Bài học Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ giúp các em hiểu được bi kịch của con người khi bị áp đặt vào nghịch cảnh: phải sống nhờ, sống vay mượn, sống tạm bợ và trái với tự nhiên khiên tâm hồn nhân hậu, thanh cao bị nhiễm độc và tha hóa bởi sự lấn át của thể xác thô lỗ, phàm tục. Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, bảo vệ quyền được sống trọn vẹn, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn, vật chất và tinh thần cùng khát vọng hoàn thiện nhân cách. Thông qua video bài giảng cùng phần hướng dẫn soạn bài và phần bài học, DapAnHay chúc các em có thêm nhiều tiết học hấp dẫn và hiệu quả hơn tại lớp.
⇒ Người chồng, người cha, người ông trong sạch, nhân hậu trước đây đã và đang thành một kẻ khác, với những thói hư tật xấu của một tên đồ tể thô lỗ, phàm tục.
⇒ Trương Ba cũnh nhận thấy những thay đổi của mình nên đấu tranh quyết liệt để giành giật lại bản thân mình, dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích.
Phân tích nhân vật Hồn Trương ba, nhân vật bi kịch trong đoạn trích "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lưu Quang Vũ.
Gợi ý làm bài:
Lưu Quang Vũ là một tài năng đa dạng nhưng kịch là phần đóng góp đặc sắc nhất. ông được coi là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu, một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại. “Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Từ cốt truyện dân gian ông xây dựng lên một vở kịch hiện đại chứa đựng nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng và triết lí nhân sinh sâu sắc. Để dễ dàng trả lời được hệ thống các câu hỏi trong SGK cũng như nắm được nội dung bài học, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Hồn Trương Ba, da hàng thịt.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt gợi cho độc giả, khán giá nhiều bâng khuâng. Hồn Trương Ba không theo Đế Thích về trời để chơi cờ, mà lại hóa thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao của vợ con thương yêu. Như vậy hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ ấy đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng tác phẩm. Để nắm vững kiến thức và làm hoàn chỉnh những bài văn viết về tác phẩm này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Cảm nhận về tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ
- Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt trong tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt
- Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân trong tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt
- Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích trong tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt
- Phân tích bi kịch của Trương Ba trong tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt
- Phân tích nhân vật Trương Ba trong tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt
- Suy nghĩ về triết lý sống trong tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt
- Phân tích đoạn kết tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt
- Phân tích bi kịch và khát vọng của nhân vật Trương Ba qua lời thoại với Đế Thích
- Dàn ý So sánh hai câu nói của hai nhân vật Chí Phèo và Trương Ba
- Dàn ý liên hệ bi kịch nhân vật Trương Ba và Chí Phèo
- Phân tích khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba
- Phân tích mối tương quan đối lập giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt
- Chứng minh kịch Lưu Quang Vũ giàu giá trị nhân văn qua đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt
- Dàn ý Quan niệm sống trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt của nhà văn Lưu Quang Vũ
- Dàn ý Phân tích tình huống éo le của nhân vật Hồn Trương Ba trong xác anh hàng thịt
- Phân tích nhân vật Hồn Trương Ba, nhân vật bi kịch trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ
- Cảm nhận về Hồn Trương Ba, da hàng thịt của nhà văn Lưu Quang Vũ
- Phân tích bi kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của nhà văn Lưu Quang Vũ
- Phân tích Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của nhà văn Lưu Quang Vũ
- Dàn ý So sánh bi kịch của nhân vật Trương Ba trong lớp đối thoại giữa hồn và xác với nhân vật Vũ Như Tô
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Xã hội rất phức tạp và muôn màu, muôn vẻ. Bởi lẽ trong xã hội luôn tồn tại người tốt, kẻ xấu, có những người không sống thực với mình, không hành động như suy nghĩ và đôi khi làm hại đến người khác. Chính những thành phần này là nhân tố góp phần hình thành nên xã hội như hiện nay. Một xã hội với nhiều kiểu người và điển hình nhất là kiểu người “sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”
Sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo nghĩa là sống không thực với con người của mình. Người có lối sống như vậy là người không đáng tin cậy. Bởi vì bản thân những người đó đều là những kẻ sống không thành thực, những người gian dối, hay là kẻ luôn tự lừa dối bản thân.Còn một con người toàn vẹn là một người hoàn thiện, một người có suy nghĩ và hành động đồng nhất. Trong ngữ cảnh này, một người toàn vẹn là một người sống thật với bản thân mình, chấp nhận sự thật về bản thân mình.
Quan niệm sống này của nhà văn Lưu Quang Vũ là rất đúng. Bởi lẽ, mỗi một người khi được sinh ra trong đời đều có thể xác và linh hồn riêng. Thể xác và linh hồn là hai phần tử tuy khác nhau nhưng hợp nhất với nhau và cùng nhau tồn tại hình thành nên con người. Sở dĩ con người khác với loài vật là vì con người có cuộc sống và cách suy nghĩ của riêng mình, biết tôn trọng cuộc sống của nhau, tôn trọng bản chất riêng của từng cá nhân. Người biết sống thành thực với bản thân và biết tôn trọng cái “tôi” cá nhân của người khác sẽ được mọi người trong xã hội tôn trọng.
Nhờ quan niệm sống trên, mỗi người càng hiểu thêm tầm quan trọng của việc sống sao cho thực với bản thân mình, sống mà không làm hại đến người khác, sống không lừa lọc, sống không dối trá. Tuy nhiên, trong thực tế, cuộc sống không phải lúc nào cũng màu hồng, không phải ai cũng là người sống thành thật, không phải ai cũng sống mà không dối trá, lừa lọc. Bởi vì xã hội vốn phức tạp theo đúng nghĩa của nó nên con người ta đôi khi phải chuyển biến theo chiều hướng của sự phát triển của xã hội. Chính trong quá trình phát triển và đào thải đầy gay gắt của xã hội, con người lựa chọn cách sống cho riêng mình và trong số những người sống chân thật, hết mình vẫn có những người chọn đường tắt thay vì đường thẳng bằng cách sống giả dối. Điều đó liệu là có thật sự tốt đẹp không khi mà một lúc nào đó, họ sẽ nhận ra rằng xã hội cũng sẽ sớm đào thải mình. Hay nói theo một cách, khi con người lựa chọn cách sống không trọn vẹn, không thật với con người mình thì họ sẽ tự sớm đào thải mình ra khỏi xã hội.
Để thật sự là một con người toàn vẹn, ngay từ khi còn trong ghế nhà trường, chúng ta hãy luyện tập thói quen sống có cùng một suy nghĩ và hành động, sống thành thật không chỉ với cộng đồng mà còn phải thành thật với chính bản thân. Chúng ta hãy đừng để cho cuộc sống của chúng ta giống như nhân vật Trương Ba để rồi phải hối tiếc vì đã không thành thật với bản thân, vì dã lựa chọn lối sống hồn người này, xác kẻ kia, một cuộc sống không trọn vẹn.
Không ai có quyền chọn cho mình một thể xác nhưng vẫn có quyền làm cho tâm hồn mình trong sạch. Chính một tâm hồn trong sạch sẽ giúp cho suy nghĩ và hành động của ta có sự đồng nhất. Sự đồng nhất về hành động và suy nghĩ chính là minh chứng chứng tỏ bản thân là một người trọn vẹn, một cái tôi trọn vẹn. Hãy sống là chính mình, đừng bao giờ lừa dối bản thân hay người khác, cũng đừng sống chia đôi mình ra để rồi lời nói, hành động đều là của người khác trong khi tâm hồn lại là của chính mình. Hãy là một cái tôi toàn vẹn.
Câu trả lời của bạn
Không chỉ có ý nghĩa triết lý về nhân sinh, về hạnh phúc con người, trong vở kịch nói chung và đoạn kết nói riêng. Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bây giờ.
Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cảnh báo “muốn nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn".
Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng quý trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán.
Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một số vấn đề không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám, cũng không được sống với thực chất bản thân mình. Đây cũng là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi. Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ.
Câu trả lời của bạn
Trong truyện cổ dân gian nước ta có truyện Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Từ cốt truyện của truyện cổ dân gian đó, Lưu Quang Vũ đã phát huy năng lực sáng tạo nghệ thuật, sáng tác một vở kịch lớn gửi đến người đọc những thông điệp về bản thể và cách sống của con người, cụ thể là quan hệ giữa thể xác linh hồn và cách sống chân thực, lẽ sống vì mọi người.
Về quan hệ giữa thể xác và linh hồn, truyện cổ dân gian cũng quan niệm linh hồn phải có thể xác thì mới có chỗ trú ngụ và thể xác phải có linh hồn thì mới sống được nhưng truvện cổ dân gian tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn, coi nhẹ thế xác quá nên khi Trương Ba mượn được thể xác của người bán thịt thì Trương Ba coi mình là Trương Ba 100% và không băn khoăn gì về hình dạng của mình, cũng không có biến đổi gì trong tính cách...
Lưu Quang Vũ có kế thừa truyện cổ dân gian, ông cũng nhấn mạnh vai trò cao hơn của linh hồn so với thể xác. Trương Ba khi sống lại trong thân xác anh hàng thịt thì nhận biết mình là Trương Ba (dựa váo kí ức, tình cảm và ý thức tức là dựa vào phần hồn của mình). Vợ Trương Ba sau khi kiểm tra kí ức của Trương Ba cũng nhận chồng; Trương Hoạt, bạn của Trương Ba cũng vậy. Chị con dâu thì càng thương cha chồng hơn, mặc dù lúc này ông mang vóc hình khác chị thấy ở ông đức tính nhân hậu hệt như cha chồng xưa.
Tuy nhiên, Lưu Quang Vũ không dừng lại ở đó, ông thấy linh hồn không hoàn toàn độc lập với thể xác, ông nhìn thấy sự chi phối của thân xác đối với linh hồn. Trương Ba trong xác anh hàng thịt, bắt đầu thích ăn tiết canh, uống rượu, nói to, tay chân trở nên thô vụng: động vào cây làm gãy chồi non, chân giẫm lên cả cây sâm quý. Bị Lí trưởng xử ban ngày phải sang nhà vợ anh hàng thịt, Trương Ba cũng có lúc bị xao động (ít ra là ở cảm giác) trước cử chỉ thân mật của chị vợ anh a và phải tự đấu tranh để thoát ra. Chính xác anh đã nói với hồn Trương Ba: ‘Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy”. Cuộc tranh cãi giữa xác anh hàng thịt và hồn Trương Ba nảy ra cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác, cuộc đấu tranh trong bản thân con người để chống lại tác động xấu của thể xác làm tha hóa linh hồn.
Trước những phiền toái và nguy cơ tha hóa do sống trong thân xác mượn của ké khác, Trương Ba muốn trả lại thân xác cho anh hàng thịt. Nhưng như có nghĩa là Trương ba lại phái chết. Trương Ba sẵn sàng chết vì nếu sống ông không là mình, mà mất dần nhân cách, mà nhìn thấy những người khác đau khổ (ví dụ chị vợ anh Hàng thịt, “chị ta thật đáng thương”, rồi vợ, rồi con, : cháu, như đã nói trên), thì thà chết, còn hơn. Lúc đó có cháu Tị chẳng may ốm chết, Đế Thích định cho hồn Trương Ba nhập vào thân xác cháu, thì cháu Tị được sống lại với hồn Trương Ba, còn hồn Trương Ba được sống trong thân xác bé bỏng của cháu. Trương Ba cũng từ chối vì nếu thế, bi kịch sống không là mình lại tiếp diễn sống gây phiền toái, đau khổ cho những người khác (trước nhất là cho mẹ cháu Tị rồi đến vợ mình...). Trương Ba đề nghị Đế Thích dùng phép thiêng cứu sống cho cháu Tị còn mình chấp nhận cái chết. Đó là cách duy nhất đế hồn Trương Ba có thể thanh thản ở thế giới bên kia. ‘Từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình là Trương Ba thật, tâm hồn tôi trở lại thanh thản, trong sáng như xưa...Trương Ba chết nhưng linh hồn Trương Ba vẫn sống trong nỗi nhớ của mọi người, sống trong sự sống vẫn đang sinh sôi của cây cỏ, của con người...
Tóm lại, qua vở kịch, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một tình huống ẩn dụ có sức lôi cuốn và gợi suy nghĩ sâu sắc, gửi tới người đọc thông điệp: “Trong con người có hai thực thể là thể xác và linh hồn, hai thực thể đó có quan hệ hữu cơ với nhau nhưng cùng có tính độc lập tương đối với nhau. Con người phải luôn luôn đấu tranh với bản thân, điều chỉnh, làm chủ những nhu cầu, ham muốn để có được sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác hướng tới sự hoàn thiện nhân cách. Đó là sống thành thật, sống trong sạch, là sống vì mọi người, không thể sống giả dối, sống bằng mọi giá, sống trên sự đau khổ của người khác...”. Tư tưởng triết lí của Lưu Quang Vũ, về con người, về quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về cách sống và lẽ sống của con người vừa biện chứng, vừa lạc quan và cao thượng. Điều này cùng với tài năng sáng tạo nghệ thuật của tác giả đã làm cho vở kịch có giá trị nhân văn cao, vươn tới tầm nhân loại.
Câu trả lời của bạn
Nỗi đau khổ tuyệt vọng của hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người thân:
Người vợ mà ông rất mực thương yêu giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được... còn hơn là thế này” bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng cảm nhận được: “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trươm Ba làm vườn ngày xưa”.
Cái Gái, cháu ông bây giờ không cần phải chú ý. Nó một mực khước từ tình thân (tôi không phải là cháu ông.. Ông nội tôi chết rồi). Cái Gái yêu quý ông bao nhiêu thì bây giờ nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “tò bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong sốt mê man ý cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ cái Gái biến thành sự xua đuổi quyết liệt “ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! lão đồ tể, cút đi!”.
Người con dâu là người sâu sắc, chín chắc, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thây thương bố chồng trong tình cành trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm ukhổ hơn xưa nhiều lắm". Nhưng nỗi buồn đau trước cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó. Thầy bảo con: cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả như lệch lạc, nhoà mờ dần đi. đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa...”
Tất cả những người thân yêu của hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ, nhưng “cũng không khổ bằng bây giờ”
Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến hồn Trương Ba không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với bán thân mình cứ lớn dần... lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào. Đặc biệt sau hàng loạt câu hỏi cỏ vẻ tuyệt vọng của chị con dâu: “Thầy ơi, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vỏ tôt lành như thầy của chúng con ngày xưa kia? Làm nế nào, thầy ơi?” thì dường như hồn không thể chịu đựng hơn được nữa.
Câu trả lời của bạn
Tuy phản ứng gay gắt việc hòa nhập tâm hồn vào xác anh hàng thịt, nhưng chưa biết phải đối phó ra sao với lời kêu gọi “hãy về với tôi này!” của xác hàng thịt thì vợ Trương Ba vào. Về hình thức, những câu, những từ in nghiêng nằm trong hai dấu ngoặc đơn là thành phần phụ chủ nhằm giải thích, gợi ý hướng dẫn cho diễn viên khi diễn xuất. Đó là ngôn ngữ hình ảnh bổ sung tích cực cho ngôn ngữ nói khi diễn xuất. Vợ của Trương Ba nói chuyện với ông qua xác hàng thịt. Tiếng nói thì chỉ nghe, còn cơ thể thì nhìn thấy và suy nghĩ, so sánh...Ấn tượng về anh hàng thịt, về Trương Ba lúc hai người còn sống đã khắc sâu vào tâm trí của người thân, của hàng xóm. Nay, thây xác hàng thịt nói năng, hoạt động, dù mang hồn Trương Ba nhưng người ta vẫn giữ ấn tượng là anh hàng thịt. Làm sao bà vợ của Trương Ba có thể sống vượt qua ấn tượng ấy khi xác hàng thịt vẫn đập vào mắt? Nói chuyện với hồn Trương Ba về chuyện “Cu Tị bị ốm thập tứ nhất sinh” nhưng thực ra vợ Trương Ba muốn bày tỏ lòng mình cho Trương Ba hiểu. Chuyện cu Tị chỉ là cái cớ để bà bộc lộ thái độ của mình trước sự sống nhờ vào thân xác người khác của hồn Trương Ba. Là vợ, bà không biết phản ứng như thế nào cho hợp lẽ ngoài sự ra đi khi hồn Trương Ba mang xác hàng thịt về nhà. Nhân chuyện cu Tị ốm thập tử nhất sinh bà đã gợi một cách kín đáo rằng trong hoàn cảnh trớ trêu này ông trời bắt cái thân của bà đi là tốt nhất. Tất nhiên một người tế nhị, trong sạch, ngay thẳng như hồn Trương Ba phải hỏi bà là tại sao, và đi tới chốn nào. Lúc này, bà hé lộ nguyên nhân: Đi cấy thuê là mướn ở đâu cũng được... đi biệt (rưng rưng). Để ông được thảnh thơi với cô vợ người hàng thịt... Còn hơn là thế này... (khóc)". Vợ của Trương Ba vẫn mang bản chất của người phụ nữ, không ghen như Hoạn Thư nhưng vẫn còn máu ghen. Lại nữa bà là người biết hoàn cảnh của chồng hiện tại và cảm thông cho ông: Tôi biết, ông vốn là người hết lòng thương yêu vợ con... Chỉ tại bây giờ... (khóc). Ông đâu còn là ông. đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa..”.Là phụ nữ, bà nhạy bén nhận ra chiều hướng của sự đổi thay bất lợi cho chồng, bất lợi cho mình. cho cả gia đình. Không thể xem nhẹ thể xác. không thể xem nhẹ vật chất. Xác thịt có nhu cầu, có tiếng nói riêng của nó. Và rồi nó sẽ chi phối tất cả. Cái thô kệch, thèm ăn ngon, thèm rượu thịt... của xác hàng thịt sẽ lấn át và khỏa lấp sự trong sáng, thẳng thắn của hồn Trương Ba. Cái đau đớn nhất là bà thấy, biết rằng “ông sẽ đành ưng chịu như vậy”, nhưng như lời tâm sự của bà với ông: Tôi không còn giúp gì ông được, tốt nhất là... là... không có tôi nữa..." Trương Ba đang đau khổ vì tình trạng sống giả, phải mượn xác của anh hàng thịt làm chỗ trú ngụ cho tâm hồn. Vợ của Trương Ba thấy rõ và cũng đang đau khổ vì tình trạng sống giả đó. Không sống thật với những gì mình vốn có thì thế nào cũng bị tha hóa và cũng bị người đời lánh xa.
Câu trả lời của bạn
Lưu Quang Vũ thoạt đầu được nhiều người biết đến với tư cách nhà thơ. Nhưng về sau, ông gây được tiếng vang và đặc biệt được biết tới một với tư cách một nhà viết kịch tài ba. Những năm tám mươi, kịch của Lưu Quang Vũ đã chiếm lĩnh sàn diễn của rất nhiều nhà hát.
Lưu Quang Vũ mang khát vọng được bày tỏ, muốn được thể hiện tâm hồn mình vào thế giới xung quanh, muốn được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gứi và dâng hiến. Khi đất nước bước vào thời kì vận động đổi mới, ý thức dân chủ trong đời sống xã hội đã ùa vào văn học. Hiện thực được phản ánh mang tính đa diện, đa chiều. Số phận con người, vấn đề cá nhân được khám phá, thể hiện đầy đu hơn, sâu sắc hơn. Khát vọng được tham dự, được trao gứi. dâng hiến, khát vọng về cái đẹp, cái thiện, về sự hoàn thiện nhân cách con người vừa là ý thức công dân vừa trớ thành nhiệt hứng nghệ sĩ ờ Lưu Quang Vũ. Lúc ấy, viết kịch chính là hình thức có điều kiện tham dự, “xung trận” trực tiếp.
Hồn Trương Ba, da hàng thịt được sáng tác theo hướng khai thác cốt truyện dân gian và gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống hiện thời. Truyện dân gian gây kịch tính sau khi hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt dẫn tới “vụ tranh chấp” chồng của hai bà vợ phải đưa ra xử, bà Trương Ba thắng kiện được đưa chồng về. Lưu Quang Vũ khai thác tình huống kịch bắt đầu ở chỗ kết thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn Trương Ba được sống “hợp pháp” trong xác anh hàng thịt, mọi sự càng trở nên rắc rối, éo le để rồi cuối cùng đau khổ, tuyệt vọng khiến Hồn Trương Ba không chịu nổi phải cầu xin Đế Thích cho mình được chết hẳn. Xâv đựng tình huống và giải quyết xung đột như vậy, Lưu Quang Vù đã gứi gắm một triết lí sâu sắc về lẽ sống, lẽ làm người: cuộc sống thật đáng quý, nhưng không phải sống thế nào cũng được. Nếu sống vay mượn, sống chắp vá, không có sự hài hòa giữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi. Cuộc sống của mỗi con người chỉ thực sự hanh phúc, chỉ có giá trị khi được sống đúng là mình, được sống tự nhiên trong một thể thống nhất. Đó là chủ đề tư tưởng chính của vở kịch.
Tài năng kịch của Lưu Quang Vũ thể hiện trên nhiều phương diện, tiêu biểu nhất là tài dựng cảnh và dựng đối thoại. Kịch tính căng ra trong những xung đột, những mâu thuẫn bên ngoài và bên trong nhân vật. Ngôn ngữ hành động và ngôn ngữ nội tâm được diễn tả sống động, lời thoại thấm đẫm triết lí nhân sinh.
Đoạn trích có thể gọi là “Thoát ra nghịch cảnh” là cảnh cuối, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trờ nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình. Hồn Trương Ba cảm thấy không thể sống trong “da” anh hàng thịt, không thế kéo dài “nghịch cảnh” mãi được. Hồn muốn tách ra khỏi cái thân xác kềnh càng, thô lỗ. Trong tình trạng ấy; nhà văn đã sáng tạo khi dựng lên đoạn đối thoại giữa hồn và xác để rồi trước sự giễu cợt, mỉa mai của xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba càng trở nên đau khổ, bế tắc. Thái độ cư xử của người thân trong gia đình càng khiến hồn tuyệt vọng. Hồn Trương Ba đã châm hương gọi Đế Thích, hai bên đang đối thoại thì cu Tị chết. Đế Thích gợi ý để hồn rời xác anh hàng thịt sang xác cu Tị. Nhưng hồn Trương Ba, sau một “quãng đời” vô cùng thấm thía, hình dung ra những “nghịch cảnh” khác khi phải sống trong thân xác một đứa bé đã quyết định xin cho cu Tị được sống và mình được chết hẳn.
Đúng là “nghịch cảnh” trớ trêu. Lưu Quang Vũ đã dựng lên hai cuộc đối thoại đặc sắc (đối thoại giữa hồn và xác và đối thoại giữa hồn và Đế Thích) cùng những đối thoại hỗ trợ khác (hồn với người vợ, với cái Gái, với chị con dâu) để đẩy xung đột nội tâm của hồn Trương Ba lên đến tận cùng từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh được phát biểu một cách sâu sắc, thấm thía.
Trước khi diễn ra cuộc đổì thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết: Không! Không! Tỏi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ớ không phải là cùa tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi. ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”.
Rõ ràng, hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ. Những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với cái ước nguyện khắc khoải của hồn đã nói lên điều đó. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ đâu còn là một người làm vườn chăm chỉ, hết lòng thương yêu vợ con, quan tâm tới hàng xóm láng giềng như ngày trước. Ông Trương Ba được mọi người kính trọng đã chết rồi. Trương Ba bây giờ vụng về. thô lỗ, phũ phàng lắm. Người đọc. người xem càng lúc càng được thấy rõ điều đó qua các đối thoại và hồn Trương Ba cũng cáng lúc rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.
Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn hồn vẫn phải thừa nhận Đó là cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thớ nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và “suýt nữa thì...”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây hồn cho là “phàm. Đó là cái lần ông tát thằng con ông “tóe máu mồm máu mùi”, ... tất cả đều là sự thật. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy minh ti tiện. Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ông đưa ra để ngụy biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.”. Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu. Không chỉ đau khổ, hồn còn xấu hổ trước những lời nói công khai của xác mà trước đó hồn đã cảm thấy mà không muốn nói ra, không muốn thừa nhận.
Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của hồn Trương Ba càng được đẩy lên khi đối thoại với những người thân.
Người vợ mà ông rất mực vêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được... còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ông cũng đã cám nhận được: “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.
Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình cảm của ông: tôi không phải là cháu ông.. Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả câv sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cụ Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó “ông nội đời nào, thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.
Chị con dâu là người sâu sắc. chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm, khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa..”.
Tất cả những người thân yêu của hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ nhưng “cũng không khổ bằng bây giờ”.
Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần... lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào. Đặc biệt sau hàng loạt câu hỏi có vẻ tuyệt vọng của chị con dâu: “Thầy ơi, làm sao. làm sao giữ được thầy ở lại. hiền hậu, vui vẻ tốt lành như thầy của chúng cơn xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?” thì đương nhiên hồn không thể chịu đựng thêm được nữa.
Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ.. Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
Cuộc trò chuyện giừa hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gởi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn... Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”.
Người đọc, người xem có thế nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gứi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng chênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.
Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật hồn Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ "bao nhiêu sự rắc rối” vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.
Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ “mở nút”. Dựng tả quá trình đi đến quyết định dứt khoát của nhân vật hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm.
Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, với tinh thần chiến đấu thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chi thích hường thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cánh báo “muốn nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn”. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
Lưu Quang Vũ đã chết một cách rất thương tâm trong một tai nạn giao thông. Khoảng trống mà nhà viết kịch tài ba ấy để lại trong nền sân khấu Việt Nam là không thế lấp đầy. Vở kịch cuối cùng được Lưu Quang Vũ đặt tên là Chim sâm cầm không chết. Với tất cả những gì để lại cho đời thì mãi mãi Lưu Quang Vũ không chết. Từ bấy đến nay, Hồn Trương Ba, da hàng thịt và gần 50 vờ kịch khác của Lưu Quang Vũ vẫn được dàn dựng và công diễn. Những triết lí về cuộc đời, về con người, về xã hội... đặt ra trong các vở kịch luôn có ý nghĩa với mọi người, mọi thời.
Câu trả lời của bạn
Từ sự so sánh về quan điểm triết lý giữa truyện cổ dân gian “Hồn Trương Ba, da Hàng thịt” và vở kịch cùng tên của Lưu Quang Vũ, bài viết đã nêu lên những nét mới, rất có ý nghĩa trong tác phẩm của nhà soạn kịch nổi tiếng này. Nếu cốt truyện dân gian chỉ đơn giản đề cao, tuyệt đối hoá vai trò của linh hồn đối với thể xác, thì đến vở kịch của Lưu Quang Vũ, vấn đề đã được ông đào sâu, mở rộng và phát triển hơn rất nhiều. Ông có quan niệm khác về mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác – đó là mối quan hệ hữu cơ, tác động lẫn nhau. Hơn nữa, ông còn mở rộng tầm triết lý sang cả những vấn đề nhân sinh khác, như vấn đề xung đột giữa nhu cầu tự nhiên và nhân cách, vấn đề đấu tranh trong bản thân mỗi con người để hoàn thiện nhân cách làm người, v.v.. Vở kịch của Lưu Quang Vũ, vì thế, không chỉ là thành quả to lớn của nền kịch nói hiện đại Việt Nam, mà còn là một đóng góp đặc sắc của ông vào quan niệm triết lý nhân sinh nói chung.
Trong bài viết này, chúng tôi không so sánh một cách toàn diện giữa một truyện cổ dân gian và một vở kịch dài hiện đại, cũng không so sánh về toàn bộ nội dung tư tưởng, mà chỉ so sánh về tư tưởng triết học – phần cốt lõi của cả hai tác phẩm.
Truyện cổ dân gian: Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba, người còn trẻ tuổi nhưng đánh cờ tướng rất giỏi. Nước cờ của anh dễ thường thiên hạ không có người nào địch nổi. Bao nhiêu giải cờ trong những hội hè mùa xuân đều về tay anh. Tiếng đồn vang khắp nước, sang đến tận Giang Nam. Buổi ấy, ở Trung Quốc, có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ. Khi nghe tiếng Trương Ba, Kỵ Như liền khăn gói sang Nam tìm đến nhà địch thủ. Hai người đọ tài nhau trong mấy ván vẫn không phân thua được. Nhưng đến ván thứ ba, Trương Ba dồn Kỵ Như vào thế bí. Thấy đối phương vò đầu suy nghĩ, Trương Ba kiêu hãnh bảo:
- Nước cờ này dù có Đế Thích xuống đây cũng không thể gỡ nổi.
Bấy giờ Đế Thích là thần cờ ở thiên đình, bỗng nghe câu nói hỗn xược của Trương Ba xúc phạm đến mình, liền cưỡi mây xuống trần định cho y biết tay. Trương Ba và Kỵ Như đang đánh, chợt có một ông cụ già đến ngồi bên cạnh bàn cờ. Ông cụ thủng thỉnh mách cho Kỵ Như mấy nước. Tự nhiên, bên Kỵ Như cờ bại thành thắng. Trương Ba cau có, trong bụng tức giận ông già ở đâu đến làm cho mình lâm vào thế bí. Nhưng nhìn thấy ông cụ râu tóc trắng xóa, mặt mũi không có vẻ là người trần tục, chợt hiểu, liền sụp xuống lạy mà rằng: “Ngài hẳn là thần Đế Thích đây rồi, tôi người trần mắt thịt không biết, xin thứ lỗi”. Đế Thích cười bảo: “Ta nghe như nhà ngươi tự phụ là cao cờ nên xuống xem cho biết”. Trương Ba liền giữ Đế Thích lại mua rượu, giết gà, khoản đãi rất chu tất. Đế Thích tuy mới gặp cũng rất yêu mến Trương Ba. Thấy anh khẩn khoản muốn học nước cờ của mình, Đế Thích bảo anh: “Ta thấy nhà ngươi có bụng chân thành, vậy ta cho một bó hương này, mỗi lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống”. Nói đoạn, cưỡi mây bay lên trời.
Từ đó, Trương Ba thỉnh thoảng lại dọn cờ mời thầy Đế Thích xuống chơi. Hai bên rất tương đắc. Nhưng một hôm, Trương Ba bị cái chết mang đi một cách đột ngột. Sau khi chôn cất chồng, người vợ dọn dẹp nhà cửa, thấy có nén hương giắt ở mái nhà, chị ta vô tình lấy xuống đốt lên cắm trước bàn thờ chồng. Ở thiên đình, thần Đế Thích nhận được tin bằng mùi hương liền xuống ngay. Thấy vắng mặt Trương Ba, Đế Thích ngạc nhiên: “Trương Ba đâu?”. Vợ Trương Ba sụt sịt: “Nhà tôi chết đã gần một tháng nay rồi!” – “Chết rồi! Sao lúc mới tắt thở không gọi ta xuống ngay, để đến bây giờ còn làm thế nào được nữa?”. Suy nghĩ một chút, Đế Thích lại hỏi thêm: “Trong xóm hiện nay có ai mới chết không?”. Vợ Trương Ba đáp: “Có một người Hàng thịt mới chết tối hôm qua”. Thần Đế Thích bảo chị ta dẫn mình đến nhà người Hàng thịt mà bảo: “Ta sẽ kiếm cách làm cho chồng nhà ngươi sống lại”. Nói xong, thần hóa phép rồi trở về trời.
Nói chuyện trong nhà người Hàng thịt lúc đó, mọi người đang xúm quanh linh sàng khóc lóc kể lể thì tự nhiên thấy người chết ngồi nhỏm dậy. Hắn ta vứt tất cả mọi đồ khâm liệm rồi chẳng nói chẳng rằng đi thẳng một mạch về nhà Trương Ba. Vợ Trương Ba thấy người Hàng thịt, biết là thần Đế Thích đã làm cho chồng mình sống lại, mừng rỡ đón vào. Giữa lúc đó, thì vợ con người Hàng thịt cũng chạy theo níu lấy chồng nhưng không những bị vợ Trương Ba giằng lại, mà ngay chính chồng mình cũng nhất định không chịu về. Đôi bên cãi cọ nhau, cuối cùng biến thành cuộc đấu khẩu rất kịch liệt. Xóm làng không biết phân xử ra sao, đành đem việc đó lên quan.
Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai cũng bảo người sống lại đó là anh Hàng thịt. Nhưng chỉ có vợ Trương Ba thì nhất định nhận ra là chồng mình”. Quan hỏi rằng: “ Chồng chị ngày thường hay làm gì?”. Đáp: “chồng tôi chỉ thạo đánh cờ mà thôi”. Quan lại hỏi vợ người Hàng thịt: “chồng chị ngày thường hay làm nghề gì?”. Đáp: “chồng tôi chỉ thạo nghề mổ lợn”.
Nghe đoạn, quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh Hàng thịt mổ, nhưng anh ta lúng túng không biết làm thế nào cả. Quan lại sai mấy người giỏi cờ vào tỉ thí với người Hàng thịt thì không ngờ, con người đó đi những nước cờ rất cao không ai địch nổi. Quan bèn phán cho về nhà Trương Ba.
Vì thế mới có câu “ Hồn Trương Ba, da Hàng thịt”(1).
Như vậy, truyện cổ dân gian Hồn Trương Ba, da Hàng thịt cũng quan niệm linh hồn phải có thể xác mới có chỗ trú ngụ và thể xác phải có linh hồn mới sống được, mới không rữa nát. Nhưng truyện cổ dân gian tuyệt đối hóa vai trò của linh hồn, coi nhẹ thể xác, nên khi Trương Ba mượn được thể xác của người Hàng thịt thì Trương Ba coi mình là Trương Ba 100% trong ý thức, trong tình cảm, trong tính cách, tuyệt nhiên không băn khoăn gì về hình dạng của mình. Vợ Trương Ba cũng vậy, khi thấy chồng là thân xác anh Hàng thịt nhưng tâm trí là Trương Ba – chồng mình – thì cũng không băn khoăn gì, nhận ngay và vui vẻ chung sống. Vợ anh Hàng thịt chỉ thấy đơn giản là hình dạng chồng mình sống lại nên đấu tranh khiếu kiện giành giật về cho mình, mặc dù anh ta đã nói anh ta là Trương Ba và chạy về nhà Trương Ba. Quan phủ sau khi kiểm tra kỹ năng mổ thịt lợn và nhất là kỹ năng chơi cờ thì quyết định xử ngay cho anh – Hàng – thịt – mang – hồn Trương Ba về với vợ Trương Ba. Phép thử mổ thịt có thể không chính xác, vì anh Hàng thịt nếu thích vợ Trương Ba có thể giả vờ mổ vụng; nhưng phép thử chơi cờ thì không thể sai được, vì nó thuộc về trí tuệ, về năng khiếu tính toán trong loại hình thể thao trí tuệ đặc biệt, cũng chính là một biểu hiện, một phương diện đặc sắc của linh hồn. Nó xác định, khẳng định linh hồn đó chỉ có thể là Trương Ba – người sinh thời chơi cờ rất giỏi.
Với cốt truyện ngắn gọn, mang một tư tưởng triết học có phần hơi đơn giản – đề cao, tuyệt đối hóa linh hồn, không để ý đến mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn, tách rời linh hồn và thể xác, coi thể xác chỉ như cái túi đựng linh hồn – truyện cổ dân gian Hồn Trương Ba, da Hàng thịt phù hợp với quan niệm xưa, qua bao thế kỷ vẫn được kể, được yêu thích và không hề gây tranh cãi.
Nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, của con người và khoa học (sinh lý học và tâm lý học), tư tưởng triết học về con người cũng trở nên phong phú hơn, sâu sắc hơn và toàn diện hơn. Từ đó, tư tưởng triết học trong truyện cổ dân gian đã được Lưu Quang Vũ, nhà viết kịch tài năng của thời hiện đại, nhìn nhận lại và phát triển theo trình độ nhận thức của thời đại, theo yêu cầu nhân sinh và thẩm mỹ của thời hiện đại.
Tóm tắt vở kịch của Lưu Quang Vũ. “Nam Tào, Bắc Đẩu đang ngồi chấm người phải chết trong ngày. Đế Thích đến tỏ ý muốn xuống hạ giới để tìm người cao cờ đánh cho vui. Vì vội đi dự tiệc ở bên dinh Thái thượng nên Nam Tào gạch bừa tên Trương Ba.
Trương Ba đang chăm vườn và trò chuyện cùng vợ, cháu gái nội, con trai, con dâu thì Trưởng Hoạt đến chơi cờ. Đế Thích xuất hiện, giúp Trưởng Hoạt gỡ thế cờ. Đế Thích cho Trương Ba mấy nén hương và bảo nếu cần thì thắp một nén là Đế Thích xuống, thắp ba nén thì có thể lên thiên đình gặp Đế Thích. Sau đó, Trương Ba thấy trong người khó chịu và chết.
Nam Tào, Bắc Đẩu và Đế Thích đang trò chuyện thì vợ Trương Ba lên (bà ta vô tình thắp ba nén hương cho chồng). Bà đòi trả mạng sống cho chồng. Nhân có anh Hàng thịt mới chết, thân xác chưa tan rữa, Nam Tào, Bắc Đẩu cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh Hàng thịt để sống lại.
Gia đình người Hàng thịt đang ngồi bên quan tài thì người Hàng thịt đội nắp quan tài lên, đòi về nhà Trương Ba, không chịu ở lại nhà Hàng thịt. Vợ Trương Ba đến xem phép mầu nghiệm ứng để đón chồng. Lúc đầu, mọi người đều ngỡ ngàng nhưng hồn Trương Ba đã nói được những điều chỉ có Trương Ba xưa mới biết, nên vợ Trương Ba nhận chồng, Trưởng Hoạt nhận bạn. Hồn Trương Ba (trong xác anh Hàng thịt) về nhà Trương Ba.
Nhưng bà vợ băn khoăn vì thân xác chồng khác xưa nhiều quá. Bà cũng thắc mắc về việc chồng phải sang giúp chị Hàng thịt mổ lợn mặc dù vụng về.
Anh con trai thì hy vọng với sức vóc mới, bố có thể cùng đi buôn lậu với mình. Hồn Trương Ba đã tát con với sức mạnh của cánh tay anh Hàng thịt.
Lý trưởng vào bắt hồn Trương Ba phải về nhà Hàng thịt. Anh con trai hối lộ, Lý trưởng xử: ban ngày ở nhà Trương Ba, đêm về nhà Hàng thịt. Anh con trai lại có lời, Lý trưởng cho phép Trương Ba chỉ phải ở nhà Hàng thịt đến nửa đêm thì được về.
Trời đã khuya, hồn Trương Ba giúp chị Hàng thịt mổ lợn, pha thịt xong, chuẩn bị về thì chị ta giữ lại mời rượu rồi mời ở lại. Hồn Trương Ba lúc đầu định xuôi theo nhưng đã đấu tranh tư tưởng, gỡ tay chị ta, về nhà. Trưởng Hoạt sang phê phán Trương Ba bắt đầu đổi tính: uống rượu, đòi ăn ngon, nước cờ đi cũng khác.
Lý trưởng lại đến sách nhiễu. Cháu gái không nhận ông, người con dâu cũng than phiền bố chồng thay đổi.
Một cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác người Hàng thịt diễn ra; qua đó, xác người Hàng thịt khẳng định thế lấn tới của y đối với hồn Trương Ba.
Hồn Trương Ba đốt một nén hương gọi Đế Thích xuống giải thoát cho mình. Lúc đó, cu Tị nhà hàng xóm bị ốm nặng, sắp chết. Đế Thích bảo hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị. Trương Ba từ chối, xin cho cu Tị sống, còn mình xin trả lại xác cho người Hàng thịt và chấp nhận cái chết.
Hồn Trương Ba nhập vào màu xanh cây vườn trò chuyện với vợ”.
Trước hết, Lưu Quang Vũ có kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian. Ông cũng nhấn mạnh vai trò cao hơn của linh hồn so với thể xác. Trương Ba khi sống lại trong thân xác anh Hàng thịt thì nhận biết mình là Trương Ba (dựa vào ký ức, tình cảm và ý thức của hồn Trương Ba) và về ngay nhà mình (nhà Trương Ba). Vợ Trương Ba, sau khi kiểm tra ký ức của Trương Ba (mới), cũng nhận là chồng mình và giữ lại. Trưởng Hoạt, bạn của Trương Ba, khi kiểm tra ký ức của Trương Ba (mới) về tình bạn giữa hai người, cũng xúc động ôm hôn ngay bạn mình, mặc dù anh ta lúc này đã mang thân xác xa lạ. Cô con dâu thì lại càng thương cha chồng, mặc dù cha lúc này mang vóc hình ông Hàng thịt, vì điều chị ta tìm thấy ở ông là đức tính nhân hậu hệt như cha chồng xưa. Chị ta nói khá đúng, khá đủ, khá cơ bản về linh hồn: “Đã gọi là hồn làm sao có hình thù, bởi nó không là vuông hay tròn, mà là vui buồn, mừng giận, yêu ghét. Thầy vẫn dạy chúng con: Cái bề ngoài có quan trọng gì, chỉ có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là đáng kể”.
Tuy nhiên, Lưu Quang Vũ không dừng lại ở đó.
Đầu tiên, hồn Trương Ba tỏ ra lạ lẫm, khó chịu với sự khác lạ của thân xác mình.
Rồi anh ta cảm thấy thân xác đó bắt đầu chi phối anh: cũng thích ăn tiết canh, uống rượu, nói to và có sức khỏe (không đau lưng, không hen nữa, tát con chảy máu mồm).
Khi ông Lý xử anh phải sang nhà chị Hàng thịt một số giờ trong ngày thì anh cũng tấm tắc khen ngon mấy món ăn của chị ta. Chị Hàng thịt thì biết linh hồn trong thể xác chồng mình không phải là của chồng mình mà là của Trương Ba, nhưng chị ta càng quý hơn vì nó tốt đẹp và dịu dàng, điều mà chị ta không thấy ở người chồng thô bạo đã khuất. Sự cô đơn về thân xác và linh hồn khiến chị càng khao khát hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba cũng bị rung động trước sự gần gũi với vợ người Hàng thịt và phải tự đấu tranh để thoát ra khỏi vòng tay âu yếm của thị. Vợ Trương Ba cũng dần cảm thấy chồng khác trước và nảy sinh mặc cảm, tự ti về sức khỏe và nhan sắc trước hình vóc trẻ khỏe của hồn Trương Ba. Đến đây, ta đã thấy sự tồn tại độc lập của thân xác đối với linh hồn, sự chi phối của thân xác đối với linh hồn cùng những phiền toái do sự không hòa hợp, không thống nhất giữa linh hồn và thân xác.
Đỉnh cao của tư tưởng triết lý trong vở kịch là sự đối thoại giữa linh hồn và thân xác. Cuộc đối thoại này cho thấy con người ta có hai phần là linh hồn và thể xác. Hai phần đó có quan hệ hữu cơ với nhau. Linh hồn có cơ sở vật chất là thể xác, cũng như nhận thức lý tính phải bắt đầu từ cảm tính; tình cảm hình thành từ những quan hệ cụ thể trong đời thường; cảm xúc thẩm mỹ phải dựa trên các cảm quan thị giác, thính giác… Thể xác cũng có tính độc lập tương đối, có tiếng nói riêng, có nhu cầu tự nhiên hợp lý, không thể bỏ qua. Nhưng, linh hồn phải kiểm soát những nhu cầu đó, phải điều chỉnh, thăng hoa, “Người” hóa, văn hóa hóa những nhu cầu ấy. Con người nói chung phải biết kìm hãm, tiết chế những nhu cầu bản năng và nếu cần, biết đè nén, biết hy sinh nó. Linh hồn và thể xác là một thể thống nhất; trong đó, linh hồn giữ vị trí chủ đạo, nên linh hồn phải chịu trách nhiệm cuối cùng về hành động của thể xác, không thể thỏa mãn mọi nhu cầu ở mọi mức độ, mọi nơi, mọi lúc rồi đổ trách nhiệm cho thể xác. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác thực sự là cuộc đấu tranh trong bản thân con người để làm chủ những nhu cầu và ham muốn, nhất là khi bị hoàn cảnh tác động. Đó là cuộc đấu tranh để làm chủ bản thân và hoàn thiện nhân cách. Ở đây, cuộc đấu tranh này cũng cảnh báo khả năng lấn át của thể xác – tức của những nhu cầu tầm thường – đối với linh hồn – tức là đối với khát vọng sống cao khiết.
Hành động chấp nhận cái chết, trả lại xác cho anh hàng thịt của Trương Ba là một hành động đúng đắn, một hành động dũng cảm và đạo đức. Từ sự lý giải lại một cách biện chứng về quan hệ giữa thể xác và linh hồn trên triết lý nhân sinh của thời đại, Lưu Quang Vũ đã đi đến một quan niệm sống đẹp: sống chân thật, mình phải chính là mình, cả linh hồn và thể xác, sống vì mọi người, vì hạnh phúc và sự tốt đẹp của con người. Trương Ba chết, nhưng hồn Trương Ba vẫn sống – sống trong tình cảm của mọi người, sống mà không cần mượn đến thân xác của ai hết.
Trước khi kết thúc, tác giả còn đưa nhân vật vào cuộc thử thách cuối cùng, đặt nhân vật trước một sự lựa chọn: chấp nhận cái chết hoặc nhập vào xác cu Tị – một em bé hàng xóm vừa chết. Trương Ba không thể tái diễn bi kịch sống trong thân xác mượn của người khác: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Vì thế, ông đã xin cho cu Tị được sống lại, còn mình thì xin được chết.
Thực chất, đó là lời tái khẳng định của tác giả đối với quan niệm sống đẹp mà ta nhắc đến ở trên. Bi kịch xung đột giữa linh hồn và thể xác không thể được giải quyết theo đúng cái cách đã tạo ra bi kịch. Đến đây, cái “chết hẳn” của Trương Ba lại thể hiện một chiến thắng thuyết phục của “tồn tại – người”, của nhân cách, của khát vọng hoàn thiện nhân cách của con người.
Không phải chờ đến khi các nhà ngoại cảm và lý thuyết trường sinh học xuất hiện, Lưu Quang Vũ đã khẳng định, theo cách của ông, thân xác của từng cá thể người tồn tại hữu hạn, nhưng sự sống và linh hồn của con người là bất tử. Tư tưởng triết lý của Lưu Quang Vũ về con người vừa biện chứng, vừa lạc quan và cao thượng. Điều này, cùng với tài năng sáng tạo nghệ thuật tác giả, đã làm cho vở kịch có giá trị nhân văn cao, vươn tới tầm nhân loại.
Vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong Hồn Trương Ba, da Hàng thịtcòn có thể làm ta liên tưởng đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong mỗi sự vật. Đương nhiên, mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác, giữa nội dung và hình thức là hai cặp phạm trù không đồng nhất, không thể suy cái này ra cái kia một cách tịnh tiến. Tuy vậy, từ sự không đồng nhất, thậm chí đối lập giữa linh hồn và thể xác trong vở kịch, ta có thể liên tưởng tới sự thống nhất cần có giữa nội dung và hình thức là hai mặt của thực tại tự nhiên và xã hội. Khi nội dung và hình thức phù hợp với nhau thì sự vật tồn tại và phát triển. Khi nội dung và hình thức không phù hợp với nhau thì sự phát triển bị kìm hãm và thậm chí, sự tồn tại của sự vật bị đe dọa.
Liên tưởng trên không hề có khi đọc truyện cổ dân gian, mà nếu có, thì đó chỉ là sự tuyệt đối hóa nội dung, xem thường hình thức và tách rời nội dung khỏi hình thức, một tư duy siêu hình mang tính tiên nghiệm. Từ triết lý đơn giản trong truyện cổ dân gian về vai trò quan trọng thứ nhất của linh hồn, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một vở kịch có sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người đọc một thông điệp sâu sắc về triết lý sống: thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau; con người không thể chỉ sống bằng thể xác, mà phải luôn luôn đấu tranh với bản thân để có sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác, hướng tới một lối sống cao thượng, vươn tới một nhân cách hoàn thiện.
Câu trả lời của bạn
Trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người chúng ta luôn luôn phải có sự hài hòa giữa tâm hồn và thể xác. Nếu giữa tâm hồn và thể xác có một sự chênh lệch nào đó thì chúng ta không bao giờ được sống bình yên mà phải luôn luôn trăn trở đầy khổ đau và gặp toàn những bi kịch mà thôi. Điều đó đã được Lưu Quang Vũ thể hiện một cách sinh động và đầy nghệ thuật trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, nhất là khi Hồn Trương Ba trú ngụ trong thân xác của anh hàng thịt.
Như chúng ta đã biết Hồn Trương Ba nguyên là một con người ngay thẳng, giàu lòng yêu thương vợ con, là một người làm vườn chăm chỉ và khéo léo, có tài đánh cờ, có tâm hồn thanh cao trong sáng. Nhưng từ khi Hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt mọi cái đều thay đổi. Hồn Trương Ba bây giờ không còn giống như trước nữa. Ông thay đổi cả ngoại hình lẫn tâm hồn, ông không còn là một người chồng mà bà vợ ông rất mực yêu thương, kính trọng. Vợ Trương Ba cảm thấy bực bội trước sự thờ ơ của Hồn Trương Ba trước những sự việc đang diễn ra xung quanh ông, như việc cu Tị bị ốm: “Ông bây giờ còn biết đến ai nữa! Cu Tị ốm thập tử nhất sinh từ đêm qua tới giờ bắt đầu mê man, mẹ nó khóc đỏ cả mắt...”. Vợ Trương Ba chán ngán chồng đến nỗi bà muốn bỏ ông mà đi: "Tôi nói thật đấy... Ông Trương Ba ạ, tôi đã nghĩ kỹ: có lẽ tôi phải đi..”. Đi đâu vợ Trương Ba cũng chưa biết, nhưng vì buồn quá, chán quá nên bà nói như nói lẫy: “Đi cấy thuê làm mướn ở đâu cũng được... đi biệt... Để ông được thảnh thơi... với cô vợ người hàng thịt... còn hơn là thế này...". Bà nói mà mắt cứ rưng rưng nước mắt.
Vợ Trương Ba vốn là người vợ rất yêu chồng, nhưng vì bây giờ Hồn Trương Ba đã biến đổi quá nhiều không còn giống như Hồn Trương Ba trước kia nữa: “Tôi biết, ông là người rất thương, yêu vợ con... Chỉ tại bây giờ (khóc). Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa...”. Trước những lời thoại ấy của vợ khiến Hồn Trương Ba cảm thấy đau đớn, xót xa đến thảng thốt, bàng hoàng tự hỏi: “Sao lại đến nông nỗi này?” rồi “ngồi xuống, tay ôm đầu".
Ngay cả cái Gái đứa cháu nội mà Trương Ba hết mực yêu thương bây giờ cũng không thừa nhận ông: “Tôi không phải là cháu của ông”, “Ông nội tôi chết rồi. Nếu ông nội hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông! Ông dám nhận ông là ông nội, dám đụng vào cây cối trong vườn cua ông nội tôi”. Khi Hồn Trương Ba nói với cái Gái: “Dù sao... Cháu... Sáng nào ông cũng ra cuốc xới chăm chút cây cối ngoài vườn, cháu không thấy sao: chỉ có ông nội cháu mới biết quý cây như thế...” thì cái Gái đã phản đối quyết liệt: “Quý cây! Hừ, tôi phải rình lúc này, cả nhà đi vắng hết để đến nói với ông: Từ nay ông không được động vào cây cối trong vườn ông tôi nữa! Ông mà biết quý cây hả? Sáng qua, tôi để ý lúc ông chiết cây cam, bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm nát lên cả cây sâm quý mới ươm! Ông nội đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy?". Cái Gái còn kết án Hồn Trương Ba chính là thủ phạm làm gãy cái diều của cu Tị: “Còn cái diều của cu Tị nữa, chiều hôm kia nó mang cái diều sang đây chơi, ông cầm lấy đòi chữa cho nó, thế là ông làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cái diều đẹp mà cu Tị rất quý!...”, “Cu Tị nó cũng rất ghét ông! Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”. Hồn Trương Ba còn gì đau đớn hơn khi đứa cháu mà ông rất mực yêu thương, bây giờ lại nói với ông những điều phũ phàng, đau đớn ấy, vì ông không còn là ông trước kia nữa.
Và ngay cả người con dâu, người mà rất hiểu, rất thương, rất thông cảm cho hoàn cảnh Hồn Trương Ba bây giờ, nhưng cũng không khỏi chua xót khi có lúc không nhận ra Hồn Trương Ba trước kia nữa, bởi Hồn Trương Ba đã mất đi cái tính hiền hậu, vui vẻ trước kia rồi: “Thầy bẩu con: Cái bên ngoài là không đúng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa... Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi”.
Như vậy từ khi Hồn Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt thì Hồn Trương Ba không còn là Hồn Trương Ba trước kia nữa, Hồn Trương Ba đã sống trong những tấn bi kịch, ông rơi từ bi kịch này đến bi kịch khác, và những bi kịch ấy đã đi đến điểm đỉnh, giằng xé tầm hồn Hồn Trương Ba, đó là cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác với sự giễu cợt, tự đắc của Xác khiến Hồn Trương Ba càng khổ đau, càng cảm thấy bế tắc. Trong cuộc đối thoại này Xác đã đưa ra nhiều lí lẽ thật xác đáng để công kích lại những quan điểm thật trong sáng, cao đẹp của Hồn. Nếu Hồn tỏ ra chán ngán khi phải cư ngụ trong cái thân xác kềnh càng, thô lỗ và muốn “tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ là một chút!” thì Xác đã phản kháng một cách gay gắt: “Vô ích, cấi linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba”.
Khi Hồn bảo với Xác là “mày không thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mà chỉ là xác thịt âm u, đui mù” thì Xác đã không hề chịu thua, ngược lại đã phản kháng quyết liệt luận điểm của Hồn: “Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm có khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy". Càng lúc Xác càng đẩy Hồn vào chân tường và Hồn chỉ còn phản kháng yếu ớt: “Ta... ta... đã bảo mày im đi!”, "Ta không muốn nghe mày nữa!”. Và cuối cùng Hồn như đuối lí trước lập luận của Xác: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác...”. Đây là cuộc đấu tranh thật gay gắt giữa Hồn và Xác. Cuộc đấu tranh gay gắt này đã đi đến đỉnh điểm của kịch tính là khi Hồn Trương Ba sắp ngã vào tay chị vợ anh hàng thịt. Hồn có nguy cơ bị thân xác lấn át, Hồn Trương Ba đã phải trải qua những cuộc đấu tranh gay gắt với chính thể xác mà nó trú ngụ. Cuối cùng, để giữ sự thanh sạch Hồn Trương Ba đã chấp nhận cái chết vĩnh viễn, khước từ cuộc sống không phải là mình. Đây chính là sự bộc lộ một triết lí sống sâu sắc của Lưu Quang Vũ: cuộc sống thật đáng quý, nhưng không phải sống như thế nào cũng được. Nếu sống vay mượn, sống chắp vá, không có sự hài hòa giữa vẻ đẹp tâm hồn và nhu cầu vật chất thì cuộc sống ấy là một bi kịch. Hay nói một cách khác, Lưu Quang Vũ muốn nói với chúng ta rằng: cuộc sống của mỗi con người chỉ thực sự hạnh phúc, chỉ có giá trị khi được sống đúng là mình, được sống tự nhiên trong một thể thống nhất.
Tóm lại, từ khi Hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt thì Hồn Trương Ba đã thay đổi cả về tâm hồn và thể xác bởi ông phải sống trong một hoàn cảnh trớ trêu đầy bi kịch khi có sự chênh lệch giữa Hồn và Xác. Mâu thuẫn và xung đột gay gắt giữa sự thanh sạch cao khiết của tâm hồn với một thể xác thô lỗ, cộc cằn. Hồn Trương Ba không thể sống mãi trong cái cảnh bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được nên kết cục đã chọn lấy cái chết vĩnh viễn để giữ tâm hồn thanh sạch. Đó chính là tư tưởng là quan niệm sống đúng đắn của Lưu Quang Vũ và cũng là bài học sâu sắc cho chúng ta trong cuộc sống.
Nguyên nhân dẫn đến cuộc đối thoại của Trương Ba với những người thân trong gia đình???
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
* Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt:
- Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí,
- Xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn thì hồn vẫn phải thừa nhận: Đó là cái đêm khi hồn đứng cạnh vợ anh hàng thịt với "tay chân run rẩy", "hơi thở nóng rực", "cố nghẹn lại" và "suýt nữa thì...". Đó là cái lần ông tát thằng con ông "tóe máu mồm máu mũi"... .
- Xác anh hàng thịt còn cười nhạo vào cái lí lẽ mà hồn đưa ra để nguỵ biện: "Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn...".
=> Hồn đau khổ, không muốn thừa nhận
* Hàm ý của tác giả qua đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt:
- Bi kịch bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo (linh hồn thanh cao của Trương Ba chán ghét, đau khổ bên trong thân xác phàm tục của anh hàng thịt): tôi đã chán cái chỗ ở không phải của tôi…ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát.
- Không chỉ linh hồn mới có tiếng nói và sức mạnh, thể xác cũng có sức mạnh bản năng ghê gớm của nó: bất chấp thái độ phủ nhận yếu ớt của Trương Ba, xác hàng thịt đưa ra nhiều minh chứng cho thấy hồn Trương Ba cũng tha hóa theo nhu cầu của hắn.
- Sự thật là nhiều người chỉ vun vén cho phần hồn mà bỏ bê, coi thường phần xác.
- Cuộc đấu tranh giữa cái thanh cao và cái tầm thường (hồn Trương Ba cố gắng giữ quan điểm của mình trước những lí lẽ ti tiện của xác hàng thịt nhưng vì vẫn phải chung đụng, sống nhờ vào xác hàng thịt nên không thoát khỏi tuyệt vọng.
=> Cuộc đối thoại làm bật lên sự mâu thuẫn, đặt ra vấn đề có tính triết lí không nên sống nương nhờ vào người khác, khi không được là chính mình tất sẽ có nhiều đắng cay, cuộc sống mất đi ý nghĩa.
Câu trả lời của bạn
* Nguyên nhân:
- Nguyên nhân khiến người thân của Trương Ba và chính Trương Ba rơi vào bất ổn, đau khổ là việc bên trong một đằng bên ngoài một nẻo gây ra nhiều phiền toái, rắc rối. Đau xót hơn là Trương Ba không còn là chính mình, ông bị tha hóa dưới sức ảnh hưởng ghê gớm của xác hàng thịt.
* Thái độ của người thân đối với hồn Trương Ba khi sống trong thân xác anh hàng thịt:
- Người vợ mà ông rất mực thương yêu giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà: "đi đâu cũng được... còn hơn là thế này" bà đã nói ra điều mà chính ông cũng cảm nhận được: "Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa".
- Cái Gái, cháu ông bây giờ không cần phải chú ý. Nó một mực khước từ tình thân (Tôi không phải là cháu ông. Ông nội tôi chết rồi). Cái Gái yêu quý ông bao nhiêu thì bây giờ nó không thể chấp nhận
- Người con dâu là người sâu sắc, chín chắc, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm "khổ hơn xưa nhiều lắm". Nhưng nỗi buồn đau trước cảnh gia đình "như sắp tan hoang ra cả" khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó. "Thầy bảo con: cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa..."
* Thái độ:
- Đau đớn, nhẫn nhục, bất lực.
- Thừa nhận sự thắng thế của xác hàng thịt nhưng không khuất phục mà quyêt định không cần đến xác hàng thịt nữa.
- Nhà viết kịch đã để cho hồn Trường Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát đầy quyết liệt: "Mày đã thắng thế rồi, cái thân xác không phải của ta ạ... Nhưng lẽ nào ta lại phải chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? Chẳng lẽ không còn cách nào khác! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến đời sống do mày đem lại! Không cần!".
=> Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
Câu trả lời của bạn
- Việc này sẽ dẫn đến hàng loạt những phiền phức, rắc rối như việc Trương Ba đã nhập vào xác hàng thịt (phải giải thích cho chị Lụa và gia đình, có khi phải sang nhà chị Lụa ở, lại tạo cơ hội cho bọn lí trưởng, trương tuần thu lợi…).
- Tuy có cả cuộc đời trước mắt nhưng khi những người đồng trang lứa nằm xuống, Trương Ba sẽ trở nên lạc lõng, thảm hại.
- Dù nhập vào xác cu Tị hay xác ai thì Trương Ba cũng không được là mình toàn vẹn và tiếp tục rơi vào bi kịch bên trong một đằng bên ngoài một nẻo.
=> Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Quyết định này khiến chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.
- Cái chết của Cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ nút. Dựng tả quá trình đi đến quyết định dứt khoát của nhân vật hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm.
Câu trả lời của bạn
- Quan niệm sống của Trương Ba và Đế Thích rất khác nhau:
+ Trương Ba thì cho rằng mượn thân xác của người khác để trú ngụ là một điều không nên, sống trong người khác làm cho bản tính của ta sẽ bị mờ nhạt đi.
+ Đế Thích thì lại cho rằng mượn thân xác để sống cũng là điều bình thường, chỉ cần được sống là tốt.
– Những lời trách móc của Trương Ba đối với Đế Thích: "ông chỉ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết". Mượn thân xác để sống con người sống nhưng tính cách của chính mình bị mờ nhạt trong cái xác thịt của hàng thịt, linh hồn và thể xác của ông hoàn toàn không muốn sống trong thân xác của kẻ khác. Ở đây ông đang nói về những trải nghiệm mà ông đang phải trải qua.
- Ý nghĩa:
+ Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hoà, không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng thì không nên chỉ đổ tội cho xác và không thể an ủi, vỗ về bằng vẻ đẹp của tâm hồn.
+ Sống nhờ, sống gởi, sống chắp vá, không được là mình thì cuộc sống ấy thật là vô nghĩa.
=> Qua lời thoại, nhân vật ý thức rõ hoàn cảnh của mình: đầy trớ trêu và bi hài.
Câu trả lời của bạn
Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, trong vở kịch nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muôn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sổng lúc bấy giờ.
Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cảnh báo "muốn nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn".
Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng quý trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán.
Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một số vấn đề không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám, cũng không được sống với thực chất bản thân mình. Đó cũng là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
Với tất cả những ý nghĩa đó, đoạn trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ.
Câu trả lời của bạn
Nếu Trương Ba đồng ý sống trong xác hàng thịt hoặc nhập vào cu Tị, cuộc sống của Trương Ba sẽ lại rơi vào bi kịch với hàng loạt những rắc rối, phiền toái của việc bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Những phiền toái ấy có thể khác nhau khi sống trong những cái xác khác nhau nhưng đều là sự chắp vá lố bịch, sự tham lam tai hại. Quan trọng nhất, dù sống trong xác ai không phải xác mình thì hồn Trương Ba cũng đều không thể có được sự thanh thản, hạnh phúc vì sống không là chính mình. Điều đó sẽ tiếp tục làm tổn thương những người thân yêu của ông và gây ra những điều vô lí ở đời.
Câu trả lời của bạn
Thể loại của văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt là kịch.
Câu trả lời của bạn
- Được viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công chúng, là một trong số những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước.
Câu trả lời của bạn
- Đoạn trích thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch.
Câu trả lời của bạn
Qua đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc thông điệp: Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
Câu trả lời của bạn
- Xây dựng tình huống, xung đột kịch độc đáo, hấp dẫn.
- Đối thoại kịch đậm chất triết lí, giàu kịch tính, tạo nên chiều sâu ý nghĩa cho vở kịch.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *