không có lí tưởng thì chúng ta sẽ khó mà xác định những việc nên làm, hoặc nếu có xác định được thì cũng không có quyết tâm để thực hiện cho tới nơi chốn. Chẳng hạn trong học tập, nếu không chắc chắn mục tiêu học để làm gì thì khi gặp khó khăn, ta dễ buông xuôi và không chịu cố gắng. Và cuộc sống sẽ tẻ nhạt và vô nghĩa biết bao khi con người ta sống thiếu lí tưởng. Thiếu lí tưởng, ta dễ nản chí, dễ cảm thấy buồn chán với chính cuộc đời của mình. Có lí tưởng, ta sẽ luôn xác định rõ mục tiêu sống và tận tụy với những việc mà mình cần hoàn thành, thể hiện rõ thái độ quyết tâm vươn tới sự hoàn thiện bản thân, mong muốn cống hiến cho sự nghiệp chung. Hơn thế nữa, ta thế sẵn sàng hi sinh cho lí tưởng của mình, chấp nhận sự thất bại và khó khăn để đạt đến cái đích cuối cùng của cuộc đời. Lí tưởng của một người có khi chỉ đơn giản là chỉ là kiếm được việc làm ổn định và có một gia đình đầm ấm. Nhưng để theo đuổi lý tưởng, người đó cũng phải trải qua nhiều khó khăn.
Thế nhưng trong cuộc sống, không phải ai cũng ý thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của lí tưởng sống. Có những thanh niên chỉ biết ăn chơi lêu lổng, không chú tâm vào tu dưỡng kiến thức, đạo đức. Họ sống không mục đích, không phương hướng để rồi bị sa ngã, lôi kéo vào những tệ nạn xã hội và trở thành một người vô dụng, không giúp ích gì cho xã hội. Cũng có những người đã tìm cho mình mục đích sống tầm thường hoặc thấp hèn, chẳng hạn như kiếm thật nhiều tiền bằng mọi cách, kể cả làm những việc xấu, trái với đạo đức làm người. Cuộc sống của họ không thể có được hạnh phúc hoặc thậm chí trở thành gánh nặng của gia đình và xã hội. Họ biến lí tưởng thành một bóng tối mờ mịt bao phủ lên cuộc đời mình, chứ không phải là ngọn đèn soi sáng chỉ đường cho họ nữa.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc sống có lí tưởng, ngay từ khi đặt chân vào cấp ba, tôi đã xác định lý tưởng sống cho mình. Với tôi, sống là để cống hiến. Tôi ước mơ trở thành một nữ cảnh sát tài giỏi, năng động và sẽ cống hiến cho đất nước, xã hội tất cả năng lực của mình, cống hiến không phải là làm một việc gì đó phi thường để mọi người thán phục. Chỉ cần chúng ta làm tốt công việc của mình, duy trì lối sống lành mạnh, văn minh là đã góp phần cống hiến cho Tổ quốc.Có những sự cống hiến rất to lớn nhưng cũng có những cống hiến rất bình thường, giản dị. Cái quan trọng là hai điều đáng quý như nhau nếu ta đã cố gắng hết mình. Tôi hy vọng nhiều bạn trẻ có cùng chung lý tưởng sống như tôi để xây dựng một thế hệ thanh niên thực sự có khả năng làm chủ đất nước. Nếu tất cả chúng ta đều có lí tưởng sống tận hiến thì xã hội sẽ có sức mạnh dồi dào để phát triển bền vững, nhanh chóng. Lí tưởng sống tận hiến cũng làm cho con người trở nên tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn. Mọi đức tính quý báu bao giờ cũng được soi sáng bởi một lý tưởng cao đẹp. Một khi đất nước giàu mạnh, xã hội ổn định, văn minh, con người sẽ vươn tới cuộc sống hạnh phúc, đầy đủ ý nghĩa nhất, đó là điều mà ai ai cũng mong muốn.
Để chuẩn bị đầy đủ hành trang cho cuộc đời, trau dồi năng lực để cống hiến thì không còn con đường nào khác ngoài học hỏi. Ngạn ngữ Mông Cổ có câu: “Nhiều ngôi sao: đó là sự trang điểm cho bầu trời. Nhiều kiến thức: đó là sự trang điểm cho trí tuệ”. Tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, nên học hỏi không ngừng, học trong sách vở, học trong cuộc sống, học từ thầy cô, học từ bạn bè để trang điểm cho trí tuệ thật nhiều kiến thức. Nói cách khác là để trau dồi năng lực và để có thể cống hiến được nhiều hơn.
Gaston Dutil đã từng nói: “Một trái tim không lí tưởng là một bầu trời không tinh tú”. Ngay từ bây giờ, hãy xác định cho mình lí tưởng Sống cao đẹp hãy nỗ lực hết mình để thực hiện lí tưởng ấy. Có lý tưởng, cuộc sống mới đúng nghĩa là cuộc sống.
Cuộc sống ngày càng vận động và phát triển theo chiều hướng mới. Để tồn tại và có một cuộc sống bền vững thì mỗi người chúng ta cần phải có một phương hướng sống nhất định, một lý tưởng mà ta sẽ hướng tới để thực hiện trong suốt cuộc đời. Nhà văn Nga Lép Tôn-xtôi đã nói: “Lí tưởng là ngọn đèn soi đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống". Vậy cuộc sống sẽ ra sao nếu người không có lí tưởng xác định? Cuộc đời sẽ ra sao nếu mỗi người chỉ sống vì những mục đích không rõ ràng và chỉ cho bản thân mình?
Thoạt đọc qua, ta sẽ cảm thấy câu nói trên hơi khó hiểu. "Lí tưởng" là gì?. Đó chính là cái đích của cuộc sống mà mỗi con người khát khao đạt được. Còn “ngọn đèn'', đó là một vật dùng để thắp sáng vào ban đêm, nhờ có nó mà ta thấy được rõ đường đi và những vật xung quanh "Phương hướng kiên định" chính là mục tiêu, là đường lối xác định sẽ thực hiện một cách quyết tâm và không thay đổi. "Cuộc sống" là cuộc đời thực tiễn của mỗi người, nhưng đó sẽ là cuộc đời có ý nghĩa, cuộc đời tươi đẹp khi mà con người sống chứ không phải là tồn tại. Cuộc sống đó là thành quả rực rỡ của một cuộc sống có lí tưởng. Qua đó, ta thấy câu nói của Lép Tôn-xtôi mang một nghĩa rất rõ ràng: sống trên đời, mỗi con người cần phải có riêng cho mình một lý tưởng sống, đó chính là ngọn đèn chỉ phương rõ ràng nhất. "Lí tưởng" rất quan trọng với chúng ta. Vì nếu sống mà không có lí tưởng thì chúng ta sẽ khó mà xác định những việc nên làm, còn nếu có xác định được thì cũng không có quyết tâm để thực hiện cho tới nơi tới chốn. Như trong học tập, nếu không chắc chắn mục tiêu để làm gì thì khi gặp khó khăn, ta dễ buông xuôi và không chịu cố gắng. Bên cạnh đó, khả năng thực hiện sai hướng hay cảm thấy khó khăn hơn khi không xác định được lí tưởng là rất lớn. Chẳng hạn ta muốn trở thành bác sĩ nhưng không xác định được là sẽ trở thành bác sĩ gì, thì khi dấn thân vào con đường học vấn ta sẽ cảm thấy lạc lõng với chính mục tiêu mình đề ra. Và cuộc sống sẽ tẻ nhạt biết bao khi con người ta sống thiếu "lý tưởng". Thiếu lí tưởng sẽ dễ nản chí, ta dễ cảm thấy buồn chán với chính cuộc đời của minh. Vậy một người có lí tưởng là người như thế nào? Đó chính là người luôn xác định được mục tiêu sống và tận tụy với những việc mà mình cần hoàn thành, thể hiện thái độ quyết tâm vươn tới sự hoàn thiện bản thân, mong muốn cống hiến cho sự nghiệp chung. Hơn thế nữa đó là một người sẵn sàng hi sinh cho lí tưởng của mình, chấp nhận sự thất bại và khó khăn để đạt đến cái đích cuối cùng của cuộc đời. Đôi khi lý tưởng của một người chỉ là kiếm được việc làm ổn định có một gia đình đầm ấm nhưng để thực hiện được thì người đó cũng phải trải qua nhiều khó khăn. Và dù cho đó chỉ là một lí tưởng tưởng chừng như đơn giản nhưng vẫn xứng đáng nhận được sự tôn trọng từ những người xung quanh. Vì người đó đã có được lí tưởng riêng để thực hiện chứ không như nhiều người sống hơn nửa cuộc đời vẫn chưa biết đâu là lý tưởng của đời mình và vẫn còn đang quẩn quanh… Ngày 5-6-1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi với một lý tưởng suốt đời "tìm ra con đường giải phóng đất nước, quyết tâm vì Tổ quốc độc lập, vì dân tộc Việt Nam tự do và bền vững. Đó cũng chính là lý tưởng của tất cả thanh niên trong thời chiến. Nhưng ngày nay khi đất nước ta đã hoàn toàn độc lập và đang trên đà phát triển nhanh thì lý tưởng của thanh niên đã khác đi rất nhiều. Tất nhiên mỗi thanh niên tìm cho mình một lý tưởng riêng, tùy thuộc vào hoàn cảnh sống, địa vị và cách sống của mỗi người nhưng nếu lý tưởng đó chỉ phục vụ cho lợi ích của bản thân thì đó không hoàn toàn là lý tưởng mà đó chính là lối suy nghĩ ích kỉ và cá nhân. Vì thế thanh niên ngày nay cần có một lý tưởng chung là: không ngừng phấn đấu vì một đất nước Việt Nam "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh".
Muốn có được những lí tưởng có nghĩa cho bản thân và cho xã hội như vậy thì mỗi người nhất là thanh niên học sinh ngay từ ngồi trên ghế nhà trường đã xác định được cho mình mục đích của việc tập, phân biệt được mục đích đó là đúng hay sai và xác định xem khả năng mình có thực hiện được hay không. Bên cạnh đó cần biết lắng nghe lời khuyên của những người xung quanh như cha mẹ, thầy cô để có một "phương hướng kiên định" cho chính mình. Một xã hội sẽ phát triển vững bền khi có những con người có chung một lý tưởng cao đẹp là sống vì Tổ quốc, vì mọi người.
Nếu so sánh cuộc đời là biển cả, con người là chiếc thuyền giữa đại dương mênh mông, thì ngọn hải đăng quả thật là kim chỉ nam cho thuyền biết nơi mình đến. Thử hỏi, nếu không có ngọn hải đăng thì hậu quả sẽ ra sao? Nói thế, ta chắc đã hiểu được lời nói của L. Tôn xtôi quả thật chí lý: “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định mà không có phương hướng thì không có cuộc sống".
Nếu cuộc sống là những hoạt động trong đời sống của một con người hoặc một xã hội, thì lí tưởng là mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất mà người ta phấn đấu để đạt tới. Sống trong đời sống, ai cũng muốn vươn tới một điều gì đó tốt đẹp và ta gọi đó là mục đích. Muốn đến đích, ta phải có hành động cụ thể, có phương tiện để thực hiện. Với T.xtôi thì lý tường chính là phương tiện, bởi nó như là “ngọn đèn chỉ đường”, là ánh sáng soi rọi cho con người đi đến mục đích Người không có lí tưởng thì “không có phương hướng kiên định” như thuyền chòng chành, lạc lối đưa đến nguy cơ đánh mất cuộc sống. Trong cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của nhân dân Nga, nếu không có ánh sáng lý tưởng cao đẹp của Mác – Lênin thì dân tộc Nga sẽ về đâu? Thế kỉ XX ở Việt Nam, hàng ngàn, hàng vạn thanh niên ngã xuống “chẳng tiếc đời xanh” cho Tổ quốc trường tồn, chính là vì họ đã mang vào tâm trí mình một lý tưởng yêu nước cao đẹp được thấm nhuần bởi tư tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại. Như vậy, sống có lí tưởng thì cuộc sống sẽ có ý nghĩa. Cuộc sống là sự tiếp diễn liên tục không ngừng nghỉ. Chúng ta từ thế hệ này sang thế hệ khác tiếp tục sống nhưng không thể thiếu mục đích, lý tưởng. Lí tưởng cao đẹp, làm cho cuộc đời nở hoa. Những con thuyền đang ngày đêm lênh đênh trên biển cả đều rất cần một ngọn hải đăng để dẫn đường, soi sáng cho chúng tìm đến bến bờ an toàn và bình yên. Chúng ta cũng vậy, khác chăng ngọn hải đăng của chúng ta chính là lí tưởng sống – nó chắp cánh đưa ta bay cao cùng những ước mơ và chỉ đường cho ta đến bến bờ hạnh phúc của cuộc sống. “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”. Quan niệm sống nêu trên thật sự là bài học cho chúng ta học tập.
Mỗi chúng ta, phải có trách nhiệm với xã hội và với chính mình. Mỗi con người phải tự ý thức rằng, sống không có lí tưởng, tựa như con người đi trong bóng đêm; như con thuyền ngoài khơi không có ngọn hải đăng dẫn đường; như con tàu không có hoa tiêu,… ở phương diện đấu tranh giải phóng dân tộc của nước ta, nếu không có lí tưởng yêu nước là ánh sáng soi đường, thì “bóng đêm nô lệ" quả thật đáng sợ, mà dân tộc ta đã từng trải qua.
Nghị luận xã hội về câu nói: Khi người chỉ sống vì mình, thì trở thành người thừa với những người còn lại?
Câu trả lời của bạn
Sống và cách sống luôn là nỗi trăn trở chung của cả nhân loại. Con người ta khi sinh ra, tâm hồn ai cũng như ai, vô tư, hồn nhiên. Thời gian trôi qua, tính cách mỗi con người dần phát triển, và cũng hoàn toàn khác nhau. Mọi người bắt đầu nghĩ về lợi ích riêng của mình, dần dần dẫn đến những hành động, lời nói bất lợi cho người khác, khiến người khác cảm thấy khó chịu. Đó chính là lòng ích kỉ. Con người ta có biết bao nhiêu tính xấu, nhưng ngẫm cho kĩ thì hình như mọi tính xấu của con người đều từ một gốc mà ra. Tham lam cũng bắt nguồn từ sự ích kỉ muốn vơ hết về mình. Lật lọng, tráo trở cũng bắt nguồn từ ích kỉ vì nhằm đến cái lợi riêng cho mình. Tự phụ, độc đoán, hiếu thắng, háo danh lúc nào cũng cho mình là nhất, xem thường người khác chẳng qua cũng chỉ biết có mỗi mình. Và chắc chắn rằng: “Khi người chỉ sống vì mình, thì trở thành người thừa với những người còn lại”.
Có bao giờ bạn suy nghĩ đến cách sống của mình chưa? Có bao giờ bạn ngồi suy ngẫm rằng mình đã sống ra sao, đã cư xử với mọi người xung quanh như thế nào không? Tôi thì có đấy, nhưng tôi chỉ nghĩ đến nó khi chợt nhận ra rằng mọi người đang tránh xa tôi, đang rời khỏi tôi. Tôi tự thầm trách rằng tại sao lại đối xử với tôi như vậy. Chắc hẳn không riêng gì tôi, mà hầu hết mọi người sẽ nghĩ như thế trước tiên mà quên mất rằng bản thân mình đã làm gì cho họ, đã cư xử như thế nào? Như ông bà ta có câu: “Không có lửa làm sao có khói”. Vốn trong con người mỗi chúng ta, không nhiều thì cũng có một chút lòng ích kỉ. Người mà lúc nào cũng chỉ nghĩ về mình theo kiểu “Của mình thì giữ bo bo; Của họ thì bỏ cho bò nó ăn”, sẽ có lúc bị người đời xa lánh và loại trừ thành “người thừa”.
Con người cũng giống như một món đồ vậy, không dùng được nữa thì vứt đi. Các mối quan hệ trong xã hội như tình bạn, tình yêu, tình làng nghĩa xóm,… hay trong các mối quan hệ làm ăn đều phải dựa trên sự bình đẳng, sự chia sẻ, sự đồng cảm, đôi bên cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau mới bền vững lâu dài được. Không ai ngu ngốc đến mức để một người mang đến bất lợi bên cạnh mình mãi cả. Đã là “thừa” thì mang theo chỉ thêm nặng vai mà thôi. Tôi có một cô bạn, từ câu chuyện mà cô ấy tâm sự với tôi, tôi đã thấm thìa được một điều quan trọng và rút ra cho minh một bài học quý giá. Cô ấy khá thân với một người bạn và cô ấy rất quý người bạn ấy. Mọi việc cô ấy làm đều nghĩ đến điều có lợi mà cả hai cùng nhận, và cô ấy đã rất vui khi mình giúp được người bạn đó. Nhưng người bạn đó luôn có thái độ hững hờ, thiếu quan tâm, không xem trọng những việc mà cả hai đang thực hiện, mới đầu cô ấy nghĩ rằng do tính cách của người bạn đó như thế nên không để ý mà bỏ qua. Nhưng rồi cô ấy chợt nhận ra rằng, mình như một con ngốc, cứ cố gắng trải thảm đỏ cho người bạn bước qua một cách dễ dàng, để rồi nhận ra chỉ có mình là cố gắng, còn người bạn kia chỉ lợi dụng và không hề xem trọng cô ấy. Cuối cùng cô ấy đã quyết định sẽ tiếp tục việc cả hai đang thực hiện nhưng cô ấy sẽ không trải thảm cho người bạn bước lên nữa, sẽ để người bạn tự làm mọi việc của mình, cô ấy sẽ không quan tâm hay giúp gì cho người bạn kia nữa. Đối với cô ấy giờ đây người bạn ấy chỉ như một người bình thường, thậm chí là một người dư ra trong cuộc sống của mình mà cô ấy muốn vứt bỏ đi. Liệu có phải người bạn kia thật ngu ngốc khi để mất một người bạn tốt như vậy, luôn sẵn lòng giúp mình. Đúng là con người thật phức tạp. Thật khó để biết cách sống, thật khó để chiến thắng bản thân. Người ta nói, sự nguy hiểm của lòng ích kỉ không thể lường trước được.
Xã hội càng hiện đại, hạnh phúc gia đình càng dễ bị tan vỡ, tỉ lệ ly hôn càng cao. Chỉ bởi con người ta ích kỉ hơn, nghĩ đến cá nhân mình nhiều hơn. Tội nghiệp cho những đứa trẻ thiếu thốn tình cảm và những ám ảnh tinh thần đến suốt cuộc đời. Nếu những người tham gia giao thông có ý thức tự bảo vệ tính mạng mình và cả của người khác hơn, thì tỉ lệ người bị chết và bị thương vong trong tai nạn giao thông sẽ không vượt qua tỉ lệ người đã thiệt mạng mỗi năm trong hai cuộc chiến tranh mà chúng ta đã trải qua. Nghe thật lạ phải không? Nhưng đó là sự thật đấy. Và nếu bớt đi những ham muốn cá nhân như cờ bạc, nghiện hút, lăng nhăng thì cuộc sống con người bình yên biết bao. Sự nguy hiểm của ích kỉ không chỉ dừng ở đó. Khi biến thành tệ nạn, tham nhũng, nó ảnh hưởng đến cả xã hội. Khi một số kẻ lợi dụng quyền hành để tham nhũng, chúng không chỉ vỏ trách nhiệm với cộng đồng mà còn gây mất lòng tin của người dân với chính quyền, với Nhà nước. Tệ hơn nữa là nó dẫn đến nạn phân biệt chủng tộc, nội chiến, xung đột, chiến tranh, khủng ' bố khiến bao nhiêu người vô tội thiệt mạng. Sự ích kỉ của một con người thôi cũng đã đáng sợ, huống chi là sự ích kỉ của nhiều nhóm người, chỉ vì quyền lợi của cá nhân mà quên đi lợi ích chung của cộng đồng, còn khủng khiếp hơn. Cuộc sống hiện đại là thế, con người ta tranh chấp nhau, ganh đua nhau mà sống. Đã có nhiều người từng nói với tôi rằng, sống phải ích kỉ, phải biết nghĩ cho bản thân trước tiên. Tôi rất hiểu câu nói đó. Sống luôn phải nghĩ về bản thân, nhưng không chỉ thế, ta còn phải nghĩ đến những người xung quanh. Hãy tưởng tượng nếu như những người bên cạnh ta luôn chỉ sống cho bản thân họ, chỉ biết đến lợi ích của họ thì liệu thái độ của bạn với họ sẽ như thế nào. Đối với người khác cũng thế thôi, cho dù đó là người tốt đến mức nào đi chăng nữa, cho dù ta luôn nói tình bạn không tính toán, không quan tâm đến lợi ích gì cả, nhưng ta cũng không nên quên đi rằng tình bạn có được nhờ vào tính cách của nhau, nhờ vào sự chân thành của mỗi người, sự bình đẳng trong mối quan hệ. Không ai cần một người bạn lúc nào cũng chỉ nghĩ đến mình mà quên đi người khác. Trong tình bạn còn có cái tình, cái nghĩa nhưng trong xã hội, trong kinh doanh thì cái tình, cái nghĩa rất lu mờ, thì người thừa thãi sẽ nhanh chóng bị loại ra. Bạn có muốn trở thành người đó không? Người được cho là người thừa với những người còn lại đấy. Người bị khai trừ, bị cô lập, bị tránh xạ. Điều đó rất khủng khiếp, con người không thể sống mà không có bạn bè, không có người thân, không có xã hội. Vì thế đừng biến mình thành người thừa mà hãy làm người có ích cho gia đình, cho xã hội và trước hết đương nhiên là cho bản thân.
Nếu được quyền vứt đi một tính xấu của con người, tôi sẽ không ngần ngại vứt đi tính ích kỉ. Sống mở rộng lòng mình sẽ thấy thế giới này thật bao la, rộng lớn, con người ta cũng sẽ cảm thấy thoải mái hơn. Tôi luôn ghi nhớ trong lòng câu nói của Bailey: “Khi bạn sinh ra, bạn khóc còn mọi người xung quanh cười. Hãy sống sao cho khi bạn qua đời, mọi người khóc còn bạn, bạn cười”. Đời sẽ đẹp hơn khi chúng ta sống đẹp hơn!
Việt Nam ta có truyền thống về tinh thần đoàn kết, về tấm lòng thương yêu, đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau. Chẳng những thế mà trải qua bao cuộc đấu tranh ác liệt, nhân dân ta đã hết lần này đến lần khác đánh đuổi được lũ quân xâm lược, mang về cho đất nước nền hòa bình, độc lập như ngày nay. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại ngày nay, tuy hòa bình đã được lập lại, con người được sống trong một hoàn cảnh mới, tốt đẹp hơn rất nhiều. Nhưng, hiện nay trong xã hội cũng xuất hiện một bộ phận không nhỏ những con người sống quá thực dụng, chỉ biết đến lợi ích của bản thân mà vô tình quên đi những người xung quanh, đi ngược lại với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đó là những người chỉ biết sống vì mình. Nói về vấn đề này, đã có một câu nói phản ánh rất đúng thực trạng đáng báo động này: “Người chỉ biết sống vì mình sẽ trở thành những người thừa với những người còn lại”.
Câu nói: “Người chỉ biết sống vì mình sẽ trở thành những người thừa với những người còn lại” là một câu nói phản ánh rất đúng về thực trạng tồn tại trong xã hội ngày nay, đó là sự thực dụng trong cách sống, cách suy nghĩ của một bộ phận người không nhỏ trong xã hội. Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống của con người không ngừng được cải thiện, người dân không còn phải lo nhiều về miếng ăn như xưa nữa, nhưng một vấn đề khác đặt ra, đó chính là những con người trong xã hội đều phấn đấu hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn nữa, đủ đầy hơn nữa. Đó vốn là việc tốt bởi nó sẽ góp phần đưa cuộc sống xã hội của con người đi lên. Tuy nhiên, vẫn có một bộ phận người tuyệt đối hóa phần lợi ích này, họ coi trọng sự hơn thua mà vô tình đánh mất đi những bản sắc tốt đẹp của dân tộc từ bao đời nay.
Cuộc sống ngày nay vô tình đã đặt lên con người những áp lực, buộc họ phải vươn lên khẳng định mình nếu không muốn bị xã hội phủ định và lâm vào cuộc sống khó khăn. Nhưng đôi khi quá coi trọng một điều gì quá cũng không tốt, đặc biệt là khi những suy nghĩ, hành động dễ bị tác động ảnh hưởng, đó là khi con người chỉ biết đến lợi ích, quyền lợi của mình mà thờ ơ, vô tình với người khác, thậm chí họ không quan tâm đến người khác ra sao, miễn sao họ có thể đạt được những lợi ích tốt nhất. Điều này hoàn toàn không tốt, bởi nó sẽ làm cho quan hệ giữa con người với con người trở nên xa cách, từ đó sẽ làm cho xã hội đi xuống.
Nếu chỉ biết quan tâm đến lợi ích của mình thì lợi ích của người khác họ sẽ không quan tâm, đoái hoài gì đến lợi ích gì khác. Nếu cả một tập thể, một xã hội ai cũng chỉ biết đến mình thì xã hội ấy đâu còn mang đúng ý nghĩa của nó nữa. Xã hội ấy sẽ trở nên vô cảm, con người sẽ trở thành những loài động vật máu lạnh, sống bằng bản năng như khi chưa tiến hóa. Tôi nhớ một câu nói khá hay của nhà nghiên cứu Nguyễn Bùi Vợi về vấn đề vô cảm của con người như sau: “Nếu không còn tình nghĩa, con người chỉ là bầy thú giàu sang mà thôi”, đúng vậy, khi con người không sống với nhau bằng tình thương, mà bằng lí trí, bản năng thì đâu có khác gì con vật, không tư tưởng, không tình cảm, chỉ biết sống cho bản thân mình.
Cuộc sống không tình nghĩa, không tình thương mà chỉ có lợi ích thì thật vô vị, lúc ấy cuộc sống của con người đơn giản cũng chỉ là duy trì sự tồn tại của bản thân mà mất hết đi những ý nghĩa tốt đẹp của nó. “Người chỉ biết sống vì mình sẽ trở thành những người thừa với những người còn lại”, và khi chỉ biết sống cho riêng mình, sống vì lợi ích của riêng mình thì con người đó sẽ trở nên vị kỉ, nếu lúc nào chúng ta cũng chỉ giới hạn mình trong phạm vi chật hẹp của bản thân thì sẽ trở thành những người thừa với người khác.
Nếu sự ích kỉ này lan rộng ra toàn xã hội thì sẽ đưa xã hội ấy đi xuống, nhưng nếu tồn tại ở một bộ phận những con người trong xã hội thì không chỉ suy nghĩ mọi người không liên quan đến mình mà chính cá nhân của người ấy cũng trở thành những con người thừa của xã hội. Bởi, chính bản thân họ đã cách li, tạo khoảng cách với mọi người trong xã hội, chính lối sống vị lối sống vị kỉ ấy đã đưa họ tách xa với mọi người, trở thành những những người thừa thãi, không còn ý nghĩa với người khác. “Tiên trách kỉ, hậu trách nhân”, chính bản thân của họ đã coi những mọi người là thừa thãi thì cũng chính là họ tự đẩy mình thành những nhân vật thừa của xã hội.
Vì một xã hội lành mạnh, phát triển thì chúng ta, những con người trong xã hội ấy cần sống cho đúng nghĩa của cuộc sống, sống không chỉ là sự tồn tại mà nó còn cần cho ý nghĩa, hãy quan tâm, sẻ chia với những người xung quanh ta, vì đó là những người bạn đồng hành trên đường đời gian khó phía trước, nếu chỉ biết sống cho riêng mình thì sớm hay muộn ta cũng bị chính những suy nghĩ, cách sống của mình cô lập, đẩy ta xa cuộc sống của mọi người, khiến ta trở thành những “mẩu” thừa thãi của xã hội.
Nghị luận xã hội về câu nói: Kẻ biết người là người khôn, kẻ biết mình là người sáng?
Câu trả lời của bạn
Ông cha ta thường nói "Ăn thì dễ, ở thì khó”, Thật vậy, trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta “ăn” thì chỉ là một vấn đề đơn giản" chỉ giải quyết sự đòi hỏi của bao tử; còn mối quan hệ của chúng ta với những người xung quanh trong xã hội để chúng ta sống mới là vấn đề quan trọng, phức tạp. Chính vì vậy mà nhà triết học nổi tiếng của Trung Quốc đã nói: “Kẻ biết người là khôn, kẻ biết mình là người sáng”.
Câu nói trên của Lão Tử có ý nghĩa vô cùng sâu sắc là bài học rất cần thiết 1 trong cuộc đời chúng ta. Trước tiên ta phải biết vì sao Lão Tử bảo: “Kẻ biết người là người khôn” sở dĩ “Kẻ biết người là người khôn” vì ta có hiểu rõ người đó, biết được tâm tính, sở thích, cách sống của người đó thì ta mới có cách quan hệ thích hợp, dễ thu phục được người đó và ta không bao giờ bị người đó qua mặt ta trong bất kì công việc gì, nghĩa là ta không bao giờ bị người đó lừa gạt. Ví dụ, chúng ta biết được người chúng ta quan hệ là một con người có tâm hồn cao thượng, nhân đức, có quan điểm sống đúng đắn thì chúng ta yên tâm và học tập ở người đó được nhiều điều tốt đẹp. Ngược lại chúng ta biết một người có tâm địa ác độc, bản chất gian xảo, có cách sống không đúng đắn thì ta nên tránh xa người ấy, đề phòng mọi hành động của người ấy. Quả đúng là “Kẻ biết người là người khôn”.
Điều thứ hai mà ta cần hiểu rõ ở đây là: “Kẻ biết mình là người sáng”. Kẻ biết mình là kẻ hiểu rất rõ về chính mình, biết mình có được những năng lực gì, có thể làm được những việc gì phù hợp với năng lực của mình, hoàn cảnh của mình thì mới thành công được. Ví dụ mình biết mình có năng khiếu về văn chương, rất say mê văn chương thì mình chọn thi vào đại học khối c ngành văn thì xác suất mình đậu vào đại học rất cao, đạt được mơ ước và hoài bão của mình. Hay một bạn nào đó có năng khiếu về toán, lý, hóa, sinh,… là học sinh giỏi của những bộ môn này thì bạn dễ thi đậu vào các trường như Bách khoa, Kinh tế, Y dược, Sư phạm (các ngành thuộc khoa học tự nhiên), Khoa học tự nhiên, Ngân hàng…bạn nào có năng khiếu về văn, lý và vẽ thì bạn ấy dễ thi đậu vào ngành kiến trúc. Ngược lại có nhiều bạn không hiểu rõ được năng lực của mình mà mơ cao thì những bạn ấy không bao giờ thành đạt được, những ước mơ của những bạn ấy sẽ trở thành ảo tưởng. Đúng là “Kẻ biết mình là người sáng”
Tóm lại, câu nói “Kẻ biết người là người khôn, kẻ biết mình là người sáng”là một chân lý, là một bài học sâu sắc cho chúng ta trong cuộc sống. Câu nói ấy của Lão Tử giúp chúng ta biết nhìn người, nhìn mình để hiểu người, hiểu mình để mà sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Nghị luận xã hội về câu nói: Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới?
Câu trả lời của bạn
Xã hội ngày nay không ngừng phát triển và ngày càng hiện đại về cuộc sống vật chất và tinh thần. Các quốc gia trên thế giới đã gặt hái được rất nhiều thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, đối ngoại… Nhưng ngoài những khía cạnh đó điều quan trọng nhất và ưu tiên hàng đầu chính là phát triển nền giáo dục quốc gia, bởi đây chính là nhân tố quyết định đến sự hưng thịnh, bền vững của một đất nước, thúc đẩy xã hội không ngừng tiến lên. Chính vì thế mà N.Mandela- vị anh hùng giải phóng dân tộc của Nam Phi đã có một câu nói khá nổi tiếng mà theo tôi đó chính là chân lý: "Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà con người có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới"
Nhìn vào câu danh ngôn này ta có thể nhận ra ý nghĩa giáo dục là vô cùng quan trọng bởi không có nó thì có lẽ xã hội loài người không thể nào có được sự phát triển vượt bậc như bây giờ. N.Mandela là một nhà cách mạng, nhưng ông đã sớm nhận ra rằng ở một đất nước như Nam Phi nói riêng và các quốc gia trên thế giới nói chung khi mà nền giáo dục chưa tốt, ý thức dân tộc còn kém thì mọi cuộc cách mạng đều khó có thể thành công hoặc nếu như có thì cũng chỉ là thành công tạm bợ, nhất thời và không bền vững. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định rằng “một dân tộc dốt chính là một dân tộc yếu” mà nếu “ Dốt thì dại, dại thì hèn” khó có thể mà chống chọi lại một lực lượng đông đảo giặc ngoại xâm hung tàn, thủ đoạn. Cho nên chỉ có giáo dục mới làm thay đổi nhận thức của nhân dân, mới mang đến cho họ một cuộc sống mới và một thế giới mới.
Giáo dục có thể hiểu như là một công cụ mà các lớp người đi trước dùng để truyền đạt và gửi gắm những mong muốn và kỳ vọng vào những tầng lớp trẻ sau này là tương lai là sức mạnh của một quốc gia. Giáo dục trước hết góp phần hình thành nhân cách của con người làm cho chúng ta có thể nhận thức được thiện, ác, đúng, sai, biết sống có đạo đức và hành xử đúng đắn theo những chuẩn mực đạo lý của xã hội.Cho dù là ở đất nước nào đi nữa nền giáo dục luôn hướng con người sống đẹp và nhận thức được những gì bản thân cần phải làm và nghĩa vụ của mỗi người đối với đất nước mình sinh ra. Giáo dục không chỉ gói gọn trong khuôn khổ nhà trường mà còn có xã hội chính là "trường đời" sẽ mang đến cho mỗi con người những bài học cuộc sống vô cùng quý giá. Như vậy mục đích quan trọng của nền giáo dục chính là hướng chúng ta học làm người, sống có ích, biết cống hiến cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Giáo dục bên cạnh tác động thay đổi được nhận thức, thì việc mang đến tri thức và sự hiểu biết cho con người chính là một vai trò to lớn có thể thay đổi được bộ mặt của xã hội. Thử hỏi nếu như không có giáo dục thì làm sao có những ngành khoa học và nghệ thuật phát triển như ngày nay, làm sao chúng ta được thừa hưởng những thành tựu phát minh vĩ đại làm thay đổi cả thế giới. Con người có nhận thức thì xã hội mới văn minh, con người có học vấn thì xã hội này mới phát triển và đổi mới. Nếu không có giáo dục thì làm sao chúng ta có được những giáo sư, bác sĩ, kỹ sư, những nhà khoa học ngày đêm nghiên cứu, tìm tòi để phát minh ra những cái mới để phục vụ con người. Chúng ta thử tưởng tượng một xã hội không có giáo dục thì xã hội ấy sẽ đi về đâu? Chắc có lẽ xã hội ấy sẽ đắm chìm trong bóng đêm u tối, con người trong xã hội sẽ sống mãi trong lầm than cơ cực, đói nghèo, lạc hậu.
Ta hãy nhìn vào Nhật Bản một đất nước chịu ảnh hưởng nặng nề từ sự tàn phá của chiến tranh thế giới, luôn hứng chịu những hậu quả tồi tệ bởi thảm họa động đất, sóng thần.. thế nhưng họ đã vươn lên phát triển mạnh mẽ nhờ những cải cách lớn về chính sách quản lý, coi con người chính là vốn quý nhất trong công cuộc phát triển đổi mới quốc gia. Chính phủ Nhật Bản rất coi trọng, quan tâm và đầu tư cho ngành giáo dục nước nhà, là một trong những nước có nền giáo dục phát triển nhất trên thế giới. Chính nền giáo dục hiệu quả đã giúp nước Nhật từ một nước chịu nhiều thiệt hại chiến tranh, thiên tai đã vươn lên trở thành cường quốc công nghiệp thứ hai trên thế giới khiến tất cả các quốc gia khác phải thán phục. Như vậy nếu giáo dục là một vũ khí lợi hại đã thay đổi được cả Nhật Bản, như vậy chẳng phải nếu được mọi quốc gia chú trọng phát triển chẳng phải nó sẽ thay đổi được cả thế giới hay sao?
Như vậy dù bất kỳ thời đại nào chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò to lớn của giáo dục, nó thật sự là là "vũ khí mạnh nhất mà con người có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới". Câu nói của N. Mandela chính là chân lý là kim chỉ nam cho mọi quốc gia đang trên đà xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị… phải biết lấy giáo dục làm nòng cốt để đào tạo nên những con người ưu tú biết cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Đối với mỗi sinh viên nhận thức được ý nghĩa câu danh ngôn này phải càng ra sức phấn đấu không ngừng học tập nghiên cứu trở thành những con người đủ đức đủ tài góp phần đưa đất nước phát triển vươn xa ra tầm thế giới.
Từ xưa đến nay, sự phát triển của xã hội, của con người về mọi mặt từ vật chất đến tinh thần, đều không thể thiếu vai trò của giáo dục. Giáo dục đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy xã hội tiến lên. Chính vì vậy mà N.Mandel có một câu nói khá nổi tiếng: "Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới". N.Mandela
Câu nói trên của N.Mandela là một chân lí. Để thấy rõ chân lí này, trước tiên ta phải hiểu giáo dục bao gồm những phạm trù nào? Vì sao giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả thế giới?
Giáo dục là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn bao gồm giáo dục nhân cách làm người, làm cho con người chúng ta nhận thức được cái đúng, cái sai, cái thiện cái ác, cái chính, cải tà để từ đó chúng ta sống một cuộc sống thật sự có nghĩa, hợp với đạo lí làm người, góp phần làm cho cuộc sống xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Ví dụ như tổ tiên ta ngày trước đã giáo dục con cháu truyền thống yêu nước qua truyện Thánh Gióng, qua những áng thơ văn bất hủ như Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi…, giáo dục niềm tự hào về nguồn gốc cao quý của dân tộc bằng truyện Con rồng cháu tiên, giáo dục tinh thần đoàn kết, yêu thương nhau giữa những người dân trong một nước trong những câu ca dao, tục ngữ như:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Chính nhờ sự giáo dục này mà dân tộc ta đã giữ gìn và phát huy truyền thống yêu nước, đánh thắng những kẻ thù xâm lược, giữ vững nền độc lập, tự do của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử từ xưa đến nay và cả đến mai sau. Bên cạnh giáo dục truyền thống yêu nước, ông cha ta còn dạy cho ta đạo lí làm người, dạy ta phải biết hiếu thảo với cha mẹ để giữ trọn đạo làm người:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
(Ca dao)
Bên cạnh đó, ông cha ta còn dạy bảo chúng ta phải biết "tôn sư trọng đạo" phải ghi nhớ công ơn thầy cô, "một chữ cũng thầy, hai chữ cũng thầy", cha mẹ muốn con mình hay chữ thì phải biết kính yêu thầy cô:
"Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con yêu chữ phải yêu mến thầy"
Chính nhờ sự giáo dục đó mà xã hội Việt Nam có một nền tảng đạo lí khá chắc chắn, sâu đậm.
Giáo dục còn mang lại cho con người biết bao tri thức về các ngành nghệ thuật và khoa học. Không có giáo dục thì làm sao con người chúng ta có được những ngành nghệ thuật (văn chương, âm nhạc, hội họa, điêu khắc…) và những ngành khoa học (toán học, hóa học, vật lí học, y học, sinh học, thiên văn học, địa chất học…) phát triển như ngày hôm nay được. Giáo dục là cái máy cái đẻ ra những cái máy con. Sự phát minh ra dòng điện, bóng đèn điện, vô tuyến truyền thanh, vô tuyến truyền hình, máy vi tính… không phải đã làm thay đổi thế giới đấy ư? Nó đã làm cho cuộc sống của chúng ta văn minh hơn, chúng ta lao động được nhẹ nhàng hơn, những con người trên trái đất gần nhau hơn. Sự phát triển của y học đã làm cho những bệnh nan y ngày trước như bệnh lao phổi, bệnh đậu mùa… ngày nay không còn đáng lo nữa. Sự phát triển của ngành sinh học như công nghệ cấy ghép, lai tạo giống, biến đổi gen đã tạo ra biết bao nhiêu loại cây trồng có năng suất cao gấp bao nhiêu lần ngày trước, đem lại nhiều lương thực, thực phẩm cho xã hội, làm cho cuộc sống của con người nông dân ngày càng no ấm hơn. Tất cả những sự biến đổi của thế giới ấy đều từ giáo dục mà ra.
Hơn nữa, cũng nhờ có giáo dục mà chúng ta ngày hôm nay mới hiểu được văn chương, nghệ thuật, lịch sử, địa lý, văn học, kinh tế, chính trị… của các nước trên thế giới để chúng ta học tập được cái hay, cái đẹp của họ nhằm được phục vụ cho đất nước, làm cho đất nước ngày càng thêm giàu, thêm đẹp hơn.
Tóm lại, câu nói của N.Mandela là một chân lý đúng là: "Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng làm thay đổi cả thế giới". Nếu không có giáo dục thì làm sao chúng ta có được một nền văn minh, làm sao chúng ta được những giáo sư, bác sĩ, kĩ sư, những nhà khoa học ngày đêm nghiên cứu tìm tòi để phát minh ra những cái mới để phục vụ con người. Chúng ta thử tưởng tượng một xã hội không có giáo dục thì xã hội ấy sẽ đi về đâu? Chắc có lẽ xã hội ấy sẽ đắm chìm trong bóng đêm u tối, con người trong xã hội sẽ sống mãi trong lầm than cơ cực, đói nghèo, lạc hậu.
Nghị luận xã hội về câu nói: Càng tĩnh lặng bạn càng lắng nghe được nhiều hơn?
Câu trả lời của bạn
Đất nghe tiếng thì thầm của cỏ. Non cao nghe tiếng du dương của rừng thông. Ghềnh đá nghe tiếng róc rách của dòng suối. Gió nghe tiếng diều sáo thổi vi vu. Rừng thu nghe tiếng mùa thay lá. Vườn hoa nghe tiếng vội vã của bầy ong. Vạn vật trong vũ trụ lắng mình để nghe thanh âm của loài khác. Muôn loài trong trời đất yên lặng để thấu hiểu cảm giác của vũ trụ. Trong chiều hướng đó, không lấy làm ngạc nhiên khi người ta nói “Biết lắng nghe. Điều kỳ diệu của cuộc sống”. Vậy ta hiểu câu nói này thế nào? Đâu là ý nghĩa của việc lắng nghe?
Nếu trong nguyên tắc yêu thương cần có đối tượng để thương yêu thì trong nguyên tắc lắng nghe cũng cần có đối tượng để lắng nghe. Vì yêu thương không chỉ là việc riêng của chủ thể và lắng nghe không chỉ là điều riêng của bản thân. Nếu ta yêu thương ai thì người đó là đối tượng để thương yêu. Nếu ta lắng nghe ai thì người kia là đối tượng đang cần sự cảm thông, chia sẻ của ta. Nếu ta được yêu thương thì ta là đối tượng của người kia. Còn ta đang được người khác lắng nghe thì ta là người đang cần sự sẻ chia của người khác. Vì thế, trong nguyên tắc yêu thương và lắng nghe được hiểu từ hai phía là: chủ thể và đối tượng. Nếu ta là chủ thể thì người kia là đối tượng hay hiểu theo ngược lại.
Người Mỹ dùng chữ “listening deeply” (nghe thật sâu) nghĩa là, chỉ mới biểu lộ thiện chí muốn nghe chứ không có thái độ toàn tâm, toàn ý khi nghe. Còn chữ “lắng nghe” của người Việt được hiểu rất hay, phải “lắng” thì mới “nghe” được. Chữ “lắng” ở đây là để cho lòng mình yên tĩnh, không để những mưu cầu hay chống đối làm phân tâm. Còn chữ “nghe” là đặt mình trong hoàn cảnh của đối tượng. Hiểu theo nghĩa này thì “lắng nghe” là lắng mình xuống, không suy tư, không cố chấp, buông bỏ mọi thành kiến hay những phiền muộn trong tâm để nghe người khác với tất cả lòng thành. Vì thế, “nghe thật sâu” của người Mỹ không mạnh bằng ý nghĩa “lắng nghe” của người Việt.
Hiểu theo nguyên ngữ của việc lắng nghe là vậy, nhưng thực tế thì khác xa, vì con người trong xã hội ngày nay phần nhiều chạy theo nhu cầu hưởng thụ. Ngay cả những người thân bên cạnh ta cũng không có thời gian để lắng nghe vì cứ mải mê lo kiếm tiền. Thế giới này chắc sẽ không có ánh sáng để vơi bớt tối tăm trong đêm đen nếu không có những người như bà Nancy, mẹ của Edison. Bà đã luôn lắng nghe, động viên và chia sẻ với Edison trong cuộc sống. Trong tiểu sử của Edison có kể lại giai thoại: “Một hôm, khi nhân viên thanh tra vào kiểm tra lớp học, thầy giáo của Edison chỉ vào cậu bé và nói: Học trò này điên khùng, không đáng ngồi học lâu hơn. Edison rất căm giận hai chữ “điên khùng” và mang chuyện về kể với mẹ”. Và mẹ của Edison đã lắng nghe với tất cả tấm lòng cùng sự cảm thông chia sẻ, nhằm giúp đỡ Edison vượt qua mọi khó khăn.
Bên cạnh đó, lắng nghe không chỉ hiểu ở lĩnh vực tâm lý mà còn diễn tả ở con đường sự nghiệp. Vì sinh ra trong đời hầu như ai cũng được sự chỉ bảo của cha mẹ, thầy cô, bạn bè. Chỉ xét thái độ của người lắng nghe, nghĩa là phần lớn những người được thụ huấn nếu biết kiên trì học hỏi và đem ra thực hành những gì mình nghe được thì đường thành công vẫn luôn mở rộng. Để có được thành công trên con đường sự nghiệp như hôm nay Ánh Viên đã luôn biết lắng nghe và thực hành những lời bảo ban của thầy cô giáo cũng như các huấn luyện viên, nhất là mỗi lần gặp khó khăn thì gia đình vẫn luôn là nơi để cô tìm lại những “năng lượng đã bị mất”.
Mặt khác, lắng nghe không chỉ là tương quan của hai chủ thể mà nó còn là một tiếng nói nhiệm màu chỉ bản thân mới cảm nhận được. Trong bài hát “Tôi đang lắng nghe” cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã dùng những ca từ rất hay “Tôi im lặng để nghe tiếng thở dài, im lặng để nghe lời của dòng sông, im lặng để nghe tiếng thở than của ngọn đồi, im lặng để nghe nỗi đau trên một bàn tay”. Hiểu theo nghĩa này thì “lắng nghe” để nhìn lại bản thân, cảm nhận tiếng động xung quanh, dù đó là tiếng thở dài, lời của dòng sông hay tiếng than vãn của ngọn đồi.
Cuộc sống có những biến đổi bất thường, dòng đời cũng lắm xoay chuyển không nguôi. Có những biến cố xảy đến làm ta sợ, có những bất ngờ không lường trước làm ta bơ vơ. Vì thế, không phải lúc nào con người cũng đủ tự tin để làm chủ bản thân, đủ vững chãi để bước đi trong cuộc sống. Lúc bơ vơ ta cần có ai đó để chia sẻ, lúc không vững chãi cần có một người để lắng nghe. Chia sẻ, lắng nghe trở thành nhu cầu của con người trong cuộc sống. Nếu chia sẻ làm cho con người bớt sầu khổ thì lắng nghe làm cho ta vơi đi niềm đau. Dung lượng trái tim của mỗi người có một giới hạn nhất định. Một nỗi khổ nếu được chứa đựng bởi hai trái tim thì sẽ vơi đi niềm đau. Nỗi đau quá lớn không được một ai ngồi bên cạnh để lắng nghe dễ làm người ta rơi vào trầm cảm và thường tự giam hãm trong ‘ốc đảo” của riêng mình. Nhất là trong xã hội ngày nay, khi con người luôn chạy theo sự quyến rũ của tiền bạc, cứ hối hả làm việc “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm”. Vì thế, xã hội hôm nay có nhiều người đang bị trầm cảm, đủ mọi thành phần. Có những đứa bé bị hiểu lầm hay không được bố mẹ quan tâm nên chúng tự nhốt bản thân trong phòng từ ngày này qua ngày khác, hoặc lao vào những thú chơi “ngông”. Có những người già không có được sự quan tâm của con cháu nên phải tìm đến những thú nuôi để tâm sự cho nguôi ngoai nỗi cô đơn. Có những bạn trẻ vì ôm mối sầu đau quá lớn, không biết bày tỏ cùng ai nên họ thường tìm đến cái chết. Có những cặp vợ chồng không tìm được sự đồng cảm và tiếng nói chung từ người bạn đời nên họ thường tìm đến với những người bạn thân hay những chuyên gia tâm lý để “trút bầu tâm sự”. Vì thế, lắng nghe là điều cần thiết của cuộc sống, nó không chỉ giúp ta hiểu được chính bản thân, sự vật xung quanh, giúp người khác vơi đi niềm đau, giúp người đối người được trải lòng mình. Ngoài ra biết lắng nghe và đem nó áp dụng vào cuộc sống còn giúp ta thành công trên con đường sự nghiệp.
Lắng nghe là nhu cầu thiết thực của cuộc sống. Nỗi đau nếu được ai đó lắng nghe nó sẽ nhẹ thêm, nỗi thống khổ nếu được người khác sẻ chia nó sẽ vơi đi. Biết lắng sẽ giúp nhau dắt dìu bước qua những ngày tháng vất vả. Biết sẻ chia giúp những người xung quanh vượt qua tháng ngày gian nan. Vì thế, ngại ngùng gì ta không dừng lại để sẻ chia với người thân cận, mất mát chi không lắng mình xuống để nghe người xung quanh. Hiểu được tận cùng ý nghĩa của lắng nghe, ta sẽ thấy cuộc đời vẫn đẹp, trên vách đá vẫn có cành nở hoa đẹp tươi.
Tôi rất thích cảm giác ngồi ở một nơi nào đó yên tĩnh, chỉ có gió thoảng qua, vài tiếng chim kêu, trước mặt là mặt hồ phẳng lặng… và suy ngẫm. Tôi cũng cảm giác có thể bỏ ngoài tai tất cả mọi thanh âm xô bồ của cuộc sống, tìm kiếm và lắng nghe những âm thanh nhỏ bé, trong trẻo. Và tôi nhận ra rằng: “Càng trong tĩnh lặng, bạn càng lắng nghe được nhiều hơn".
Là một cư dân thủ đô, tôi có rất nhiều may mắn: tôi có nhiều cơ hội để học hành, nhiều cửa hàng để mua sắm và được tiếp xúc với nhiều công nghệ hiện đại. Nhưng nhiều lúc tôi cũng thèm được như những đứa trẻ chăn trâu, có thể chạy nhảy, nô đùa dọc theo những cánh đồng lúa chín hay nằm trên những cỏ xanh mà ngắm bầu trời cao rộng. Sống giữa đô thị tôi cũng quen dần cái ồn ã, sự bon chen xô bồ. Ra ngoài đường tôi nghe thấy những tiếng xe tiếng còi, tiếng hò hét. Ra chợ, tôi nghe thấy những tiếng mời chào, mặc cả, chửi bới. Tôi cũng hòa vào cuộc sống ấy như một quy luật. Lên xe buýt điều tôi quan tâm là lên thật nhanh để có ghế ngồi. Và tôi học, học như nhiệm vụ tối thượng, vươn lên vị trí thật cao. Tôi cũng không còn nhớ đã bao lâu rồi tôi không nghe thấy tiếng gió, tiếng của những chú ong,… Dường như nhịp sống gấp gáp của đô thị đã lấn át đi tất cả. Tôi luôn trân trọng mỗi dịp hè về quê nội. Khi ấy, tôi không phải lo lắng những bài kiểm tra, không phải chen lấn trên xe buýt. Tôi lắng nghe lòng mình, lắng nghe một cuộc sống thanh bình vẫn thì thầm với tới, khiến lòng tôi khoan khoái và dễ chịu. Tôi nhận ra cuộc sống này thật bình dị – đẹp trong sự bình dị.
Sự náo nhiệt đã từng làm tôi thích thú – những buổi vui chơi, hò hét, những cuộc bàn cãi… Và một ngày, tôi đi về một mình trên con đường quen thuộc, tôi nhìn thấy một cậu bé ăn xin chìa cái mũ về phía mình. Một lời thỏ thẻ yếu đuối “Chị ơi!”! Hắn lời nói ấy đã lọt thỏm đi giữa những câu chuyện bạn bè sôi nổi. Tôi chợt nhớ, đã bao lần tôi chạy theo cuộc sống sôi động mà không nghe thấy tiếng thở dài của cha mẹ tôi. Những bước chân nặng nhọc của cha chưa bao giờ làm tôi mất ngủ. Thời gian xây nhà mới, gia đình tôi gặp rất nhiều khó khăn, cha đâm ra hay cáu bẳn. Cha mắng mỏ mẹ con tôi, toàn những lời cáu gắt. Tôi không hề nghe thấy trong lời nói của cha sự mệt mỏi. Một ngày kia, tôi chợt nhận ra tóc cha bạc đi nhiều. Tôi cũng rất nhớ một kỉ niệm với em gái tôi. Đó là năm tôi lên cấp ba, những điều mới mẻ và lạ lẫm dường như choán hết tâm trí của tôi. Tôi không nghe thấy tiếng em tôi thở dài thất vọng khi tôi đi chơi với bạn thay vì đưa em đi đọc sách ở thư viện. Tôi cũng không nghe thấy trong những lời giận dỗi của em nhu cầu được quan tâm. Và tôi tình cờ đọc được bài văn em tôi viết về người mà nó yêu thương nhât. Đó là tôi. Thì ra trong mắt nó, tôi rất tuyệt, rất giỏi. Còn tôi, tôi thấy mình thật tồi.
Đôi khi sự tĩnh lặng không nằm ở thế giới bên ngoài. Nó nằm trong mỗi chúng ta. Gác lại những cuộc hẹn, sống chậm lại một chút, chúng ta sẽ lắng nghe được lòng mình. Cha mẹ thường bảo tôi: "Con lên phòng học bài đi…” Nhưng lòng tôi lại nói: "Tôi thích đọc tiểu thuyết thay vì đi học thêm, tôi xem phim thay vì chúi đầu vào bài vở. Tôi thích đánh cầu lông với em tôi vì kèm nó học tới khuya, tôi thích ăn những món do chính mình sáng chế. Trong những gì lòng tôi nói với tôi có những điều ích kỷ. Nhưng tôi không thích chúng, cũng không ghét chúng. Đôi khi tự lắng nghe mình một chút, mình muốn gì, mình cần phải làm gì cũng khiến tôi tự tin hơn. Tự tin vào chọn lựa và con đường mình đang đi!
Trong cuộc sống, ta phải lắng nghe rất nhiều điều. Có những chuyện làm ta khó chịu, nhưng cũng có những thứ khiến ta thoải mái. Song mọi sự trên không phải lúc nào cũng dễ dàng đoán định. Giống như thất bại chưa hẳn là điều xấu và thành công chưa hẳn đã là hạnh phúc. Sự tĩnh lặng luôn cần thiết cho một sự suy xét toàn diện.
Tôi rất thích câu nói trong bộ phim hoạt hình nọ: "Hôm qua đã là quá khứ ngày mai là một điều bí ẩn và hôm nay chính là một món quà". Có lẽ món này sẽ chỉ được nhận ra khi chúng ta bình tâm là lắng nghe cuộc sống, nghe chính mình. Bởi khi ấy sẽ không có điều gì khiến ta bỏ lỡ và tìm thấy sáng ở tương lai. Tâm hồn của chúng ta sẽ giàu lên qua từng ngày ta sống trọn vẹn với mình.
Nghị luận xã hội về câu nói: Cái gì cũng nhàm chán cả trừ học hỏi?
Câu trả lời của bạn
Trong cuộc sống của chúng ta có những điều cứ lặp đi lặp lại hàng ngày thật nhàm chán, nhưng cũng có những điều luôn thay đổi, luôn mới mẻ làm cho chúng ta luôn thích thú. Một trong những vấn đề đó là việc học hỏi. Chính vì thế mà Virgile đã có một câu nói khá nổi tiếng sau đây: “Cái gì cũng nhàm chán cả trừ học hỏi".
Câu nói trên của Virgile thật chí lý, làm vỡ ra nhiều điều mới lạ mà bình thường chúng ta không nhận ra được. Trước tiên ta phải hiểu được những gì xảy ra hàng ngày, cứ lặp đi lặp lại như những chiếc kim đồng hồ, từ ngày này qua ngày khác, không có gì thay đổi làm cho chúng ta có cảm giác nhàm chán. Những việc như ăn, ngủ, vệ sinh, làm một công việc cố định nào đó trong một dây chuyền sản xuất. Những người thầy, người cô lên lớp qua năm này tới năm khác cũng dạy đi dạy lại những bài in trong sách giáo khoa cũng không tránh khỏi cảm giác nhàm chán. Những người giàu sang dư tiền, dư của, ăn rồi đi du lịch hết nước này đến nước khác ban đầu thì rất thích thú vì được tận mắt chứng kiến nhiều cảnh đẹp, nhiều kỳ quan của thế giới, nhưng rồi dần dần cái cảm giác thích thú cũng mất dần đi và cuối cùng thì cái cảm giác nhàm chán ấy lại đến. Một miếng ăn ngon đến mấy mà cứ ăn đi ăn lại nhiều lần thì chúng ta cũng thấy ngán…
Như vậy, ta có thể khẳng định rằng cái gì cứ lặp đi lặp lại nhiều lần thì ta khó tránh khỏi cảm giác nhàm chán. Và Virgile đã khẳng định với chúng ta một việc không bao giờ cảm thấy nhàm chán đó là việc học hỏi: “Cái gì cũng nhàm chán cả trừ học hỏi”. Do đâu mà Virgile đã khẳng định như thế?
Như chúng ta biết kho tàng tri thức của nhân loại thì bao la, vô tận mà chúng ta không bao giờ biết hết được. Kho tàng ấy được thể hiện ở nhiều phạm trù khác nhau như: văn chương, nghệ thuật, triết học, địa lí, lịch sử, toán học, vật lý học, sinh học, thiên văn học… Hơn nữa ở mỗi phạm trù ấy lại rất đa dạng, phong phú, ví dụ như ở lĩnh vực văn chương nghệ thuật thì có văn chương thời cổ đại, văn chương thời trung đại, văn chương thời cận và hiện đại của nhiều nước trên thế giới; về lĩnh vực nghệ thuật thì ngoài văn chương thì ta còn có âm nhạc, hội họa, điêu khắc, điện ảnh… Bể học mênh mông mà thời gian và sức lực con người có hạn, làm sao ta có thể nắm được hết tri thức của nhân loại. Càng học hỏi chúng ta càng khám phá và nhận biến những điều thật mới mẻ luôn làm chúng ta say mê, thích thú, không hề có cảm giác nhàm chán. Đi vào kho tàng tri thức của nhân loại ta như đi vào một vườn hoa bất tận đầy màu sắc và hương thơm, làm cho chúng ta đi từ sự ngạc nhiên này đến sự ngạc nhiên khác và chúng ta càng nhận thấy rõ: Cái gì cũng nhàm chán cả trừ học hỏi.
Tóm lại, câu nói trên của Virgile là một chân lý, nó giúp chúng ta ý thức hơn về việc học hỏi để luôn tìm kiếm và khám phá những điều mới lạ để ngày càng nâng cao vốn hiểu biết của mình và tránh đi những cảm giác nhàm chán trong cuộc sống hằng ngày.
Học tập là công việc mà một bộ phận lớn người tham gia. Từ trẻ em cho đến người già đều có thể học tập. Nhiều đứa trẻ may mắn sinh ra ở một nơi có nền văn minh tân tiến, việc học trở thành bắt buộc. Nhiều đứa trẻ vì thế mà chán ghét việc học. Bởi chúng đã không hiểu rõ được mục đích của việc học cũng như ý nghĩa của việc học một cách đầy đủ. Đơn giản chúng chỉ nghĩ, việc học là bắt buộc là phải làm giống như ngày ngày phải đến một nơi mà chúng không thích. Nhưng nếu chúng đến một vùng quê nghèo khó nào đó, nhìn những đứa trẻ kém may mắn khao khát được đi học, chúng mới trân trọng những gì mà chúng được hưởng. Bởi "cái gì cũng nhàm chán cả trừ việc học hỏi".
Đây là câu nói khá nổi tiếng của Virgile. Để có thể hiểu được cặn kẽ ý nghĩa của câu nói nổi tiếng này, trước hết ta phải hiểu được chính xác nghĩa của từ học hỏi. "Học hỏi" trước hết là học. Chắc hẳn không ai là không biết học là như thế nào. Nhưng "học hỏi" không chỉ là "học" mà còn "hỏi". "Học hỏi" là cả một sự khám phá. Chân trời kiến thức là bao la rộng mở nên "học hỏi" cũng vì thế mà phong phú bao la. Chính vì thế mà nó luôn mang đến những điều mới lạ cho chúng ta. Nên chẳng bao giờ là "nhàm chán" cả. "Nhàm chán" là trạng thái tâm lý của con người khi phải lặp đi lặp lại một hành động, việc làm nào đó. Và bất kể cái gì cũng nhàm chán. Bởi đa số những hành động của con người là bất biến, hành động ấy lúc nào cũng chỉ như vậy không có gì thay đổi cũng như không có gì mới lạ cả. Mà con người luôn muốn có những cảm giác mới lạ. "Nhàm chán"là trạng thái tâm lý dễ gặp nhất. Vì đâu phải ai cũng nhận ra được những thú thích trong khi học hỏi. Một nhân viên văn phòng thường than thở về công việc của mình. Vì anh ta ngày nào cũng làm những công việc ấy, vào giờ ấy, ở chỗ ngồi ấy, với tư thế ấy. Không có gì thay đổi cả. Nhiều người còn nói với tôi: "Ước gì được trở lại cái thời còn là học sinh sinh viên". Không phải họ muốn trốn tránh nỗi lo cơm áo gạo tiền, mà họ muốn trở về với những niềm đam mê, những thú vui của việc học, được khám phá những điều ta chưa biết. Kiến thức là mênh mông. Bởi tri thức nhân loại luôn phát triển không ngừng. Không khi nào nó thôi phát triển. Những điều mà con người khám phá ra là mênh mông. Từ những gì mà con người học được, họ lại phát triển lên tầm cao mới. Việc học hỏi cũng vì thế mà chưa bao giờ có điểm dừng. Có người từng nói:" Học tập là suốt đời" quả không sai. Có rất nhiều lĩnh vực để ta học hỏi và khám phá. Từ nghệ thuật văn chương cho đến khoa học xã hội. Chúng luôn phát triển như những nấc thang nối tiếp nhau không ngừng. Nếu nói về việc học hỏi, có lẽ bạn chẳng bao giờ ngừng lại. Bạn biết không, học hỏi đâu chỉ là trong sách vở, trên ghế nhà trường.
Học hỏi còn là cả một con đường bạn đang đi. Nếu như bạn nghĩ trong công việc hàng ngày bạn vẫn làm không có sự học hỏi thì đương nhiên cảm giác nhàm chán sẽ xuất hiện. Ngày nào bạn cũng ăn một món. Vâng chỉ ăn một món. Nhưng sự học hỏi sẽ là bạn tìm cách cho món ấy ngon hơn, đẹp mắt hơn, hoặc cách chế biến khác. Chắc chắn bạn sẽ rất thích thú. Nếu bạn là một nhân viên văn phòng, đừng chỉ làm như mọi ngày hãy học hỏi. Bạn thắc mắc sau bao năm mình cũng không thể thăng tiến hay thậm trí với bao cống hiến bạn lại bị giáng chức chỉ vì những lý do hết sức ngớ ngẩn. Đơn giản là bạn chưa biết cách tạo ra những điều để học hỏi làm phong phú thêm công việc của bạn, để tạo ra những bước đột phá mới trong công việc. Chẳng hạn, bạn hãy học hỏi cách suy nghĩ của sếp bạn, cách đối xử, ăn nói của sếp với đối tác. Chắc chắn bạn sẽ ngạc nhiên vì những điều mình khám phá ra được mà xưa nay chưa từng biết. Học hỏi không chỉ là học những kiến thức, tri thức nhân loại, đôi khi nó chỉ đơn thuần là những cách ứng xử trong cuộc sống hàng ngày. Nếu bạn biết cách tạo ra những điều mình cần học hỏi để khám phá nó chắc chắn bạn sẽ không còn cảm thấy nhàm chán với những việc khác. Nhàm chán không xảy đến khi bạn học hỏi. Đó chính là ý nói của câu nói này. Sự thú vị của việc học hỏi Virgile đã tóm tắt trong chỉ một câu nói:" Cái gì cũng nhàm chán cả trừ việc học hỏi". Tôi không tin rằng bạn thấy câu nói này sai. Nếu bạn vẫn chưa cảm nhận được nó đúng chẳng qua là bạn chưa thực sự học hỏi mà thôi. Hãy tạo đam mê học hỏi cho chính bản thân mình. Một khi đã đam mê, bạn sẽ luôn thấy nó có sức hấp dẫn kỳ diệu. Sự thú vị của việc học hỏi đều được chứng minh qua nhiều thế hệ. Những tấm gương sáng luôn cho tôi một động lực mạnh mẽ để tiếp tục hành trình học hỏi của mình. Một người em mà tôi quen dù sức khỏe không tốt nhưng em luôn khát khao được cắp sách tới trường với mong muốn được học hỏi. Dù vì sức khỏe không đảm bảo nhưng em vẫn cố gắng vượt qua, đã nhiều lần phải dừng việc học giữa chừng nhưng em vẫn tiếp tục đi học với nhiều ước mơ và khát khao học tập của bản thân mình. Còn rất nhiều, rất nhiều những tấm gương khác nữa. Con người luôn thích những cảm giác mới lạ. Và việc học hỏi sẽ mang đến cho bạn cảm giác mới lạ đó. Bởi kiến thức là vô cùng vô tận, những điều mới sẽ mang đến sự thích thú đối với bạn. Những điều mới lạ mà chân trời kiến thức rộng mở tạo ra chính vì thế mà không bao giờ khiến việc học hỏi trở nên nhàm chán cả.
Học hỏi là cả một hành trình dài. Quá trình ấy không bao giờ lặp đi lặp lại như một công việc nhàm chán nào đó. Chính vì thế mà việc học hỏi không bao giờ là nhàm chán cả. Và không có bất kì công việc gì là không nhàm chán ngoài việc học hỏi này đâu. Vì không có việc gì có thể đem lại thú vị như việc học hỏi. Bởi việc gì cũng có giới hạn của nó. Nhưng việc học hỏi là vô bờ bến. Không gì có thể sâu rộng như kiến thức, tri thức ngoài kia. Những gì mà bạn đã học hỏi được chỉ như một hạt cát trên sa mạc kiến thức mà thôi. Học hỏi luôn đem đến những cảm giác mới lạ vì những kiến thức mới mà bạn học được. Hãy học hỏi thêm những tri thức mới để làm giàu cho vốn hiểu biết của bạn. Chúng sẽ giúp đỡ rất nhiều cho cuộc sống sau này của bạn đấy.
Nghị luận xã hội về câu nói: Ai cũng biết tàn phá rừng là tự thắt cổ mình, vì đó chính là sự tàn phá môi trường sinh thái?
Câu trả lời của bạn
Từ khi có trái đất, loài người đã sinh sống được nhờ môi trường thiên nhiên xung quanh mình. Bầu không khí trong lành, nguồn nước mát và đặc biệt là màu xanh kỳ diệu của muôn cây lá khác nhau. Vì vậy nhân dân ta đã có câu “rừng vàng, biển bạc” để khẳng định giá trị của rừng và biển. Trong bài này, ta thử bàn bạc, tìm hiểu về rừng và nạn phá rừng sẽ dẫn đến điều gì?
Một số người không tin rằng: tàn phá rừng là tự thắt cổ mình, vì sự tàn phá đó chính là sự tàn phá môi trường sinh thái, tàn phá môi trường sống của chính mình. từ xưa đến nay, rừng, lá phổi xanh của con người có vai trò rất quan trọng để duy trì sự sống, để người hít thở sử dụng… Hiện nay, nạn phá rừng đang là mối lo cho các nhà sinh thái.
Trong thực tế, ai cũng biết rừng là nơi cung cấp nguyên liệu làm giấy, xây dựng nhà cửa và vật dụng trong gia đình. Thậm chí, phút cuối cuộc đời cũng nằm trong mấy tấm gỗ của rừng cây. Rừng còn là kho dược liệu vô cùng quý giá thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Rừng còn là nơi sinh sống, trú ngụ cho biết bao loài động vật, côn trùng khác, là nơi tạo ra… vô số các loài quý hiếm. Rừng phục vụ cho du lịch, là nơi nghỉ mát, nơi cắm trại lý tưởng cho mọi người… Rừng cần cho cuộc sống biết nhường nào. Nhưng quan trọng hơn hết rừng chính là môi trường sinh thái, là môi trường sống cho loài người. Các quá trình quang hợp của cây xanh liên tục xảy ra, hít khí cacbonic CO2 vào để rồi tạo khí Oxi – một thứ khí rất cần thiết cho cuộc sống. Đơn giản hơn, rừng chính là 1 “nhà máy lọc bụi tối tân nhất” mà chưa có 1 nhà máy nào trên thế giới có thể sánh nổi. Rừng điều tiết khí hậu. Rừng là lá chắn vững chắc nhất, là rào cản đầu tiên trước mọi biến động của thiên tai. Rừng cản lũ, cản lụt, rừng chống sa mạc hóa, rừng ngăn cát lấn đất, rừng giữ đất, nước… Khi đã hiểu được vai trò của rừng đối với môi trường sinh thái ta mới cảm nhận được hậu quả tai hại của việc làm tàn phá rừng. Có thích thú gì đâu khi đứng trên sa mạc cát nóng rát cháy cả đôi chân, đôi môi thì khô khốc, đắng cả miệng khắp nơi chỉ thấy có gió và cát bụi bay mịt mù. Lúc đó sao mà thèm một mảng xanh mát, một bóng râm, một vũng nước trong để có thể dừng chân nghỉ ngơi. Hoặc cảm giác chán chường khi thấy 1 ngọn núi toàn là đá, (có cây đâu mà giữ đất). Nguy hiểm hơn cả là vấn đề khí thở. Hằng ngày trên thế giới có biết bao nhiêu là nhà máy thải khí độc vào bầu khí quyển, biết bao bụi bặm trên các đường phố, biết bao con người đang chia nhau từng hớp không khí ô nhiễm dưới cái nắng chang chang, xung quanh chẳng có 1 tí bóng râm nào, chỉ toàn là khối bê-tông xám xịt, cao ngất che lấp cả bầu trời. Nếu vắng bóng rừng 1 khoảng thời gian dài, thì cả trái đất sẽ khô cứng lại, và cả nhân loại sẽ chết dần chết mòn. Lúc ấy, dẫu nhà cao cửa rộng, dẫu vàng bạc chất chồng, con người chỉ mong một cách rừng bạt ngàn xưa kia. Còn nữa, rừng vốn để chống thiên tai, bây giờ mất rừng rồi, mọi tai hoạ trước kia ít gây thiệt hại, nay bỗng chốc trở thành đại hoạ. Lũ lụt, sa mạc hoá, hạn hán, bão lụt xảy ra khắp nơi. Ngay thời điểm bây giờ, ở nước ta, lũ lụt và bão đang hoành hành ở nhiều nơi nguyên do cũng tại phá rừng. Thêm vào đó, thú rừng chẳng còn nơi sinh sống, sự đa dạng sinh học mất dần, nhiều loài động thực vật rơi vào tình trạng tuyệt diệt. Nếu thiếu rừng, thì còn gì là kho thuốc vô tận của thiên nhiên, lấy đâu ra nguyên vật liệu để phục vụ cho các ngành sản xuất, lấy gì làm chỗ nghỉ ngơi. Trước hiểm hoạ đó, con người phải làm gì? S.O.S báo động toàn thế giới. Đã đến lúc ta phải bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái.
Hội nghị quốc tế thượng cũng họp chỉ để bàn về 1 vấn đề duy nhất: bảo vệ môi trường. Uỷ ban bảo vệ môi trường sinh thái bằng nhiều cách khác nhau. Đó là vấn đề chung của toàn nhân loại. Riêng cá nhân ta, ta phải làm gì? Quá rõ: giảm thiểu việc khai thác rừng ngăn chặn triệt để việc phá rừng bừa bãi, bảo vệ rừng tốt hơn trong việc bảo vệ rừng. Không quá trễ để ta thực hiện nhiệm vụ bảo vệ rừng. Nhưng cũng không quá sớm để báo động về việc các cánh rừng đang biến mất khỏi trái đất. Chúng ta phải cùng nhau bảo vệ rừng, không để “nước đến chân mới nhảy”, lúc đó là quá muộn, con người đã tự giết mình.
Vậy “Tàn phá rừng chính là tự thắt cổ mình”, tự hủy hoại cuộc sống của chính chúng ta và cả một thế hệ tương lai.
Ở Việt Nam cũng như trên thế giới hiện nay, tình trạng phá rừng đang ở mức độ báo động đỏ. Hiện nay vẫn còn những kẻ phá rừng một cách vô thức, mặc dù rằng họ biết phá rừng là ai, nhưng cái sai đó ở mức độ như thế nào thì có lẽ họ chưa rõ.
Thật ra cái sai ấy rất nghiêm trọng. Họ có biết đâu rằng tàn phá rừng là tự thắt cổ mình vì sự tàn phá ấy chính là sự tàn phá môi trường sinh thái. Rừng từ xưa đến nay luôn luôn là người bạn tốt, trung thành, tận tụy phục vụ cho con người và không có gì nguy hiểm hơn khi mất rừng.
Rừng luôn luôn gắn liền với sinh hoạt con người. Vì xung quanh ta, bao giờ cũng tồn tại sự có mặt của rừng. Vì xung quanh ta, từ một căn biệt thự nguy nga cho đến một cây thước, đôi đũa bạn cầm trên tay đều là của rừng. Rừng còn là kho thuốc vô tận mà thiên nhiên ban phát cho con người.
Không những thế, rừng còn là một nhà máy lọc không khí vô tận nhất mà không một nhà máy nào trên thế giới sánh kịp. Rừng trao đổi dưỡng khí cho con người, cho chúng ta kho thuốc quý. Rừng chống sa mạc hóa, cản sự xói mòn đất. Rừng còn là nơi giải trí lý tưởng cho con người.
Thật không thể nào kể hết ích lợi của rừng với con người. Thế nhưng, con người đã trả công cho rừng bằng hành động tàn phá rừng một cách thô bạo. Tại sao chúng ta không thể nghĩ đến những nguy hiểm, tác hại khi mất rừng?
Khi rừng không còn tồn tại trên trái đất, trái đất sẽ khô cứng và lạnh lẽo biết nhường nào! Khi ấy, con người sẽ chết dần chết mòn khi đối diện với những ngôi nhà đồ sộ nhưng không có sự sống. Dẫu cho lúc đó có vàng bạc chất đống, con người cũng sẽ tiếc nuối những ngày tháng tươi đẹp đã qua, những ngày tháng mà cuộc sống gắn liền với màu xanh tươi, môi trường trong lành. Đến lúc ấy, sa mạc hóa sẽ diễn ra khắp nơi. Những tác hại mà trước kia ta không để ý tới, giờ đây trở thành thảm nạn, hạn hán khắp nơi, lũ lụt xảy ra liên tiếp. Thêm nữa là thú rừng không còn nơi sinh sống sẽ tràn xuống đồng bằng gây biết bao nhiêu tai họa. Nhân loại sẽ kiệt quệ với bầu không khí ô nhiễm nghiêm trọng. Con người sẽ chỉ còn chia nhau từng hớp không khí trong lành mà tiếc nuối, xót xa… Rõ ràng việc đốt rừng kéo theo nhiều hậu quả không lường được: nhiệt độ trái đất thêm nóng, bụi khói phủ nhiều nước. Từ đó những chứng bệnh trầm trọng phát sinh. Đúng là con người – có thể vô tình hoặc vì lợi ích cục bộ, trước mắt mà tàn phá rừng, đốt rừng – sẽ tự thắt cổ mình. Sai lầm ấy phải trả giá rất đắt, cho chính bản thân người phá rừng và cho cả cộng đồng. Ấy thế mà tốc độ tiêu diệt rừng càng nhanh trên phạm vi thế giới. Cảnh cháy rừng khủng khiếp ở Inđônêxia, ở Cà Mau… vừa qua là một bằng chứng hiển nhiên, tác động xấu đến nhiều nước trong vùng Đông Nam Á. Chẳng mấy chốc, rừng xanh biến mất! Biết bao cây quý, thú hiếm sẽ tuyệt chủng! Lẽ nào ta tự thắt cổ mình? Lẽ nào vì lợi nhỏ mà bỏ ích lớn. Hãy dừng cưa, dừng rìu hạ những cây cổ thụ phải hàng trăm năm mới có được. Hãy thận trọng khi cầm mồi lửa giữa rừng. Hãy trồng thêm cây, gây thêm rừng thay vì diệt cây rừng bừa bãi. Giữ lấy rừng, không phải cho hiện tại, mà cho các thế hệ tương lai nữa. Thực tế đã chứng minh rằng muốn có một cánh rừng, phải cần nhiều năm. Trong khi đó, phá hoại một khu rừng chỉ cần một thời gian ngắn. Điều đó buộc lương tri mọi người phải thức tỉnh và hành động. Hội nghị thượng đỉnh quốc tế tại Braxin chỉ để bàn về một vấn đề duy nhất cấp bách: nạn phá rừng và việc bảo vệ rừng. Liên Hiệp Quốc cũng đã phát động, tuyên truyền việc giữ những cánh rừng. Ở một số nước, hàng ngàn người xuống đường biểu tình đòi bảo vệ rừng như bảo vệ sự sống còn của hành tinh này. Ở nước ta, rừng nguyên sinh Cúc Phương, rừng Nam Cát Tiên, rừng Tràm Chim…. là những khu rừng rất quý. Nhà nước đã có pháp lệnh bảo vệ rừng nhưng đó đây cây xanh vẫn bị hạ, rừng vẫn bị cháy vì một số kẻ muốn mau giàu bằng cách bất chính. Phải chăng những cơn lũ lụt ở Lai Châu, ở đồng bằng sông Cửu Long, và gần đây nhất là ở các tỉnh miền Trung… cũng do phần quan trọng là rừng đã và đang bị phá, bị mất dạng, cần kiên quyết hơn với những hành động tàn phá rừng.
Dù sống ở thành thị, xa rừng, nhưng chúng ta vẫn phải quan tâm tới rừng. Rừng vô cùng cần thiết đối với đời sống con người mà phá rừng tức là tự chui đầu vào thòng lọng và siết cổ mình.
Nghị luận xã hội về cái đẹp trong thiên nhiên và trong xã hội?
Câu trả lời của bạn
Trong thực thể đẹp nghệ thuật dường như có tất cả mà cũng như không có riêng về một mặt nào của đời thực: quan hệ kinh tế – xã hội, chính trị, triết học, văn hóa, đạo đức, khoa học, nhân cách, lối sống và lời ăn tiếng nói, sự nghiệp vĩ đại và đời thường nhỏ nhặt, thế giới bên trong và mặt cắt bên ngoài, cá nhân và cộng đồng, xưa, nay và mai sau…
Đó là một hiện tượng xã hội sống động, chứa đựng biết bao số phận cụ thể có bản chất “tổng hòa những quan hệ xã hội” rất chung mà cũng rất riêng, rất quen thuộc mà cũng rất mới lạ. Chính thể nghệ thuật là "bản sao" sinh động, toàn vẹn cuộc sống xã hội nhưng đã vượt khỏi nguyên mẫu, lung linh tài năng sáng tạo và thấm đượm "cái tâm” vì con người, vì "người hơn" của quần chúng lao động mà nghệ sĩ là đại diện trung thực. Một tác phẩm có giá trị thẩm mỹ cao là kết quả của sự hòa quyện nhuần nhuyễn ba yếu tố cơ bản: phản ánh chân thực đời sống xã hội, độc đáo, đặc sắc sáng tạo nghệ thuật tình cảm nhân đạo, với ý thức xã hội tiên tiến.
Nhu cầu hướng tới cái đẹp của con người luôn luôn mang tính khẳng định: con người cần phải đẹp "cả khuôn mặt, cả quần áo, cả tư tưởng" (Tsêkhôp), và toàn bộ các quan hệ xã hội với những hoạt động cụ thể của chúng cũng cần phải "theo quy luật của cái đẹp" (Mác). Vì vậy, cái đẹp có quyền tuyệt đối tồn tại phát triển. Cái đẹp là chuẩn mực, thước đo để định giá và định hướng, là lý tưởng thẩm mỹ mang tính phổ biến trong mọi lĩnh vực sống của con người nói riêng, của xã hội nói chung. Chỉ từ cái đẹp người ta mới có thể phủ định cái ác, cái giả, cái cũ. Trong nghệ thuật cái đẹp càng hiện ra đầy đặn, rực rỡ càng cơ sức lôi cuốn, cổ vũ, cảm hóa.
Trước cái đẹp của con người và cuộc sống được mô tả trong tác phẩm nghệ thuật, tình cảm, thị hiếu phán đoán và lý tưởng thẩm mỹ của công chúng được khơi nguồn và rộng mở trực tiếp, chính diện và có ảnh hướng rõ ràng. Cảm thụ cái đẹp là cảm thụ đặc biệt tích cực, khoái cảm trước cái đẹp là niềm hân hoan, sự say mê vừa sâu vừa lâu bền. Thật là lạ, các cụ xưa đắng cay trăm nỗi, thế mà vẫn ngâm ngợi bông sen, con cò, cô Tấm, chàng Thạch Sanh, ông Bụt. Vào những khi xã hội lắm đảo điên, đời người đầy rẫy tang thương, nhân dân trông đợi ở nghệ sĩ không chỉ phê phán thực trạng tăm tối, mà chủ yểu là soi tỏ cho họ niềm tin vào sức sống nhân văn. Những "kết thúc có hậu", "đại đoàn viên" trong văn chương ta xưa dường như là một tất yếu nghệ thuật, một nguyên tắc đạo lý nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội – thẩm mỹ, mà nếu thiếu vắng chúng người ta sẽ mất đi chỗ dựa vững chãi trong cuộc đời thực. Ngay cả những nghệ sĩ hiện thực "phê phán nồng nhiệt" vì "nỗi đau về con người" (Đôbrôliubốp) cũng trăn trở tìm kiếm "con người tốt tuyệt vời" (Dôxtôiepxki), "con người mới" (Tsecnưsepxki), "niềm tự hào về con người", vì nghệ thuật cần "phù hợp với những đứa con của cách mạng" (Xtăngđan). Chính những nghệ sĩ đó đã tiếp nhận tự giác hay chưa thật tự giác tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa của quần chúng lao động, tư tưởng cách mạng trong xã hội đương thời. Không phải không từng có sự trùng khớp sóng đôi giữa sự rung chuyển tận gốc rễ xã hội và nghệ thuật sinh ra để đáp ứng yêu cần của sự rung chuyển đó: Đời sống không hiếm kỳ tích được lập nên do quần chúng tự giác, tự nguyện "gạt phăng hết đời tư nhỏ hẹp" để vươn tới thế giới mới đại đồng. Nghệ thuật nếu tự hào vào đám đông, vì đám đông, đương nhiên phải miêu tả "cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn" (Hồ Chí Minh) cái đẹp – anh hùng, cái đẹp – cao cả trong tầm vĩ mô hơn là dừng lại, đào sâu một bộ phận vi mô riêng lẻ. Đó là trường hợp văn thơ công xã Pari, nghệ thuật xô viết trong cách mạng tháng 10 và Chiến tranh vệ quốc, nghệ thuật Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến vừa qua. Khẩu đại bác tương lai bao nhiêu milimet sẽ nhằm vào ta khi hôm nay ta bắn súng lục vào "thứ văn nghệ ngợi ca" đó.
Giờ đây từ công cuộc đổi mới xã hội sâu sắc và toàn diện những nhân tố mới, những kết quả bước đầu quan trọng, những con người của CNXH đích thực đã xuất hiện và nhân lên mạnh mẽ. Quần chúng tin rằng nghệ sĩ và nghệ thuật sẽ đi cùng chiều và đi trước để ghi nhận, gây men, dự báo, định hướng. Muốn vậy, trước hết, nghệ sĩ phải có con mắt tinh đời nhìn thấy những cái mới mẻ. Nhưng sẽ không đơn giản một chút nào khi nhận thức và phản ánh cái mới, cái đẹp trong xã hội. Nhất là con người ngày nay năng động, cởi mở, nhảy vọt về tất cả mọi phương diện sống của nó, từ hoạt động thực tiễn, lối sống, nhân cách, lời nói đến ý thức, tư tưởng, tâm lý, tình cảm…
Tất nhiên, những thực thể hiện đại đó cũng phức tạp hơn, đa dạng hơn, nhiều ngõ ngách mê cung, nhiều nghịch lý “cái không thể trở thành cái có thể". Ở đây, sự hoạt động của cái đẹp, cái tốt, cái thật, cái mới không đứng ngoài những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của con người và xã hội. Đó chính là sự vận động của mọi cái đang tồn tại, những bước nhảy vọt của sự gián đoạn tính tiệm tiến, sự chuyển hoá thành mặt đối lập, sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới, như Lê nin đã nói. Vì vậy tách rời, cô lập cái mới, cái đẹp, cái tốt ra khỏi mối liên hệ môi trường khách quan quy định chúng và cơ thể tự vận động, phát triển chủ quan của chúng thì chúng chỉ là một cái xác thậm chí, một quà tặng vô duyên đối với công chúng. "Tơ hồng” cũng có nghĩa là “đánh lừa", dù xuất phát từ ý định thành thật biểu dương, ca ngợi đến mức nào.
Dự cảm, dự báo không phải là độc quyền hay ưu thế tuyệt đối của riêng nghệ thuật. Và cũng như bất cứ tư tưởng khoa học tiên tiến nào, nó là cái vốn có của ý thức thẩm mỹ chân chính khi nghệ sĩ nhận thức và phản ánh đúng đần những điều trông thấy trong đời sống xã hội và xu hướng biến đổi tất yếu khách quan của nó. Nghệ thuật không chỉ tiên đoán, dự báo về sự nảy sinh, phát triển và chiến thắng của cái mới, cái đẹp mà còn dự đoán quá trình cái cũ, cái xấu sẽ tàn lụi, mất đi dù hôm nay nó đang hoành hành. Tính đi trước của tư tưởng khoa học ở chỗ chỉ ra con đường thực tiễn và cái đích, đi tới của sự phát triển xã hội do nắm bắt được những nhu cầu đã chín muồi của đời sống hiện thực, vì vậy, nó có ý nghĩa lớn lao trong việc hướng dẫn tổ chức và giáo dục quần chúng lao động và các lực lượng tiến bộ giải quyết những nhiệm vụ mới do chính đời sống thực tiễn đề ra. Còn nghệ thuật lại hình tượng hóa dự cảm để bộc lộ cụ thể, sinh động lý tường thẩm mỹ, trong đó cái đẹp cần có sẽ có vai trò trung tâm, hạt nhân hợp lý, tập trung và chi phối toàn bộ dự cảm nghệ thuật. Trong dự cảm này chất tư tưởng khoa học tiên tiến về những quan hệ xã hội vừa là cơ sở khách quan trực tiếp vừa được hoà tan vào chất thẩm mỹ của cái đẹp được diễn tả. Đối với công chúng, dự cảm nghệ thuật đem lại chân lý, niềm tin của sự vươn tới về cái đẹp, gợi mở và thôi thúc hiện thực hóa nó thông qua sự tự thanh lọc, tự đồng hóa bằng chất men tình cảm và ý thức xã hội của chủ thể thường thức.
Xét ở góc độ thẩm mỹ, cái đẹp trong nghĩa đầy đủ và sâu sắc nhất của nó dường như là cái cốt lõi của nhân bản, gốc rễ của chất người, bởi vì con người sáng tạo thế giới và sáng tạo mình "theo quy luật của cái đẹp". Những cái đẹp người và cái nhân bản không phải là cái thuần túy trừu tượng, phi xã hội – lịch sử do bản chất hiện thực của con người là một chỉnh thể "tổng hòa mọi quan hệ xã hội". Từ đó, cái đẹp nhân bản không thể không gắn bó chặt chẽ với tất cả những gì tác động qua lại với con người: đời sống kinh tế – xã hội, chính trị, văn hóa, tư tưởng,… của một giai đoạn và thời đại của từng cộng đồng và tập đoàn xã hội nhất định và cả những điều kiện sống riêng của từng cá nhân, cá thể nào đó. Xét cho cùng, cái nhân bản, cái đẹp xã hội luôn mang tính cụ thể “chịu nhiều sự quy định" rất cụ thể, rất lịch sử và do đó chúng cũng biến đổi, phát triển trong sự phát triển chung toàn xã hội. Một xã hội thực sự cố tính loài, có nhân bản chỉ có thể tìm thấy ở xã hội cộng sản chủ nghĩa với bước đi ban đầu của nó là xã hội chủ nghĩa. Do chính là thế giới của chủ nghĩa nhân đạo, nhân bàn thực sự, của "chủ nghĩa cộng sản” với tính cách là sự xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu như là sự tự tha hóa của con người, và do đó coi như sự chiếm hữu một cách thực sự bản chất con người bởi con người và vì con người do đó, coi như việc con người xã hội, nghĩa là có tính chất người – sự quay trở lại này diễn ra một cách có ý thức và có giữ lại tất cả sự phong phú của sự phát triển đã đạt được" (C.Mác). Prômêtê và Sơn Tinh, Anna Karenina và Thúy Kiều là nhân loại đang đi tìm cái toàn nhân loại trong từng nấc thang nghiệt ngã của sự tiến triển lịch sử – cụ thể. Những Sêchxpia, Huy gô, Bandăc, Lêôna đơ Vanhxi, Beethoven, Tônxtôi, Goriki, Nguyễn Du không phải là những nhà nhân đạo chủ nghĩa của thế kỷ XXI, mà là những đại biểu khổng lồ đấu tranh cho lý tưởng nhân bản trong những không gian và thời gian đương đại của họ, và chính vì vậy họ trở thành bất tử, vĩnh hằng trong dòng đời vô tận. Gần đây, người ta đã đội đánh "chất người muôn thuở" đứng trên mọi xung đột xã hội để đánh đồng, đánh lộn, xóa sạch những cái vốn có ranh giới rõ ràng và đối lập trong mọi mặt của đời sống hiện thực. Người ta cũng treo biển "xem xét lại số phận và thiên chức con người" để mơn trớn, kích động những cái thấp hèn mà con người đích thực đang loại trừ hoặc co rút vào "bí ẩn vũ trụ riêng" để nhấm nháp, vuốt ve những mảnh tâm hồn tủn mủn, lạc lõng, thiếu hẳn một giá trị xã hội – thẩm mỹ cần thiết. Rút cục lại tất cả những cái mà người ta mệnh danh là "phát hiện", trở lại mình và "sáng tạo mới" trên đầy thực ra chỉ là sự vơ vào và nhai lại những "của nợ" mả cả lịch sử xã hội lẫn lịch sử nghệ thuật đã thải bỏ.
Trên tinh thần nghệ thuật hướng tới cái đẹp, cái nhân bản giá trị nhận thức – cảm hóa thẩm mỹ của nghệ thuật không loại trừ yêu cầu mô tả cái xấu, cái không nhân bản cái đối lập với cái đẹp và cái chất người. Trong những hoàn cảnh lịch sử nhất đinh và do yêu cầu phê phán xã hội, đối với một số nghệ sĩ nào đó, cái xấu được phản ánh, mô tả trực tiếp và gần như là duy.nhất (như Gôgôn, Vũ Trọng Phụng đã làm). Ở đây, cái xấu, cái ác được mô tả là cái chướng ngại của sự phát triển con người, thù địch với những gì là chất người dù ở một phạm vi sinh hoạt nhỏ nhất của nó. Những cái xấu, cái ác, dù ma quái "hấp dẫn", hoành hành ngang nhiên hay ẩn náu giấu mặt đến thế nào chăng nữa rút cục cũng không thoát khỏi định mệnh sòng phẳng là bị tiêu diệt, do mâu thuẫn bên trong của nó, do áp lực và sự trừng phạt của cái đẹp, cái tốt, cái mới. Chính nghệ thuật quá khứ, từ bi kịch cổ đại đến chủ nghĩa hiện thực phê phán đã thấm đượm tinh thần nhân đạo chiến đấu đến cách nhìn mang những nhân tố phủ định biện chứng nhất định.
Mô tả, phản ánh cái " không phải là chết người", nếu chỉ dừng lại ở hiện tượng bên ngoài, đơn giản, hoặc thổi phồng quá khích, tuyệt đối hoá như một tai họa vĩnh cửu, một bản chất duy nhất của xã hội với cái tâm thương vay hoặc thù hận, thì chỉ đem lại cho công chúng sự nhận biết hời hợt vô bổ, "lo âu" buồn nôn và “tuyệt vọng" trước cuộc sống đang cần phải vượt lên. Bôi đen thực chất là vi phạm tính chân thực nghệ thuật và tính chân thành của nghệ sĩ. Gốc rễ của thứ "sáng tạo bóng tối" này là cách nhìn đời qua tấm kính của một "linh hồn chết" không mảy may niềm tin vào con người với tư cách là chủ thể quyết định vận mệnh của chính nó và vì nó. Cơn khủng hoảng hiện nay của không ít khuynh hướng nghệ thuật tư sản là sự chối bỏ chúng của đông đảo quần chúng Phương Tây là một điều có thể cắt nghĩa được.
Quan điểm phê phán của chủ nghĩa nhân đạo đích thực bao giờ cũng gắn liền với sự xem xét thế giới trong tính cụ thể lịch sử, trong tính phát triển, đổi mới và cách mạng. Việc định rõ bản chất, cấp độ và phạm vi của cái xấu, cái ác cái giả có ý nghĩa nhận biết và cảm hóa rất cụ thể, rất thực tiễn đối với quần chúng. Một sự mô tả và phê phán cái xấu bằng cặp mắt tùy tiện, trùm lấp hay mơ hồ sẽ không ra khỏi tầm nhìn của anh chàng Chí Phèo chửi cả làng Vũ Đại nhưng ai cũng nghĩ "nó chừa mình ra". Có hành động dại dột, lỗi thời vì chúng sinh đau khổ của hiệp sĩ Đôn Kihôtê, có bệnh tâm thần của giai cấp cầm quyền lây lan đến tận tâm não anh cùng đinh A.Q có thời Ôblômôp và nhân cách cửa những linh hồn chết, có lão keo kiệt Grăngđê và người hùng hãnh tiến Saclơ, có Nghị Quế và có Xuân tóc đỏ, có Quỷ Mephixto và có bệnh sĩ của cậu giáo Thứ… Sự đa dạng, phong phú, phức tạp trong mô tả cái xấu cũng từ bản chất và cấp độ, phạm vi và vị trí của chính nó trong cuộc sống mà ra. Trước cái xấu được nghệ thuật trình diễn, quần chúng sẽ có được những gam cảm xúc tương ứng, hoặc căm giận, hoặc "vui vẻ tiễn biệt quá khứ" (Mác) hoặc “buồn bực đức hạnh" (Hêghen). Cuối cùng là, khi cảm nhận cái xấu, nhân dân ta nên cao hơn cái xấu và hướng tới cái tốt, cái đẹp. Nghệ thuật phán xét cái xấu một cách đúng đắn chính là "bông hoa của văn minh, rau quả của tinh thần xã hội phát triển" (Biêlinxki).
Con đường nghệ sĩ tiếp cận cái đẹp trong đời thực và đưa nó vào nghệ thuật là không đơn giản. Điều đó đòi hỏi năng lực toàn diện của nghệ sĩ. Vấn đề là ở chỗ: Công chúng khi tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật không thể "chỉ thấy tối sầm” mà phải có được ánh sáng để "nhảy qua bóng tối" đi tới cuộc sống cần có. Thật là buồn phiền, mấy năm trở lại đầy, nền nghệ thuật của chúng ta lặn ngập quá sâu vào đời thường mà hiệu quả xã hội của nó thật ít ỏi. Những bông hoa nghệ thuật chưa mọc lên rực rỡ, tác giả có tầm cỡ chưa xuất hiện. Công chúng nghệ thuật vẫn chờ đợi và vẫn tin rằng xã hội của chúng ta, với những xúc cảm lớn nhất định sẽ kết tinh được các giá trị nghệ thuật xứng đáng với cuộc đời.
Loài người chúng ta, từ thời “ăn lông ở lỗ” đến xã hội văn minh ngày nay, lúc nào cũng được sự che chở của “mái nhà thiên nhiên” mà sống vui, sống khỏe và phát triển không ngừng. Cho nên nói đến thiên nhiên ta cảm thấy nó rất gần gũi thân thương. Bởi “thiên nhiên là người bạn tốt của con người. Con người cần yêu mến và bảo vệ thiên nhiên”.
Chân lý ấy đã được khẳng định hùng hồn qua thực tế cuộc sống của con người chúng ta.
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu thiên nhiên là gì? Thiên nhiên là tất cả những gì ở bên ngoài con người, xung quanh con người, không do bàn tay của con người làm nên. Thiên nhiên còn là bầu trời, là rừng, là biển, là sông, là suối, là cây cỏ, chim muông… Tất cả những thứ đó luôn luôn ở bên cạnh con người để bảo vệ và giúp ích cho con người.
Từ bao đời nay, thiên nhiên là nguồn sống vô tận của con người: cơm, gạo, thịt, cá, cây trái, nhà để ở, nước để uống, quần áo để mặc, khí trời để thở… đều do thiên nhiên cung cấp. Con người càng lúc càng văn minh, càng tiến bộ đã tự mình tạo nên nhiều sản phẩm. Muốn làm được những điều ấy, con người rất cần sự giúp đỡ của thiên nhiên, từ đó ta lại càng thấy sự ích lợi của thiên nhiên nhiều hơn. Xưa kia con người cần mặt trời chỉ để sưởi ấm và chiếu sáng nay con người cần mặt trời để làm nguồn năng lượng quan trọng trong sản xuất và đời sống. Rừng xanh giờ đây không chỉ là nguồn lâm sản dồi dào với những cây gỗ quý, những cây thuốc chữa bệnh mà còn là nguồn điều hòa lũ lụt, là lá phổi khổng lồ để cho con người hít thở. Những dòng thác gầm réo, những con suối trong mát, những dòng sông cuồn cuộn chảy không chỉ là một bức tranh phong cảnh mà còn là con đường giao lưu, nguồn thủy sản, hơn thế nó còn là nguồn cung cấp điện năng khổng lồ.
Hơn nữa, thiên nhiên còn rất cần cho đời sống tinh thần của con người. Sau những ngày tháng làm việc vất vả cực nhọc trong phòng làm việc, trong nhà máy, ở trong thành phố chật hẹp đầy khói bụi, con người đến với thiên nhiên sẽ cảm thấy vô cùng sảng khoái, thiên nhiên sẽ giúp con người tái tạo lại sức khỏe, niềm vui sống và nhiệt tình lao động. Đôi khi được nhìn ngắm màu xanh của lá, nghe tiếng suối róc rách bên rừng, vui đùa trên bãi biển cũng đã khiến cho tâm hồn con người lấy được sự thư thái và thanh thản. Nhìn đóa hoa nở, ngắm cảnh chân trời, con người cũng có thể cảm nhận một niềm vui lớn quên hết những phiền muộn ưu tư. Chính thiên nhiên đã làm cho tâm hồn con người trở nên cao rộng mênh mông như trời như biển.
Vẻ đẹp của thiên nhiên còn đem đến cho con người khát vọng suy nghĩ về cái đẹp và sáng tạo nên cái đẹp cho mình. Cái đẹp của một cảnh bình minh, một cảnh hoàng hôn… làm xao xuyến bao nghệ sĩ để tạo nên thơ, ca, nhạc, họa. Nhà khoa học từ thiên nhiên mà rút ra những quy luật của sự sống để từ đó mà sáng tạo nên những công trình phục vụ cho cuộc sống con người. Thiên nhiên quả là nguồn sáng tạo của thơ ca nghệ thuật, là nguồn nghiên cứu phát minh của khoa học kĩ thuật.
Thiên nhiên có ích như thế, cần thiết với con người là thế. Cho nên từ xưa con người đã yêu mến và bảo vệ thiên nhiên như người bạn quý. Văn chương nghệ thuật bao giờ cũng trân trọng yêu quý thiên nhiên. Các nhà hội họa, nhà văn, nhà thơ, các nhạc sĩ đều dành cho thiên nhiên một tình cảm đặc biệt… Những bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ đã nâng giá trị vốn có của thiên nhiên lên một bậc. Đọc thơ của các thi sĩ ta càng thấy thiên nhiên muôn màu, muôn vẻ. Nguyễn Trãi thì:
"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yến im nặng vạy then”
Còn Nguyễn Du lại là:
“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng."
Đọc thơ Hồ Chí Minh ta lại thấy thiên nhiên thực sự là con người, là bạn đồng tâm, đồng chí, từ ánh trăng qua cửa sổ phòng giam hay núi rừng Việt Bắc, đến bóng cây cổ thụ, nhành hoa, tiếng suối giữa rừng đêm.
"Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa"
Mỗi chúng ta ai cũng hiểu được sự cần thiết của thiên nhiên trong cuộc sống của con người, thì phải có ý thức bảo vệ, giữ gìn thiên nhiên như một người bạn quý. Cho nên hơn lúc nào hết, chúng ta hãy thực hiện cấp bách nhiệm vụ “Hãy bảo vệ thiên nhiên” để tạo cho mình một cuộc sống tốt đẹp trong bầu không khí trong lành của thiên nhiên.
Nghị luận xã hội về biển Đông?
Câu trả lời của bạn
Biển đảo – Nơi mà hàng triệu người đang luôn bảo vệ. Biển đảo là một phần máu thịt của Tổ quốc, vì vậy có muôn vàn trái tim ngày đêm hướng về biển đảo, dành tình yêu cho những người lính biển cùng các chiến sĩ, các lực lượng ngày đêm bảo vệ chủ quyền biển đảo nước nhà. Những tưởng biển đảo bình yên với những con sóng nhẹ xô bờ, thế nhưng những ngày tháng này cả nước vẫn đang chống chịu với cơn sóng ngầm, bão giông, sóng gió chưa bao giờ lặng im trên mảnh đất xanh của Tổ quốc …
Là một học sinh, bản thân em luôn mang trong tim tình yêu biển đảo, tình yêu và lòng khâm phục tới những người lính biển, những ngư dân chân chất nơi đảo xa. Có chút chạnh lòng, xót xa, lo lắng khi biển xanh dậy sóng,… em mong rằng biển đảo sẽ bình yên, rạng rỡ nụ cười.
Khắp mọi miền trên Tổ quốc bao trái tim đang hướng về biển đảo, thế hệ học sinh chúng em cũng có những tình cảm đặc biệt đối với mảnh đất xanh của Tổ quốc, dành lòng khâm phục cho những người lính, những người nơi đầu sóng ngọn gió đang làm nhiệm vụ giữ gìn và bảo vệ chủ quyền đất nước. Đã có ai đó nói người lính đảo là linh hồn của biển cả, bởi tâm hồn các anh thấm đẫm vị của biển, từ làn da rám nắng đến tình yêu đều mang hơi thở của đại dương. Người lính biển đã trở thành hình tượng đẹp trên mặt trận biển cả. Với mỗi học sinh, sinh viên ý thức về tình yêu biển đảo và người lính biển dần càng lớn theo thời gian… Tình yêu ấy nở hoa và trỗi dậy mạnh mẽ theo tiếng gọi của những con sóng biển, những chuyến tàu chở người lính ra khơi, khi hòa chung nhịp đập vào những câu hát về biển.
Đó là những trái tim hồng, rực lửa yêu thương và khao khát được yêu thương. Đáp lại những trái tim ấy là bao tình cảm ấm lòng của những thế hệ thanh niên trẻ và nhân dân trong miền đất liền. Tình yêu ấy được thể hiện qua những câu chuyện cảm động,trong hành trình “Tuổi trẻ vì biển đảo quê hương 2011”, một sinh viên đã mang theo nắm đất từ đất liền ra Trường Sa với ý nghĩa để đảo bớt phần bé nhỏ trước biển cả. Câu chuyện đầy xúc động ấy đã gợi nhắc người ta nghĩ tới trách nhiệm hành động thật thiết thực và tích cực vì biển đảo quê hương, vì chủ quyền của dân tộc, bắt đầu cho cuộc vận động “Góp đá xây dựng Trường Sa”. Tình yêu đã viết nên những câu chuyện cổ tích. Tình cảm của người dân đất liền đối với những chiến sĩ, các lực lượng đang ngày đêm bảo vệ Tổ quốc ngày càng sâu đậm, đang in dấu trong lòng của những bé thơ trong từng lớp học, câu hát, bài thơ. Ánh mắt hồn nhiên, thơ ngây của các em cũng luôn hướng về các chú lính biển kiên cường. Hôm nay, ngày mai và cả tận sau này tình yêu về biển đảo và những người lính biển sẽ không bao giờ tắt mà như một ngọn đuốc vẫn bùng cháy mãnh liệt ngày đêm. Những câu chuyện cổ tích lại sẽ mở ra, tiếp nối và phát triển đất nước qua màu xanh của biển.
Em tin chắc rằng, ở nơi biển xa các anh cũng luôn hướng về đất liền nơi những người vợ, người mẹ hay người yêu đang sống với tình cảm nồng nàn thắm thiết… với nỗi nhớ da diết của con tim. Dù chưa một lần ra thăm đảo nhưng tình yêu mà em dành cho biển đảo đã có từ thời thơ bé qua sự dạy dỗ của gia đình, thầy cô, tình yêu ấy lớn dần khi em nhận thức rõ được tầm quan trọng của biển đảo đối với quê hương đất nước, khi em biết rằng đó là máu mủ thiêng liêng của Tổ quốc ta. Tình yêu ấy nở hoa qua những nụ cười của người lính biển để em thêm yêu và quý trọng các anh hơn.
Tình hình biển đảo Việt Nam hiện nay đang có những diễn biến phức tạp đe dọa trực tiếp đến chủ quyền lãnh thổ của dân tộc. Trước tình hình căng thẳng của biển Đông, “Thanh niên cần làm gì để bảo vệ Tố quốc?”, là câu hỏi nhận được sự quan tâm đặc biệt của các bạn trẻ khi đề cập đến thời sự biển Đông.
Biển đảo Việt Nam trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của người Việt Nam. Điều này đã được chứng minh bằng lịch sử và các tài liệu khoa học. Các tư liệu khoa học và pháp lý được công bố hiện nay, đều thể hiện quá trình khai phá, chiếm hữu và thực thi chủ quyền liên tục của Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. Tuy nhiên những năm gần đây, Trung Quốc đã có nhiều hành động xâm hại đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam: bắt ngư dân Việt làm ăn, tấn công các tàu Việt trên vùng biển của chính Việt Nam, ngang ngược xây dựng thành phố Tam Sa trên quần đảo Hoàng Sa…
Những hành động nói trên của phía Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; xâm phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển của Việt Nam; vi phạm Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ký tháng 10/2011; trái với tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Tuyên bố cấp cao kỷ niệm 10 năm DOC, làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp.
Hành động của thanh niên hiện nay: Để bảo vệ chủ quyền biển đảo, thanh niên, học sinh cần nghiên cứu và nhận thức sâu sắc về ý nghĩa thiêng liêng chủ quyền biển đảo và giá trị to lớn chủ quyền mà ông cha ta đã đổ xương máu để xây dựng; về lịch sử Việt Nam đặc biệt là lịch sử địa lý liên quan đến chủ quyền biển đảo, về lịch sử hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa… tìm hiểu rõ chính sách ngoại giao nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề biển Đông cũng như nội dung của luật pháp, chế độ pháp lý của các vùng biển theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982.
Thanh niên cần hưởng ứng tích cực các diễn đàn hợp pháp trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên internet, khẳng định chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên các diễn đàn, đồng thời kịch liệt lên án và đấu tranh tham gia ngăn chặn các hành vi xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Thanh niên phải là hậu thuẫn, là chỗ dựa tình cảm vững chắc của những người lính biển đảo, bằng những việc làm thiết thực như gửi thư đến các lính Hải đảo để chia sẻ động viên và tiếp sức cho các anh thêm nghị lực để trông giữ biển đảo.
Điều quan trọng nữa là không ngừng tu dưỡng phẩm chất người Việt Nam mới, tích cực tham gia xây dựng đất nước giàu mạnh, có định hướng lý tưởng yêu nước và đoàn kết thì chúng ta sẽ kết nối khối sức mạnh lớn đủ sức bảo vệ chủ quyền biển đảo. Bên cạnh đó sẵn sàng chuẩn bị tinh thần tham gia trực tiếp vào công cuộc giữ gìn biển đảo quê hương bằng tất cả những gì mình có thể.
Biển đảo Việt Nam là một phần lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời của Tổ quốc được cha ông truyền lại. Trách nhiệm của tuổi trẻ nói riêng là ra sức gìn giữ toàn vẹn phần lãnh thổ này như lời Bác Hồ năm xưa đã dặn “các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước”.
Nghị luận vấn đề biến đổi khí hậu?
Câu trả lời của bạn
Có một câu nói được khá phổ biến thế này: Con người đối xử với thiên nhiên như thế nào thì thiên nhiên sẽ đối xử với con người như thế ấy. Với tốc độ tăng trưởng chóng mặt của các nền kinh tế, sự xuất hiện tràn lan của các khu công nghiệp và số lượng ngày càng tăng lên của phương tiện giao thông, mặt trái của sự phát triển đang ngày càng đặt ra những thách thức khó giải quyết về môi trường đối với tất cả loài người trên địa cầu. Một trong những vấn đề nhức nhối nhất chính là biến đổi khí hậu.
Thực vậy, nhân loại đang đứng trước nguy cơ bị diệt vong do tác động của nạn ô nhiễm môi trường dẫn đến sự biến đổi khí hậu và những thiên tai gần đây như động đất, sóng thần, núi lửa… đang gây nên những hiểm họa khôn lường cho nhân loại. Các nhà khoa học gọi chung nguồn gốc của những vấn đề ấy là Biến đổi khí hậu. Vậy thực chất biến đổi khí hậu là gì? Theo định nghĩa của Công ước Khung Liên Hiệp Quốc, biến đổi khí hậu là sự thay đổi của khí hậu, được quy định trực tiếp hay gián tiếp là do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần khí quyển, và đóng góp thêm vào sự biến động khí hậu tự nhiên quan sát được trong khoảng thời gian so sánh được.
Có rất nhiều biểu hiện của việc khí hậu bị biến đổi. Đặc trưng nhất là sự nóng lên toàn cầu. Sự nóng lên toàn cầu được thể hiện rất rõ ràng với việc nhiệt độ trái đất ngày càng nóng lên gây hiện tượng El-nino, sự tan băng trên diện rộng và mực nước biển dâng cao bất bình thường. Điều này gây nên những hậu quả không thể lường trước được đến chính đời sống con người trên mọi quốc gia hay vùng lãnh thổ.
Nguyên nhân trực tiếp gây nên những điều đó là hiệu ứng nhà kính. Theo các nghiên cứu, hiệu ứng nhà kính tự nhiên giúp duy trì và phát triển sự sống ở trái đất. Nhưng dưới tác động của khí thải xả ra môi trường trong hoạt động sản xuất, phát triển công nghiệp, hiệu ứng nhà kính có diễn biến phức tạp và biến đổi theo hướng tiêu cực. Vậy nhưng đó chỉ là nguyên nhân trên bề mặt. Nguyên nhân sâu xa, là nguồn cơn của mọi chuyện lại chính là do con người. Sự tác động của con người tới thiên nhiên như: chặt phá rừng mất cân bằng sinh thái, sử dụng hóa chất như thuốc sâu, thuốc cỏ thiếu khoa học, rồi khói và chất thải công nghiệp, chất thải đô thị xả trực tiếp ra môi trường bên ngoài mà không qua xử lý đã làm thủng tầng ozon gây nên hiệu ứng nhà kính và tình trạng nóng dần lên của trái đất. Con người không ngừng xây dựng, đục khoét trái đất, xây hầm, khai thác mỏ làm biến dạng lớp vỏ trái đất. Con người với những hận thù, tham vọng bá chủ thế giới, không ngừng chạy đua vũ trang, sản xuất vũ khí hóa học, bom đạn, gây chiến tranh liên miên…
Tất cả việc làm của con người sẽ dẫn đến sự giận dữ của thiên nhiên và báo hiệu sự diệt vong của trái đất. Rồi đến một ngày nào đó, nhân loại sẽ bị diệt vong do chính những việc làm mà mình gây ra. Và điều đó đang xảy ra ngay trong chính cuộc sống của chúng ta, diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Trước tiên, biến đổi khí hậu và lượng cacbon dioxit ngày càng tăng cao đang thử thách các hệ sinh thái của chúng ta. Hậu quả là thiếu hụt nguồn nước ngọt, không khí bị ô nhiễm nặng, năng lượng và nhiên liệu khan hiếm. Và kéo theo là hàng loạt các vấn đề y tế, xã hội liên quan khác không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta mà còn là vấn đề sinh tồn. Không chỉ vậy, nhiệt độ Trái Đất tăng cao bất thường đang làm cho các loài sinh vật biến mất hoặc có nguy cơ tuyệt chủng. Khoảng 50% các loài động thực vật sẽ đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng vào năm 2050 nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm từ 1,1 đến 6,4 độ C nữa. Sự mất mát này là do mất môi trường sống vì đất bị hoang hóa, do nạn phá rừng và do nước biển ấm lên. Các nhà sinh vật học nhận thấy đã có một số loài động vật di cư đến vùng cực để tìm môi trường sống có nhiệt độ phù hợp. Ví dụ như là loài cáo đỏ, trước đây chúng thường sống ở Bắc Mỹ thì nay đã chuyển lên vùng Bắc cực.
Về kinh tế: Các thiệt hại về kinh tế do biến đổi khí hậu gây ra cũng ngày càng tăng theo nhiệt độ trái đất. Các cơn bão lớn làm mùa màng thất bát, tiêu phí nhiều tỉ đô la; ngoài ra, để khống chế dịch bệnh phát tán sau mỗi cơn bão lũ cũng cần một số tiền khổng lồ. Khí hậu càng khắc nghiệt càng làm thâm hụt các nền kinh tế.Các tổn thất về kinh tế ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống. Người dân phải chịu cảnh giá cả thực phẩm và nhiên liệu leo thang; các chính phủ phải đối mặt với việc lợi nhuận từ các ngành du lịch và công nghiệp giảm sút đáng kể, nhu cầu thực phẩm và nước sạch của người dân sau mỗi đợt bão lũ rất cấp thiết, chi phí khổng lồ để dọn dẹp đống đổ nát sau bão lũ, và các căng thẳng về đường biên giới.
Chưa bao giờ giới y học lại bất lực trước các chủng loại virus, vi khuẩn như hiện nay. Nhiệt độ tăng cùng với lũ lụt và hạn hán đã tạo điều kiện thuận lợi cho các con vật truyền nhiễm như muỗi, ve, chuột,… sinh sôi nảy nở, truyền nhiễm bệnh gây nguy hại đến sức khỏe của nhiều bộ phận dân số trên thế giới. Tổ chức WHO đưa ra báo cáo rằng các dịch bệnh nguy hiểm đang lan tràn ở nhiều nơi trên thế giới hơn bao giờ hết. Những vùng trước kia có khí hậu lạnh giờ đây cũng xuất hiện các loại bệnh nhiệt đới.Hàng năm có khoảng hơn 150 ngàn người chết do các bệnh có liên quan đến biến đổi khí hậu, từ bệnh tim do nhiệt độ tăng quá cao, đến các vấn đề hô hấp và tiêu chảy ảnh hưởng đến một bộ phận không nhỏ dân số thế giới. Thậm chí ở một số quốc gia đã có sự xuất hiện của vi khuẩn kháng kháng sinh gây rối loạn cho việc nghiên cứu vắc-xin phòng bệnh. Ngay cả ở Việt Nam, chúng ta cũng đang cùng chung một số phận như vậy.
Trong khi đang chờ đợi những quyết sách ở các cuộc họp bàn của các nhà khoa học, các nguyên thủ quốc gia, mỗi người trong chúng ta hãy tự cứu lấy mình bằng cách chung tay bảo vệ môi trường thông qua những hành động thiết thực: Không đốt phá rừng, khai thác khoáng sản một cách bừa bãi, gây huỷ hoại môi trường, làm mất cân bằng sinh thái. Không thải dầu, mỡ, hóa chất độc hại, chất phóng xạ quá giới hạn cho phép, các chất thải, xác động vật, thực vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn độc hại và gây dịch bệnh vào nguồn nước; không chôn vùi, thải vào đất các chất độc hại quá giới hạn cho phép; các quốc gia cam kết không sử dụng và sản xuất vũ khí hóa học, không gây chiến tranh; nếu dùng điện hạt nhân phải có quy trình chặt chẽ để bảo quản tránh sự cố khủng khiếp có thể xảy đến bất cứ lúc nào.Nhà nước phải xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm…Đặc biệt cần nâng cao ý thức cũng như kiến thức bảo vệ môi trường cho học sinh, sinh viên – lứa tuổi gánh vác trên mình trọng trách của đất nước trong tương lai không xa.
Để có một tương lai tươi sáng, việc khắc phục và cải tạo thiên nhiên cần đặt lên hàng đầu. Con người nên nhớ chỉ một hành động rất nhỏ của mình cũng có thể đẩy trái đất đi đến ngày tận thế. Đồng thời cả nhân loại phải cùng chung tay giải quyết biến đổi khí hậu – một vấn đề toàn cầu chứ không phải vấn đề của riêng quốc gia hay cá nhân nào khác.
Nhân loại đang đứng trước nguy cơ bị diệt vong do tác động của nạn ô nhiễm môi trường dẫn đến "sự biến đổi khí hậu và những thiên tai gần đây như động đất, sóng thần, núi lửa… đang gây nên những hiểm họa khôn lường cho nhân loại".
Từ vài năm trở lại đây nhân loại phải đứng trước những đe dọa của thiên nhiên, thiên tai và dịch bệnh gây nguy hại cho đời sống con người. Còn nhớ năm 2005, sóng thần đã cuốn trôi hàng chục ngàn người ở Thái Lan và Indonesia. Năm 2008, động đất làm tan hoang Tứ Xuyên (Trung Quốc). Và mới đây nhất, tháng 3/2011, động đất và sóng thần đã làm cho Nhật Bản trở thành vùng đất chết. Hơn hai mươi ngàn người chết, cơ sở vật chất kinh tế bị tàn phá nặng nề. Ngoài những biến cố về động đất, sóng thần, ta còn gặp những hiện tượng thời tiết lạ như: El Nino đã gây hạn hán ở Australia và lụt lội ở Nam Mỹ (2006-2007). Hiện tượng băng tan ở Bắc cực, lụt lội ở Thái Lan. Việt Nam (2010). Ngày càng nhiều làng "Ung thư" xuất hiện ở Việt Nam và thế giới… đây là những con số đáng báo động, cho thấy sự nổi giận của thiên nhiên trước những sai lầm của con người.
Nguyên nhân dẫn đến những hậu quả trên là do: Sự tác động của con người tới thiên nhiên như: chặt phá rừng mất cân bằng sinh thái, sử dụng hóa chất như thuốc sâu, thuốc cỏ thiếu khoa học. Rồi khói thải công nghiệp, khói thải đô thị làm thủng tầng OZon gây nên hiệu ứng nhà kính và tình trạng nóng dần lên của trái đất. Con người không ngừng xây dựng, đục khoét trái đất, xây hầm, khai thác mỏ làm biến dạng lớp vỏ trái đất. Con người với những hận thù, tham vọng bá chủ thế giới, không ngừng chạy đua vũ trang, sản xuất vũ khí hóa học, bom đạn, gây chiến tranh liên miên… Tất cả sẽ dẫn đến sự giận dữ của thiên nhiên và báo hiệu sự diệt vong của trái đất. Theo lịch của người Maya năm 2012 là năm tận thế, nhà tiên tri Vanga dự đoán: sau năm 2010 sẽ là động đất, núi lửa và sóng thần… nay đang trở thành sự thật.
Nhân loại phải hành động như thế nào?
Hãy chung tay bảo vệ môi trường bằng những hành động thiết thực: Không được: đốt phá rừng, khai thác khoáng sản một cách bừa bãi, gây huỷ hoại môi trường, làm mất cân bằng sinh thái. Không thải dầu, mỡ, hóa chất độc hại, chất phóng xạ quá giới hạn cho phép, các chất thải, xác động vật, thực vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn độc hại và gây dịch bệnh vào nguồn nước; không chôn vùi, thải vào đất các chất độc hại quá giới hạn cho phép; các quốc gia cam kết không sử dụng và sản xuất vũ khí hóa học, không gây chiến tranh; nếu dùng điện hạt nhân phải có quy trình chặt chẽ để bảo quản tránh sự cố khủng khiếp như vụ nổ lò phản ứng hạt nhân ở Nhật (2011), vụ nổ lò hạt nhân Checnobun ở Nga (1986) gây bao đau thương cho con người.
Vì tương lai của trái đất, của nhân loại, bạn và tôi hãy chung tay bảo vệ môi trường!
Bệnh dịch, chiến tranh,…đều là những nỗi lo lớn của toàn xã hội. Và biến đổi khí hậu luôn là vấn đề nóng hổi được đưa ra để tranh luận. Nó không là vấn đề của riêng một quốc gia nào mà là vấn đề chung của toàn xã hội.
Biến đổi khí hậu là sự thay đổi của khí hậu diễn ra trong một khoảng thời gian dài, tác động đến môi trường sống của nhiều sinh vật trên Trái Đất. Nó có thể là sự nóng lên của trái đất, sự dâng cao mực nước biển do tan băng, sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên.
Nguyên nhân dẫn tới việc biến đổi khí hậu vô cùng đa dạng. Nó có thể là do sự thay đổi của môi trường thiên nhiên, hiệu ứng nhà kính tăng lên trong khí quyển ở mức độ cao…Tuy nhiên nguyên nhân có tác động lớn nhất chính là do con người. Vì mật độ dân số gia tăng nhanh chóng, nhu cầu nhà ở, lương thực tăng cao, các nhà máy xí nghiệp được xây dựng nhiều…Trong khi đó, rừng bị khai thác và phá hủy, nhiều loài động vật hoang dã gần như rơi vào tuyệt chủng…Sự mất cân bằng trong hệ sinh thái đã dẫn đến những thay đổi trong khí hậu trên toàn cầu.
Biến đổi khí hậu đang tác động rộng lớn trên toàn thế giới. Từ vài năm trở lại đây nhân loại phải đứng trước những đe dọa của thiên nhiên, thiên tai và dịch bệnh gây nguy hại cho đời sống con người. Băng tan hai cực, sóng thần,… lần lượt các thảm họa thiên tai diễn ra trên diện rộng trên nhiều quốc gia. Ngay như ở Việt Nam, bão lũ cũng xảy ra với tần suất cao và cường độ mạnh, ngày càng có nhiều làng "ung thư" xuất hiện,…
Việt Nam là một nước dễ bị thiên tai và đặc biệt bị ảnh hưởng bởi các rủi ro liên quan đến khí hậu nên cần có những biện pháp để làm thay đổi những biến đổi khí hậu. Dự án phủ xanh đồi trọc được đưa ra và triển khai trên nhiều vùng miền đất nước. Ngoài ra, Việt Nam cũng đưa ra nhiều biện pháp, chính sách nhằm bảo vệ các loài động vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng chính là ý thức của người dân. Chúng ta cần nâng cao nhận thức của mọi người về biến đổi khí hậu đồng thời tuyên truyền các biện pháp để cải thiện và bảo vệ môi trường.
Biến đổi khí hậu không phải là vấn đề của riêng ai. Quan tâm và chung tay hành động, chúng ta sẽ giúp cho Trái Đất ngày một xanh tươi, cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn.
Nghị luận xã hội về thói hư tật xấu?
Câu trả lời của bạn
Khi đất nước đang ngày càng phát triển và hòa nhập với kinh tế thế giới thì có rất nhiều cơ hội đặt ra. Cần phải biết nắm bắt thời cơ cũng như điều kiện thuận lợi để phát triển mình. Tuy nhiên bên cạnh đó có rất nhiều thách thức còn tồn tại, ủ mầm cần được phát hiện và triệt tiêu. Một trong những thách thức đó chính là thói hư tật xấu.
Thói hư tật xấu ở thời đại nào, xã hội nào cũng có những khi nhu cầu của con người ngày càng cao, kinh tế phát triển thì dường như nó càng lây lan mạnh hơn. Thói hư tật xấu chính là những thói quen không tốt, không phù hợp với thuần phong mỹ tục của đất nước, những hành vi vô văn hóa, thiếu lịch sự. Tất cả sẽ tạo thành thói quen và dần dần hình thành tính cách không tốt của bản thân người đó. Thói hư tật xấu chỉ là một từ ngữ gói gọn rất nhiều hành vi không đúng, vi phạm xã hội, vi phạm nhân phẩm.
Biểu hiện của thói hư tật xấu không hề hiếm trong xã hội hiện nay. Chúng ta có thể thấy rất nhiều khi đi trên đường, trong nhà trường, nơi công sở…Có thể kể đến một số biểu hiện cụ thể như: trộm cắp, hút thuốc lá, chích ma túy, chơi bời, vô văn hóa, thiếu lịch sự với bố mẹ và những người xung quanh. Những hình vi này từ mức thấp nhất sẽ dần hình thành nên thói quen khó bỏ, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển xã hội cũng như nhân cách của con người đó.
Hằng ngày chúng ta vẫn thường nghe những câu văng tục, chửi thề ngay khi đi trên đường. Có thể họ không chửi ai cụ thể, chỉ là câu cửa miệng nhưng đây là điều không nên, vì nó làm mất đi sự thanh lịch và nét đẹp văn hóa giao tiếp.
Gần đây nạn trộm cắp đang diễn ra khá phức tạp ở lứa tuổi còn rất trẻ. Chắc chắn bạn đã từng gặp nhiều em học sinh cấp 2, cấp 3 bị công an xã gọi đến làm việc vì tội trộm cắp tài sản để tiêu xài cũng như thỏa mãn một số nhu cầu cá nhân. Đáng nhẽ ra lứa tuổi này cần được giáo dục và rèn luyện đến nơi đến chốn, ý thức của các em cần phải hiểu biết nhưng các em đã tự hủy hoại đi nhân phẩm bằng những hành vi xấu như thế này.
Không chỉ dừng lại ở đó, các em vì quá trẻ nên rất dễ bị những người lớn tuổi hơn, ranh ma hơn dụ dỗ làm những việc sai trái. Từ việc trộm cắp vặt, các em đã bị lôi kéo vào đường dây cướp giật có tổ chức. Các em bị sa vào vũng bùn, ở đó các em thành những kẻ đầu đường xó chợ, trắng trợn cướp bóc, rồi chích hút…Tất cả những hành vi đó sẽ dẫn đến hậu quả xấu mà có thể các em vẫn ước chừng được trước.
Tương lai của các em, nhân phẩm của các em sẽ chẳng mấy chốc bị hủy hoại trong bàn tay của chính mình. Điều này thật đáng buồn biết bao.
Thói hư tật xấu trong xã hội hiện nay diễn ra với tốc độ chóng mặt, rất khó kiểm soát. Nếu không kịp thời ngăn chặn tình trạng trên thì chắc chắn rằng xã hội này ngày càng loạn lạc. Cơ quan chức năng, chính quyền cần có biện pháp cụ thể vừa răn đe, vừa khuyên nhủ để đưa các em trở về với cuộc sống thường ngày, hòa nhập cộng đồng.
Để ngăn chặn, làm hạn chế những thói hư tật xấu ảnh hưởng không tốt đến xã hội và bản thân bạn thì đòi hỏi nhận thức của mỗi người cần được nâng cao. Đây chính là điều tiên quyết có thể giúp bạn vượt qua những cám giỗ đề hòa nhập xã hội, hoàn thiện bản thân mình nhiều hơn.
Thế hệ trẻ hiện nay cần nhận thức rõ được thói hư tật xấu sẽ có sức công phá lớn như thế nào để tránh và không sa vào. Đó chính là ý thức và bản lĩnh của mỗi người.
Như vậy thói hư tật xấu ngày càng diễn ra phức tạp trong xã hội. Bởi vậy yêu cầu mọi người cần phải có sự kiên nhẫn chống lại cái xấu, rèn luyện bản thân mình ngày càng tốt đẹp hơn.
Nghị luận xã hội về văn hóa cảm ơn?
Câu trả lời của bạn
Khi đất nước ngày càng phát triển thì văn hóa của con người cũng cần được trau dồi và nâng cao hơn nữa. Nét đẹp văn hóa là nét đẹp tinh thần, là thước đo nhân cách của một con người. Và văn hóa cảm ơn chính là một trong những nét đẹp cần phát huy và gìn giữ ở một con người.
Cảm ơn chính là một cách thể hiện tình cảm, lối ứng xử lịch sự, lễ phép, biết tôn trọng đến những người xung quanh mình. Văn hóa cảm ơn chính là nét đẹp vốn có của một con người, tuy nhiên nó lại được xây dựng từ những hành vi của chính bản thân mình. Mặc dù nó chỉ là những hành vi nhỏ nhặt nhưng lại có thể đánh giá được nhân phẩm của một con người.
Văn hóa cảm ơn hiện nay thực ra không khó tìm, ngược lại nó tràn lan và rất phổ biến; chúng ta có thể nghe và bắt gặp ở bất kỳ đâu lời nói cảm ơn. Trong cuộc sống khi chúng ta nhận được sự giúp đỡ từ ai đó thì thường chúng ta sẽ nói “cảm ơn” họ vì đã giúp mình. Đây là một biểu hiện rất phổ biến của nét đẹp văn hóa này.
Nét đẹp của lối sống ngày diễn ra thường xuyên biểu hiện ở lời nói, cử chỉ, hành động và nằm ngay trong chính tình cảm của mỗi người. Cảm ơn thực ra chỉ là một cách hành xử biết điều, lễ phép, lịch sự. Nét đẹp này không phô trương ra bên ngoài nhưng lại khiến người xung quanh yêu quý mình. Hằng ngày chúng ta gặp gỡ bao nhiêu chuyện, tiếp xúc bao nhiêu chuyện. Lời cảm ơn khi được bạn bè giúp đỡ, cảm ơn khi đi lạc đường được một người lạ chỉ giúp, cảm ơn vì hôm nay xe thủng xăm và có người đèo mình về. Chỉ là một lời nói đơn giản và rất dễ dàng thể hiện. Hoặc đơn giản hơn là nói lời cảm ơn ba mẹ vì đã nuôi dạy mình lớn khôn, có thể tự lập được. Nhưng dường như lời nói cảm ơn với ba mẹ lại khó khăn vì bạn nghĩ nó sáo rỗng, không thật. Đây là lời cảm ơn chân thành nhất mà ba mẹ vẫn mong một lần con cái sẽ nói với mình.
Văn hóa cảm ơn sẽ khiến cho những trái tim kéo gần lại với nhau hơn. Nó cùng phần nào hình thành tính cách và thói quen cho một người trong việc ứng xử.
Tuy nhiên có lẽ hiện nay do cuộc sống quá vội vàng, gấp gáp, nhiều người dường như đã dần quên mất nét đẹp văn hóa cảm hơn. Họ sống vội, nghĩ vội, và đương nhiên lời cảm ơn ai đó cũng không kịp nói. Đây là một hiện thực đáng buồn, nhất là ở giới trẻ. Khi được mọi người giúp đỡ, nhưng lại quên mất đi lời nói cảm ơn. Có nhiều lần bạn hơi thất vọng và hụt hẫng khi vừa giúp một bạn tìm đường nhưng không được nhận lại một lời cảm ơn. Không phải bạn quan trọng, mong chờ quá nhiều đến lời nói. Chỉ là bạn thấy con người ta hình như đã quên mất đi phải nói cảm ơn người khác, quên mất nét đẹp văn hóa này.
Thực ra lời nói cảm ơn không quan trọng, chỉ là chúng ta đang dần đánh mất đi nét đẹp văn hóa mà cha ông ta đã gìn giữ từ ngàn đời nay.
Để có thể gìn giữ và phát huy nét đẹp văn hóa này thì mỗi người chúng ta cần phải thường xuyên trau dồi bản thân mình, rèn luyện cách ứng xử với những người xung quanh một cách đúng mực nhất. Để văn hóa cảm ơn trở thành nét đẹp văn hóa đáng được trân trọng.
Từ lâu, văn hóa ứng xử đã trở thành chuẩn mực trong việc đánh giá nhân cách con người. Cảm ơn là một trong các biểu hiện của ứng xử có văn hóa, là hành vi văn minh, lịch sự trong quan hệ xã hội. Trong ứng xử giữa cộng đồng, khi lời cảm ơn được trình bày một cách chân thành, một mặt phản ánh phẩm chất văn hóa của cá nhân, một mặt giúp mọi người dễ cư xử với nhau hơn. Trong nhiều trường hợp, lời cảm ơn không chỉ đem niềm vui tới người nhận, chúng còn trực tiếp giải tỏa khúc mắc, gỡ rối các quan hệ, và con người cũng vì thế mà sống vị tha hơn.
Trước đây, trong quan hệ xã hội mọi người cảm ơn nhau là chuyện rất bình thường. Khi ai đó làm điều gì tốt với bạn hoặc giúp bạn một điều gì đó bạn nói lời cảm ơn. Có thể hiểu “cảm ơn” là lời bày tỏ thái độ biết ơn, cảm kích trước lời nói, hành động hay sự giúp đỡ của một ai đó. Người nhận được lời cảm ơn của bạn sẽ cảm thấy vô cùng hài lòng bởi vì họ nghĩ rằng bạn đã hiểu được tấm lòng và sự chân thành mà họ dành cho bạn. Thế nhưng, ngày nay dường như văn hóa “cảm ơn” đã bị dần dần lãng quên. Có thể do mọi người phải chạy theo dòng chảy của cuộc sống, sống gấp hơn, vội vàng hơn và dễ dàng cho qua những thứ mà họ nghĩ là vụn vặt, không cần thiết trong đó có từ “cảm ơn”. Đôi khi nhận được sự giúp đỡ họ chỉ gật đầu ý rằng đã nhận được hoặc đã hiểu, có khi họ không nói gì biểu hiện một điều tất nhiên mà bạn phải làm cho họ. Điều này biểu hiện rất rõ ở các mối quan hệ trên dưới: bố mẹ - con cái, sếp - nhân viên,..Có thể họ nghĩ nếu nói cảm ơn bạn thì sẽ hạ thấp vị trí của họ hay ảnh hưởng đến điều gì đó bởi nó quá tầm thường. Đã bao giờ bạn tự hỏi “khi bạn làm điều gì để giúp đỡ ai đó, bạn mong nhận được điều gì từ đó”, phải chăng là một món quà, hoặc họ sẽ trả công bằng tiền bạc, tôi chắc chắn là những thứ đó sẽ được nghĩ đến sau hai từ “cảm ơn”. Vậy thì tại sao bạn không nói cảm ơn những người đã giúp đỡ bạn dù là một việc nhỏ nhoi đi chăng nữa, bởi đó là tấm lòng của họ. Quan trọng hơn, nói “cảm ơn” đồng nghĩa với việc bạn đã ý thức rất rõ về bản thân mình, biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính mình, dám dũng cảm nhận ra lỗi lầm của mình, biết quý trọng sự giúp đỡ của người khác. Nói tóm lại, biết nói lời cảm ơn và xin lỗi là biểu hiện của một lối sống có văn hóa và giàu ý thức tự trọng. Bạn đã từng nói cảm ơn bố mẹ vì bố mẹ đã sinh ra bạn trên cuộc đời này chưa? Bạn đã từng nói cảm ơn bà lão ăn mày vì nhờ có bà mà chiếc ví của bạn đã không bị mất khi bạn vô tình để quên ngoài quán nước?.
Trong cuộc sống, để nói “cảm ơn” hoàn toàn không phải là một việc quá khó khăn. Thế nhưng những từ ngữ rất đỗi gần gũi và bình dị ấy đã dần dần trở nên xa lạ với mỗi người chúng ta. Sẽ hạnh phúc biết bao khi được nghe lời cảm ơn từ một cậu bé bị vấp ngã vừa được bạn dìu đứng dậy, sẽ được an ủi biết bao khi được nghe câu cảm ơn từ một cụ già mà bạn chỉ cần mua cho họ một thanh kẹo cao su, nhưng thật đáng buồn là chẳng có một lời nào được gửi đến bạn cả. Một lời cảm ơn, dù chỉ là một hình thức xã giao thông thường cũng trở nên quá khó để nói ra
Tóm lại, nói lời “cảm ơn” là một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của con người, là một hành động cần thiết trong những mối quan hệ giao tiếp hằng ngày. Nhưng phải nhớ rằng, lời nói luôn phải thống nhất với hành động cụ thể, phải xuất phát từ tận đáy lòng chân thành, tránh lối nói sáo rỗng, khẩu hiệu. Mỗi người chúng ta càng không nên dè sẻn lời cảm ơn mà ngược lại, hãy nói “cảm ơn” khi cần thiết. Nếu chúng ta biết cảm ơn những người xung quanh thì những mối quan hệ đó sẽ tốt hơn rất nhiều.
Dàn ý chi tiết Quan niệm về lối sống giản dị của một con người?
Câu trả lời của bạn
Mở bài:
Thân bài:
1. Trình bày nhận thức về vấn đề:
2. Đánh giá giá trị của lối sống giản dị:
3. Chứng minh:
4. Đề xuất ý kiến:
Kết bài:
Có thể kể ngắn gọn một câu chuyện nhỏ, một sự việc có thật trong đời sống làm cơ sở để rút ra bài học và những suy nghĩ, cảm xúc chân thành, thấm thía.
Quan niệm của anh (chị) về lối sống giản dị của một con người?
Câu trả lời của bạn
Tôi không tự nhận mình là người sống giản dị bởi mẹ tôi đã từng nhắc nhở đôi lần vì sự cầu kỳ, chau chuốt cho hình thức bên ngoài của tôi. Nhưng tôi nghĩ mỗi chúng ta, ai cũng có quan niệm riêng của mình về mọi điều trong cuộc sống. Với những gì tự rút ra từ bản thân và học được từ mẹ, tôi muốn nói một vài suy nghĩ riêng tư nhỏ bé về vấn đề lối sống giản dị.
Từ xưa, giản dị đã trở thành một nếp sống đáng quý, đáng trân trọng, gìn giữ. Có thề giờ đây, lối sống giản dị đã phần nào mai một nhưng dù sao nó vẫn là truyền thống lâu đời của người Á Đông.
Trước hết, giản dị được thế hiện rõ nét trong cách ăn mặc, ở hình thức bên ngoài của mỗi con người. Đừng vì cố tỏ ra mình là người sành điệu, hợp thời trang mà đánh mất vẻ bình dị, đời thường bạn ạ! Chỉ cần một bộ cánh gọn gàng, sạch sẽ, bạn đã khiến mọi người có ấn tượng tốt đẹp ban đầu. Tôi biết, ngày nay có rất nhiều bạn trẻ sống xa hoa, lãng phí, tốn kém không biết bao nhiêu tiền bạc của bố mẹ để’ bằng bạn bằng bè, để diện mốt này mốt kia. Tại sao chúng ta lại phải quá cầu kỳ, chăm chút cho hình thức như vậy? Nếu bạn diện quần áo quá sành điệu, lại không “đúng chủ đề”, thiếu văn minh, lịch sự thì đâu còn nét bình dị, thân thương. Bạn là bạn, tôi là tôi, mỗi người đều có vẻ đẹp riêng nhưng điểm chung nhất là tôi và bạn, chúng ta cùng mang một nét giản dị vốn có của người Việt Nam. Vậy nên, đừng bao giờ đế đức tính đẹp đó bị phai mờ! Chủ tịch Hồ Chí Minh — tấm gương vĩ đại của dân tộc, người không chỉ khiến chúng ta kính phục về tài năng, mà còn cảm phục, trân trọng hơn nữa về một lối sống giản dị văn minh. Liệu trên thế giới này, có vị lãnh tụ nào vẫn mặc những bộ quần áo ka-ki đã sờn vải bạc màu, vẫn ăn những bữa cơm chỉ có vài ba món rất đơn giản...?
Không chỉ là cách ăn mặc, giản dị còn được thế hiện trong cách ứng xử hằng ngày. Mẹ tôi, đã từng răn dạy tôi rằng đừng bao giờ ăn nói cầu kỳ hoa mỹ, mà hãy diễn tả lời nói bằng ngôn từ dễ hiểu trong sáng. Đúng vậy, dù khi lời nói của bạn chỉ là một đôi câu bình dị nhưng chân thành nó sẽ trở thành ánh bình minh trong lòng mọi người vì nó rất đáng yêu. Nhưng, cũng không phải vì thế mà chúng ta trở nên hồn nhiên vô tư một cách xô bồ, khiếm nhã, làm mất đi nét thanh lịch vốn có của con người. Cách xử sự trang nhã, lễ phép của bạn sẽ khiến mọi người càng yêu quý trân trọng bạn biết bao. Lôi sông hàng ngày cũng vậy, chẳng cần cầu kì, bạn vẫn có thể biểu hiện rõ mình là người giản dị đáng mến.
Chắc hẳn, bạn không thể quên hình tượng một lão nông chân quê, mộc mạc trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân! Đó là ông Hai — một nhân vật văn học đã để lại bao ấn tượng sâu sắc trong người đọc. Tâm hồn ông vốn đã ngời sáng bởi lòng yêu quê hương, đất nước nồng nàn, lại càng đẹp hơn nữa ở vẻ đôn hậu, thật thà, rất đỗi hồn nhiên, giản dị. Tâm trí tôi vẫn thường mường tượng tới hình ảnh ông Hai ngồi xắn quần, kể chuyện làng bên nhà hàng xóm. Nhân vật ông Hai trở nên đáng yêu, đáng nhớ hơn có lẽ cũng chính ở vẻ đẹp tâm hồn giản dị của người nông dân Việt Nam như thế...
Đôi khi, người ta còn đánh giá sự giản dị của mỗi con người qua cách suy nghĩ của họ. Bạn ạ, đứng trước một vấn đề, đừng vội lúng túng, mất phương hướng mà hãy thực sự bình tĩnh. Đơn giản hoá mọi chuyện sẽ khiến bạn cảm thấy việc giải quyết khó khăn thật dễ dàng. Vậy tại sao, bạn không chứng tỏ rằng mình cũng là người giản dị qua cách nghĩ của mình?
Theo tôi, giản dị đó còn là quan niệm của bạn về mọi điều trong cuộc sống. Chẳng hạn, về hạnh phúc, đối với tôi, đó chỉ là những niềm vui bình dị nhưng trọn vẹn, dáng quý. Mỗi sáng thức giấc, khoan khoái hít thở bầu không khí trong lành, lắng nghe tiếng chim ca hát líu lo, mơ màng trước cảnh bình minh, tôi cảm thấy thật dễ chịu, thoải mái. Đó là hạnh phúc. Được thưởng thức những món ăn ngon do tự tay mình “xông pha” bếp núc, đó là hạnh phúc... Và tôi nghĩ rằng, vài suy nghĩ nhỏ bé của tôi về đức tính giản dị hôm nay cùng rất bình dị, đơn sơ. Đơn giản là vậy nhưng tôi hy vọng, nó sẽ để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng những ai đã đọc bài viết này.
Mở cánh cửa tâm hồn để suy tư đôi chút về cuộc sống, tôi nghĩ: giản dị chính là một nét đẹp đáng quý mà mỗi người cần phải gìn giữ, nâng niu.
Có thể tôi không hề giản dị theo nghĩa đơn thuần trong mắt mọi người, nhưng hôm nay, dù sao tôi cũng đã trở’ thành người giản dị theo suy nghĩ của riêng mình. Chẳng rườm rà, lan man, tôi đã thẳng thắn trình bày ý kiến cá nhân và tất nhiên, điều không thể tránh khỏi là sự vụng về, nghèo nản trong hiểu biết, nhưng dù sao đó vẫn là giản dị.
Em hãy nêu suy nghĩ của mình về ý kiến: “Ta có thể nhặt được một gói tiền nhưng sẽ không có ai đánh rơi một gói văn hoá cho ta nhặt”?
Câu trả lời của bạn
Văn hoá là hành trang không thể thiếu trong hành trình cuộc đời của mỗi người. Nhưng có được nó thì không hề đơn giản. Trong một bộ phim truyền hình Việt Nam mới công chiếu gần đây, có nhân vật đã nhắc nhở người cháu của mình rằng: “Ta có thể nhặt được một gói tiền nhưng sẽ không có ai đánh rơi một gói văn hoá cho ta nhặt”. Đây thực sự là một triết lý về cuộc sống và cách sống mà có lẽ không chỉ người cháu là cần ghi nhớ suốt đời.
“Gói tiền” tượng trưng cho những giá trị vật chất. “Nhặt được một gói tiền”' là một tình huống tuy không thường xuyên xảy ra nhưng cũng không phải là hiếm gặp trong cuộc sống. Đó là sự ngẫu nhiên, tình cờ, và vì thế, có thể đến với bất kì ai.
“Văn hoá” là một phạm trù trừu tượng, thuộc về ý thức của con người. Có thể hiểu một cách đơn giản: Văn hoá là những giá trị đẹp đẽ của tâm hồn như trí tuệ, nhân cách; nó thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử của mỗi người. “Gói văn hoá” chỉ là cách nói hình ảnh, bởi văn hoá vốn dĩ không có hình hài, cách nói ấy chỉ có tác dụng hô ứng với vế trước để đặt ra một tương quan nhằm nhấn mạnh ý mà thôi. Đi liền với “gói văn hoá” không còn là hai tiếng “có thể” mang tính tương đối nữa mà là thái độ khẳng định quả quyết và chắc chắn: “sẽ không ai đánh rơi một gói văn hoá cho ta nhặt”.
Như vậy, những giá trị vật chất ta có thể nhận được từ cuộc sống mà đôi khi không cần tốn chút sức lực nào. Nhưng với những giá trị tinh thần, không ai có thể mang lại cho ta; quá trình tiếp nhận hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân những nỗ lực và sự chủ động tìm kiếm, tích lũy của ta.
Ta có thể “nhặt được một gói tiền” bởi tiền nói cho cùng cũng chỉ là vật ngoài thân, dù được giữ gìn vẫn có thể thất lạc, dù cẩn trọng đến mấy cũng có lúc sơ sẩy đánh rơi. Nhưng văn hoá thì khác, nó không tồn tại ở dạng vật chất mà - như đã nói ở trên - thuộc về ý thức, không thể “đánh rơi”, cũng không thế “nhặt”. Hơn thế nữa, nó là kết quả của một quá trình tích lũy, hoàn thiện lâu dài, bền bỉ nên không thể tự nhiên xuất hiện ở con người, không ai dễ dàng có được nó chỉ nhờ vào một sự may mắn, tình cờ trong cuộc sống.
Có thể nói, đây là một quan niệm đúng đắn, sâu sắc. Nhất là khi nó được đưa vào lời thoại như lời khuyên của một người dành cho cháu. Vì là một lời khuyên, nên nó rất chân thành; và vì nó thuộc về một người lớn tuổi - người đã từng trải nghiệm sâu sắc cuộc đời — nên nó rất thấm thía và rất đáng để ta tin.
Và song song với việc cảm nhận bức thông điệp mà tác giả gửi gắm, có lẽ ta cũng nên và cần phải đặt ra một câu hỏi nữa. Đó là: Làm thế nào để tự nâng cao vốn văn hoá cho bản thân?
Câu hỏi này không hề khó. Bởi bản thân cụm từ “tự nâng cao vốn văn hoá” cũng đã bao hàm một phần câu trả lời trong đó. Vâng, ý thức tự giác là yếu tố căn bản nhất. Bởi như đã nói ở trên, khác với vật chất, văn hoá thuộc về ý thức. Cuộc sống khách quan chỉ có thể tác động chứ không thể thay đổi nó. Sự tồn tại, phát triển của nó được quyết định bởi chủ thể là bản thân ta. Chẳng hạn, bạn có thể có một tủ đầy sách, mẹ bắt bạn đọc sách hằng ngày,... nhưng tất cả sẽ là vô nghĩa nếu như bạn chỉ đơn thuần là đọc mà không nghiền ngẫm, không nỗ lực tiếp nhận những giá trị của cuốn sách ấy. Đây chỉ là một ví dụ nhỏ, nhưng có lẽ nó cũng phần nào cho thấy vai trò, tầm quan trọng của ý thức trong quá trình trau dồi vốn văn hoá của con người.
Thế nhưng, hình thành và duy trì cho mình ý thức tự giác cũng như khát khao học hỏi là điều không hề đơn giản. Vì thế, ta rất cần một điểm tựa, đó là sự xác định đúng đắn mục tiêu sống của cuộc đời. Sống là một quá trình tự hoàn thiện bản thân, và nâng cao văn hoá là phần không thể thiếu trong quá trình bền bỉ ấy. Người có văn hoá sẽ sống đúng, sống có ý nghĩa hơn, và tất nhiên, sẽ nhận được sự tôn trọng, yêu mến từ phía mọi người, đồng thời khẳng định được vị trí của mình trong xã hội.
Bên cạnh việc hình thành cho mình ý thức ham học hỏi, khao khát hoàn thiện bản thân, chúng ta cũng cần có những hành động cụ thể đề nâng cao văn hoá. Trong đó, có lẽ con đường hữu hiệu nhất là học tập.
Học trong nhà trường, với hệ thống giáo dục có bài bản, ta sẽ được trau dồi tri thức, nâng cao học vấn thông qua việc tiếp nhận khoa học hiện đại. Nói “sự học là cây cầu bắc từ bờ bên này mông muội sang bờ bên kia chân lí” là vì thế.
Học trong cuộc sống, ta sẽ được bồi đắp tâm hồn từ những bài học bình dị gần gũi quanh ta. Cô bé tật nguyền với khao khát vươn lên cho ta hiểu thế nào là sự nỗ lực trận đòn của mẹ cũng là biểu hiện của yêu thương, và thậm chí là nhóc em với những câu hỏi tưởng chừng ngây ngô nhất.
Học từ sách vở là học từ kho tri thức khổng lồ của nhân loại, vì thế, nó giúp ta mở rộng, nâng cao tầm hiểu biết trí tuệ. Nhưng sách còn là nơi lưu giữ những tư tưởng, tình cảm cao đẹp của con người, nên nó cũng giúp ta làm giàu khả năng nhận thức và năng lực cảm nhận, giúp ta nhân ái hơn, hướng thiện hơn, Người hơn. Đúng như một câu ngạn ngữ phương Đông: “Những người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao thượng”.
Tất nhiên, ta không thể tách bạch rõ ràng những con đường tiếp nhận, nâng cao văn hoá. Vì, một cách rất tự nhiên, chúng luôn hòa quyện, gắn bó mật thiết với nhau. Trong nhà trường, ngoài những tri thức khoa học, ta hoàn toàn có thể học được những bài học đạo đức thấm thía, sâu xa. Cũng như trong cuộc sống, ta vẫn có được những hiểu biết, kinh nghiệm như từ trường lớp. Thế nên, cần tránh thái độ tuyệt đối hoá bất kì con đường nâng cao văn hoá, hoàn thiện bản thân nào.
“Ta có thể nhặt được một gói tiền nhưng sẽ không ai đánh rơi một gói văn hoá cho ta nhặt”. Chủ động và nỗ lực chính là cách duy nhất để ta có được “gói văn hoá” của riêng mình.
Nghị luận xã hội về Lý tưởng sống của thanh niên ngày nay?
Câu trả lời của bạn
Bức thư của một người cha:
“Gửi con gái yêu,
Con năm nay vừa tròn mười tám tuổi. Nụ cười tươi tắn, chiếc răng hơi khểnh, đôi mắt đen huyền. Con là cô công chúa dễ thương nhất thế giới, là bông hồng đầu tiên mà ba mẹ đã nâng niu chăm sóc mười tám năm nay.
Ba yêu con, yêu nhất là ánh nhìn cương nghị giống ba, nhưng cũng yêu nụ cười trong veo như mẹ. Từ trong nụ cười ấy, ba thấy con gái của ba thật mong manh và trong sáng. Nó khiến ba tự nhủ phải yêu con, phải bảo vệ con nhiều hơn nữa.
Ấy thế mà sáng nay, con gái bé nhỏ của ba nói rằng muốn đi du học ở một xứ sở xa xôi. Giây phút ấy, ba nghĩ mình cần gạt ngay ý nghĩ đó ra khỏi tâm trí con, muốn giấu kín con đi đế được bao bọc con trong vòng tay của mẹ và ba. Nhưng trong hồi ức của ba thoáng hiện về hình ảnh một chàng thanh niên của gần ba mươi năm trước, dám tạm ngưng việc học đại học để xung phong ra chiến trường. Và lúc ấy ba hiểu, có một thứ còn mạnh mẽ hơn cả sự đủ đầy vật chất, hơn cả sự bao bọc của mẹ cha, ấy là lí tưởng của con. Không thể nói là ba muốn con đi, nhưng ba tự hào vì con quyết định ra đi, đồng nghĩa với việc chấp nhận bao khó khăn, thử thách trên hành trình ấy.
Có thể con biết rồi, nhưng con phải nhớ kĩ điều này, con yêu ạ: Lí tưởng là mục đích, là hoài bão, là cách sống tốt đẹp nhất mà con người ta theo đuổi. Nó chắp cánh cho ta bay lên, vượt bao khó khăn để đạt được ước vọng. Và đối với một người trẻ tuổi, khi trọng trách đối với quốc gia, gia đình quyện hòa cùng khát vọng dựng xây thì lí tưởng càng trở nên quan trọng. Nó giúp người ta xác định đúng đường đi, giúp ta tránh xa những cạm bẫy nguy hiểm trong cuộc đời. Sông trong một xã hội hiện đại mà khoa học công nghệ thay đổi từng giờ, từng phút, lí tưởng còn giúp người thanh niên tiến nhanh hơn trên con đường học tập và rèn luyện. Lí tưởng tuy vô hình mà có ý nghĩa lớn lao như thế đấy.
Khi nghe con bày tỏ về mơ ước của mình, nhìn những tia sáng lấp lánh trong mắt con, ba mừng vì con đã và đang theo đuổi một hoài bão lớn. Nhưng đó mới chỉ là ước mơ, là hoài bão thôi con gái ạ. Để xác định cho mình một lí tưởng, người ta phải trăn trở, phải nghĩ suy nhiều lắm. Thậm chí có người cả cuộc đời cũng không xác định được lí tưởng của mình là gì. Ba không thể giúp con tìm ra lí tưởng, nhưng ba có thể chỉ cho con thấy một lí tưởng theo ý nghĩa vẹn nguyên tốt đẹp của nó thì trước tiên phải cao cả. Con có để ý thấy không, mỗi khi nhắc đến lí tưởng, người ta thường tỏ thái độ trân trọng, ngợi ca, bởi ở đó không có chỗ cho những gì đê hèn và thấp kém. Lí tưởng của con phải giúp ích cho cuộc đời, giống như Ê-đi-xơn xưa từng có ước vọng cống hiến đời mình vì khoa học, đề’ rồi đưa con người từ màn đêm thăm thẳm tới một xã hội lung linh ngập tràn ánh sáng. Và cuối cùng, lí tưởng của con phải là một điều khả thi, vì đời người sẽ không có ý nghĩa nếu ta đuổi theo những gì mông lung, vô vọng. Chắc hẳn con biết truyện dã tràng xe cát. Vậy con thử nghĩ xem dã tràng đã để lại cho đời một công trình quý báu hay chỉ là bài học xót xa về một ước mơ không cách gì thực hiện?
Con đã biết những phẩm chất cần có đế một ước mơ, hoài bão trớ thành lí tưởng, vậy con có biết cách để xác lập và theo đuổi lí tưởng của mình? Trước hết, con hãy nghĩ thật kĩ đế tìm ra khát vọng to lớn nhất của đời mình, đối chiếu với những phẩm chất của lí tưởng trên đây. Và nếu phù hợp, con hầy khắc cốt ghi xương lí tưởng ấy. Con sè cần lòng kiên trì và đôi khi cả sự hi sinh nữa. Hai mươi lăm năm đã trôi qua, nhưng tim ba vẫn còn ghi rõ hình ảnh người đồng chí ngã xuống, máu nhuộm đỏ cả tấm ảnh anh giữ chặt trong tay tấm ảnh của người con gái có mái tóc thề. Người thanh niên ấy đã dũng cảm bỏ lại những gì thân thương nhất đế cống hiến cuộc đời cho Tổ quốc. Lí tưởng của những người thanh niên như thế sẽ mãi mãi soi sáng mảnh đất này. Và một điều nữa, con hãy sắp xếp lịch làm việc một cách khoa học. Một tâm hồn đẹp và một thế chất tốt sẽ giúp con vững vàng rèn luyện vì lý tưởng.
Xã hội ngày nay có biết bao cạm bẫy hiểm nguy. Chính ba cũng từng chứng kiến bao thanh niên sống chơi bời, buông thả. Họ dùng tiền của mẹ cha để đổi lấy cuộc sống hưởng lạc suy đồi và hoàn toàn mất phương hướng. Con tàu lạc lối sẽ gặp phải đá ngầm và chìm dần xuống đáy biển sâu. Ba mừng là con gái ba không thế. Ngay từ khi học lớp 6, con đã mơ ước thiết kế một website có 3000 lượt khách vào thăm. Lớp mười, con mơ ước trở thành một Bill Gates thứ hai, sở hữu một công ty máy tính khổng lồ. Và bây giờ, con gái ba đang hướng về một đất nước xa xôi với khát vọng khẳng định bản thân mình. Nhưng dù con có đi đâu, hãy nhớ rằng con có mẹ, có ba, có những bờ vai vững chắc cho con ngả đầu vào khi gặp nhiều sóng gió.
Chào mừng ngày con tàu của con ra khơi, và càng chào đón hơn ngày con trở về!
Yêu con”.
Dàn ý chi tiết Lý tưởng sống của thanh niên ngày nay?
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài
Con người cần Sống có lí tưởng, đặc biệt là thanh niên.
2. Thân bài
3. Kết bài
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *