Nội dung của bài học giúp các em hiểu được diễn biến tâm lí của các nhân vật, nhất là chị Hoài và ông Bằng trong buổi cúng tất niên chiều ba mươi tết. Từ đó thấy được sự quan sát tinh tế và cảm nhận tinh nhạy của nhà văn về những biến động, đổi thay trong tư tưởng, tâm lí con người Việt Nam giai đoạn xã hội chuyển mình.
⇒ Vẻ đẹp của nhân vật: Chị Hoài là người phụ nữ nông thôn đẹp người, đẹp nết, sống tình nghĩa thuỷ chung. Chị Hoài đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong truyền thống gắn với mô hình gia đình nền nếp gia phong, sống nặng nghĩa tình thuỷ chung son sắt.
⇒ Ông Bằng là kiểu nhân vật đặc trưng cho lớp người rất phổ biến trong xã hội ta một thời: trọng đạo đức gia đình và các chuẩn mực xã hội truyền thống nhưng đang phải gánh chịu nỗi đau từ cơn lốc thị trường tàn phá vào giá trị gia đình.
đọan trích “Mùa lá rụng trong vườn”, Ma Văn Kháng đã khéo léo xây dựng kết cấu truyện hợp lý để giúp người đọc cảm nhận được nét đẹp tuyền thống gia đình của người Việt Nam để không đánh mất mình trước tác động của nền kinh tế thị trường, giúp mỗi người càng yêu thêm những nét đẹp trong tâm hồn người Hà thành. Truyện như một thước phim ngắn về một gia đình có truyền thống trọng đạo ân tình, tình nghĩa thủy chung son sắt. Để nắm vững những kiến thức cần đạt về văn bản này, các em có thể tham khảo thêm bài soạn Mùa lá rụng trong vườn.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Mùa lá rụng trong vườn được trích ra từ chương II của tiểu thuyết cùng tên. Tác phẩm thể hiện nỗi niềm thương tiếc cho những giá trị cũ của dân tộc đang bị mai một và nhạt nhòa trước những đổi thay của cuộc sống đổi mới. Để nắm vững lí thuyết cũng như cách cảm nhận về các vấn đề của tác phẩm này, các em có thể tham khảo các bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích truyện ngắn Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Sau một thời gian dài dồn sức cho hai cuộc kháng chiến vệ quốc đi đến thắng lợi, nhân dân ta trở lại quỹ đạo đời sống thời bình với muôn vàn khó khăn bỡ ngỡ. Những quy luật bất thường đã làm nên đặc trưng văn hoá thời chiến giờ không còn phát huy ảnh hưởng nữa. Con người phải đối diện với nhu cầu cơm áo. Đời sống dần lộ ra những phức tạp, bất ổn: nhiều chuẩn mực trở nên lỗi thời, mối quan hệ cá nhân - cộng đồng không đơn giản một chiều như trước, đòi hỏi phải được nhận thức lại. Những biến động dữ dội từ các nước Đông Âu, sự manh nha của nền kinh tế thị trường đầu thập kỷ tám mươi,... làm nảy sinh biết bao câu hỏi nhức nhối về niềm tin, về cách sống. Tất cả đều đang báo trước nhu cầu đổi mới toàn diện đất nước sẽ được Đảng chính thức phát động năm 1986. Có thể gọi đây là buổi giao thời của hai giai đoạn lịch sử với sự cọ xát, va chạm của các quan niệm, các hệ giá trị cũ - mới. Nhạy cảm với thời cuộc, một số nhà văn đã kịp thời đưa được hơi thở nóng hổi của hiện thực vào tác phẩm. Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng là trường hợp tiêu biểu. Cùng với Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và vài ba nhà văn khác, Ma Văn Kháng đã chuyển mối quan tâm từ bình diện các sự kiện lịch sử - chính trị sang bình diện sinh hoạt thế sự, đưa những trăn trở về văn hoá, đạo đức vào trung tâm soi ngắm, khám phá.
Mùa lá rụng trong vườn như nhiều người đánh giá, là hành trình đi tìm câu trả lời cho vấn đề bức thiết: Mỗi con người, mỗi gia đình sẽ phải sống như thế nào trong hoàn cảnh bộn bề hiện tại ? Đoạn trích nằm ở phần đầu tác phẩm, có thể coi là một áng văn đẹp, chuyển tải thành công những suy tư, trăn trở đầy trách nhiệm của tác giả trước một đô thị đang từng giờ từng phút quẫy cựa, tung phá ra khỏi cái trật tự đã trở nên bức bối trì trệ. Đây thật sự là những trang tươi sáng, cảm động nhất của cuốn truyện mang đậm sắc thái bi kịch nhân văn này. Từ khi nào, cái gia đình nhiều thế hệ vốn yên ấm, thuận hoà của ông giáo Bằng bắt đầu xuất hiện những vết rạn, rồi lung lay, chao đảo ? Vì lẽ gì mà một người vợ đảm đang, rất yêu và hãnh diện về chồng như Lý sinh ra bất mãn với gia đình, lao vào những cám dỗ tầm thường ? Sự "nổi loạn" của Cừ - người con trai thứ tư của ông Bằng - đưa anh ta từ lỗi lầm này đến lỗi lầm khác rồi kết thúc bằng cái chết tuyệt vọng, có căn nguyên sâu xa từ đâu ?,... Giữa những bức xúc về đói nghèo, về công bằng, tiến bộ, gây nên "cơn sốt vỡ da" của xã hội thời hậu chiến đang làm lung lay nhiều mái ấm gia đình, có biết bao vấn đề cần được xem xét lại một cách tỉnh táo, trong đó có nhu cầu khẳng định giá trị cá nhân và giữ gìn các chuẩn mực văn hoá. Câu chuyện khép lại khi những người con ông Bằng, sau đám tang cha, đang cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn lại những rạn vỡ trong các mối quan hệ vợ - chồng, anh - em, chú - cháu,... khá phức tạp. Bức thư tuyệt mệnh đầy ăn năn của Cừ, sự trả giá đau đớn của Lí, lòng vị tha của Hoài, tình yêu trong sáng của Cần và bản lĩnh văn hoá của những trí thức như Cần, Luận, Phượng liệu có hứa hẹn một tương lai sáng sủa hơn ?
Đặt khung cảnh ngày Tết sum họp ở phần đầu tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn, sau sự kiện gia đình vừa nhận tin Cừ bỏ trốn ra nước ngoài, và mấy anh em Đông, Luận bàn cách giấu cha vì sợ ông Bằng không chịu nổi cú sốc này, Ma Văn Kháng vừa giúp bạn đọc sớm tiếp cận chủ đề tác phẩm vừa tạo được hiệu quả thẩm mỹ đáng kể khi khơi dậy ở người đọc nỗi lo âu và cảm giác nuối tiếc vô ngần trước sự phôi pha, băng hoại của những giá trị cổ truyền, để rồi từ bữa Tết sum họp này đã không còn toả hơi ấm trong gia đình ông Bằng nữa. Ngày Tết ấy sẽ trở thành biểu tượng cho tình người, cho cái đẹp tâm linh mà con người thời hiện đại phải khắc khoải tìm về để tự cân bằng nhịp sống căng thẳng và quá nhiều lý tính.
Khẳng định những giá trị cổ truyền, tác giả muốn đề xuất một định hướng văn hoá làm chuẩn cho sự phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu giải phóng cá nhân, đồng thời lý giải vai trò to lớn của gia đình đối với quá trình hình thành nhân cách con người, gián tiếp đối thoại với quan niệm đạo đức một thời quá nhấn mạnh vào ý thức cộng đồng: "hình như có thời kỳ người ta có ảo tưởng là có thể coi nhẹ các quan hệ gia đình. Các quan hệ cha con, vợ chồng, anh em,... hình như không có gì phải bàn bạc nữa" (lời Luận). Khuynh hướng củng cố gia đình, gia tộc, theo Ma Văn Kháng, là "dựa vào một nền tảng tinh thần vững bền để chống lại tất cả cái xấu đang làm phá cuộc sống".
Chủ đề tư tưởng toát lên từ khung cảnh sinh hoạt thân thuộc mà rất đỗi thiêng liêng. Thiên nhiên cũng chuẩn bị sẵn cho con người tâm thế giao hoà. Bữa cúng tất niên là thời điểm đặc biệt với mỗi người Việt Nam. Nó là sự kết thúc để khởi đầu cho một năm mơ ước và phấn đấu. Người người hân hoan hướng về nguồn cội bày tỏ tri ân và mong được tiên tổ phù hộ độ trì. Không gian Tết mang đậm màu sắc văn hoá tâm linh ấm cúng mà trang trọng. Cách chọn thời điểm như vậy tập trung được nhiều nhân vật, bộc lộ được nhiều tính cách, tâm sự mà vẫn thống nhất ở định hướng: làm gì để nuôi dưỡng căn cốt văn hoá của con người.
Mô tả một ngày Tết sum họp, ngòi bút Ma Văn Kháng như thăng hoa trong nhiệt hứng tạo dựng không khí điển hình của một cái Tết cổ truyền. Từng chi tiết được chọn lựa kỹ lưỡng, từng động tác, từng lời của nhân vật đều có khả năng hé mở tâm tính và tâm trạng. Tết mang đậm màu sắc văn hoá tâm linh với không khí đặc trưng bởi sự ấm cúng, sum họp. Bữa cúng tất niên trong gia đình ông Bằng rõ ràng là còn phản chiếu nhiều nét đẹp chung của truyền thống dân tộc. Nét đẹp đó hiện ra trên cả bình diện vật chất lẫn tinh thần. Lễ cúng bài bản, trang trọng theo đúng nghi thức với khói trầm ngát thơm, bánh chưng xanh buộc lạt điều, mâm ngũ quả, những chén rượu xinh xắn rải ngang trước bàn thờ, ngọn đèn dầu lim dim,... Có sự thành kính nghiêm cẩn, thiêng liêng một dòng chảy mơ hồ mà xao động đến rưng rưng cảm động. Đó là thời khắc giao hoà giữa hai thế giới: quá khứ và hiện tại, thực và ảo, sống và chết, cõi dương và cõi âm, cõi người và cõi hồn, thể xác và tâm linh,... Bức ảnh những thành viên đã khuất trong gia đình (hình ảnh bà Bằng, anh cả Tường) như khơi lại quá khứ, mở ra cuộc giao cảm kỳ lạ: "Khói hương và khung cảnh trầm tĩnh đưa hiện tại về quá khứ. Thoáng cái, ông Bằng như quên hết xung quanh và bản thể. Dâng lên trong ông cái cảm xúc thiêng liêng rất đỗi quen thân và tâm trí ông bỗng mờ nhoè, phiêu diêu lãng đãng gần xa, ẩn hiện tầng tầng lớp lớp những ảnh hình khi tỏ khi mờ, chập chờn như trong chiêm bao". Giây phút này con người như được thanh tẩy để trở nên tinh khiết, đau đáu niềm hướng thiện. Lời khấn của ông Bằng là tình cảm thiết tha hướng về cội nguồn bằng tất cả lòng biết ơn trân trọng và tâm nguyện đắp bồi, củng cố mái ấm gia đình giữa bao sóng gió. Trong lời khấn ấy có một sợi dây bí ẩn nối kết mọi người, cả kẻ sống người chết, kẻ có mặt và người vắng mặt: dòng chảy của đạo lý, của tình yêu thương chung thuỷ, của ý thức làm người. Quá khứ không tách rời với hiện tại. Tổ tiên luôn đi cùng con cháu. Tất cả liên kết thành sức mạnh, thành niềm tự hào và trách nhiệm. Nhà văn đã nhìn ra cái gốc gác, các nền tảng sâu xa gắn bó mỗi cá thể là truyền thống gia đình. Lời khấn của ông Bằng không chỉ hướng đến tri ân người đã khuất, tri ân tổ tiên mà còn tri ân những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Những từ ngữ cổ kính, mang phong cách tôn giáo hoá ("Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu...") in đậm dấu ấn nhà nho mẫu mực. Nhà nho ấy quay trở về cõi thực, dù trong bầu không khí đoàn tụ, ấm cúng cũng không sao giấu được nỗi đau làm tổn hại danh dự tổ tiên. Ông Bằng mắt "cay xè", lòng "bổn ngộn" khi nghĩ đến người con út tha hoá, tự cô lập mình bằng lối sống bất cần, trở thành kẻ chối từ gốc gác, dối cha lừa vợ. Ông lặng lẽ mà quyết liệt khi gạt tên Cừ (người con lạc loài ấy) ra khỏi lời khấn xin tổ tiên phù hộ. Có lẽ trong ông, nỗi đau vì truyền thống gia đình bị vấy bẩn còn lớn hơn nỗi đau của người cha mất con. Chi tiết này khiến ngày Tết sum họp năm nay của gia đình ông như là "khúc vĩ thanh" của sự đầm ấm, bình yên, báo trước những bi kịch không lường hết của cuộc sống thời buổi kinh tế thị trường. (Có người nói Ma Văn Kháng đã bày "mặt trận" giữa một gia đình bé nhỏ chỉ có thứ vũ khí thuần tuý là đạo đức và văn hoá với những tác động tiêu cực của cả một xã hội đang trong cơn "trở dạ").
Có một xúc cảm thật đẹp được gợi lên từ mâm cỗ tất niên: lòng kính trọng tổ tiên, niềm âu yếm dành cho anh em, con cháu, bạn bè, tình yêu cuộc sống, nét tài hoa,... đều được con người gửi vào mâm cỗ ấy (Lý và mọi người đã tính toán công phu, đã nỗ lực hết mình để có thể chu toàn). Nó phải thoả mãn đủ các tiêu chí: đầy đặn gợi sự no ấm, đẹp đẽ gợi sự lịch lãm, sang trọng gợi niềm thành kính;... Dường như văn hoá ẩm thực của người Việt, mà nổi tiếng là của người Hà Nội đã tập trung trọn vẹn trong mâm cỗ tất niên nhà ông Bằng: gà luộc, giò, nem, chả, măng hầm chân giò, miến nấu lòng, vịt quay ướp húng lìu, gà tần hạt sen,... Người ta không chỉ ăn bằng miệng mà còn ngắm bằng mắt, không chỉ cốt cho no mà còn thưởng thức cái tinh tế, cái tài hoa, cái đảm đang của người làm cỗ, cái kì diệu của hương vị sản vật quê hương xứ sở.
Câu trả lời của bạn
Đọc tác phẩm của Ma Văn Kháng ta luôn bị ám ảnh bởi một thế giới không còn nguyên vẹn (tuy chưa thật sự có những thay đổi lớn lao). Những câu chuyện mà ông kể cho bạn đọc không “đao to búa lớn” nhưng lại có sức khái quát về một thời, một thời mà bước chân của bao người đang chênh vênh giữa cái cũ và cái mới. Mùa lá rụng trong vườn là một tác phẩm như thế. Người đọc ấn tượng đặc biệt với những thay đổi của khu vườn mùa lá rụng và con người đã không còn như những ngày xưa. Cũng bởi thế mà người đọc cảm nhận được “niềm lo lắng sâu sắc cho giá trị truyền thống trước sự thay đổi của thời cuộc”.
Trong đoạn trích trong sách Ngữ văn 12 (rút từ chương 2 của tiểu thuyết), tác giả tập trung trong một khoảng thời gian rất ngắn – chiều tất niên, trong một khoảng không gian hẹp – gia đình ông Bằng. Từ đó mở ra thăm thẳm chiều sâu cảm xúc, suy ngẫm về những gì đã dần bị mai một của cả một xã hội, của cả một thời.
Buổi chiều tất niên của gia đình ông Bằng cũng như bao gia đình Việt Nam khác, tất bật, háo hức, hồ hởi, vội vàng. Cả nhà thu xếp mâm cơm tất niên để đặt lên bàn thờ tổ tiên. Ta vẫn nhìn thấy trong bức tranh ấy những nét đẹp truyền thống không thể phủ nhận. Đó là cái không khí vừa có cái ồn ào, lo toan, gấp rút để chạy kịp thời gian, vừa muốn trùng trình níu kéo chút thời khắc của năm cũ, vừa muốn bước nhanh để được đón những giờ khắc đầu tiên của năm mới, mà ai cũng có kì vọng sẽ tốt đẹp bởi những gì đã và đang có. Và ai cũng có cảm tưởng cái gì cũng chỉ là mới bắt đầu. Nhân vật Lí là người đã thể hiện cái không khí tết nhất trong cái dáng vẻ tất bật, miệng luôn luôn mắng yêu chồng, than phiền về nhà cửa bề bộn, sắp đặt công việc, kể lể giá cả, xuýt xoa về hàng hóa, khen ngợi cái này, chê bai cái kia, bình luận nơi này, nhận xét nơi nọ. Ở người đàn bà ấy, người ta nhìn thấy hình ảnh của rất nhiều phụ nữ Việt Nam (đặc biệt là phụ nữ thị thành), trong những ngày năm hết Tết đến: lo toan mọi thứ, quán xuyến mọi thứ, lưu tâm tới mọi thứ. Họ trở nên đẹp hơn trong cái dáng tất bật, lo toan ấy.
Người đọc còn nhìn thấy những nét đẹp rất đặc trưng của dân tộc Việt trong đoạn trích này, đó là cảm giác mong muốn được quần tụ, sum họp.
Tết đến, người Việt Nam ai ai cũng muốn được trở về mái ấm nơi có mẹ, cha, anh em ruột thịt, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi đã in dấu bao kỉ niệm buồn vui (có thể cả những đau khổ, bất hạnh, biệt li). Với mỗi người thì gia đình là nơi bình yêu để nghỉ chân sau những ngày lao động bôn ba mệt nhọc.
Những thành viên trong gia đình ông Bằng cũng không đi ra ngoài phong tục, thói quen đó. Đông, Lí, Luận, Phương, ông Bằng… đều gặp nhau trong một cảm nghĩ chung: sum họp. Tất cả họ đều muốn được gặp gỡ, được cảm thấy trái tim xao động khi cầm một bàn tay, nhìn thấy một dáng hình thân quen; muốn được cười, được nói và được trầm tư nghĩ suy về những gì đã qua, những gì chưa tới. Và sự xuất hiện của chị Hoài đã thỏa mãn bao ước mong. “Sự việc diễn ra quá ư đột ngột, Đông, Lí, Luận, hấp tấp từ phòng khách ùa ra vệt đường lát xi măng đi qua vườn cây ra cổng, nhìn thấy chị Hoài thật rồi mà vẫn còn ngơ ngơ ngác ngác nửa tin, nửa ngờ”. Chị Hoài hiện ra bằng xương bằng thịt, cả nhà ai nấy đều hạnh phúc ngạc nhiên xốn xang khác thường, không chỉ vì chị rất nết na, thùy mị, mà còn vì một số lí do sâu xa hơn nhiều. Chị Hoài chính là người giữ được mảnh hồn xưa, đẹp thuần khiết nhất, không phai mờ, không bao giờ cách xa, không khuất lấp, cho dù cuộc sống có đổi thay, lo toan, bon chen như thế nào. Chị Hoài chính là một khoảng quá khứ thiêng liêng đẹp đẽ mà cả Lí, Đông Luận, ông Bằng đã từng tạo dựng, đã từng xây đắp, tôn thờ. Nhưng ở mỗi người hình như đã bị lung lay, rạn nứt, sứt mẻ đi ít nhiều. Chỉ có chị Hoài là một khoảng thiêng liêng, trong sáng vô ngần, không thể phá vỡ. Đó là một vật báu mà cả gia đình ông Bằng ai ai cũng yên tâm rằng: vật báu ấy luôn được cất giấu ở một nơi nào đó thật an toàn và không ai có thể xâm phạm tới được.
Nội dung câu chuyện giữa những người con của ông Bằng trong buổi chiều sum họp rất bình thường như bao nhiêu câu chuyện thường gặp của bao gia đình Việt Nam: hỏi thăm sức khỏe, công việc, người còn, người mất… Nhưng nó lại mang đặc trưng cho những cuộc gặp gỡ cuối năm, cảm xúc buồn vui lẫn lộn, bao nhiêu sự kiện, bao kỉ niệm ùa về, liên tiếp, dồn dập và ai cũng muốn được nói, được kể, được bày tỏ, ai cũng muốn bàn tay mình đủ ấm để sưởi ấm bàn tay những người thân.
Sức mạnh của tình máu mủ, ruột rà đã tạo cho các thành viên trong gia đình ông Bằng có những cảm giác đặc biệt trong buổi chiều tất niên ấy. Tất cả họ đều hướng tới những gì tốt đẹp nhất, hướng tới bàn thờ. Nơi thiêng liêng in dấu bao gương mặt tổ tiên, nơi hiện diện của dòng tộc, huyết thống, nơi minh chứng cho tất cả những gì quý giá nhất không thể nói hết thành lời mà chỉ bằng sự cảm nhận bởi tâm linh của mỗi người. “Ông Bằng soát lại hàng khuy áo, chỉnh lại cái cà vạt, ho khan một tiếng, dịch chân lại trước mặt bàn thờ”. Thái độ kính cẩn nghiêm trang ấy thể hiện sự cung kính trước tất cả những người đã khuất, sự giữ gìn tất cả những gì vốn được cả dòng tộc duy trì, gìn giữ. Lời khấn thiêng liêng của ông Bằng chính là cuộc chuyện trò với những người vĩnh viễn đi xa là lời bày to với tất cả những ai đã được ghi tên trong dòng tộc. “Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu. Con vẫn đinh ninh ghi khắc công ơn sinh thành dưỡng dục của thầy mẹ, gia tộc, ông bà, tổ tiên, con như thấy từ trong tâm linh, huyết mạch sự sinh sôi nảy nở, phúc thọ an khang của cháu con đời đời nối tiếp trong cộng đồng dân tộc yêu thương”. Những lời tri ân ấy là những lời được rút ra từ tâm khảm, từ trái tim rất mực chân thành, từ niềm tin bất diệt vào sự vĩnh hằng tồn tại và hiện diện ngàn đời của ông bà, tổ tiên. Và trong thời khắc của gia đình sum họp, mọi người vẫn nhận thấy rõ sự hiện diện thiêng liêng của ông bà, tổ tiên. Họ vẫn “hằng sống, hằng vui buồn, chia sẻ, dắt dìu” con cháu.
Ý nghĩa của buổi sum họp được mở rộng hơn rất nhiều, đó không chỉ là buổi chiều gặp gỡ giữa những người đang sống mà là cuộc gặp gỡ, giao cảm tâm linh của người sống và người đã khuất: “Quá khứ không cắt rời với hiện tại. Tổ tiên không tách ròi với con cháu. Tất cả liên kết một mạch, bền chặt thủy chung”.
Và mâm cơm tất niên với la liệt bát đĩa ngồn ngộn các món ăn được mọi người quây quần, sum vầy vui vẻ, hân hoan khác thường. Đó là thời khắc thiêng liêng mà mỗi thành viên trong gia đình ông Bằng cảm nhận thấy rõ mình đang hiện diện, đang tồn tại, đang là một thành viên của một gia đình, một dòng tộc, và dòng máu chảy trong huyết quản là của cha ông truyền cho.
Chỉ bằng vài ba trang sách, nhưng người đọc đã cảm nhận được nét đẹp truyền thống của gia đình ông Bằng. Một gia đình vẫn còn giữ được những phong tục, nền nếp, lề thói sinh hoạt rất đẹp, rất đáng quý của những gia đình người Việt. Người đọc có thể thấy hình ảnh của rất nhiều gia đình Việt Nam trong đó.
Tuy nhiên, ngòi bút Ma Văn Kháng không chỉ dừng lại ở đó. Cái quan trọng hơn cả là ông đã tái hiện sự lung lay của vẻ đẹp truyền thống trước những biến đổi của thời cuộc. Quả thực, cái Tết sum họp của gia đình ông Bằng đã vượt lên trên cái ý nghĩa thông thường, cụ thể của nó mà nó còn mang tính biểu tượng cho “nếp nhà”, cho phong tục truyền thống, cho nền nếp gia phong, cho tất cả vẻ đẹp truyền thống của mỗi gia đình người Việt. Và quan sát thật kĩ màn sum họp của gia đình ông Bằng, người đọc không thể không lo sợ cho những gì vẫn tưởng là tồn tại vĩnh viễn.
Sự xuất hiện của chị Hoài – ngoài mục đích thăm hỏi bình thường còn mang một mục đích khác. “Ông viết thư cho tôi, ông kể hết. Kể cả chuyện cậu Cừ. Thế nên tôi mới sốt ruột, phải lên ngay. Tôi sợ ông buồn? Đến lúc này cả Lí, Đông, Luận, Phương mới biết rằng chị Hoài đã lên thăm đúng chiều 30 là có lí do của nó. Những lá thư ông Bằng viết cho chị Hoài không nói rõ nhưng người đọc có thể biết được, đó là những câu chuyện buồn.
Những câu chuyện về một gia đình đã không còn đầm ấm không đủ như xưa. Cừ – đứa con trai của ông Bằng, một thanh niên giỏi giang vốn tòng quân, nhập ngũ nhưng rồi lại trốn đi nước ngoài biệt tăm tích. Sự vắng mặt của Cừ không tạo một khoảng trống, sự thiếu vắng trong gia đình, mà đáng chua xót hơn cả là những hành động sai lầm của con người ấy khiến cho nền tảng gia phong, nền nếp đẹp đẽ của gia đình ông Bằng bị xúc phạm ghê gớm. Ông Bằng, Lí, Đông… tất cả thành viên trong gia đình đều cảm thấy bị tổn thương, đau đớn. Nó như một vết nhơ trong gia đình, là dấu hiệu của sự bình yên bị phá vỡ vĩnh viễn không thể hàn gắn lại như xưa. Cũng chính vì thế, ông Bằng đã gạt hẳn Cừ ra khỏi gia đình khi đọc các tên con trai trước bàn thờ tổ tiên. Sự chứng thực về cái chết, sự biến mất của Cừ trong lòng ông Bằng thể hiện nỗi đau đớn, dằn vặt ghê gớm của một người không chịu nổi những chấn động của sự đổi thay, biến chất và nó cũng thể hiện nỗi lo sợ của ông Bằng về những điều sẽ đến ngoài mong đợi và những sự biến mất ngoài dự kiến. Chị Hoài cũng có chung cảm giác ấy. Và bởi vậy, chị là người đồng cảm với ông Bằng hơn cả trong gia đình.
Làn sóng đổi thay của thời cuộc đã len lỏi, “xâm thực” vào gia đình vốn rất nền nếp, gia giáo ấy. Nó bắt đầu làm đổi thay những thành viên.
Người nhanh nhạy duy nhất với thời cuộc là Lí. Lí đã không còn như những ngày xưa nữa. Cô đã đổi khác và chạy theo nhịp thay đổi chóng mặt của thời cuộc. Trong lời nói của con người ấy đã mang hơi thở của tiền bạc, bị chi phối bởi quyền lực và địa vị xã hội. Lí không còn chấp nhận hi sinh thiệt thòi như ngày xưa nữa mà cô đã đòi hỏi vươn tới và mong muốn đạt được tất cả những gì mình thích. Cô thích thể hiện, thích vượt trội, thích mình phải nổi bật nhất và bởi vậy trong mọi lời nói, việc làm cô đều có sự toan tính, cân nhắc kĩ lưỡng. Do đó, mâm cỗ cuối năm do Lí làm vừa mang sự khéo léo, tỉ mỉ lại vừa mang sự tính toán, khoe khoang về khả năng kiếm tiền ở cô: trên mặt bàn la liệt các món ăn rất nhiều món ăn đắt tiền và nó “quá ư thịnh soạn vào cái thời buổi còn rất nhiều khó khăn”. Đông – chồng Lí, một anh bộ đội phục viên, đã trở thành một nhân vật mờ nhạt, anh trở thành cái bóng trong căn nhà, suốt ngày ăn, ngủ, tối đánh bài xem ra cuộc đời chẳng còn việc gì đáng để cho anh làm, chẳng có gì đáng để anh phải suy nghĩ…
Rõ ràng những thay đổi của thời cuộc đã tạo nên những chấn động không nhỏ cho gia đình nhỏ bé của ông Bằng. Các mối quan hệ giữa các thành viên dần xa cách, phân rã, không có sự liên kết chặt chẽ, mật thiết như xưa. Đặc biệt sự thay đổi của thời cuộc đã tạo nên những tác động về tâm lí, vào quan niệm sống, lí tưởng sống tưởng đã rất bền vững, rất đáng yên tâm, tin tưởng. Và cho dù ông Bằng có cố gắng đến đâu thì những bức tường của ngôi nhà đã bắt đầu rạn nứt. Mọi sự hàn gắn của ông chỉ là vô ích vì tính chất lạnh lùng, tàn bạo của cơ chế thị trường, của cơm áo, gạo tiền, của nhu cầu mưu sinh.
Ma Văn Kháng đã rất thành công trong việc thể hiện “một thế giới không còn nguyên vẹn”. Từ sự biến đổi trong một gia đình nhỏ, tác giả đã khái quát lên cả một xã hội khi mà cuộc đấu tranh mới – cũ đang diễn ra trên nhiều phương diện, khi mà sự biến thiên của thời cuộc không loại trừ bất cứ một ai. Từ sự thay đổi về mâm cỗ tất niên, từ những chấn động tâm lí của các thành viên trong gia đình ông Bằng, ta nhận thấy những tiếng thở dài não ruột lo sợ cho những giá trị truyền thống đang bị lung lay, biến đổi không thương tiếc. Đó cũng chính là giá trị nhân văn cao đẹp toát lên từ đoạn trích, toát lên từ toàn bộ tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn.
Câu trả lời của bạn
Chuyện xoay quanh đời sống gia đình ông Bằng- một gia đình có truyền thống, nề nếp ở Hà Nội, gồm ba thế hệ chung sống với nhau thời hậu chiến, cơ chế chính trị tập trung bao cấp. Ông Bằng có năm người con, đứa con thứ nhất là Tường đã hy sinh trong chiến tranh. Hoài là vợ của Tường, một người dâu trưởng nết na, thùy mị. Sau một thời gian dài đau khổ để tang chồng, chị Hoài được phép bố mẹ chồng "đi bước nữa". Nhưng tâm hồn chị vẫn gắn bó thuỷ chung với gia đình ông Bằng.
Chị Hoài - người vợ của một liệt sĩ. Chấp nhận sự vô thường, chị tái giá, nhưng vẫn giữ sự hằng thường: sự trong sáng thuỷ chung với gia đình nhà chồng (gia đình ông Bằng). Hết mùa lá rụng năm ấy, chị như chiếc lá tìm về cội nguồn, trở về thăm lại gia đình cũ đúng thời khắc buổi chiều tất niên. Chị Hoài (mà cái tên như ngầm gợi lên một cái gì ổn định, hằng thường, thuỷ chung) hiện lên trong tác phẩm và đoạn trích trong một lát cắt bất ngờ của đời sống, cũng là trong chặng cuối cuộc hành trình của một năm tàn tháng tận. Chị đem đến cho khu vườn của nhà chồng một tiết tấu bình yên – như bù lại cho những gì mà thế giới yên tĩnh ấy đã, đang và sẽ vừa bị tước đoạt vừa được bồi đắp mới để thích nghi trước một nhịp điệu gấp gáp của đời sống thị trường. Lời nhắn gọn gắn mà mênh mang biết bao, ít chữ mà nhiều nghĩa biết bao ở chương XX – chương cuối cùng của truyện – của chị Hoài sau một mùa lá rụng nữa như hoàn chỉnh thêm diện mạo tâm hồn của một người vợ liệt sĩ đã thanh thản chọn cho mình cách sống vì mọi người (trước hết là mọi người trong gia đình dù đó chỉ là một gia đình đã xưa cũ với chị mà chị hoàn toàn có quyền không phải chia sẻ trách nhiệm nữa): “Bao giờ cậu Cần cưới vợ, cô Phượng ở cữ, cô Lí về, nhớ điện cho tôi lên”.
Đúng như suy nghĩ của ba nhân vật Đông, Lí và Luận: “Quan hệ của chị ở gia đình này đã thuộc về quá khứ. Kỉ niệm của chị ở đây đẹp nhưng buồn. Chị có quyền quên mà không ai được trách cứ.” Nhưng đoạn trích đã cho người đọc đến với một nhân vật chị Hoài của hiện tại chứ không phải là của quá khứ. Vẫn còn đó trong mùa tết năm này của tác phẩm sự chu đáo, lo toan, nghĩa tình vẹn toàn của một người dâu trưởng. Điều đó làm tất cả mọi người trong gia đình ông Bằng đều cảm động. Qua cách miêu tả ấy của Ma Văn Kháng, người đọc cũng bất giác bồi hồi theo tâm hồn nhân hậu, cách sống vị tha, trong sáng nghĩa tình, thuỷ chung của người đàn bà đã một thời là dâu trưởng. Ma Văn Kháng đã ưu ái dành cho nhân vật đặc biệt này cả hai cách giới thiệu, miêu tả vừa trực tiếp (qua ngoại hình và diện mạo bình dị mà có nét tươi tắn: “một phụ nữ nông thôn trạc năm mươi, người thon gọn trong cái áo bông chần hạt lựu. Chiếc khăn len thắt nâu ôm một khuôn mặt rộng có cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng tươi.”; qua hai con mắt “đậm nỗi bồi hồi” cảnh cũ người xưa; qua ngôn ngữ thô mộc dân dã mà không phải là không tinh tế: “Cô Phượng đấy như?”) vừa gián tiếp (qua hồi ức của mọi người: “Chị Hoài, vợ anh cả Tường liệt sĩ.
Chị Hoài, dâu trưởng, nết na, thuỳ mị.”; qua cảm nhận của Phượng trong hiện tại: “Người phụ nữ tưởng đã cắt hết mối dây liên hệ với gia đình này, vẫn giao cảm, vẫn chia sẻ buồn vui và cùng tham dự cuộc sống của gia đình này”). Chín năm chưa gặp lại người cha chồng kính yêu. Phút gặp lại, chị Hoài “gần như không chủ động được mình, chị lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép...”. Ma Văn Kháng tinh tế và sắc sảo để chị “kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa” - hai hàng gạch hoa của lễ giáo và sự xa cách của một lần tái giá. Chị thốt lên tiếng “Ông” nghe như một tiếng nấc. Nhưng đến lễ cúng gia tiên, chị Hoài đã thật sự trở về với niềm tin trong trẻo cũ. Người đàn bà đó đã giản dị một cách hồn nhiên để tin rằng chị vẫn là một phần không thể tách rời của cái gia đình xưa cũ. Vì vậy, ngay khi ông Bằng vừa khấn vái và buông tay chắp xong, chị liền “thế chân ông cụ, hai tay nâng lên trước ngực.” để cất lên lời khấn vái tổ tiên.
Có phải chính từ hình tượng này mà Ma Văn Kháng đã muốn nói lên một điều không được nói ra nói tác phẩm: thì ra, con người ta có quyền vừa hội nhập với cái mới mà vẫn vừa giữ gìn được những nét tinh tuý hằng thường của cái xưa cũ.
Câu trả lời của bạn
Ma Văn Kháng là một trong những cây bút nổi trội giàu sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam giai đoạn sau kháng chiến chống Mỹ thành công. Sau khi hòa bình được lập lại, đặc biệt là vào giai đoạn đất nước chuyển từ nền kinh tế lạc hậu, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, có nhiều đổi mới, Ma Văn Kháng đã tinh tế, nhanh nhạy nắm bắt được sự thay đổi trong tâm lý của những người dân Việt Nam lúc bấy giờ trước sự chuyển giao lớn mang tính thời đại của đất nước để cho ra đời những tác phẩm hay trong đó tiêu biểu nhất là tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn. Tác phẩm viết về sự đổi thay và rạn nứt trong mối quan hệ của những con người trong một gia đình nề nếp gia phong, đồng thời dấy lên mối lo ngại về sự mai một của các truyền thống văn hóa dân tộc. Trong đoạn trích từ chương 2 của tác phẩm, cuộc gặp gỡ của chị Hoài một nhân vật đặc biệt với gia đình ông Bằng ngay chiều 30 tết đã để lại trong lòng độc giả nhiều xúc cảm.
Cuộc gặp gỡ của chị Hoài với gia đình ông Bằng đặc biệt bởi lẽ chị Hoài từng là con dâu của ông Bằng, là vợ của người con trai cả tuy nhiên anh đã hy sinh trong kháng chiến. Về sau chị Hoài đi thêm bước nữa, đã có gia đình riêng hạnh phúc và 4 đứa con ngoan ngoãn, mối quan hệ giữa chị và gia đình chồng cũ cũng trở nên thưa thớt dần, đã có đến 9 năm mọi người không hề gặp mặt nhau bởi vì ai cũng có cuộc sống riêng. Thế nhưng chị Hoài là một người con dâu, một người chị dâu ăn ở tốt, biết đối nhân xử thế, sống chan hòa với mọi người, thế nên từ ngày làm dâu nhà ông Bằng chị đã luôn được mọi người yêu mến và quý trọng. Sau này dù đã đi lấy chồng khác, thế nhưng chị vẫn dõi theo nhịp của gia đình chồng cũ, vẫn nắm bắt sự chuyển biến của từng cá nhân trong gia đình, đồng thời thường xuyên viết thư từ thăm hỏi bố chồng cũ. Lối sống nhân hậu, thủy chung của chị không chỉ được gia đình ông Bằng yêu thương mà kể cả chồng hiện tại và những đứa con cũng rất thấu hiểu, cảm thông, điều đó bộc lộ qua việc những đứa con của chị đòi thêm thăm nhà ông Bằng, làm bột sắn dây, chồng chị gói giò cho chị mang đi làm quà,… Đặc biệt nhất là chuyện dù là chiều 30 tết cuối năm thế nhưng vẫn rất vui vẻ tiễn chị lên Hà Nội thăm gia đình chồng cũ. Về phía gia đình nhà ông Bằng mọi người nhung nhớ chị đến mức, dù đã chín năm xa cách, thế nhưng những ngày cuối năm trong cuộc trò chuyện của mọi người vẫn có bóng hình và câu chuyện về chị. Để đến khi thấy dáng của một người đàn bà tay xách nách mang, trạc tuổi 50 mà vẫn trẻ trung xinh đẹp gõ cửa nhà họ đã bất ngờ và vô cùng xúc động. Phượng thoạt đầu dè dặt, nửa mừng nửa lo mình nhận nhầm người chị dâu, sau khi xác định thì đã không kìm nén được vui sướng mà quay ngoắt về sau gọi một loạt các anh em ra đón người chị dâu cũ đến thăm chiều 30 “Chị Hoài, chị Hoài lên! Anh Đông, chị Lý, anh Luận ơi!” Đó là sự xúc động khó tả của cô em chồng với niềm mong nhớ và yêu thương người chị dâu đẹp người, tốt nết mà cả gia đình muốn níu chị lại nhưng lại không dám. Cuộc gặp gỡ đã diễn ra một cách vui vẻ và hạnh phúc ngập tràn, Phượng thì “sôi nổi, nồng hậu” xách tay nải giúp, Lý thì ôm chầm lấy người phụ nữ đã từng là dâu trưởng nức nở trong tiếng nói, Luận thì kể việc chị Hoài đã gần 10 năm không lên Hà Nội một cách bùi ngùi. Đó là một cuộc gặp gỡ thật xúc động, đáng nhớ vào chiều cuối năm, một cuộc đoàn tụ bất ngờ của những con người đã chia xa hàng chục năm trời, thưa tin tức. Ấy rồi, những tưởng họ sẽ bỡ ngỡ, bối rối sau nhiều năm không gặp gỡ, thế nhưng với một người đàn bà chu toàn và vui vẻ như chị Hoài, điều đó đã không xảy ra bởi lẽ dù ở xa nhưng chị vẫn theo sát từng sự kiện, con người trong gia đình, vẫn gắn bó như những ngày còn làm dâu nhà ông Bằng. Cộng với tình cảm thân thiết của những người em chồng cũ, họ đã hòa vào câu chuyện một cách thật tự nhiên, trò chuyện sôi nổi về những chuyện sinh hoạt trong cuộc sống, chị Hoài tâm sự chuyện gặt cấy, rỡ khoai tây, còn mọi người mỗi người góp một câu, không ai kiêng dè mà thẳng thắn bộc lộ tính cách của mình. Mọi người hỏi tình hình công tác của chị Hoài, chị Hoài hết hỏi thăm ông, lại hỏi chuyện của cô Phượng, rồi đến những người như ông thợ mộc, chú Đông tóc bạc, cháu Dư, cô Lý,… Điều đó bộc lộ sự gắn bó, sợi dây tình cảm không bao giờ đứt đoạn của chị Hoài dành cho gia đình chồng cũ, dù đã trải qua bao nhiêu năm thế nhưng chị vẫn biết và thấu hiểu cuộc sống của các thành viên trong gia đình như một người thân vẫn ở trong nhà này. Điều đó đã đem đến cho mọi người, đặc biệt là cô Phượng và ông Bằng những niềm cảm động sâu sắc. Đặc biệt, cảnh chị Hoài mở tay nải đem ra từng món quà quê lại càng khiến người ta thấy yêu thương và cảm phục tấm lòng nhân hậu thủy chung son sắt của chị, và cả tấm chân tình đáng giá của chồng và con chị Hoài.
Sau cuộc gặp gỡ với những người em chồng, đoạn trích còn để lại ấn tượng đặc biệt trong lòng người đọc với cảnh hội ngộ của chị Hoài với người cha chồng cũ, người đàn ông đang khổ sở vì những vết nứt của mối quan hệ trong gia đình. Nếu với những người em chồng là cuộc gặp mặt sôi nổi, vui mừng, thì với ông Bằng lại là cuộc gặp mặt đầy ngậm ngùi và xúc động sâu sắc. Ông Bằng đã nghe tin chị Hoài về từ ở trên tầng, nhưng đến giờ cúng ông mới xuống nhà, ông cố bước thật ngay ngắn và chỉnh tể, bày ra một trạng thái tốt nhất để đón người con dâu mà ông hằng yêu quý. Còn bản thân chị Hoài khi nhìn thấy ông Bằng xuất hiện, khác hẳn cái dáng vẻ chững chạc của một người đàn bà 50 tuổi, không nén nổi nỗi vui mừng và xúc động khi gặp lại người cha chồng sau chín năm xa cách chị đã hành động như một đứa trẻ “chị lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản, gót nứt nẻ thâm đen, giẫm trên nền đá lạnh, kịp hãm lại khi cách ông già khoảng hai hàng gạch hoa”. Còn ông Bằng thì “thoáng có chút ngơ ngẩn”, vì xúc động mà “mắt ông chớp liên hồi, môi ông lật bật không thành tiếng, có cảm giác ông sắp khóc òa”. Cuộc gặp gỡ có phần hơi cường điệu của chị Hoài và ông Bằng đã bộc lộ được rõ tình cảm gắn bó tha thiết giữa chị và gia đình chồng cũ, cũng như hình ảnh của chị trong trái tim những người trong gia đình luôn sâu sắc, trong ngôi nhà ấy vẫn luôn dành cho chị một vị trí quan trọng, là cầu nối tình cảm giữa các thành viên, chị về thăm nhà đã nhân dịp lấp lại các lỗ hổng. Sự xuất hiện của chị Hoài đã làm vơi bớt đi những nỗi buồn nỗi cô đơn của ông Hoài trước cảnh nhà thay đổi, trong cuộc đấu tranh gìn giữ các giá trị truyền thống, đồng thời là niềm an ủi, khiến ông có niềm tin hơn về việc các mối quan hệ gia đình sẽ được hàn gắn tốt đẹp.
Có thể nói rằng cuộc gặp gỡ của chị Hoài và các thành viên trong gia đình đã củng cố thêm những niềm tin vào sự vững chãi của các gia đình trong lúc đất nước có nhiều biến đổi, làm cho ngày cuối năm có thêm nhiều ý nghĩa sum họp và niềm vui ngập tràn trước thềm năm mới. Bộc lộ tấm lòng trân trọng của tác giả trước những mối quan hệ tình cảm gắn bó thủy chung sâu sắc giữa con người với nhau trong thời đại mới, tâm lý con người có nhiều thay đổi.
Câu trả lời của bạn
Ma Văn Kháng là một trong những cây bút nổi trội giàu sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam giai đoạn sau kháng chiến chống Mỹ thành công. Sau khi hòa bình được lập lại, đặc biệt là vào giai đoạn đất nước chuyển từ nền kinh tế lạc hậu, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, có nhiều đổi mới, Ma Văn Kháng đã tinh tế, nhanh nhạy nắm bắt được sự thay đổi trong tâm lý của những người dân Việt Nam lúc bấy giờ trước sự chuyển giao lớn mang tính thời đại của đất nước để cho ra đời những tác phẩm hay trong đó tiêu biểu nhất là tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn. Tác phẩm viết về sự đổi thay và rạn nứt trong mối quan hệ của những con người trong một gia đình nề nếp gia phong, đồng thời dấy lên mối lo ngại về sự mai một của các truyền thống văn hóa dân tộc. Trong đoạn trích từ chương 2 của tác phẩm, cuộc gặp gỡ của chị Hoài một nhân vật đặc biệt với gia đình ông Bằng ngay chiều 30 tết đã để lại trong lòng độc giả nhiều xúc cảm.
Cuộc gặp gỡ của chị Hoài với gia đình ông Bằng đặc biệt bởi lẽ chị Hoài từng là con dâu của ông Bằng, là vợ của người con trai cả tuy nhiên anh đã hy sinh trong kháng chiến. Về sau chị Hoài đi thêm bước nữa, đã có gia đình riêng hạnh phúc và 4 đứa con ngoan ngoãn, mối quan hệ giữa chị và gia đình chồng cũ cũng trở nên thưa thớt dần, đã có đến 9 năm mọi người không hề gặp mặt nhau bởi vì ai cũng có cuộc sống riêng. Thế nhưng chị Hoài là một người con dâu, một người chị dâu ăn ở tốt, biết đối nhân xử thế, sống chan hòa với mọi người, thế nên từ ngày làm dâu nhà ông Bằng chị đã luôn được mọi người yêu mến và quý trọng. Sau này dù đã đi lấy chồng khác, thế nhưng chị vẫn dõi theo nhịp của gia đình chồng cũ, vẫn nắm bắt sự chuyển biến của từng cá nhân trong gia đình, đồng thời thường xuyên viết thư từ thăm hỏi bố chồng cũ. Lối sống nhân hậu, thủy chung của chị không chỉ được gia đình ông Bằng yêu thương mà kể cả chồng hiện tại và những đứa con cũng rất thấu hiểu, cảm thông, điều đó bộc lộ qua việc những đứa con của chị đòi thêm thăm nhà ông Bằng, làm bột sắn dây, chồng chị gói giò cho chị mang đi làm quà,… Đặc biệt nhất là chuyện dù là chiều 30 tết cuối năm thế nhưng vẫn rất vui vẻ tiễn chị lên Hà Nội thăm gia đình chồng cũ. Về phía gia đình nhà ông Bằng mọi người nhung nhớ chị đến mức, dù đã chín năm xa cách, thế nhưng những ngày cuối năm trong cuộc trò chuyện của mọi người vẫn có bóng hình và câu chuyện về chị. Để đến khi thấy dáng của một người đàn bà tay xách nách mang, trạc tuổi 50 mà vẫn trẻ trung xinh đẹp gõ cửa nhà họ đã bất ngờ và vô cùng xúc động. Phượng thoạt đầu dè dặt, nửa mừng nửa lo mình nhận nhầm người chị dâu, sau khi xác định thì đã không kìm nén được vui sướng mà quay ngoắt về sau gọi một loạt các anh em ra đón người chị dâu cũ đến thăm chiều 30 “Chị Hoài, chị Hoài lên! Anh Đông, chị Lý, anh Luận ơi!” Đó là sự xúc động khó tả của cô em chồng với niềm mong nhớ và yêu thương người chị dâu đẹp người, tốt nết mà cả gia đình muốn níu chị lại nhưng lại không dám. Cuộc gặp gỡ đã diễn ra một cách vui vẻ và hạnh phúc ngập tràn, Phượng thì “sôi nổi, nồng hậu” xách tay nải giúp, Lý thì ôm chầm lấy người phụ nữ đã từng là dâu trưởng nức nở trong tiếng nói, Luận thì kể việc chị Hoài đã gần 10 năm không lên Hà Nội một cách bùi ngùi. Đó là một cuộc gặp gỡ thật xúc động, đáng nhớ vào chiều cuối năm, một cuộc đoàn tụ bất ngờ của những con người đã chia xa hàng chục năm trời, thưa tin tức. Ấy rồi, những tưởng họ sẽ bỡ ngỡ, bối rối sau nhiều năm không gặp gỡ, thế nhưng với một người đàn bà chu toàn và vui vẻ như chị Hoài, điều đó đã không xảy ra bởi lẽ dù ở xa nhưng chị vẫn theo sát từng sự kiện, con người trong gia đình, vẫn gắn bó như những ngày còn làm dâu nhà ông Bằng. Cộng với tình cảm thân thiết của những người em chồng cũ, họ đã hòa vào câu chuyện một cách thật tự nhiên, trò chuyện sôi nổi về những chuyện sinh hoạt trong cuộc sống, chị Hoài tâm sự chuyện gặt cấy, rỡ khoai tây, còn mọi người mỗi người góp một câu, không ai kiêng dè mà thẳng thắn bộc lộ tính cách của mình. Mọi người hỏi tình hình công tác của chị Hoài, chị Hoài hết hỏi thăm ông, lại hỏi chuyện của cô Phượng, rồi đến những người như ông thợ mộc, chú Đông tóc bạc, cháu Dư, cô Lý,… Điều đó bộc lộ sự gắn bó, sợi dây tình cảm không bao giờ đứt đoạn của chị Hoài dành cho gia đình chồng cũ, dù đã trải qua bao nhiêu năm thế nhưng chị vẫn biết và thấu hiểu cuộc sống của các thành viên trong gia đình như một người thân vẫn ở trong nhà này. Điều đó đã đem đến cho mọi người, đặc biệt là cô Phượng và ông Bằng những niềm cảm động sâu sắc. Đặc biệt, cảnh chị Hoài mở tay nải đem ra từng món quà quê lại càng khiến người ta thấy yêu thương và cảm phục tấm lòng nhân hậu thủy chung son sắt của chị, và cả tấm chân tình đáng giá của chồng và con chị Hoài.
Sau cuộc gặp gỡ với những người em chồng, đoạn trích còn để lại ấn tượng đặc biệt trong lòng người đọc với cảnh hội ngộ của chị Hoài với người cha chồng cũ, người đàn ông đang khổ sở vì những vết nứt của mối quan hệ trong gia đình. Nếu với những người em chồng là cuộc gặp mặt sôi nổi, vui mừng, thì với ông Bằng lại là cuộc gặp mặt đầy ngậm ngùi và xúc động sâu sắc. Ông Bằng đã nghe tin chị Hoài về từ ở trên tầng, nhưng đến giờ cúng ông mới xuống nhà, ông cố bước thật ngay ngắn và chỉnh tể, bày ra một trạng thái tốt nhất để đón người con dâu mà ông hằng yêu quý. Còn bản thân chị Hoài khi nhìn thấy ông Bằng xuất hiện, khác hẳn cái dáng vẻ chững chạc của một người đàn bà 50 tuổi, không nén nổi nỗi vui mừng và xúc động khi gặp lại người cha chồng sau chín năm xa cách chị đã hành động như một đứa trẻ “chị lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản, gót nứt nẻ thâm đen, giẫm trên nền đá lạnh, kịp hãm lại khi cách ông già khoảng hai hàng gạch hoa”. Còn ông Bằng thì “thoáng có chút ngơ ngẩn”, vì xúc động mà “mắt ông chớp liên hồi, môi ông lật bật không thành tiếng, có cảm giác ông sắp khóc òa”. Cuộc gặp gỡ có phần hơi cường điệu của chị Hoài và ông Bằng đã bộc lộ được rõ tình cảm gắn bó tha thiết giữa chị và gia đình chồng cũ, cũng như hình ảnh của chị trong trái tim những người trong gia đình luôn sâu sắc, trong ngôi nhà ấy vẫn luôn dành cho chị một vị trí quan trọng, là cầu nối tình cảm giữa các thành viên, chị về thăm nhà đã nhân dịp lấp lại các lỗ hổng. Sự xuất hiện của chị Hoài đã làm vơi bớt đi những nỗi buồn nỗi cô đơn của ông Hoài trước cảnh nhà thay đổi, trong cuộc đấu tranh gìn giữ các giá trị truyền thống, đồng thời là niềm an ủi, khiến ông có niềm tin hơn về việc các mối quan hệ gia đình sẽ được hàn gắn tốt đẹp.
Có thể nói rằng cuộc gặp gỡ của chị Hoài và các thành viên trong gia đình đã củng cố thêm những niềm tin vào sự vững chãi của các gia đình trong lúc đất nước có nhiều biến đổi, làm cho ngày cuối năm có thêm nhiều ý nghĩa sum họp và niềm vui ngập tràn trước thềm năm mới. Bộc lộ tấm lòng trân trọng của tác giả trước những mối quan hệ tình cảm gắn bó thủy chung sâu sắc giữa con người với nhau trong thời đại mới, tâm lý con người có nhiều thay đổi.
Câu trả lời của bạn
Mùa lá rụng trong vườn sáng tác năm 1985
Câu trả lời của bạn
Đoạn trích Mùa lá rụng trong vườn trích từ chương II của tiểu thuyết cùng tên.
Câu trả lời của bạn
Mùa lá rụng trong vườn được Ma Văn Kháng sáng tác khi ông trở về Hà Nội công tác. Trong giai đoạn đó, đất nước đang có những biến động, những đổi thay trong tư tưởng và tâm lí của con người Việt Nam giai đoạn xã hội chuyển mình xóa bỏ dần mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bap cấp sang nền kinh tế thị trườn với những rạn vỡ tất yếu theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực trong quan niệm sống, cách sống và cách lựa chọn các giá trị.
Câu trả lời của bạn
Tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn đạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1986.
Câu trả lời của bạn
Thông qua câu chuyện xảy ra trong gia đình ông Bằng, một gia đình nề nếp, luôn giữ gìn gia pháp và gia phong, nay trở nên chao đảo trước những cơn địa chấn tinh thần từ bên ngoài.
Câu trả lời của bạn
Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn.
Câu trả lời của bạn
Đoạn trích Mùa lá rụng trong vườn được trích từ chương II của tiểu thuyết cùng tên.
Câu trả lời của bạn
Cảnh tượng gặp gỡ giữa ông Bằng và chị Hoài diễn ra đầy xúc động và tràn ngập tình yêu thương. Dù chị Hoài không còn là dâu trưởng trong gia đình, họ đã lâu không gặp gỡ nhưng tình cảm gia đình vẫn sâu nặng như xưa: vẫn luôn quan tâm, chia sẻ và lo lắng cho gia đình như ngày trước. Đó là tấm lòng của những người có ý nghĩa như trụ cột. Họ có tình cảm đẹp, bền chặt và lối ứng xử đẹp.
Câu trả lời của bạn
Nét văn hóa cúng tất niên chiều 30 Tết với khói hương và mâm cỗ thịnh soạn được tác giả nhắc đến trong đoạn trích Mùa lá rụng trong vườn.
Câu trả lời của bạn
Trong tiềm thức vẫn sống động của mọi người trong gia đình, chị Hoài là một người phụ nữ thùy mị, nết na, vừa đẹp người, vừa đẹp nết.
Câu trả lời của bạn
Từng là dâu trưởng trong gia đình ông Bằng, bây giờ chị đã có một gia đình riêng với những quan hệ, bộn bề lo toan riêng nhưng chị vẫn luôn dành một chút góc nhỏ trong trái tim cho gia đình ông Bằng. Chị về thăm gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi Tết.
⇒ Chị Hoài sống nặng tình nghĩa thủy chung son sắt. Chị coi gia đình chồng cũ như những người thân thích.
Câu trả lời của bạn
Chị Hoài lên thăm gia đình ông Bằng vào chiều 30 Tết, vào đúng lúc cả gia đình đang tíu tít vào buổi cúng tất niên.
Câu trả lời của bạn
Chị Hoài là người phụ nữ nông thôn đẹp người, đẹp nết, sống tình nghĩa thuỷ chung. Chị Hoài đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong truyền thống gắn với mô hình gia đình nền nếp gia phong, sống nặng nghĩa tình thuỷ chung son sắt.
Câu trả lời của bạn
Chủ đề của Mùa lá rụng trong vườn là mối quan hệ gia đình truyền thống trước những biến động của xã hội thời chuyển đổi.
Câu trả lời của bạn
Cảnh gặp gỡ vui mừng nhiễm một nỗi tiếc thương đau buồn, lo lắng trước những biến động không vui của gia đình. Sự xúc động sâu sắc của hai người thể hiện tình cảm chân thành giữa những người trong gia đình. Chị Hoài xuất hiện, nỗi cô đơn của ông Bằng được giải toả, như có thêm niềm tin trong cuộc đấu tranh gìn giữ những gì tốt đẹp trong truyền thống gia đình.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *