Bài học giúp các em củng cố lại kiến thức về khái niệm nghị luận xã hội; biết cách viết một bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lý; nâng cao ý thức rèn luyện tư tưởng, đạo đức để không ngừng rèn luyện nhân cách của mình.
Trong thư gửi thầy hiệu trưởng cúa con trai mình, Tống thông Mĩ A. Lin-côn (1809 – 1865) viết: “Xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi." (Theo Ngữ văn 10, Tập hai, NXB Giáo dục, 2006, tr. 135).
Từ ý kiến trên, anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về đức tính trung thực trong khi thi và trong cuộc sống.
Phát biểu ý kiến về câu nói: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học).
Để củng cố lại kiến thức về khái niệm nghị luận xã hội, biết cách viết một bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lý, các em có thể tham khảo bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Cuộc sống chật vật bon chen khiến con người mỏi mệt, đớn đau, bất hạnh khiến nhiều người gục ngã. Chai sạn, rạn nứt khiến con người trở nên vô cảm, đánh mất đi nhân cách cao đẹp của mình. Vậy là nhiều người cứ tiếp tục sống cuộc sống của mình mà chẳng hay đang giẫm đạp lên cuộc đời của kẻ khác. Họ trở thành kẻ bạo chúa trong chính câu chuyện của mình, là kẻ thống trị tất cả nhưng lại luôn đơn độc một mình bởi chẳng còn ai đứng vững sau những giày vò, chà đạp mà họ đã đem lại. Cũng có lẽ bởi thấu hiểu trò đời nên Nam Cao đã thốt lên câu nói đầy chân lý về con người: "Kẻ mạnh không phải kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ người khác trên đôi vai của chính mình".
Đúng vậy, trong cuộc đời này luôn có kẻ mạnh người yếu và chuyện chà đạp lên nhau mà sống là câu chuyện đã không còn quá xa lạ. Nhiều người cho rằng kẻ mạnh là người thống trị tất cả, là kẻ mà khi nhắc đến khiến mọi người phải run sợ, thế nhưng sự thực lại hoàn toàn không phải như vậy. Kẻ mạnh là người có đầy đủ điều kiện để phát triển, là người có sức mạnh và chiếm ưu thế hơn người khác trong cuộc sống. Thật vậy, kẻ giẫm đạp lên vai người khác để thỏa mãn lòng ích kỷ thì không phải kẻ mạnh. Cha ông ta có câu: "Lá lành đùm lá rách", đó là bài học, là truyền thống đùm bọc tương trợ nhau trong những lúc khó khăn của dân tộc, vậy mà sao chỉ sau có mấy chục năm mà con người ta lại thay đổi nhiều đến thế. Nhiều người không còn biết đến đồng loại, không biết thương xót đồng bào mình mà nhẫn tâm chà đạp lên cuộc đời họ, thậm chí giở thủ đoạn xấu xa nhằm vào cuộc đời họ. Phải chăng những con người tội nghiệp kia đã mắc lầm lỗi gì với những kẻ bạo chúa vô cảm ấy hay đơn giản chỉ là do thói ghen tị, đố kị với thành công của người khác?
Và rồi đến với câu nói của Nam Cao, ta đã ngộ ra bao điều về con người và cuộc sống, ta cũng biết thêm rằng kẻ mạnh không phải là kẻ vô cảm chà đạp lên người khác để thể hiện quyền uy mà kẻ mạnh lại là người giúp đỡ người khác trên đôi vai mình. Đó là biểu hiện của kẻ mạnh thực sự, là con người với nhân cách cao cả cùng với trái tim vĩ đại đủ để dẹp bỏ được tính ích kỉ, sự đố kỵ từ mặt tối xấu xa trong con người mình.
Qua câu nói ta cũng hiểu thêm được rằng kẻ mạnh là người hoàn hảo về khả năng và cũng xuất sắc trong cách cư xử với mọi người xung quanh. Cuộc sống luôn tồn tại những điều bất ngờ và chẳng ai biết được tương lai của mình sẽ như thế nào. Có thể hôm nay may mắn vẫn mỉm cười với mình nhưng biết đâu ngày mai một tai họa khủng khiếp nào đó ập đến đè bẹp số phận của mình. Ta tuyệt vọng, đau đớn, muốn từ bỏ tất cả. Thế nhưng những lúc ấy bên cạnh ta lại có người dang tay ra cho ta nắm lấy, cho mình mượn bờ vai để vực dậy, những hành động cao cả đó chẳng phải đang nói lên rằng đó là tố chất của một kẻ mạnh hay sao?
Kẻ mạnh không nhất thiết phải là người có quyền cao thế mạnh, cũng chẳng cần là người cao sang quyền quý được người đời thán phục, kẻ mạnh có thể xuất hiện ở bất cứ đâu trong cuộc sống của chúng ta. Một bạn học sinh cũng có thể trở thành kẻ mạnh nếu bạn đó biết sẻ chia và giúp đỡ bạn bè trong lớp vươn lên trong học tập. Mọi người đều có thể trở thành một người đáng mến mộ trong mắt người khác nếu thật tâm làm được những việc tốt, giúp bà cụ qua đường, đồng cảm với những người gặp hoàn cảnh khó khăn cũng thể hiện được bản chất tốt đẹp trong con người họ. Đâu phải mạnh mẽ là phải đao to búa lớn, là phải trở nên hung ác tàn bạo để khẳng định thứ " đẳng cấp" ngược đời của mình. Vậy nên hãy cứ sống và cho đi, hành động và tài năng của mình sẽ khẳng định được giá trị con người mình. Đừng dùng những thứ xấu xa, bỉ ổi để rồi tự biến mình thành kẻ máu lạnh, hung tàn.
Sinh mạng do cha mẹ ban cho và chẳng ai có quyền định đoạt hay yêu cầu chúng ta phải làm gì cả. Ta cũng là con người và đương nhiên ta cũng có quyền làm chủ cuộc đời mình. Vậy sao không tự xây dựng tương lai và danh tiếng cho mình, tại sao nhiều người lại có suy nghĩ sống kết bè phái để trở thành kẻ mạnh, nhiều người sẵn sàng dũng lời lẽ thô tục, chửi bới thậm tệ hoặc thậm chí xô xát chỉ vì để khẳng định mình là kẻ mạnh. Lời nói đau mất tiền mua, đúng sai quan trọng ở lòng người, đâu thể dùng vũ lực để thể hiện bản thân mình đúng và ép người khác phải nghe theo mình. Cuộc sống không đơn giản như chúng ta tưởng, nếu cứ chọn cách chà đạp lên người khác mà sống, cứ sống mà bất chấp đúng sai rồi sẽ có ngày phải gánh chịu hậu quả không lường. Vỏ quýt dày có móng tay nhọn, núi cao còn có núi cao hơn, vậy nên đừng coi mình là tất cả, đừng ỷ mạnh mà bắt nạt người khác vì biết đâu sau này mình cũng trở thành nạn nhân của những kẻ khác thì sao. Đến lúc ấy mới thấu sự đời, mới thấy bản thân nông cạn và ngu ngốc đến nhường nào thì đã quá muộn. Việc đã làm không thể nói cho qua là qua, đau đớn, ân hận cũng không quay ngược được thời gian để sửa chữa lầm lỗi, xoa dịu trái tim mọi người.
Cuộc sống của con người luôn chịu tác động của quy luật nhân quả cũng như việc gieo nhân nào gặp quả đấy. Thật vậy, hãy sống sao cho đáng sống, sống có ích, nhận được sự tôn trọng của mọi người mới là cuộc sống thực sự. Thời gian sẽ trả lời tất cả sau những cố gắng và chịu đựng của con người. Vậy nên hãy sống thật tốt để trở thành một kẻ mạnh thực sự, mạnh mẽ để giúp đỡ những người yếu thế và gặp khó khăn.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó". Đạo đức luôn luôn tồn tại trong con người như một chân giá trị vững bền mà con người có được. Bằng đạo đức và thông qua đạo đức mà còn người tự khẳng định chính mình, khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Song, không phải ai cũng có được những suy nghĩ đúng đắn về nó, bởi vậy mà lời dạy của đức Phật vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay: "Đạo đức là ngọn đèn sáng chiếu rọi mọi phẩm chất của con người. Đạo đức không phải là roi vọt để hành hạ, làm nhục, làm khổ người ta."
Đạo đức chính là yếu tố quan trọng trong nhân cách con người. Đạo đức bao gồm những quy tắc ứng xử trong cộng đồng xã hội được mọi người đồng tình và chấp nhận, qua đó, mỗi người tự điều chỉnh được hành vi ứng xử của mình một cách phù hợp, không trái với những chuẩn mực giá trị văn hoá. "Ngọn đèn sáng" là ngọn đèn thắp lên ngọn lửa xua tan sự tăm tối của màn đêm, là ánh sáng soi rọi con đường phía trước, có ngọn đèn, ta dễ dàng thấy được những thứ mà trong đêm tối ta không thể nào nhận ra chúng được. Roi vọt là những khuôn khổ, phép tắc, những sự hành hạ một cách ràng buộc người khác gây đau khổ. Lời dạy của Đức Phật muốn ca ngợi những vẻ đẹp của đạo đức chân chính sẽ soi sáng tâm hồn con người và lên án những đạo đức trong khuôn khổ, ép buộc, làm khổ con người về mọi mặt.
Đạo đức chính là ngọn đèn mà qua đó mọi phẩm chất của con người được bộc lộ rõ. Thông qua đạo đức, ta thấy được người đó hành động, cư xử ra sao? tốt xấu thế nào? có phù hợp hay không? Phẩm chất con người được nhìn nhận sáng rõ qua đạo đức. Người tốt chắc chắn là người có đạo đức. Đạo đức giúp chúng ta tự nhận thức được bản thân mình, biết sống vì bản thân và sống vì người khác, biết nhìn nhận giá trị của bản thân và tôn trọng giá trị của người khác. Đạo đức giúp ta điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp, biết tu dưỡng từng ngày, rời xa những cám dỗ vật chất tầm thường, vươn tới chân thiện mỹ. Đạo đức soi rọi tình yêu thương, lòng bác ái giúp mỗi người trở nên tốt đẹp hơn. Đạo đức giúp chúng ta biết san sẻ tình thương, biết xúc động, đồng cảm trước những nỗi đau, mất mát của người khác, biết sống vì người khác. Đạo đức giúp ta bao dung, rộng lượng hơn, biết sống cao thượng, thứ tha cho những lỗi lầm, biết rời xa những ích kỉ, nhỏ nhen, toan tính thiệt hơn của đời sống. Đạo đức giúp ta đứng vững trước những sóng gió, biết nỗ lực vươn lên từng ngày cho những khát khao, những ước mơ, biết sống vì mọi người, vì tập thể vì sự văn minh và phát triển xã hội. Đạo đức giúp ta thấy yêu thương nhiều hơn, thấy được trách nhiệm của mình với cha mẹ, với gia đình, xã hội và đất nước. Đạo đức chính là ngọn đèn sáng soi rọi vào từng ngõ ngách của tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta hoàn thiện mỗi ngày, hướng tới những điều tuyệt mỹ và thiên lương nhất.
Đạo đức là chân giá trị cần được trân trọng và gìn giữ, phát huy. Bởi vậy mà, đạo đức không phải là phương tiện để hành hạ hay làm nhục người khác, không thể là "roi vọt" khiến con người đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần. Nó là cơ sở để con người hướng thiện, là bản lề để những người sài lầm lạc lối tìm về mà điều chỉnh cho phù hợp với đạo đức chứ không phải qua đó để chỉ trích, phán xét những lỗi lầm của người khác, chà đạp lên nhân cách và phẩm giá của họ. Đạo đức không phải là thứ giáo điều cứng nhắc mà nó phải được vận dụng nhuần nhuyễn, linh hoạt phù hợp với từng hoàn cảnh, song nó luôn hướng về những gì lớn lao và tốt đẹp nhất của con người. Trong cuộc sống, có lẽ ai cũng đã từng mắc sai lầm, nhưng nếu được vị tha, khoan dung, được mọi người nhìn nhận bằng sự thông cảm thì chắc chắn họ sẽ trở nên tốt đẹp và hướng thiện hơn. Còn nếu chỉ mãi nhìn vào những lỗi lầm, những cái xấu, những khuyết điểm của người khác mà chỉ trích, chê bai, thậm chí cả đánh đập, bóc lột tàn nhẫn thì thật là đáng trách. Dân gian thường có câu: "Đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại". Thực tế, có không ít kẻ vô đạo đức, thiếu văn hoá. Nhiều bài báo vẫn ngày ngày đưa tin những hành vi đánh đập người khác, những hành vi hại trẻ em, những tên tội phạm đường phố, ma túy, bài bạc,... nhan nhản, đâu đây vẫn có những con người sống thiếu suy nghĩ, ích kỉ. Họ sẽ không thể nào phát triển được nếu như không chịu sửa đổi bản thân, hướng đến tương lai mới. Họ đáng bị lên án và đáng bị chê trách. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần có cái nhìn nhân văn hơn nếu họ chịu sửa đổi, biết ăn năn hối lỗi. Bởi lẽ, chúng ta, những người hướng đến đạo đức chân chính với ngọn đèn sáng, hãy dùng tình thương để cảm hóa mọi tội lỗi, giúp con người gần người hơn, đừng nhân danh đạo đức mà bóp nghẹt quyền làm người, quyền phát triển của người khác.
Chúng ta, là những học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, cần học tập trau dồi và rèn luyện đạo đức trí thức mỗi ngày. Hãy sống và thực hiện thật tốt lời dạy của Đức Phật, vươn tới đạo đức chân chính để hoàn thiện chính mình, chạm đến những giá trị cao đẹp ở đời.
Câu trả lời của bạn
n
Câu trả lời của bạn
Thao tác giải thích vấn đề thuộc phần thân bài.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Nghị luận xã hội: Tình thương là hạnh phúc của con người?
Câu trả lời của bạn
Có bao giờ bạn tự hỏi: “Chúng ta đã đối xử thế nào với mọi người xung quanh?” hoặc “Bạn cảm thấy thế nào nếu đối xử tốt với ai đó?”. Có thể bạn sẽ thấy vui vì “Tình thương là hạnh phúc của con người”.
Nếu có một gia vị làm tăng thêm hơi ấm và ý nghĩa trong cuộc sống… đó chính là tình yêu thương. Nếu có một tình cảm thiêng liêng giúp chúng ta vượt qua bao khó khăn, thử thách đó chính là tình yêu thương. Sự ân cần, ấm áp của tình thương thật đẹp! Với tình thương đó, chúng ta có thể chia sẽ những cảm xúc và thấu hiểu lẫn nhau. Tình yêu thương giúp chúng ta trong lúc khó khăn bởi vì nó giúp ta kết nối ngôn ngữ trái tim. Có tình thương chúng ta cùng sát cánh bên nhau khắp mọi nẻo đường đời. Có tình thương, chúng ta cùng ươm mầm cho trái tim hoài bão và khát vọng. Qua đó, chúng ta có thể thấy rõ:” Tình thương là hạnh phúc của con người”.
Trên thế gian này, có rất nhiều cách để định nghĩa tình thương nhưng nhìn chung tình thương yêu là một cảm giác đến từ sự chân thành cảu trái tim, nó vô cùng đơn giản, mộc mạc, không mang những mưu toan, tính toán và tình thương hiện diện khắp mọi nơi. Hạnh phúc là cảm giác vui vẻ, sung sướng hay đơn giản chỉ là sự thanh tịnh trong tâm hồn. Chính vì mà tình thương yêu và hạnh phúc luôn tồn tại trong nhau.
Xã hội ngày nay luôn bận rộn trong guồng máy công việc, con ngừoi luôn phải chạy đua với thời gian, nhưng không vì thế mà tình thương yêu giữa người và người bị mất đi. Ở đâu đó vẫn còn rất nhiều những tấm lòng chan chứa yêu thương luôn rộng mở. Có rất nhiều bạn học sinh, sinh viên tham gia các chiến dịch “Mùa hè xanh”, “Hoa phượng đỏ” để giúp đỡ những người kém may mắn. Các bạn không quản khó khăn để mang con chữ đến cho các bạn vùng sâu vùng xa. Hay như bản thân chúng ta, khi trung thu đến ta vẫn thường quyên góp lồng đèn giúp các em nhỏ vui tết Trung thu. Tất cả những điều đó đã phần nào chứng minh cho tình yêu luôn hiện hữu ở tất cả mọi nơi. mặt khác tình thương còn là tấm lòng người mẹ, người cha, người ông, người bà, … đối với con cháu. Họ cả đời lo lắng, chăm sóc, dành những gì tốt nhất cho người thân yêu. Thế đấy, sự thương yêu muôn màu muôn vẻ với muôn nghìn sự thể hiện. Nó tồn tại ở khắp mọi nơi và trong nhiều mối quan hệ từ bạn bè, gia đình đến xã hội.
Thế nhưng tấm huy chương nào cũng có mặt trái của nó, tình yêu cũng vậy. Nếu chúng ta không đặt đúng chỗ, không mang đến cho những người cần thì nó sẽ trở thành một tác nhân xấu cho gia đình và xã hội. Ví như một người mẹ thì lúc nào cũng yêu thương con nhưng nếu người mẹ đó lầm tưởng rằng yêu thương là cưng chiều thì sớm muộn đứa con ấy sẽ trở nên hư hỏng vì chúng cho rằng chúng là nhất. Không những thế, cuộc đời muôn hình vạn trạng, có người tốt cũng có kẻ xấu. Tuy xã hội có rất nhiều người tình yêu thương vô bờ đối với mọi người xung quanh nhưng cũng tồn tại những kẻ ích kỷ. Những người đó chỉ biết cuộc sống của mình, họ không quan tâm đến bất cứ ai. Họ không hề biết rằng cuộc đời là tập hợp của rất nhiều số phận may mắn, bất hạnh. Vì vậy những số phận may mắn cần dang rộng vòng tay yêu thương để giúp đỡ những số phận bất hạnh, giúp họ vượt qua khó khăn của cuộc đời.
Trên thế gian này, không có vị thần nào đẹp hơn thần mặt trời, không có ngọn lửa nào đẹp hơn ngọn lửa yêu thương. Chúng ta hãy mở rộng cánh của trái tim, mở rộng tấm lòng yêu thương, mang tình yêu đến với mọi người. Vì như ta không những hạnh phúc đến cho mọi người, cho chính mình mà còn giúp những người bất hạnh hiểu rằng thế giới này vẫn vô cùng ấm áp tình người.
"Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động."
Ý kiến trên của M. Xi-xê-rông (nhà triết học La Mã cổ đại) gợi cho anh/chị những suy nghĩ gì về việc tu dưỡng và học tập của bản thân.
Câu trả lời của bạn
Khi mỗi người trong chúng ta làm một việc tốt, bất kể là việc gì, có ai biết rằng chúng ta đang thể hiện đức hạnh của chính mình. Hay nói cách khác những lời của nhà văn Pháp M. Xi-xê-rông: " Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động".
Mỗi con người khi sinh ra đều co mặt tốt và mặt xấu. Trong mặt tốt, một phần chính là đức hạnh của mỗi người. Đức hạnh là đạo đức, là phẩm chất, là những đức tính tốt đẹp của con người, có sẵn hay phải trải qua quá trình rèn luyện mới có được. Hành động có thể được định nghĩa là những việc làm có thể được bộc lộ hằng ngày, và quan trọng hơn đó là sự thể hiện của đức hạnh. Đó cũng chính là phần còn lại của mặt tốt trong mỗi người. Cả câu nói của nhà văn M. Xi-xê-rông mang ý nghĩa như chính nghĩa gốc của nó. Mọi phẩm chất tốt đẹp cần được thể hiện ở trong những hành động cụ thể.
Một người không phải tự nhiên được biết đến là có đức hạnh, mà điều đó còn phụ thuộc vào những việc làm ý nghĩa mà người ấy đã làm. Đơn giản hơn, đó chỉ là những công việc bình thường, như giúp đỡ người già qua đường nhường chỗ cho phụ nữ và trẻ em trên xe buýt hay biết quan tâm đến người khác và đối xử tốt với mọi người xung quanh. Đó chi là những công việc nhỏ hằng ngày được xuất phát từ một tâm hồn trong sáng, luôn hướng về cái dẹp, cái thiện, điều đó sẽ chính là sự thể hiện của đức hạnh.
Người ta thường nói rằng: "Ý nghĩa là nụ, Lời nói là bông hoa, Việc làm mới là quả ngọt."
Khi ta có ý nghĩa về một việc làm tốt, ta cần nói ra để xem xét. Nhưng không phải là nói suông, ta cần phải thực hiện điều đó. Chúng ta làm điều đó bằng tất cả tấm lòng, biến những điều ấy từ suy nghĩ, lời nói thành vệc làm như thế, như vậy mới tạo thành "quả ngọt". Tuy vậy, vẫn có một số trường hợp cần được xem xét trong từng hoàn cảnh. Nói dối được xem là một hành động xấu và sai. Nhưng trong trường hợp một bác sĩ phải nói dối về bệnh tình của bệnh nhân để người ấy yên tâm tiếp tục điều trị, đó lại là một hành động cao cả. Thế nhưng vẫn còn tồn tại rất nhiều những kẻ thiếu đức hạnh. Họ nói ra những điều lớn lao, cao cả nhưng hành động thì ngược lại, vì thực chất, họ làm vậy vì những mục đích ích kỉ riêng cho chính họ. Chúng ta không loại bỏ họ mà phải làm thay đổi được những con người ấy.
Việc đem hạnh phúc cho người khác thật đơn giản nhưng cũng rất cao quý. Tuy nhiên trong xã hội vẫn còn nhiều người ngay cả việc nhỏ nhất họ cũng không làm. Một số họ chỉ biết có bản thân, toàn đem lại bất hạnh cho người khác. Trong gia đình, chúng ta cần lên án những người chồng vũ phu, đánh đập vợ con hoặc những đứa con bất hiếu chỉ ăn chơi, thoả mãn nhu cầu cá nhân, làm cha mẹ đau lòng. Tại sao những con người ấy lại nhẫn tâm đem lại bất hạnh cho chính những người thân yêu nhất của mình?... Ngoài xã hội, hiện có một lóp thanh niên, thay vì giúp đỡ người già yếu, họ lại lợi dụng để cướp giật, móc túi... Những kẻ lấy sự bất hạnh của người khác làm hạnh phúc của mình cần đáng bị trừng trị!. "Trong cuộc sống, không có gì cao quý và tốt đẹp hơn là đem hạnh phúc cho người khác". Đó là một quan điểm sống mang tính nhân văn. Nêu có một điều ước thì tôi sẽ ước cho tất cả mọi người trên thế giới này đều được hạnh phúc. Muốn vậy, ngay từ bây giờ mỗi người chúng hãy cố gắng làm thật nhiều điều, dù lớn, dù nhỏ, để đem lại hạnh phúc cho mọi người, cho gia đình và cũng là cho bản thân chúng ta...
Dàn ý Tình thương là hạnh phúc của con người.
Câu trả lời của bạn
A. Mở bài.
Theo như ngạn ngữ Nga đã từng nói “nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình thương”, bởi vậy qua câu nói này chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa to lớn mà tình thương đem lại cho cuộc sống của chúng ta, nó để lại cho chúng ta nhiều bài học có giá trị, bên cạnh đó, tình thương đó cũng chính là hạnh phúc của mỗi con người.
B. Thân Bài:
C. Kết Luận
Khẳng định lại vai trò, và tầm quan trọng của tình thương, ý nghĩa của nó đối với mỗi con người.
Khẳng định câu nói trên là đúng đắn
Hãy phát biểu ý kiến của mình về mục đích học tập do UNESCO đề xướng: Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình.
Câu trả lời của bạn
Học tập là một nhu cầu, một hoạt động không thể thiếu được của con người từ xưa đến nay. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, quan niệm về việc học của con người cũng có nhiều thay đổi để tiếp cận chân lí, tiến dần đến bản chất của việc học. Trong thời đại ngày nay, UNESCO đã đề xướng mục đích của học tập như sau: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.
Mục đích của học tập đã được UNESCO tống kết trong bốn nội dung rõ ràng, đầy đủ, đúng đắm và khoa học: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình. Biết, làm, chung sống, tự khẳng định mình nói lên như bốn mục đích mà việc học ngày nay phải hướng tới, là bốn trụ cột vững chắc cho việc học trong thời đại hiện nay. Biết bao giờ cũng là mục đích đầu tiên của việc học, trước đây đã thế, bây giờ càng phải thế, vì tri thức của nhân loại càng ngày càng phong phú mà hiểu biết của con người thì có hạn. Đây là khâu thu nhận kiến thức của con người, là trụ cột đầu tiên làm cơ sở cho ba trụ cột tiếp theo của việc học. Mạnh Tử nói: “Không lên núi cao sao biết cái lo nghiêng ngã, không xuống vực sâu sao biết cái lo đắm đuối, không ra bể lớn sao biết cái gì lo sóng gió”. Học để biết chính là như vậy. Nhưng không phải biết chỉ để biết, để thành một kiểu “nhà thông thái” đọc thiên kinh vạn quyển theo quan niệm học cũ trước đây, mà trong thời đại ngày nay, tiêu chí quan trọng là học để làm, để thực hành, vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Biết và làm là hai mặt không thể thiếu trong việc học của con người ngày nay, nó gắn bó hữu cơ và tương hỗ với nhau: biết để làm, và làm để nâng cái biết lên một tầm cao hơn, vững chắc hơn, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Học để hành, hành để học”. Nhấn mạnh đến yêu cầu làm bằng việc tách nó ra, để nó đứng ở vị trí thứ hai ngay sau yêu cầu biết là đúng, là phù hợp với việc học của con người ngày nay: con người hành động, con người sáng tạo. Yêu cầu thứ ba là học để chung sống - một mục đích rất mới mẻ mang dấu ấn thời đại sâu sắc. Con người ngày nay không còn sống riêng biệt theo kiểu “tự cung tự cấp”, “ta về ta tắm ao ta” mà đã hòa nhập trong xu thế toàn cầu hóa để hiểu biết nhau đến với nhau, học tập và giúp đỡ lẫn nhau... Chung sống trở thành một nhu cầu tự nhiên, một yêu cầu phải có, một kĩ năng, phẩm chất của con người trong thời hiện nay, nó phải được đưa vào như một mục đích hẳn hoi của việc học tập, có vai trò và vị trí như các mục đích khác. Khái niệm chung sống ở đây cần được hiểu theo nghĩa “tinh thần” của nó là cách sống, xu thế sống của thời đại. Trong mục đích học để chung sống thì kĩ năng chung sống của con người trong thế kl XXI là rất quan trọng. Cuối cùng là học để tự khẳng định mình. Đây là yêu cầu của việc hoàn thiện nhân cách trong học tập, cũng là kết quả và thước đo trong việc học của mỗi người.
Tự khẳng định mình là cái đích phải đạt được của con người ngày nay trong học tập: đó là lúc con người đã từng bước hoàn thiện nhân cách của mình, có đủ năng lực và phẩm chất để chung sống với mọi người và góp phần xây dựng cho dân tộc cũng như cộng đồng nhân loại. Nếu học tập mà không tự khẳng định được mình thì coi như việc học không đạt kết quả.
Bốn mục đích của việc học do UNESCO đề xướng vừa đúng đắn, khoa học, lại mới mẻ và mang dấu ấn thời đại sâu sắc. Cách sắp xếp trình tự các mục đích cũng rất lô-gích, hợp lí: biết ⟶ làm ⟶ chung sống ⟶ tự khẳng định mình. Lôgic là ở chỗ: có biết thì mới làm được, biết và làm là điều kiện để chung sống, và trên cơ sở biết, làm, chung sống thì mới khẳng định được mình. Tuy đề xướng thành bốn mục đích cụ thể của việc học, nhưng bốn mục đích đó lại có thể quy về hai mặt, hai yêu cầu cơ bản của việc học: “Học để biết” là yêu cầu tiếp thu kiến thức; “học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” là yêu cầu thực hành, vận dụng kiến thức, từng bước hoàn thiện nhân cách của người học. Đó là những tư tưởng đúng đắn, mới mẻ và tiến bộ về việc học của con người trong thời đại ngày nay.
Dàn ý Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động.
Câu trả lời của bạn
A. Mở bài:
B. Thân bài:
C. Kết bài:
Khẳng định lại một lần nữa câu nói của nhà văn là những nhận xét thật tinh tế và như khuyên chúng ta nên biết hành động cư xử như thế nào để có thể có được một cuộc sống tươi đẹp hơn.
Dàn ý Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình.
Câu trả lời của bạn
Mở bài
Giới thiệu: Trong thời đại khoa học tiên tiến như hiện nay, giáo dục đóng vai trò vô cùng quan trọng. Học tập là vấn đề được toàn xã hội quan tâm. Vậy học để làm gì? Trả lời cho câu hỏi này UNESCO đã đề xướng mục đích học tập:” Học để biết, học để….”.
Thân bài
* Giải thích, nêu quan điểm bản thân:
Kết luận: Nêu tác dụng và ý nghĩa của việc học. Tất cả đều cho thấy việc học, việc xác định mục đích học tập là rất quan trọng. Nó không chỉ quan trọng đối với bản thân mà còn quan trọng với mọi người, xã hội và đất nước. Nó giúp chúng ta có cuộc sống tốt hơn, được mọi người tin yêu, quý trọng. Góp phần vào sự phát triển của xã hội và đất nước, rèn luyện nhân cách làm người. Mục đích học tập mà UNESCO đề xướng rất đúng đắn, nhân văn: Học vấn làm đẹp con người!
Trình bày suy nghĩ của anh/chị về tầm quan trọng của "nơi dựa" trong cuộc sống của mỗi con người?
Câu trả lời của bạn
Một nhà vật lý nổi tiếng đã từng nói: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nâng cả thế giới”. Câu nói này của ông khiến ta thấy rằng trong cuộc sống con người luôn cần cho mình một điểm tựa để thực hiện những ước mơ, hoài bão hay vượt qua những khó khăn, trở ngại. Chính vì vậy, bài thơ Nơi dựa của Nguyễn Đình Thi gợi lên cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ.
“Nơi dựa” (điểm tựa) là nơi để mỗi người nương tựa, là nơi tiếp cho họ sức mạnh, niềm tin, động lực sống, nơi mang lại cảm giác ấm áp, bình yên…. Tuy nhiên, ở khía cạnh tinh thần, cậu bé cũng là nơi dựa cho người phụ nữ, bà cụ cũng là nơi dựa cho người chiến sĩ.
Không ai trong chúng ta có thể tồn tại một mình trên cõi đời này. Chúng ta luôn sống trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội: với gia đình, nhà trường, bè bạn. Chính trong những mối quan hệ đó, con người học tập, làm việc, dần định hình và phát triển nhân cách của mình. Trong cuộc sống, không ai có thể chắc chắn rằng cuộc đời mình thuận lợi mãi mãi. Có thể đến một lúc nào đó công việc của chúng ta sẽ gặp bất trắc, trở ngại. Chính những lúc ấy, ta rất cần tìm cho mình một nơi dựa làm điểm tựa trong đời, để được an ủi, che chở, giúp đỡ, vỗ về nâng bước. Từ đó những thất bại, rủi ro vấp phải sẽ nhanh chóng được vượt qua, con người sẽ có thêm tự tin để bước tiếp.
Như đã nói, bao giờ cũng bắt đầu từ chỗ dựa vững chắc: gia đình. Tình cảm thân thương ruột thịt, sự che chở nâng đỡ cho từng thành viên là điều gia đình không hề thiếu. Cha mẹ luôn ở bên con cái dẫu khi bé thơ đến lúc trưởng thành, động viên con vững bước trên đường đời và có khó khăn gì ta cũng về với cha mẹ đầu tiên. Ngược lại con cái cũng là nơi dựa của cha mẹ, niềm vui của con thể hiện ở nụ cười, nét mặt, ước mong cho con có một cuộc sống tốt đẹp hơn quãng đời mình đã sống là chỗ dựa vững chắc cho cha mẹ vượt qua những trở lực trong công việc. Điểm tựa tiếp theo cho con người chính là nhà trường, bạn bè, chúng ta hoàn toàn có thể yên tâm khi xung quanh ta còn thầy cô luôn dìu dắt, chăm sóc từng ngày, quanh ta vẫn còn bạn bè chia sẻ niềm vui trong học tập, đời sống. Những gì ta khó ngỏ lời cùng cha mẹ, khó cùng bố mẹ trò chuyện có thể trao đổi với thầy cô, bè bạn. Một môi trường học đường thân thiện, tích cực luôn là một không gian lý tưởng cho học sinh phát triển. Điểm tựa trong đời ta đôi khi là những tấm gương sáng, thậm chí những con người bình thường trong xã hội. Thấy những anh xe ôm dám bắt cướp, thấy những suất cơm từ thiện, những tấm lòng dành cho đồng bào nghèo, cơ nhỡ hoặc gặp phải thiên tai, ta có nơi dựa để tin rằng cuộc đời còn nhiều người tử tế. Gặp một hoàn cảnh khuyết tật, gia cảnh khó khăn nhưng biết vươn lên ta biết rằng mình còn là một điểm tựa mà thấy rằng mình còn hạnh phúc hơn bao người khác, vững tin với khả năng chịu đựng và vượt qua mọi thử thách của con người để từ đó phải cố gắng hơn.
Đúng là trong cuộc sống ta rất cần nơi dựa, nhưng đừng ỷ lại, dựa dẫm vào đấy quá nhiều. Cần lên án, phê phán những kẻ sức dài vai rộng nhưng vẫn sống bám vào bố mẹ già, những kẻ không chịu làm gì vì ỷ lại vào người khác. Nên nhớ rằng chỗ dựa chỉ hỗ trợ cho ta bước qua khó khăn chứ không thể làm thay ta mọi điều, hãy hiểu điểm tựa theo ý nghĩa tích cực nhất của nó. Nhắc lại ý trên, ta mới thì dẫu tìm cho mình một chỗ dựa nhưng quan trọng nhất vẫn chính là bản thân con người. Như lúc còn học phổ thông, Louis Pasteur chỉ là một học sinh trung học. Về môn hóa, ông đứng hạng 15/22 học sinh của lớp. Cuối cùng, ông đã trở thành một khoa học gia nổi tiếng. Walt Disney từng bị tòa soạn báo sa thải vì thiếu ý tưởng, từng nếm mùi phá sản rất nhiều lần trước khi sáng tạo nên Disneyland đến việc hợp tác cùng nhau. Chính vì vậy mà con người càng cần phải hợp tác cùng người khác nên mọi lĩnh vực, phải ủng hộ nhau, hợp lực với nhau để đẩy nhanh tiến độ phát triển. Trong thời buổi này không thể đóng khung mình trong chỗ dựa cho mình và lấy mình làm chỗ dựa cho họ, có vậy, chúng ta mới có thể đặt được thành công nhanh chóng.
Lí trí vĩ đại – cuốn sách được thương nhân và chính trị gia xuất sắc nhất của Mĩ đánh giá là cuốn sách đưa quốc này tiến vào thế kỉ XX – đã từng viết như sau: “Nếu mỗi lần vấp ngã, bạn lại bật lên như một quả bóng, khi mọi người đều từ bỏ mà bạn vẫn kiên trì hướng về phía trước thì làm sao bạn có thể thất bại được”. Cuối cùng, nơi dựa vững chắc nhất cho mỗi người vẫn là chính bản thân chúng ta. Nếu con người tự tin, có năng lực, biết tận dụng tốt nhất những gì mình có thì việc khó nhất cũng có thể vượt qua, từ đó đi lên thành công trong cuộc sống.
Nghị luận xã hội về câu nói: Văn hóa, đó là cái còn lại khi người ta đã quên hết tất cả?
Câu trả lời của bạn
Văn hóa có một nghĩa rất rộng, rất phức tạp, nhiều người đã viết hẳn một quyển sách để định nghĩa hai chữ ấy. Có thể hiểu một cách giản dị và sát nghĩa như sau: Văn là văn vẻ, văn nhã, trái lại với vũ phu, thô bỉ, dã man.
Hóa là biến đổi, nhuốm theo. Con người khi còn ở trạng thái dã man có những cách thức sinh hoạt (ăn ở, ăn mặc, nói năng, yêu thương… không ở trên con vật mấy, nhưng lần theo lịch sử, dần dà thay đổi, tiến lên, đạt tới văn hóa. Văn hóa là tổng thể những thành tích cố gắng của con người đã từ trạng thái con vật mà vươn lên, hóa đi, tiến tới trạng thái tiến bộ văn vẻ ngày nay (nghĩa này chính ra là nghĩa của từ kutur trong tiếng Đức, gần đồng nghĩa với văn minh). Thành tích của văn hóa thể hiện ở những công trình về mọi mặt, nhất là những công trình về tinh thần: văn chương, mĩ thuật, triết học, khoa học… Cho nên người ta thường hiểu văn hóa gần như học thức. Người học rộng biết nhưng là người có văn hóa.
Văn hóa trong câu danh ngôn là dịch từ tiếng Pháp culture, nghĩa đen là sự trồng trọt, vun xới. Tiếng Pháp nói terre cultive: đất trồng trọt, đối lập với terre inculte: đất bỏ hoang, plante cultive: cây vun trồng, đối lập với plante sauvage: cây dại. Cũng vậy người ta hiểu l'homme cultive: là người có đầu óc được chăm bón, vun xới, dưỡng dục cho nên trong từ culture Pháp ta thấy ngoài ý học thức khách quan và cộng đồng của văn hóa, còn có giả thiết sự cố gắng riêng của cá nhân để tự trao đổi, tự rèn luyện về các phương diện tri thức và tình cảm, ngõ hầu đạt tới một trình độ nảy nở, điều hòa của con người tinh thần.
Câu ra trong đề nguyên là lời nói của cố nghị trưởng Pháp Edouard Herriot: “La culture, c'est ce qui reste quand on a tout oublié, c’est ce qui manque quand on a tout appris”. Nhưng hình như ông chỉ nói có nửa trên và sau người ta thêm vào nửa dưới, có lẽ để cho nghĩa được thêm sáng, thêm đầy đủ và cũng để cho bớt tính cách nghịch lí. Câu nói ấy là một lộng ngữ, nói một điều mới nghe tưởng như nói giỡn, nhưng suy ra thấy bên trong có sự sâu sắc và xác đáng.
Nói văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên hết, cái vẫn thiếu khi người ta đã học đủ, chúng ta có thể đi đến suy diễn: con người có văn hóa là con người chẳng cần học, chẳng cần nhớ một điều gì cả. Cách giải thích ấy máy móc và ngoài chủ ý của tác giả. Thật ra câu nói này chỉ nêu lên tính chất tiêu cực của văn hóa: không tùy thuộc cái gì nhớ được, không tùy thuộc cái gì học được. Còn phần tích cực là cái còn lại, cái vẫn thiếu, là những cái gì không nói ra, nhưng chúng ta phải tìm hiểu và đó mới là cái chủ điểm của vấn đề.
Để nêu rõ sự sai lầm của nhiều người thường quan niệm rằng văn hóa chỉ là cái học tích trữ trong trí nhớ, cái học nhồi sọ, cái học lặp lại như con vẹt, thường chỉ là công việc ghi nhớ giỏi. Ai có kí ức mạnh (chữ Hán gọi là cường kí) người ấy sẽ thành công. Học trước quên sau thi còn gì mong đỗ đạt. Cho lên bậc đại học, đến việc đào luyện các chuyên gia cũng vậy. Một kỹ thuật gia là người thuộc lòng kĩ thuật của mình và áp dụng như một cái máy. Một học giả, một giáo sư cũng thuộc lòng những lý thuyết trong khu vực mình để nếu cần đọc ra vanh vách, nói thao thao.
Lối học ấy không ích lợi cho sự trau dồi cá nhân. Học thức chỉ phù phiếm như một nước sơn bên ngoài, không ảnh hưởng đến tư tưởng chân thành, đến tình cảm sâu xa, không hóa được con người theo những khuynh hướng tận tụy tận thiện. Không những vô ích mà còn có hại. Sự tích trữ quá nhiều trong trí nhớ có thể làm cho con người loạn trí, cuồng chữ, hay ngu xuẩn đi. Người chuyên gia dù về kĩ thuật hay học thuyết có thể là một con người lệch lạc. Sự học ấy lại còn dễ làm người ta kiêu ngạo vô lí. Tưởng cứ nhớ được nhiều lặp lại giỏi là có giá trị hơn người, là làm cho đời phải kính phục, nhưng thật ra cử chỉ ngôn ngữ.
Ta làm cho người ta khó chịu, thậm chí có thể bị khinh thường. Một tai nạn nữa là kẻ cho rằng học là nhớ cái học, chỉ biết cái học và sinh ra nô lệ sách không biết tự mình suy xét nữa.
Vậy thế nào là văn hóa chân chính? Là những gì còn lại khi đã quên hết và vẫn thiếu khi đã học đầy đủ; hay nói cách khác, theo nhà văn hóa trên thì học vấn phải có mục đích đào tạo nơi con người ta những thành quả gì? Tiếng Pháp hay dùng chữ former, formation. Nó giá thiết sự hoán cải và khuôn đúc con người theo một mẫu mực lí tưởng. Sự học chính phải làm sao hoán cải con người, nâng cao giá trị của nó về mọi mặt. Học thức không nên nhồi nhét vào để đó mà phải tiêu đi, biến hóa đi để nuôi dưỡng trí thức của con người. Sự học trước hết phải luyện cho con người biết suy xét, có óc phán đoán tự lập, nhận định được phải trái, hơn kém. Lại cần đào luyện và khai thác trí tưởng tượng, sự thông minh, óc sáng chế. Lại cần mài nhọn giác quan, làm giàu cảm xúc, mở rộng khả năng thông cảm với đời. Người có văn hóa không phải là cái máy đóng kín ở ngoài đời mà phải là con người thông minh, uyển chuyển, tế nhị, luôn luôn mở rộng ra ngoại giới để phát kiến ra vô số tài nguyên làm giàu cho cá nhân mình. Lí tưởng ấy chính là lí tưởng truyền thống của các nhà giáo dục Pháp: “Một bộ óc biết sáng tạo hơn là một bộ óc đầy hiểu biết”, Pascal. Chúng ta làm việc hơn là suy tư.
Do đó ta thấy sáng tỏ ý nghĩa của câu nói. Người ta có thể quên hết mọi điều đã học, cũng như vứt bỏ những hành lí kềnh càng nặng nề. Nhưng đối với người biết học thì vẫn còn lại một cái gì: đó là khuôn nhận thức, nếp suy tư, khuynh hướng mở rộng trí não và giác quan ra để tìm hiểu thông cảm, như một cái vốn vẫn còn lại mãi mãi để sinh lợi không thôi. Và người ta có thể học đủ hết cả nhưng đối với người không biết học thì vẫn thiếu, thiếu cái khuôn nếp hay, đẹp thành hình, thiếu cái vốn ấy để cho mình đứng vững ở đời và chinh phục ngoại giới. Thí dụ rõ hơn: một người đi học rồi ra đời có thể quên hết mọi bài thơ đã học nhưng gặp bất kì một bài thơ nào đó, vẫn có thể đọc được, bình được, rung động, thưởng thức được có thể quên hết mọi bài toán, mọi định lí, công thức nhưng ra đời đặt trước một việc phải tìm hiểu, phải giải quyết vẫn có thể đem óc phân tích, óc suy diễn đã luyện được trong những giờ toán học để tìm hiểu và giải quyết.
Do đó, tóm lại ta có thể kết luận: văn hóa chân chính, cái học đạt đích, không tùy thuộc vào cái người ta biết, cái người ta có (ce qu’on est) mà tùy thuộc cái người ta thành, cái người ta là (ce qu’on est), cái này còn lại mãi, cái kia có thể mất hết.
Tuy đề không đòi hỏi phê bình, nhưng để tìm hiểu được đầy đủ, để đề phòng mọi hiểu lầm hoặc suy diễn lệch lạc cũng cần cảm nhận thêm rằng câu nói trên không hoàn toàn chê bai cái học mà chỉ chỉ trích cách học. Sự học nhất là sự học trong sách vẫn là một phương tiện vô song, để trau dồi cá nhân, bồi đắp văn hóa.
Nói rằng: "… khi người ta đã quên hết ấy là giả thuyết người ta đã phải học nhiều lắm. Điều cốt yếu là làm sao khi quên hết mà vẫn còn một cái gì. Ta có thể nói thêm: Cái gì còn lại đó chỉ có thể có khi người ta đã học nhiều. Hay nói cách khác, văn hóa chỉ có thể nhờ phương tiện trau dồi bằng học thức, bằng sách vở.
Văn hóa là giá trị tinh thần cốt lõi của một dân tộc, một đất nước nói riêng và cả nhân loại nói chung, được hun đúc từ ngàn xưa cho đến ngày nay. Giá trị tinh thần đó, khi được đưa ra làm kim chỉ nam, không có tính bảo thủ, hoài cổ, thủ cựu.
Lòng nhân ái, yêu nước, yêu thương đồng loại là những giá trị tinh thần “hội tụ” khi con người biết sử dụng khối óc, trái tim để khẳng định thân phận con người. Thông qua những phương sách, công cụ, nghi thức, các giá trị tinh thần cốt lõi đó được đưa vào cuộc sống, phục vụ con người, xã hội. Sự tiến hóa này là điều có thật khi con người được xem là chủ thể trung tâm.
Nói như thế để dẫn đến một kết luận cơ bản mà gần một năm qua, các học giả về quản trị doanh nghiệp đã đúc kết về những giá trị cốt lõi của học thuyết mới về quản trị doanh nghiệp: trách nhiệm, tôn trọng, đạo đức.
Học thuyết quản trị mà Henri Fayol, Lyndall Urwick, Luther Gullick, Max Weber… xây dựng từ đầu thế kỷ 20, vẫn sẽ tồn tại để giải quyết các vấn đề hiệu quả và độ tin cậy về hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia và các doanh nghiệp lớn. Học thuyết và mô hình quản trị này đã thật sự đem lại một sự phồn vinh kinh tế trong thế kỷ 20 và cực thịnh trong hai thập niên cuối cùng (1980 – 1990).
Tuy nhiên, lúc cực thịnh nhất cũng là lúc học thuyết, mô hình này đạt đến đỉnh cao nhất, có nghĩa là điểm tới hạn. Và câu hỏi: “Quản trị như thế nào để có tính thích ứng cao với thay đổi môi trường xã hội, kinh tế, tài chính, văn hóa… và sự thích ứng là vì con người chứ không phải chế ngự con người?” đang là thao thức chung của các học giả đi tìm một học thuyết mới.
Gary Hamel, tác giả ấn phẩm “The Future of Management” năm 2007, là một trong số học giả tiên phong, châm ngòi cho các diễn đàn quản trị đang diễn ra hiện nay. Sự đồng thuận lớn về học thuyết và mô hình quản trị “đổi mới” xoay quanh một số điểm chính. Đó là phải đặt con người, giá trị con người, là điểm trung tâm của hoạt động, đời sống doanh nghiệp. Doanh nghiệp không thể trở thành một bộ máy không “hồn” như một rô bốt thuần kinh tế/tài chính. Sự đam mê, sáng tạo, năng động, thông minh nhanh nhẹn của nhân viên phải được khơi dậy, nuôi dưỡng, phát huy nhằm tạo nên giá trị gia tăng cho doanh nghiệp.
Nhà triết học Blaise Pascal đã nói: “Không có gì lớn lao trở thành hiện thực trong thế giới này mà không xuất phát từ đam mê, hoài vọng lớn!”. Sự thành công của nhân viên chính là thành công của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi nói đến việc khuyến khích tính sáng tạo, năng động… không có nghĩa là không cần đến kỷ luật trong nền quản trị mới. Kỷ luật, nhưng là kỷ luật thông minh!
Tựu trung, học thuyết quản trị mới là tổng hợp nối kết hai trường phái quản trị chính trên thế giới hiện nay. Đó là trường phái Mỹ lấy hiệu quả là cứu cánh và trường phái Nhật lấy giá trị tinh thần về con người làm cứu cánh. Phải chăng đó là kinh tế thị trường định hướng xã hội!
Đặt hiệu quả kinh tế là cứu cánh mặc dù đã đem đến một sự phồn thịnh trong một khoảng thời gian nào đó, những tác động tiêu cực về vấn đề con người lãnh đạo, điều hành nói chung đã bộc lộ một cách trầm trọng tạo nên khủng hoảng. Đặt con người làm cứu cánh, nhưng nếu đưa tính tự tôn dân tộc lên quá cao cũng làm cản trở tính nối kết quyền biến, linh hoạt, hài hòa với các nền kinh tế khác.
Đơn giản mà nói, sự tổng hợp có thể tóm tắt như sau: quản trị đặt con người vào vị trí trung tâm, dựa vào những giá trị cốt lõi, đúng cho tất cả mọi nơi, nhưng biết chọn một lộ trình thích ứng để hiệu quả kinh tế từng giai đoạn đều có! Có hiệu quả kinh tế thì sử dụng một phần thích ứng để củng cố, phục vụ giá trị con người. Vòng tròn “con người – hiệu quả kinh tế – con người – hiệu quả kinh tế…” sẽ tránh được sự điều tiết cực độ về kinh tế như cơn khủng hoảng hiện nay.
Để làm được điều trên, các doanh nghiệp và đặc biệt các tập đoàn đa quốc gia không thể không xem lại thể chế quyền lực cực đoan như hiện nay. Tính “không dân chủ” phải chăng là một yếu tố cấu thành sự sụp đổ giá trị cốt lõi để dẫn đến sự sụp đổ của các tổ chức đó. Nếu thay từ “khoa học” trong câu nói của triết gia Ernest Renan bằng từ “kinh tế” thì hiểu được hệ lụy của sự “không dân chủ”: “Kinh tế mà không lương tâm chỉ là một sự sụp đổ của tâm hồn”. Lương tâm là nền tảng của đạo đức để biết đâu là trách nhiệm, tôn trọng là tôn trọng gì. Tính dân chủ vừa là công cụ vừa là hệ quả của lương tâm.
Douglas Mc Gregor, trong tác phẩm lừng danh “The Human Side of Enterprise” xuất bản năm 1960 đã phân tích và tranh luận chống lại ý tưởng quá khích xem con người chỉ là một công cụ phục vụ cho hiệu quả kinh tế. Công ty W.L Gore & Associates thành lập năm 1960 đã dám thực hiện ý tưởng “dân chủ doanh nghiệp” của Douglas Mc Gregor. Từ tay không, nay tập đoàn Gore đã có 8.000 nhân viên, 45 nhà máy ở Mỹ, Anh, Đức, Nhật, Trung Quốc… với doanh số hàng năm hơn 2 tỉ USD. Từ lúc thành lập cho đến bây giờ, tập đoàn này chưa bao giờ thua lỗ dù trải qua nhiều cuộc khủng hoảng. Tạp chí Fortune từ lâu đã đưa tập đoàn Gore vào “top” của của các tập đoàn được nhân viên “yêu mến/gắn bó” nhất! Và khi nói đến cụm từ “dân chủ”, đừng tưởng nhầm là nhân viên sẽ “lè phè”, “loạn”. Không, tính kỷ luật, tính vì cộng đồng, tính vì công việc hoàn mỹ, tính “đổi mới” là những điểm cốt lõi tại tập đoàn Gore! Hay như những công ty thành lập sau này như tập đoàn Whole Foods của Mỹ với doanh số 8 tỉ USD/năm và tập đoàn Google với hơn 10.000 kỹ sư, hơn 10 tỉ USD/năm hoạt động không khác gì tập đoàn Gore!
Vậy, tính dân chủ được đưa vào đời sống doanh nghiệp như thế nào?
Thứ nhất, hội đồng quản trị thật sự đóng vai trò chỉ đạo và giám sát ban lãnh đạo điều hành. Các thành viên hội đồng quản trị phải có kinh nghiệm nghề nghiệp, thật sự độc lập, tránh tình trạng có những “lợi ích” mật thiết với chủ tịch điều hành. Thứ hai, chủ tịch và ban lãnh đạo công bố đều đặn, minh bạch đường lối hoạt động ngắn hạn, trung hạn, dài hạn cho toàn thể nhân viên và báo chí, tạo cơ chế “đối thoại” trực tiếp với cộng đồng nhân viên và lắng nghe, quan tâm đến “góp ý” của nhân viên. Thứ ba, cộng đồng nhân viên sẽ được tham gia với những cơ chế được ấn định trước để “tham mưu” cho ban lãnh đạo. Một cơ chế thông thoáng, sáng tạo, minh bạch cho toàn thể lãnh đạo, cán bộ, công nhân viên, nhằm đãi ngộ xứng đáng, đúng lúc những tài năng cá nhân hay nhóm đem đến hiệu quả ngắn hạn, trung hạn, dài hạn cho doanh nghiệp!
Với cách lãnh đạo, điều hành vừa nêu trên, một cách ngắn gọn cũng cho thấy ba cốt lõi của doanh nghiệp là trách nhiệm, tôn trọng, đạo đức đã được thực hiện một cách thực chất.
Cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu hiện nay đã làm thức tỉnh giới lãnh đạo từ doanh nghiệp đến các nguyên thủ quốc gia. Các học giả đều nhận thức là cách quản trị mới sẽ được tác động sâu sắc bởi những chính sách chính trị, kinh tế, tài chính vĩ mô mà các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, cộng đồng châu u, Ấn Độ, khối kinh tế Nam Mỹ… thỏa hiệp để có một sự điều tiết chấp nhận được! Và đây là một cơ hội, vì Mỹ không còn là siêu cường quốc độc nhất.
Theo báo cáo của Boston Consulting Group (2008), trong mười tập đoàn quốc tế có giá trị chứng khoán trên 50 tỉ USD trở lên và có lãi nhất thì chỉ có hai tập đoàn của Mỹ, còn Nhật Bản, Anh, Hà Lan, Thụy Sỹ chỉ có một tập đoàn. Bốn tập đoàn còn lại là của các quốc gia mới phát triển Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và Mexico! Nói chung, một sự lạc quan hợp lý đã được ghi nhận là một trật tự mới đang được tư duy, thiết chế nhằm xóa đi những thái quá của những mô hình cực đoan cũ. Sự tư duy, thiết chế này trong chừng mực nào đó là một cuộc cách mạng về tinh thần quản trị. Hãy ngẫm nghĩ về một tuyên bố của Taylor, một trong những học giả chủ xướng của cuộc cách mạng quản trị khoa học năm 1912 trước Quốc hội Mỹ như sau: để có một nền quản trị dựa trên nền tảng khoa học, thì cần một cuộc cách mạng về tư duy từ nhân viên cấp thấp cho đến những lãnh đạo của họ. Sự cách mạng tư duy này phải được thực hiện trong cuộc sống của doanh nghiệp, nghĩa vụ phải được thực hiện hai chiều… Không có cuộc cách mạng tư duy này thì nền quản trị khoa học không thể thực hiện được!
Cách đây 100 năm, đã có một cuộc cách mạng về tư duy quản trị. Bây giờ cũng thế, nếu chúng ta thay thế từ “khoa học” trong ý tưởng tóm tắt phát biểu của Taylor bằng cụm từ “con người – hiệu quả kinh tế” cho học thuyết quản trị đổi mới dựa trên nền tảng trách nhiệm, tôn trọng, đạo đức.
Nghị luận xã hội về câu nói: Sự ham muốn vô độ về tiền bạc sẽ đẩy con người vào chỗ sa đọa về tâm hồn?
Câu trả lời của bạn
Con người muốn tồn tại trong xã hội đòi hỏi phải có tiền. Có tiền đời sống vật chất của con người ngày càng được cải thiện. Nhưng liệu hạnh phúc chỉ đến khi có nhiều tiền? Và ngược lại, có nhiều tiền liệu có được hạnh phúc? Không ít người đã coi việc kiếm tiền là mục đích sống của mình mà không ý thức được rằng: "Sự ham muốn vô độ về tiền bạc có thể dẫn con người đến chỗ xa đọa tâm hồn".
Người ta thường nói: "Có tiền mua tiền mua tiên cũng được", bởi có tiền là có thể chiếm hữu mọi thứ tài sản, quyền lực, địa vị.. Có tiền người ta cũng có thể tận hưởng mọi giá trị vật chất trên đời, thưởng thức mọi của ngon vật lạ, nhà cao tầng, xe đời mới, đi du lịch khắp mọi nơi… Tiền bạc làm thỏa mãn ham muốn của con người. Có nhiều tiền con người ta tự dưng cũng trở nên cao sang quyền quý được nhiêu người kính trọng hơn. Nhất là khi xã hội ngày càng phát triển, muốn làm bất cứ việc gì cũng cần phải có tiền, trị giá của đồng tiền càng cao. Thậm chí tiền còn có khả năng biểu thị tình cảm của con người với con người. Giả sử mình thương người hàng xóm nghèo khổ, cơm ăn không đủ no, áo mặc không đủ ấm nhưng trớ trêu thay khi mình cũng chẳng có tiền để giúp được gì thì liệu người hàng xóm ó thấu được tấm lòng của mình hay chỉ nghĩ về sự vô tâm ích kỷ? Sinh nhật đứa bạn thân, mình muốn tặng bạn món quà mà bạn thích nhưng không cách nào có đủ tiền mua nó thì bằng cách nào bạn hiểu được tình cảm của mình hay mãi mãi chỉ là những lời nói suông?… Dầu ai cũng nói chỉ cần tấm lòng là đủ nhưng sự thực có tấm lòng mà không giúp được gì thì cũng không thiết thực. Và ngược lại, chẳng hạn một đại gia vốn không thương người cho lắm nhưng tiên tiền như ném ra cửa sổ, hy sinh một khoản nhỏ tài sản của mình để ủng hộ người nghèo cốt lấy cái danh thơm. "Giá trị vạn năng" của đồng tiền là vậy đó, và cũng chỉ vì thế đồng tiền cũng trở thành sự ham muốn vô độ của không ít người.
Sức mạnh to lớn của đồng tiền đã làm cho nhiều người nghĩ rằng phải kiếm thật nhiều tiền để thỏa mãn mọi tiện nghi về đời sống vật chất. Cuộc sống hiện tại quá khó khăn, vật chất, người ta muốn mình có nhiều tiền để sống thoải mái hơn. Nhưng có được một cuộc sống đầy đủ rồi, người ta lại muốn mình có thật nhiều tiền để sống cho thật an nhàn, sung sướng. Sự thực là không bao giờ con người ta biết hài lòng về những gì mình đang có, do đó cũng dễ dẫn đến sự ham muốn vô độ về tiền bạc mà hiếm khi người ta nhận ra được sự ham muốn vô độ của mình. Và sức cám dỗ của đồng tiền thật dễ đẩy người ta vào chỗ sa đọa tâm hồn.
Với sự ham muốn vô độ về tiền bạc, bao giờ người ta cũng tập trung vào suy nghĩ, tiêu tốn tất cả thời gian, sức lực của mình cho việc kiếm tiền. Để rồi đến nỗi không còn lấy một chỗ trống trong suy nghĩ, một chút thời gian…cho những phút giây xao động của tâm hồn, đời sống tâm hồn đã bị dìm vào quên lãng thay vào đó là bao tính toán, đắn đo về tiền bạc, lúc nào cũng chỉ tiền, mọi việc đều quay quanh chữ "tiền". Và như thế đồng tiền đã được chính mình tiếp tay cho sức mạnh của cả đời sống tâm hồn của con người.. Nó làm người ta phải khổ sở, phải đau đầu với bao suy nghĩ, toan tính không lúc nào được nhẹ nhõm thoải mái. Cuộc đời mỗi con người là gì nếu không phải là sự tận hưởng của cuộc sống? Tiền vốn là hình thức để người ta trao đổi của cải, vật chất cho cuộc sống được đầy đủ hơn. Vậy mà cả một cuộc đời chỉ quay quanh trong vòng xô bồ của cuộc sống để kiếm thật nhiều tiền thì kiếm đâu ra niềm vui được sống nếu có lúc nào đó ta tự hỏi mình đã thực sự tìm thấy mục đích của cuộc sống, mục đích sống của một đời người mà mình làm chủ?.. Và không chỉ thế, sự ham muốn vô độ về tiền bạc đôi khi còn dẫn con người đến những lầm lạc trong suy nghĩ và hành động, người ta không suy nghĩ và làm chủ được mình nữa. Tiền bạc có thể làm cho con người dễ tráo trở:
"Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi".
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Quên cả nhân nghĩa:
"Tiền tài hai chữ, son khuyên ngược
Nhân nghĩa đôi đường, nước chảy xuôi"
(Nguyễn Công Trứ)
Đôi khi trở nên tàn nhẫn độc ác:
"Một ngày lạ thói sai nha
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền"
(Nguyễn Du)
Chính vì vậy việc nhận thức về giá trị đồng tiền không chỉ thể hiện một cách nghĩ, một cách sống mà nó còn ảnh hưởng tới nhân cách làm người. Tiền bạc chỉ góp phần làm cho cuộc sống của ta dễ dàng hơn, tiền không thể làm ta hạnh phúc. Đừng để đồng tiền ngự trị đầu óc, khiến ta phải luôn mệt mỏi, mệt mỏi và có khi còn làm trái pháp luật, bất nhân bất nghĩa. Hạnh phúc chỉ có được khi người ta biết thỏa mãn với những gì mình đang có. Hạnh phúc chỉ có được khi người ta làm chủ được chính mình, được làm những gì mình thích, được nuôi nấng và thực hiện ước mơ, lí tưởng. Hạnh phúc là người ta biết sống, nhận được tình cảm yêu mến, thân thiện từ mọi người. Con người ngoài tài sản vật chất do lao động chân chính tạo ra, còn có những bảo vật tinh thần vô giá: một tâm hồn trong sáng, một nhân cách thanh cao, niềm say mê lao động, phục vụ đất nước, xã hội…. Những thứ này không thể nào mua được bằng tiền bạc.
Giá trị đồng tiền là không thể phủ nhận nhưng cần có sự nhận thức đúng đắn rằng: "Sự ham muốn vô độ về tiền bạc sẽ dẫn con người đến tha hóa tâm hồn". Câu nói là bài học quý giá cho con người luôn làm chủ được suy nghĩ, hành động của mình. Chúng ta hãy sống sao cho mỗi lần nhìn lại hãy tự hào về những gì mình đã làm, có thể nhận thấy sự nhẹ nhõm trong tâm hồn trước sự cám dỗ của đồng tiền, trước vòng đời quanh quẩn, xô bồ.
Từ ngàn xưa con người của chúng ta đã nhận thức ra được giá trị của tiền qua buôn bán, trao đổi. Và đến nay, khi đồng tiền thu nhập được xem là biểu hiện cho sự phát triển của một xã hội, một quốc gia, nó lại càng trở nên quan trọng. Nếu biết dùng tiền, con người sẽ làm nên sự nghiệp, còn nếu ham muốn vô độ về tiền bạc, nó sẽ đẩy chúng ta vào chỗ sa đọa tâm hồn. Đúng như vậy!
Trong cuộc sống xã hội, giá trị của tiền rất cao. Qua đồng tiền, chúng ta mua được lương thực phục vụ cho nhu cầu ăn uống cũng như mọi nhu cầu khác, chúng ta thể buôn bán kiếm lời. Thế nhưng tại sao lại có người nói sự ham muốn tiền bạc sẽ dẫn đến suy sụp về tinh thần, về tâm hồn?
Vậy thế nào là sự ham muốn vô độ tiền bạc? Đó chính là việc quá đề cao vai trò của đồng tiền với quan niệm “có tiền là có tất cả”. Khi ấy đồng tiền trở thành người chủ đầy uy quyền. “Vô độ” chỉ sự quá mức, vượt qua giới hạn. Sự ham muốn vô độ về tiền bạc chính là sự ham muốn, đam mê không giới hạn về tiền bạc. Một người nếu đam mê quá mức về tiền bạc mà kém tài, không đạo đức thì có thể sẽ kiếm tiền bằng mọi giá, thậm chí giết người, cướp của, đánh đổi cả danh dự và mạng sống của mình. Như vậy, nó sẽ đẩy con người vào chỗ sa đọa về tâm hồn. Từ đó dẫn đến sự hối hận, ỉn năn, đau khổ về những điều mình đã làm. Cụ thể là những người vì tiền mà hành động trái với lương tâm, một là sẽ bị đe dọa về mạng sống, hai là sẽ bị đau đớn về tinh thần, tâm hồn sẽ suy sụp.
Tại sao sự ham muốn vô độ về tiền bạc lại đẩy con người vào chỗ sa đọa tâm hồn? Vì tiền bạc cũng như một chất ma túy. Nó lôi kéo con người một khi con người dính vào nổ. Nhiều người buôn bán, vì muốn được lợi nhuận nhiều, đã vượt qua lương tâm và pháp luật đi buôn lậu, buôn hàng cấm dẫn đến hậu quả phải vào tù, bị tử hình. Lúc đó, Không những làm hại cho bản thân mà còn gây ra những hậu quả tai hại cho người khác. Chẳng hạn như Vũ Xuân Trường. Vì muốn được nhiều tiền, vì quá tham lam nên ông ta đã buôn bán ma túy mà đâu đó có nghĩ nó gây họa một thế hệ trẻ sau này.
Đồng tiền rất có thế lực, nếu chúng ta biết cách sử dụng, không những làm cho ta phát triển tài năng mà còn giúp ích cho gia đình, xã hội. Chẳng hạn như biết đồng tiền vào những mục đích kinh doanh với nước ngoài, nhờ sự đầu tư của họ sẽ giúp cho kinh tế nước nhà phát triển. Điều này hoàn toàn khác với việc lạm dụng tiền, mua chuộc cấp trên để tham nhũng, bòn rút của công. Chúng ta, ai ai cũng muốn mình có nhiều tiền, được giàu có nhưng phải kiếm tiền dựa trên sức lao động của mình, đồng thời không ham muốn vô độ. Qua thực tế đã chứng minh nhiều người tự làm hại bản thân mình khi nhắm mắt chạy theo đồng tiền. Lúc này, người làm chủ được đồng tiền chính là người có nghị lực, có tài năng và đạo đức thật sự. Đồng tiền chính đáng tự đến với họ thay vì người ta đến với đồng tiền bất chính. Ví dụ như Bill Gate, nhờ tài năng, chất xám đã nắm giữ trong tay rất nhiều tiền.
Nhưng giàu không có nghĩa là tự kiêu, cho rằng mình có mọi quyền hành, muốn gì cũng được, dẫn đến việc ăn chơi sa đọa, tiêu xài phung phí. Như vậy, hậu quả cũng chẳng khác gì sự ham muốn vô độ về tiền bạc. Vì vậy, muốn trở thành người tốt, chúng ta không những phải biết tự kiềm chế mình trước mãnh lực của đồng tiền mà còn phải là người biết dùng tiền. Sử dụng tiền đúng chỗ, đúng giá trị của nó thì ta sẽ làm chủ được đồng tiền.
Câu nói trên chính là một lời khuyên, một lời chỉ bảo chúng ta về hậu quả của việc ham muốn vô độ đồng tiền. Qua đó, chúng ta đã rút ra một bài học rất hay, rất đích đáng về cách dùng tiền trong cuộc sống. Chúng ta có quyền đam mê tiền bạc, nhưng phải có giới hạn vì nếu không, nó sẽ dẫn đến những hậu quả xấu không lường trước được. Đồng thời, chúng ta phải biết làm ra tiền một cách chân chính và sử dụng tiền theo mục đích tốt. Có như vậy, xã hội, đất nước mới phát triển. Như thế sẽ không hổ thẹn với bản thân mình, với mọi người.
Nghị luận xã hội về câu nói: Nếu tôi không đốt lửa; Nếu anh không đốt lửa; Nếu chúng ta không đốt lửa; thì làm sao Bóng tối sẽ trở thành Ánh sáng!
Câu trả lời của bạn
Đã ai từng một lần đọc những lời thơ đấy giục giã của nhà thơ Nazim Hikmet "Nếu tôi không đốt lửa; Nếu anh không đốt lửa; Nếu chúng ta không đốt lửa; thì làm sao Bóng tối sẽ trở thành Ánh sáng!". Bóng tối sẽ tan đi và ánh sáng sẽ ngập tràn nếu anh hành động, tôi hành động và chúng ta cùng hành động.
Trong cái ánh sáng rạng ngời xua tan bóng tối ấy có ánh sáng của tôi, của anh và của tất cả chúng ta. Và hôm nay, nhà thơ Tố Hữu đã mượn tiếng ru dịu êm của mẹ qua bài thơ "Tiếng ru" của mình, một lần nữa gợi cho chúng ta hiểu thêm về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, xã hội, giữa một con người với mọi người. Một ngôi sao không làm nên bầu trời đêm rực sáng. Một bông lúa chín chẳng làm nên mùa vàng bội thu. Một con người nhỏ bé đáng kể gì trong cõi nhân gian rộng lớn. Đất thấp thế nhưng nhờ có đất mà núi mới cao. Sông nhỏ thế thôi nhưng nhờ sông mà biển mới mênh mông đến vậy.
Một cá nhân bé nhỏ sẽ không là gì cả so với một cộng đồng to lớn. Nhưng ngược lại, những gì lớn lao, vĩ đại lại được tạo nên từ những điều hết sức nhỏ bé mà thôi. Sống trên đời, ai cũng mong muốn mình được thể hiện và khẳng định bản thân, phần cá nhân của mình. Đó là mong ước tự nhiên và chính đáng. Phần riêng ấy được thể hiện ở những khát khao, hoài bão của bản thân là niềm mong mỏi mình phải có vị trí nào đó trong mắt mọi người. Phần cá nhân bé nhỏ của mỗi người ấy cần được thể hiện, được khẳng định, được tôn trọng và ghi nhận. Chính "cái tôi" ấy tạo nên giá trị và bản sắc của mỗi cá nhân trong cộng đồng, làm cá nhân đó không bị hòa tan, không lẫn vào người khác. Tôi yêu những vạt nắng trải dài trên cánh đồng bát ngát, yêu những triền đê xanh thơm mùi cỏ non. Còn bạn, bạn yêu những ánh đèn màu rực rỡ của thành phố hoa lệ về đêm, yêu những tòa nhà chọc trời nguy nga, tráng lệ. Tôi và bạn có những tình yêu khác nhau, quan điểm sống khác nhau, và chính sự khác nhau ấy đã làm nên "cái tôi" riêng của mỗi cá nhân chúng ta. Phần tôi ấy được thể hiện bằng nhiều cách: bằng sự yêu thương, bằng những nỗ lực, phấn đấu học tập, lao động hay chỉ đơn giản là những sở thích riêng của chúng ta mà thôi.
Ở mỗi thời kì, ta đều thấy sự xuất hiện của những cá nhân vĩ đại, xuất sắc. Bằng tài năng của mình, họ đã đóng góp rất nhiều cho cộng đồng, xã hội. Họ có thể là những nhà khoa học, bằng những phát minh của minh đem lại sự phát triển cho đời sống của nhân loại như Đác-uvn, Marie Curie… Họ có thể là những nhà cách mạng, bằng sự nghiệp chính trị của mình mà đem lại hòa bình cho cả một dân tộc, một đất nước như Bác Hồ – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta. Nhưng dù cá nhân có hoàn thiện, có lớn lao vĩ đại đến đâu đi chăng nữa nhưng cũng sẽ không là gì so với sức mạnh của cả một dân tộc. Cá nhân ấy khác nào một hạt cát với một sa mạc một giọt nước với một đại dương rộng lớn, một thân cây giữa bạt ngàn rừng xanh… Mất đi một hạt cát sa mạc vẫn cứ mênh mông; mất đi một giọt nước thì đại dương vẫn cứ bao la, mất đi một bông hoa thì mùa xuân vẫn cứ muôn phần rực rỡ… Một vĩ nhân, một anh hùng làm sao làm nên sự nghiệp lớn nếu không có sự kề vai góp sức của mọi người. Một cá nhân bé nhỏ làm sao tạo được sự nghiệp lớn lao khi chỉ làm một mình mình. Ta phải biết rằng cùng với ta, bên cạnh ta còn có sự chung tay góp sức cùng ta làm nên việc lớn. Nhìn lại lịch sử chiến đấu hào hùng của dân tộc, ta thấy rằng sở dĩ ta có thể dệt nên những trang sử vẻ vang, ta có thể anh dũng chiến đấu giành thắng lợi, đem lại hòa bình, tự do cho dân tộc được vì sự đồng lòng, đoàn kết của nhân dân. Chính những cá nhân nhỏ bé, riêng lẻ đã tạo nên một sức mạnh tập thể vô cùng lớn lao, có thể quét sạch quân thù. Hay hình tượng người anh hùng Thánh Gióng, nhờ có cơm áo của bà con làng xóm mà Gióng vươn vai trở thành tráng sĩ, xông pha trận mạc đánh tan giặc Ân. Hình tượng ấy đã được truyền thuyết hóa, thực chất đó chính là tinh thần đoàn kết của nhân dân đồng lòng chống giặc.
Qua đó, ta thấy sự khiêm tốn nhìn nhận, đánh giá vai trò của mỗi cá nhân trong cộng đồng quan trọng biết bao. Biết là thế nhưng chúng ta cũng đừng vì mỗi cá nhân vô cùng nhỏ bé mà quên đi sự đóng góp của bản thân để tạo nên cộng đồng, chúng ta đừng chỉ biết hưởng thụ những đóng góp của người khác mà làm mờ nhạt đi vai trò của mình, làm mình trở thành gánh nặng cho người khác, cho cộng đồng, xã hội. Bởi lẽ tất cả mọi thứ lớn lao đều được hình thành từ những gì bé nhỏ nhất. Một hạt cát bé nhỏ thật nhưng nếu không có những hạt cát kia thì làm gì sa mạc mênh mông đến vậy. Một giọt nước không là gì nhưng biển làm sao bao la khi không còn những giọt nước ấy. Vì vậy, ta có thể thấy cá nhân là một nhân tố quan trọng, là cơ sở để hình thành nên cộng đồng tập thể. Để những cá nhân có thể đóng góp sức mình vào phần chung to lớn, chúng ta không được quyền quên đi những đóng góp của họ. Vì biết đâu nỗi buồn bị lãng quên sẽ làm giảm đi nhiệt huyết trao tặng của họ, dù cho những đóng góp kia cho đi không phải mục đích là được nhận về. Như những người lính tuổi còn rất trẻ đã cho đi tuổi xuân, cho đi xương máu của mình vì một cái chung to lớn. Hay những người mẹ Việt Nam anh hùng đã đóng góp từng củ khoai, bát gạo cho các chiến sĩ, đóng góp cả những đứa con ưu tú của mình để rồi âm thầm khóc nghẹn trong lặng lẽ khi hay tin các anh hi sinh, các anh không về. Các mẹ đã hi sinh hạnh phúc riêng của mình vì cộng đồng, vì tập thể to lớn kia. Những con người ấy họ đã cho đi mà có nề hà chi. Họ hi sinh cái phần cá nhân bé nhỏ của mình đâu phải vì huy chương, vì chiến công. Họ ra đi mà không cần đền đáp lại. Nhưng những lòng biết, những niềm cảm thông chia sẻ của chúng ta sẽ làm họ vui hơn rất nhiều, sẽ giúp họ cảm thấy ấm áp mà nhiệt tình hơn trong trao tặng. Chúng ta cũng không nên đóng góp sức mình mà lại đòi hỏi một sự công nhận thật tương xứng với công lao mà mình bỏ ra. Vì đó thực chất chỉ là một cuộc trao đổi chứ không phải cho đi vì cộng đồng. Vì vậy, chúng ta phải có quan niệm: mình vì mọi người, mọi người mình. Chúng ta cho đi thì ta sẽ được nhận về. Dù có lớn hay không thì sự nhận về ấy vẫn luôn có ý nghĩa.
"Ta là con chim hót; Ta là một cành hoa; Ta nhập vào hòa ca; Một nốt trầm xao xuyến…” (Thanh Hải)
Nhà thơ Thanh Hải cũng đã từng suy nghĩ về triết lí này trong cuộc đời sáng tác văn chương của ông. Ông muốn làm một chú chim để dâng cho đời tiếng hót, muốn làm một bông hoa điểm tô thêm sắc hương cho cuộc sống, một nốt nhạc trầm để lại cho người nghe những dư âm xao xuyến. Và ông gọi đó là "Mùa xuân nho nhỏ" của mình. Khát khao của ông, ước muốn của ông nhỏ bé thật nhưng nó đáng quý biết bao. Vậy đây, cuộc sống của chúng ta là thế. Ông chỉ muốn được là góc nhỏ của mùa xuân vì ông biết rằng mùa xuân lớn kia, mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước. Từ mùa xuân bé nhỏ ấy, ta mới thấy ước muốn đóng góp lúc nào nó cũng đáng quý, dù đóng góp nhỏ bé hay lớn lao thì nó cũng có ý nghĩa vô cùng. Ta và tôi, cá nhân và cộng đồng… tất cả đã tạo nên mối quan hệ mật thiết giữa những điều bé nhỏ và những thứ lớn lao trong cuộc sống. Đó chính là triết lí sống vô cùng đúng đắn mà con người đúc kết được từ những thực tế cuộc sống. Tiếng ru giản dị, mượt mà, êm đềm nhưng ẩn chứa trong nó là bài học lớn lao. Và tiếng ru đấy vẫn luôn đồng hành trong hành trang cuộc đời của chúng ta, từ thuở bé cho đến khi trưởng thành, giúp ta nhận thức được mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng trong cuộc sống, dạy ta biết đóng góp, biết cho đi tạo nên những bông hoa, những bài ca, những mùa xuân rực rỡ cho đời, người và cho cả chính chúng ta.
Nghị luận xã hội về câu nói: Mất tiền là chẳng mất gì cả, mất danh dự là mất nửa cuộc đời; mất niềm tin và nghị lực là mất cả cuộc đời?
Câu trả lời của bạn
Cuộc đời là một môi trường tranh đua quyết liệt. Để có thể sống một cách mạnh mẽ, người ta rất cần đến lòng can đảm. Lòng can đảm có ảnh hưởng rất lớn tới sự thành công hay thất bại. Tục ngữ Đức có câu: Mất tiền là mất nhỏ, mất danh dự là mất lớn, mất can đảm là mất hết.
Câu tục ngữ trên có ba vế, liên quan chặt chẽ với nhau về mặt ý nghĩa và có sự tăng cấp theo mức độ giá trị con người. Tiền tượng trưng cho sự giàu có. Danh dự tượng trưng cho uy tín, tên tuổi. Can đảm tượng trưng cho ý chí, nghị lực, khí phách của con người.
Thông thường, ai cũng thích làm ra được nhiều tiền để sống đầy đủ, sung sướng nhưng thực ra, số người giàu có trong xã hội chỉ là số ít. Phần đông chỉ đủ ăn và dành dụm được một chút để phòng khi cơ nhỡ, ốm đau… Do đó mà người ta rất quý đồng tiền. Dân gian có câu: Đồng tiền liền khúc ruột.
Đồng tiền được đổi bằng mồ hôi nước mắt lại càng đáng quý, song mất tiền là mất nhỏ vì ta vẫn có thể tiếp tục kiếm tiền bằng cách cần cù, chăm chỉ làm việc. Mất tiền tất nhiên là buồn, nhưng nỗi buồn ấy cũng không ghê gớm đến mức là huỷ hoại cuộc đời của một con người. Thực tế cho thấy để đạt được mục đích làm giàu, nhiều doanh nhân phải chấp nhận những thất bại tạm thời, nhưng với sự kiên nhẫn thua keo này, bày keo khác và lòng can đảm, cuối cùng họ cũng thành công.
So với tiền bạc, danh dự con người đáng quý gấp ngàn lần. Ông cha ta đã dạy: Cọp chết để da, người ta chết để tiếng, hay: Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng; Chết vinh hơn sống nhục… nhấn mạnh đến tầm quan trọng của danh dự. Ngạn ngữ Nga cũng có câu: Hãy giữ gìn chiếc áo từ lúc còn mới. Hãy giữ gìn danh dự từ lúc còn trẻ trung.
Tiền bạc khó kiếm nhưng còn kiếm được chứ danh dự thì chỉ có thế tự thân tạo dựng nên và nhiều khi phải tạo dựng cả đời người mới có được. Danh dự ở đây có thể hiểu là uy tín, thể diện, tiếng tăm của một cá nhân trước gia đình và xã hội. Danh dự là một giá trị tinh thần không thể bán mua, đổi chác, không thể đem ra mà cân đo, đong đếm. Danh dự được coi là thước đo phẩm giá con người nên mất danh dự là mất lớn, khó có thể lấy lại được. Mất danh dự đồng nghĩa với sự tủi nhục, đau đớn, là thiệt hại nặng nề về mặt tinh thần. Những bậc chính nhân quân tử, những người có học xưa kia thường quý trọng danh dự hơn cả mạng sống của mình.
Suy xét kĩ, chúng ta sẽ thấy tiền bạc, danh dự được tạo nên bởi nhiều yếu tố, mà yếu tố quan trọng là lòng can đảm, tức ý chí và nghị lực của mỗi con người.
Sống là chiến đấu, chiến đấu không ngừng suốt cả cuộc đời; là vật lộn với vô vàn thử thách, gian nan trên bước đường mưu sinh, tạo dựng sự nghiệp. Chiến đấu với những thói hư tật xấu trong chính bản thân mình mới thực sự là cuộc chiến đấu gay go, ác liệt nhất. Lòng can đảm giúp ta giữ vững lí tưởng, lập trường, mục đích sống. Lòng can đảm tạo ra sức mạnh thúc đẩy chúng ta phấn đấu để tiến tới thành công.
Mất can đảm là mất tất cả. Đúng như vậy! Không có lòng can đảm, người lính không thể tiêu diệt quân thù. Không có lòng can đảm, một con người bình thường không đủ nghị lực để làm bất cứ việc gì, dù là nhỏ. Không có lòng can đảm, một nhà bác học không thể vượt qua hết thất bại này đến thất bại khác để đi tới thành công. Mất can đảm tức là nhu nhược, yếu hèn, cam chịu mọi nghịch cảnh của số phận. Một con người như thế thì còn sống mà như đã chết, cuộc đời trở nên hoàn toàn vô nghĩa. Vô nghĩa với bản thân, gia đình và xã hội, không đáng được so sánh với những loài vật bé nhỏ mà hữu ích như con ong, cái kiến.
Đường đời vạn nẻo lắm chông gai và nhiều sóng gió vấp ngã, thất bại là lẽ đương nhiên. Mỗi lần ngã là một lần bớt dại (Tố Hữu). Thất bại là mẹ thành công… Đó là những bài học nhân sinh thiết thực, là hành trang tư tưởng không thể thiếu của mỗi chúng ta khi bước vào đời. Lòng can đảm sẽ giúp ta đứng vững, có đủ trí tuệ, nghị lực và sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng mọi thử thách gian nan, khẳng định được vị trí của mình trong cuộc sống.
Xung quanh chúng ta có biết bao tấm gương sáng về lòng can đảm, rất xứng đáng cho chúng ta học tập. Chị Trần Bình Gấm, một học sinh nghèo hiếu học của trường chuyên Lê Hồng Phong, vừa đi học vừa bán vé số, bán khoai luộc để giúp mẹ nuôi các em, vậy mà thi đỗ vào ba trường đại học.
Anh Nguyễn Trường Sơn 1 nạn nhân của chất độc màu da cam, bị tật nguyền, dị dạng mà là sinh viên của hai trường đại học. Chị Hướng Dương bị tai nạn mất cả hai chân vẫn kiên cường sống, làm việc và cống hiến, đem lại ánh sáng trí tuệ cho những trẻ em mù qua hình thức sách nói, thư viện nói… Quả là lòng can đảm đã mang lại cho họ một nghị lực và sức mạnh phi thường.
Lòng can đảm là một phẩm chất quý báu nhưng không phải sinh ra ai cũng có ngay mà phải trải qua một quá trình rèn luyện lâu dài. Muốn thành công trong cuộc đời và sự nghiệp, chúng ta cần giữ vững niềm tin, giữ vững ý chí, thắng không kiêu, bại không nản, hãy ngẩng cao đầu tiến lên phía trước.
Trong cuộc sống, chúng ta cần phải có niềm tin và nghị lực. Thiếu niềm tin và nghị lực chúng ta không thể thành công trong cuộc đời. Niềm tin và nghị lực sẽ giúp ta vượt qua những khó khăn, những bất hạnh, những trở lực trong cuộc sống để vươn lên, tìm thấy một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chính vì vậy mà Hoàng đế Na-pô-lê-ông của nước Pháp đã có một câu nói khá nổi tiếng, trở thành một châm ngôn trong cuộc sống của mỗi chúng ta: “Mất tiền là chẳng mất gì cả, mất danh dự là mất nửa cuộc đời; mất niềm tin và nghị lực là mất cả cuộc đời”.
Để hiểu ý nghĩa vô cùng sâu sắc của câu nói này, trước tiên ta phải hiểu vì sao Na-pô-lê-ông bảo: “Mất tiền là chẳng mất gì cả”. Sở dĩ như vậy là vì mất tiền, chúng ta có thể làm ra tiền trở lại. Trong thực tế cuộc sống có những người bị thiên tai, bão lụt, bị trộm cắp mất hết tài sản… nhưng rồi họ lại đứng lên bằng đôi chân, bàn tay, khối óc của mình để làm ra tiền trở lại.
Điều thứ hai ta cần phải hiểu là tại sao “mất danh dự là mất nửa cuộc đời”? Mất danh dự là ta làm mất niềm tin của kẻ khác đối với ta, mà ta làm mất niềm tin một lần thì những lần sau người ta không còn tin mình nữa. Khi người ta không còn tin mình nữa thì làm việc gì cũng khó, ít có người giúp đỡ. Tuy nhiên, mất danh dự ta có thể lấy lại danh dự nhưng phải mất một thời gian dài, chúng ta phải nỗ lực, cần phải giữ đúng lời hứa với kẻ khác, giữa lời nói và việc làm phải luôn đi đôi với nhau, đừng nói một đàng, làm một nẻo, phải giữ gìn sự chân thật trong mọi công việc… thì chúng ta mới lấy lại được danh dự. Đúng là “mất danh dự là mất nửa cuộc đời”.
Na-pô-lê-ông đưa ra vế câu đầu và vế câu hai: “Mất tiền là chẳng mất gì cả" "mất danh dự là mất nửa cuộc đời” nhằm để nhấn mạnh và làm nổi bật vế câu thứ ba “mất niềm tin và nghị lực là mất cả cuộc đời”. Đây là vế quan trọng nhất và có ý nghĩa sâu sắc nhất. Con người chúng ta trong cuộc sống nếu mất niềm tin và nghị lực thì chúng ta sẽ sống một cách thụ động, bi quan trước cuộc sống không đủ sức vượt qua những trở lực, khó khăn trong cuộc sống, không đủ sức vượt lên chính mình, nghĩa là chúng ta tự đánh mất chính cuộc đời mình chúng ta chẳng làm nên được trò trống gì cho mình và cho xã hội và cuộc đời chẳng thương tiếc gì ta, chúng ta sẽ bị cuộc đời đào thải. Đúng là “mất niềm tin và nghị lực là mất cả cuộc đời”.
Tóm lại, câu nói của Na-pô-lê-ông là một chân lý, một bài học sâu sắc cho mỗi chúng ta. Chúng ta phải luôn luôn tự nhủ lòng mình muốn thành đạt tới phải luôn giữ lấy niềm tin và nghị lực dù trong bất kì hoàn cảnh nào.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *