Bài học giúp các em củng cố và nâng cao trình độ làm văn nghị luận về các mặt: xác định đề, lập dàn ý, diễn đạt. Viết được bài văn nghị luận về một ý kiến bàn về văn học rõ ràng, mạch lạc, có sức thuyết phục.
Các bước tiến hành
Đề 1: Về hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, có ý kiến cho rằng: "Người lính ở đây có dáng dấp của các tráng sĩ thuở trước". Ý kiến khác thì nhấn mạnh: "Hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp". Từ cảm nhận của mình về hình tượng này, anh (chị) hãy bình luận những ý kiến trên.
Đề 2: Anh (chị) hiểu thế nào về ý kiến sau của nhà thơ Xuân Diệu: "Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa".
Đề 3: Bình luận ý kiến của Nam Cao:
"Một tác phẩm thật có giá trị phải vượt lên trên tất cả bờ cõi, giới hạn, phải là tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho con người ngày càng người hơn" (Nam Cao- Đời thừa)
Đề 4: Trong một bức thư bàn luận về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên.
Về hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, có ý kiến cho rằng: "Người lính ở đây có dáng dấp của các tráng sĩ thuở trước". Ý kiến khác thì nhấn mạnh: "Hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp". Từ cảm nhận của mình về hình tượng này, anh (chị) hãy bình luận những ý kiến trên.
Trong một bức thư bàn luận về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên.
Để củng cố và nâng cao trình độ làm văn nghị luận về các mặt: xác định đề, lập dàn ý, diễn đạt, các em có thể tham khảo bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu 2 (6 điểm):
Trong văn học hiện đại nước ta, có không ít các nhà văn đã thể hiện thành công vẻ đẹp tình mẫu tử, nhưng có lẽ chưa có nhà văn nào diễn tả tình mẹ con một cách chân thật, sâu sắc và thấm thía như Nguyên Hồng. Đằng sau những dòng chữ, những câu văn là những”rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại”(Thạch Lam).
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
"Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay chỉ làm theo một vài kiểu mẫu... Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu suy nghĩ, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có", với nhà văn Nam Cao, ông đòi hỏi ở mỗi người cầm bút một sự sáng tạo riêng cho mình, để lại cho văn học những gì là của riêng mình. Nhà văn Pháp Buy-phông thì quan niệm "Phong cách chính là người". Quan niệm này phải chăng xuất phát từ mối quan hệ giữa nhà văn với những điều thuộc về riêng nhà văn đó?
Trong câu nói của Buy-phông, "Phong cách" là những nét độc đáo của riêng mỗi nhà văn thể hiện trong văn học. Đó là "những nguồn chưa ai khơi" nhưng nhà văn đó đã khơi tìm và hưởng được sự ngọt mát của nó. Cần hiểu rằng, phong cách của nhà văn được thể hiện trên cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật.
Trong nội dung, phong cách nhà văn in đậm trong quan niệm về cuộc sống con người, việc lựa chọn đề tài, xây dựng chủ đề, cách lí giải vấn đề về cuộc sống con người... Có thể thấy rõ điều này ở nhiều nhà văn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Hồ Chí Minh... Nguyễn Tuân thường nhìn mọi sự vật, sự việc dưới góc độ của sự tài hoa. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhà văn tìm thấy sự tài hoa của những nhà Nho hết thời trong những thú chơi tao nhã của họ: thả thơ, uống trà, ngâm vịnh... Sau Cách mạng, nhà văn lại say mê với sự tài hoa của những con người Việt Nam trong lao động, sản xuất... Nam Cao lại khác. Trước Cách mạng, ông đau đáu với đề tài về những người nông dân Việt Nam nô lệ bị tha hóa về tinh thần, nhân phẩm hay những nhà trí thức Việt Nam quằn quại trong nỗi đau vì bị "áo cơm ghì sát đất"...
Về nghệ thuật, phong cách nhà văn cũng được thể hiện đa dạng ở nhiều phương diện: phương thức biểu hiện, lựa chọn thủ pháp nghệ thuật, cách tổ chức kết cấu, tổ chức ngôn ngữ... Điều này cũng rất dễ nhận biết đặc biệt ở những tác giả lớn. Nhà thơ Tố Hữu thường chọn thể thơ lục bát, giọng điệu tâm tình ngọt ngào để thể hiện tình cảm tha thiết, chân thành của nhân vật trữ tình. Nhà văn Nam Cao lại rất dễ "bị" nhận ra bởi lối kể chuyện đảo trình tự tuyến tính hiện đại hay cách liên kết đoạn văn rất tài tình... Mỗi nhà văn lại có những ý tưởng độc đáo khác nhau trong cách thể hiện tác phẩm của mình. Và với độc giả, khi đọc một truyện ngắn, thưởng thức một bài thơ... không gì thích thú là việc phát hiện ra những nét đặc sắc về phong cách của các tác giả. Những nhà văn, nhà thơ có tài năng thực sự mới có thể định hình phong cách riêng của mình. Và giữa phong cách của mỗi tác giả lại có mối quan hệ chặt chẽ tới bản thân cá tính mỗi nhà văn. Trong văn học, phong cách được thể hiện sinh động như một thực thể bộc lộ những quan niệm cá nhân về văn học. Trong truyện ngắn của mình, Nam Cao luôn có vẻ khách quan, hờ hững với nhân vật. Ông gọi họ là "y", là "thị", miêu tả họ với những hình hài xấu xí, thậm chí là ghê rợn (đặc biệt là những người nông dân). Nhưng đằng sau những trang văn tưởng như lạnh lùng, khinh thị ấy là tấm lòng đồng cảm thấu suốt là tình thương đến nhói buốt của một tấm lòng đồng ái, đồng chủng. Ngoài đời, con người Nam Cao cũng có dáng vẻ giống như giọng điệu văn chương của ông trong truyện ngắn. Nhắc đến Nam Cao, những người bạn văn nhớ đến một dáng vẻ trầm lặng, ít nói, nhưng thực chất, ẩn đằng sau dáng vẻ phẳng lặng, im ắng ấy là một tinh thần sôi nổi, quyết liệt. Chỉ có những tính cách mạnh mẽ mới có thể phát biểu thế này: "Sống đã rồi hãy viết"!
Phong cách của nhà văn in đậm lên từng trang viết. Đến lượt mình, phong cách văn học của mỗi tác giả lại in sâu vào lòng người đọc tạo nên mối đồng cảm sâu sắc giữa những nhà văn, nhà thơ và những độc giả chân thành.
Đưa ra một nhận định đúng đắn, Buy-phông định hướng cho những nhà văn hay những người ôm mộng văn chương phải biết định hình cho mình một phong cách riêng nổi bật. Đó phải là phong cách của riêng anh để người đọc nhận ra đó là anh chứ không phải là người khác. Đến lượt mình, mỗi độc giả cần là một người đọc thông minh biết tìm tòi, suy nghĩ phát hiện nét phong cách riêng của mỗi nhà văn.
Câu trả lời của bạn
Truyện “Vợ chồng A Phủ” rút trong tác phẩm “Truyện Tây Bắc” (1953) là thành công tốt đẹp đầu tiên của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám. Qua cuộc đời tủi nhục đau khổ của Mị và A Phủ, hai nô lê của thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ của người Mèo trong chế độ cũ và sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc, một lòng đi theo Cách mạng và kháng chiến.
Con người thức tỉnh trong văn học là những nhân vật từng nếm trải nhiều cay đắng, tủi nhục và đau khổ; trải qua những năm dài bị áp bức bóc lột, bị chà đạp giày xéo mà trở thành con người gần như vô cảm vô hồn, sống trong trạng thái nhẫn nhục, cam chịu cho thân phận mình. Cuối cùng, con người thức tỉnh dần dần tự ý thức về quyền sống và quyền làm người của mình, phản kháng áp bức, bất công giành lấy tự do và hạnh phúc, xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa. Cùng với nhân vật A Phủ, ta thấy rõ nhân vật Mị là “con người thức tỉnh” giàu ý nghĩa nhân văn.
Cuộc đời Mị đầy bi kịch. MỊ xinh đẹp, thổi sáo hay, nhiều chàng trai Mèo mê “ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhưng hạnh phúc tuổi xuân không đến với người con gái đáng thương này. Mẹ Mị đã mất. Nhà nghèo, bố Mị đã già. Món nợ truyền kiếp, mỗi năm phải đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô đã trở thành sợi dây oan nghiệt đối với Mị. Mị đã bị A Sử (con trai thống lí Pá Tra) “cướp được” đem về cúng trình ma. Bố Mị chỉ còn biết cất lời than trong nước mắt: “Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thế nào khác được rồi!”.
Với Mị, kiếp con dâu gạt nợ đau khổ, tủi nhục vô cùng. Đêm nào Mị cũng khóc. Tự thương cho số phận mình, Mị phải chết, Mị phải tự tử bằng lá ngón hái được ở trong rừng – Hình ảnh Mị: “hai tròng mắt còn đỏ hoe”, quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở, hình ảnh bố Mị “cũng khóc”cất lời than… đã cho thấy một bi kịch đầy nước mắt! Mị muốn ăn lá ngón tự tử và Mị không cam chịu làm kiếp nô lộ trong thân phận con dâu gạt nợ. Mị muốn được sống trong một cuộc đời đáng sống, sống có ý nghĩa làm người. Sống trong nô lệ và tủi nhục thì tự tử còn hơn. Phản kháng ấy tuy tiêu cực, nhưng cho thấy Mị đã ý thức về nhân phẩm của mình. Ý thức về nhân phẩm, phủ định thực tại đen tối là biểu hiện của con người thức tỉnh.
Mị muốn chết mà không chết được. Mị chết nhưng nợ quan vẫn còn, bố Mị đã già yếu quá rồi. Ai có thể làm nương ngô giả được nợ thống lí! Mị chỉ còn biết khóc. Mị phải ném nắm lá ngón xuống đất. “Mị không đành lòng chết… Mị đành trở lại nhà thống lí”. Mị cam chịu kiếp nô lệ con dâu gạt nợ vì Mị thương bố, Mị hiếu thảo và giàu hi sinh biết bao!
Quá trình thức tỉnh của con người thức tỉnh là những năm dài đen tối, là những tháng ngày tủi nhục đắng cay. Mị cũng vậy. Nơi Mị ở là một cái buồng kín mít như cái chuồng nhốt thú, chỉ có một lỗ vuông bằng bàn tay trông ra… Có lúc Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra “đến bao giờ chết thì thôi”. Nhan sắc, tuổi xuân của Mị bị tước đoạt, bị giày xéo, bị chà đạp. Mị bị bóc lột tàn nhẫn, phải làm quần quật quanh năm. Lên núi hái thuốc phiện, bẻ bắp, hái củi, bung ngô,… lúc nào cũng gài một bó đay trong tay để tước thành sợi. Có lúc lại thấy Mị quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Bó đay ấy, tảng đá ấy như cái xiềng, cái xích, cái thòng lọng oan nghiệt đối với Mị. Mị bị áp bức mà trở nên tê liệt dần. Không nghĩ đến việc ăn lá ngón tự tử nữa. Mị “tưởng mình cũng là con trâu, cũng là con ngựa”. Mị “cúi mặt”, “mặt buồn rười rượi”. Mị cam chịu “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Gần như vô cảm vô hồn, lâu dần “Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thân phận Mị có khác nào cô gái Thái bị ép duyên trong truyện thơ “Tiễn dặn người yêu”
“Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa
Bằng con chẫu chuộc thôi…”.
Cảm thấy kiếp mình, thân phận mình như con trâu, con ngựa, con rùa, con bọ ngựa, con chầu chuộc, có nghĩa là chén đắng cay của cuộc đời đã uống cạn, chỉ còn sống trong tê liệt, nhẫn nhục và cam chịu. Chẳng phải đời Mị đã lụi tàn?
Con người thức tỉnh được hồi sinh không chỉ bởi ngoại cảnh mà còn tự tâm hồn mình, ý thức mình. Mị đã thức tỉnh với những đốm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Tết đến, mùa xuân làng Mèo làm cho hoa thuốc phiện “đỏ au” thêm rực rỡ, những chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Những cuộc vui chơi của trai gái, trẻ con như đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy múa diễn ra náo nhiệt trên sân trước nhà. Và tiếng sáo tiếng khèn “rủ bạn đi chơi” làm cho Mị “thiết tha bổi hổi”. Mị nhẩm theo tiếng hát, tiếng sáo vọng lại:
“Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”
Tiếng sáo lay gọi, thức tỉnh tâm hồn Mị. Mị lén lấy hũ rượu, “cứ uống ừng ực từng bát”. Uống cho tan nỗi hận! Uống cho vơi đi bao đau khổ chứa chất trong lòng! Say “lịm mặt”, Mị “sống về ngày trước”. Mị nhớ lại thời con gái, Mị thổi sáo bao người mê. Tiếng sáo gọi bạn tình đã nhập vào hồn Mị, “tai Mị văng vẳng tiếng sáo…”. Mị đã thật sự hồi sinh và hồi xuân. Mị tự ý thức là “Mị vẫn trẻ”. Mị cảm thấy “phơi phới”, trong lòng “đột nhiên vui sướng” như những đêm Tết ngày trước thời con gái. Mị muốn đi chơi Tết. Khao khát được sống trong tình yêu hạnh phúc như ngọn lửa bùng cháy tâm hồn Mị.
Mị được thức tỉnh về cảnh ngộ. Mị thấy vô lý, bất công đến tàn nhẫn, đến cay đắng. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Mị với A Sử “không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!”. Thật là trớ trêu! Mị muốn ăn lá ngón cho chết. Mị ứa nước mắt. Tiếng sáo gọi bạn yêu đang “lửng lơ bay” ngoài đường. Đó là tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân. Tiếng sáo lay tỉnh. Mị đang “vùng vẫy” cố thoát cảnh ngộ đau khổ và tủi nhục!
Mị đã phản kháng, đã hành động. Xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Với tay lấy váy hoa, rút thêm cái áo, quấn lại tóc. Mị “sắp đi chơi”. Hành động Mị ngang nhiên diễn ra trước mặt thằng A Sử. Mị chẳng thèm trả lời câu hỏi của hắn: “Mày muốn đi chơi à?”. Mị đã bị thằng A Sử trói vào cột buồng bằng cả một thúng sợi đay, làm cho Mị “không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Mặc dù lúc mê, lúc tỉnh, lúc khắp người “bị dây trói thít lại, đau nhức”, nhưng Mị vẫn “nồng nàn tha thiết nhớ”, “vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Điều đó cho thấy, Mị được thức tỉnh về tình yêu, về hạnh phúc, lòng khao khát của Mị rất mãnh liệt. Đêm tình mùa xuân cho thấy ngòi bút phân tích tâm lí và hành động Mị, con người thức tỉnh của Tô Hoài rất tinh tế, sâu sắc. Trang văn thấm đượm tinh thần nhân văn đặc sắc.
Mị có bị ngã gục trước số phận đen tối tủi nhục không? Con ma nhà thống lí, uy quyền của Pá Tra, bộ mặt độc ác của A sử, và món nợ truyền kiếp, tất cả đã thít chặt Mị bằng những sợi dây oan nghiệt vô hình. Sau đêm bị trói ấy, Mị mỗi ngày một tê dại đi. Mị “chỉ còn biết, còn ở với ngọn lửa”. Đêm nào, Mị cũng “thức sưởi lửa suốt đêm”. Mị và A Phủ “gặp nhau” tại nhà thống lí như một tiền định. Người con dâu gạt nợ. Người vì tội đánh con quan mà trở thành người “vay nợ, ở nợ”. Cả hai đều là con trâu, con ngựa của nhà thống lí. Mị đã bị A Sử trói đứng suốt đêm bằng một thúng sợi đay. A Phủ vì tội để hổ bắt mất một con bò mà bị Pá Tra trói vào cọc bằng một cuộn mây, “trói cho đến chết”…A Phủ bị trói đã mấy ngày đêm. Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ “mở mắt”…; thấy ngọn lửa sưởi bùng lên, A Phủ “trừng mắt”. Mị nhìn sang, rồi “thản nhiên” thổi lửa, hơ tay. Cho dù “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”.Tâm hồn Mị đã heo hắt, đã tàn lụi, đã giá lạnh và tê dại đi đến cùng cực! Thật đáng sợ!
Nhưng rồi cảnh ngộ, tình thương và lòng căm thù đã thức tỉnh ý thức Mị, tâm hồn Mị. Qua “ngọn lửa bập bùng”, Mị “lé mắt trông sang”. Mị xúc động khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm mắt xám của A Phủ. Mị nhớ lại đêm năm trước, A Sử cũng trói đứng Mị như thế. Mị khẽ thốt lên lời than: “Trời ơi!…”. Mị nguyền rủa cha con thống lí: “Chúng nó thật độc ác”. Bao cảnh thương tâm đồng hiện trong tâm hồn Mị: “Nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Mị tự thương cảnh ngộ mình, thương A Phủ trên bờ vực thẳm, khi tử thần đã gõ cửa: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị nghĩ đến thân phận mình, tưởng như là cam chịu:”Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi…”. Mị ý thức được, A Phủ không thể chết, “việc gì mà phải chết thế”. Con đường thức tỉnh của con người thức tỉnh là con đường vòng, có lục ngập ngừng do dự, có lúc quyết liệt. Mị cũng thế, Mị tưởng tượng A Phủ trốn thoát, Mị sẽ bị thế mạng trên cái cọc oan nghiệt ấy! Đám than vạc hẳn lửa. Hình như bóng tối cho Mị sức mạnh, “trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ…”.
Hành động của con người thức tỉnh là “hành động tự phủ định, hành động tự giải thoát” (J.P.Sartre), Mị đã toan ăn lá ngón để tự tử, đó là “hành động tự giải thoát”. Cắt dây trói cho A Phủ, Mị hốt hoảng nói như ra lệnh: “Đi ngay!”. Rồi Mị đứng lặng trong bóng tối. Đó là “khoảnh khắc bi kịch”. Ở lại địa ngục, là chết, chết trong đau đớn như người đàn bà nọ. Chạy trốn còn có thể sống! Mị nói liên tiếp hai câu như kêu cứu và đuổi chạy theo A Phủ: “A Phủ cho tôi đi…Ở đây thì chết mất…”. Mị và A Phủ dìu nhau cùng chạy trốn đến Phiềng Sa khu du kích. Phiềng Sa là chốn nương thân cho họ. Cách mạng và kháng chiến mới là đất hứa, đất thánh cho người thức tỉnh. Mị cắt dây trói cứu A Phủ cũng là tự cắt dây trói để giải thoát mình. Như con chim sổ lồng, Mị từ bóng tối vươn tới ánh sáng, từ nô lệ tủi nhục mà giành được tự do, hạnh phúc, cùng với A Phủ nên vợ nên chồng, rồi trở thành chiến sĩ du kích.
Mị là nhân vật thức tỉnh. Tô Hoài đã phân tích tinh tế, sâu sắc mọi biến thái về tâm lý và hành động Mị trong quá trình thức tỉnh với tất cả tình thương xót và đồng cảm sâu sắc. Mị là nhân vật thức tỉnh có sức phản kháng và sức sống tiềm tàng. Nhân vật Mị đã góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của truyện “Vợ chồng A Phủ”.
Và ta càng thấm thía về cái giá của tự do. Cái mùi vị của tự do là “cái vị ngọt ngào và có mùi tanh đồng” như Hêminguê đã nói
Câu trả lời của bạn
Nam Cao và Tô Hoài là hai cây bút xuất sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Nếu như Nam Cao đi vào khai thác đề tài người nông dân ở làng Đại Hoàng – quê hương của nhà văn, thì Tô Hoài lại rất thành công trong việc tìm đến người lao động miền núi Tây Bắc xa xôi để xây dựng nên những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Đọc Chí Phèo của Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài hẳn bạn đọc không thể quên được hai nhân vật Chí Phèo và Mị, nhất là sự hồi sinh nhân tính của họ.
“Văn chương là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”, Nam Cao và Tô Hoài đã có sự gặp gỡ, đồng điệu về tư tưởng, tình cảm. Đó chính là tiếng nói yêu thương sâu sắc của nhà văn dành cho nhân vật của mình. “Hồi sinh” có nghĩa là sống lại. “Hồi sinh nhân tính” là tính người, tình người được sống lại. Nói về sự hồi sinh nhân tính, ta đã bắt gặp sự hồi sinh ấy trong văn học trước đó, bất cứ nhân vật nào, một khi đã tha hóa, họ đều có quá trình thức tỉnh về tâm hồn, như Trương Sinh (Chuyện người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ), như Hộ (Đời thừa – Nam Cao),
… Nếu như Trương Sinh thức tỉnh sau cái chết oan uổng của vợ, thì Hộ thức tỉnh sau khi đánh đuổi vợ con vì gánh nặng cơm áo. Trương Sinh đã lập đàn giải oan cho vợ, Hộ đã khóc, giọt nước mắt của Hộ chính là bằng chứng cho sự thức tỉnh, hồi sinh nhân tính. Còn sự hồi sinh nhân tính của Chí Phèo và Mị được Nam Cao, Tô Hoài dẫn giải như thế nào?
Để lí giải sự hồi sinh nhân tính của hai nhân vật, Nam Cao và Tô Hoài đều viện dẫn đến những tác nhân tác động từ bên ngoài. Đúng vậy, phải có sự tác động thì con người ta mới có thể thức tỉnh, cũng giống như con người khi chìm vào giấc ngủ say triền miên, phải có sự tác động thì ta mới có thể tỉnh giấc. Cả Chí Phèo và Mị đều có tác nhân như vậy.
Chí hồi sinh nhân tính sau đêm gặp thị Nở. Tình người của thị Nở đã đánh thức tình người nơi Chí và chỉ có tình người ấy mới khơi dậy sự hồi sinh của Chí. Còn Mị lại thức tỉnh về nhân tính trong đêm tình mùa xuân. Nếu như Chí nhờ có tác động của con người, tình người thì Mị lại nhờ sự tác động của cảnh vật, để hồi tỉnh lại nhân tính.
Trước khi hồi sinh nhân tính, cả Chí và Mị đều có những số phận và bi kịch đau đớn giống nhau.
Chí Phèo vốn là người nông dân hiền lành, chất phác, chăm chỉ, ở thuê cho nhà bá Kiến. Vì sự ghen tuông của bá Kiến mà Chí bị đẩy vào nhà tù thực dân. Nhà tù thực dân ấy, oan trái thay, nó tiếp nhận con người khi người ta vô tội, lương thiện và trả người ta ra khi họ đã trở thành kẻ tha hóa, mất đi cả nhân hình và nhân tính. Về nhân hình, Chí là một con vật lạ với khuôn mặt “vằn dọc vằn ngang không biết bao nhiêu là sẹo”, về nhân tính, Chí là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, một kẻ chuyên rạch mặt ăn vạ và làm tay sai đòi nợ cho bá Kiến. Bi kịch đau đớn nhất của Chí Phèo là “bị từ chối quyền làm người, cha mẹ từ chối Chí, dân làng cũng từ chối Chí”. Chí rơi vào bi kịch khi không có ai đón nhận Chí trở về với cái xã hội bằng phẳng kia. Nếu như là con người thì đâu ai dám vạch mặt mình như vậy, đâu ai dám sẵn sàng đâm thuê, chém mướn, chỉ vì đồng tiền, đâu dám “đốt quán” của “bà bán rượu” nhưng Chí đã trở nên mất đi “tính người”, mất đi “nhân tính” như vậy.
Mị cũng là một cô gái xinh đẹp, tài giỏi và hiếu thảo, và Mị cũng phải chịu một số phận đau đớn không kém Chí Phèo là mấy. Mị phải trở thành “con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra”. Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái, ngồi quay sợi, thái cỏ ngựa,… lúc nào cô ấy cũng cúi mặt buồn rười rượi. Mị giống như một con rùa được nuôi trong xó cửa, sống ở nhà thống lí Pá Tra, Mị cũng như những người phụ nữ trong nhà này, làm việc tối ngày bận bịu. Nếu như Chí Phèo của Nam Cao mong muốn được giao tiếp với con người thì Mị lại không buồn giao tiếp. Mị lúc nào cũng lầm lũi, cô cũng mất đi tính người nhưng “tính người” bị mất đi ở đây khác với Chí. Nếu như Chí Phèo bị tha hóa về nhân tính, trở thành một con quỷ dữ thì Mị lại mất đi nhân tính ở chỗ cô không được coi là một con người. Sống ở nhà thống lí Pá Tra, Mị như một “con trâu, con ngựa”. Bởi con trâu, con ngựa còn có lúc nghỉ ngơi, đằng này Mị phải làm quần quật suốt cả ngày. Chính vì cuộc sống như vậy mà Mị đã trở thành một con người mất đi sức sống.
Tuy có những nét giống nhau về số phận và cuộc đời, song quá trình hồi sinh nhân tính của Chí Phèo và Mị lại rất khác nhau.
Sự hồi sinh nhân tính của Chí là sau đêm gặp thị Nở, chính tình người của thị Nở đã đánh thức “nhân tính” trong con quỷ dữ của làng Vũ Đại ấy. Thị là người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Thế nhưng, bên trong cái ngoại hình xấu xí và tính cách dở hơi của thị là một tấm lòng rất bao dung và vị tha. Sau một đêm ăn nằm với nhau, sáng hôm sau tỉnh dậy, Chí lần đầu tiên để tâm lắng tai nghe những âm thanh xung quanh mình, những âm thanh của cuộc sống và cảm thấy cuộc sống cũng thật thú vị. Và Chí thèm được làm người lương thiện. Khát vọng lương thiện ấy chính là bằng chứng cho sự hồi sinh nhân tính của Chí. Chí nhớ lại cuộc đời mình trước khi bị đẩy vào nhà tù thực dân với những ước mơ hết sức bình dị. Chí nhận ra rằng thị Nở cũng có duyên và muốn cùng thị chung sống. Chí đã mong muốn được làm người và thị Nở chính là chiếc cầu nối đưa Chí trở về với con người lương thiện.
Nhờ có tình người của thị mà Chí hồi sinh nhân tính, khao khát được sống một cuộc sống lương thiện. Với Mị sức sống hồi sinh nơi người con gái ấy là tiếng sáo vi vu gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân Tây Bắc. Mùa xuân, mùa của sức sống mãnh liệt. Mị sống trong nhà thống Pá Tra như một con người đã mất đi linh hồn. Thế nhưng, trong đêm tình mùa xuân năm ấy, khi cái lạnh tràn về, khi những thiếu nữ phơi “chiếc váy xòe như những cánh bướm của mình trên những phiến đá” và đám trẻ con chơi đùa và tiếng sáo gọi bạn tình đã bắt đầu xuất hiện. Mị dường như được sống lại với chính tâm hồn mình. Cô hồi tưởng lại quá khứ khi được cùng người yêu đi chơi trong những đêm tình mùa xuân. Cũng giống như Chí, Mị cũng hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp, khi Mị còn là người con gái đẹp có tài thổi sáo rất hay. Mị uống rượu và khi ngà ngà say, Mị bỗng nhiên nghe thấy tiếng sáo gọi bạn tình và Mị cũng muốn đi chơi. Mị muốn đi chơi như hồi còn trẻ. Mị vào góc nhà xắn thêm ít mỡ bỏ vào chiếc đèn cho sáng, với tay lấy chiếc váy. Những hành động ấy chứng tỏ rằng Mị đã thật sự hồi sinh, sức sống tiềm tàng trong con người Mị đã được sống dậy nhờ âm thanh của tiếng sáo. Cũng giống như Chí Phèo âm thanh của cuộc sống xung quanh thức tỉnh tâm hồn, đánh thức sức sống mãnh liệt của Mị. Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, ngay cả khi Mị đã bị A Sử trói chặt vào cột nhà. Mị đã thả hồn bay theo tiếng sáo của đêm tình mùa xuân. Mị vô thức, Mị không cảm thấy đau đớn vì lúc này sự hồi sinh nhân tính của Mị rất mạnh mẽ.
Chí Phèo và Mị đều được hồi sinh nhân tính. Sự hồi sinh ấy cho ta thấy cái nhìn nhân đạo của Nam Cao và Tô Hoài. Phải thực sự yêu thương cảm thông với nhân vật của mình, hai nhà văn mới có thể để cho họ hồi sinh nhân tính như vậy. Với Chí Phèo là trở về với cuộc sống lương thiện, còn với Mị là được bộc lộ sức sống tiềm tàng của cô. Cả Nam Cao và Tô Hoài đều rất xót thương, đồng cảm cho số phận của Chí Phèo và Mị, trân trọng những ước mơ bình dị của họ. Mặt khác, từ sự hồi sinh về nhân tính của Chí Phèo và Mị, họ đã nói lên tiếng nói phê phán gay gắt những thế lực chà đạp lên số phận của con người bất hạnh ấy. Cái xã hội với những tàn dư phong kiến, bá Kiến đã đẩy Chí vào sự tha hóa. Và những hủ tục cổ hủ của miền núi với kẻ thông trị gian ác, tham lam như thống lí Pá Tra đã cướp sạch, bào mòn sức sống của Mị.
Mặt dù, viết về những đề tài khác nhau, nhưng cuộc đời và số phận của các nhân vật đều là sự trải nghiệm, dày công tìm tòi của các nhà văn. Thông qua các nhân vật của mình nhà văn muốn nói lên tiếng lòng, sự cảm thương cho số phận của họ. Đó chính là những giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Gấp lại hai truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, ta có thể nhận thấy sự hồi sinh nhân tính đưa hai nhân vật đến với những cuộc sống mới khác nhau nhưng giá trị của sự hồi sinh ấy lại có một giá trị hết sức giống nhau, nó phản ánh tiếng lòng của Nam Cao và Tô Hoài dành cho nhân vật Chí Phèo và Mị, những con người có số phận rất đáng thương xót.
Câu trả lời của bạn
Tô Hoài là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sáng tác của ông thường đầy ắp các chất liệu của đời sống hiện thực. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về đời sống và phong tục tập quán của nhiều vùng trên đất nước ta, trong đó có vùng đất Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “Truyện Tây Bắc” là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Tô Hoài viết về vùng đất này. Truyện được ra đời sau một chuyến đi kéo dài nhiều tháng khi Tô Hoài cùng bộ đội lên giải phóng Tây Bắc năm 1952. Cuộc sống, con người và phong cảnh nơi đây đã để lại trong ông nhiều tình cảm đặc biệt sâu sắc. Nó trở thành nguồn cảm hứng chủ yếu để ông viết nên truyện ngắn này.
“Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện viết về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tối tăm vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do. Nó đã khắc họa chân thực những nét riêng biệt về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn người dân, các dân tộc thiểu số bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu chất tạo hình, vừa giàu chất thơ. Truyện ngắn đã để lại rất nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Có ý kiến cho rằng: “ Qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã dựng lên một bức tranh hiện thực về đời sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc, đồng thời nhà văn chỉ ra con đường giải phóng cho người lao động có cuộc đời tăm tối và số phận bi thảm”.
Đúng vậy, ý kiến đó đã phản ánh một cách chân thực về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Ý kiến “Tô Hoài đã dựng lên một bức tranh hiện thực về đời sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc” chỉ là một khía cạnh nhỏ trong giá trị hiện thực của tác phẩm. Nhưng nó đã cho thấy rõ nét cái tàn bạo, độc ác của bọn chúa đất, bọn thực dân (cha con Thống lí Pá Tra). Đồng thời cũng cho thấy cái số phận, nỗi thống khổ của người dân khi phải sống dưới ách thống trị của chúng (nhân vật Mị và A Phủ).
Trước hết, đối với nhân vật Mị, mở đầu tác phẩm, tác giả đã miêu tả hình dáng người con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Một cô gái cô độc, âm thầm, gần như lẫn vào các sự vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa, … trong khung cảnh đông đúc, tấp nập của nhà quan Thống lí. Là con dâu của một gia đình quyền thế có “nhiều nương ngô, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”, vậy tạo sao lúc nào cô ấy cũng buồn? Tác giả đã tạo ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt người đọc cùng tìm hiểu số phận của nhân vật Mị trong truyện.
Mị là một cô gái có nhiều thiệt thòi. Cô là con gái lớn trong một gia đình nghèo ở vùng cao Tây Bắc, mồ côi mẹ từ nhỏ, lớn lên trong vòng tay che chở của cha. Khi lớn lên, Mị trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, một bông hoa của núi rừng, đã làm say lòng bao chàng trai Tây Bắc: “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Mị có tài thổi sáo bằng lá, thổi kèn lá hay như thổi sáo, khiến cho trai làng “ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Là một cô gái toàn vẹn cả sắc lẫn tài như vậy, lẽ ra cô phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Nhưng vì nhà nghèo nên cô không được sống như mong ước. Vì món nợ từ thời cha mẹ để lại, cô bị lừa và bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra. Ban đầu cô phản kháng: “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Mị đã định ăn lá ngón tự tử. Trước khi chết cô đã về lạy cha, nhưng lời kêu van thống thiết của người cha già đã khiến Mị phải nuốt nỗi cay đắng, tủi nhục vào lòng, đành quay trở lại nhà Thống lí. Thương người cha già, Mị không còn ý định tự tử nữa.
Quãng đời của Mị sống với A Sử là những ngày vất vả, đau khổ. Cuộc sống của cô ngày càng đau khổ, ngày càng vất vả, nghiệt ngã. Mị đã trở thành nô lệ, bị chiếm đoạt sức lao động, nhan sắc và cuộc đời. Mị như một công cụ lao động cho nhà Thống lí Pá Tra. Cuộc sống của Mị gắn chặt với các sự vật vô tri. Càng ngày Mị càng ít nói “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Bây giờ Mị không nghĩ đến chuyện chết nữa vì đã quen với cái khổ rồi và cho rằng mình còn sống mà như đã chết, bởi cuộc sống chẳng còn nghĩa lý. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cái ác của bọn Thống lý đã giết chết phần tốt đẹp trong con người Mị. Mị bị đày đọa đến mức tinh thần phản kháng cũng dần tê liệt. Tiếng thở dài của cô thể hiện thái độ buông xuôi, phó mặc cho số phận. “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa…”. Con trâu, con ngựa nhà giàu đêm còn được nghỉ, còn cô không lúc nào ngớt việc.
Bị biến thành một thứ công cụ lao động là nỗi cực nhục mà Mị phải chấp nhận và chịu đựng. Những sự ê chề của kiếp sống nô lệ chưa dừng lại ở đó, Mị còn phải chịu sự cầm tù kéo dài về tinh thần. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay…”. Cô sống vô cảm, chai lì, không còn ý thức về khổ đau, thời gian, tình yêu, khát vọng và cuộc sống. Đã bao năm rồi, Mị không biết đến mùa xuân, không đi chơi tết. Đó là cuộc sống chết về tinh thần, sống như một cái xác không hồn ở chốn địa ngục, trần gian. Nó đã gieo vào lòng người đọc sự cảm thông, thương xót.
Sự bất công, tàn bạo của bọn chúa đất, thực dân (tiêu biểu là cha con Thống lí Pá Tra) không chỉ dừng lại ở nhân vật Mị, qua diễn biến tâm trạng Mị, sự đau khổ về thể xác và tinh thần, mà còn xuất hiện khi nhà văn Tô Hoài miêu tả nhân vật A Phủ qua các hành động.
Cũng như Mị, A Phủ có một số phận đặc biệt. Từ nhỏ đã là cậu bé mồ côi. Trận dịch đầu mùa đã cướp đi của cậu tất cả: cha mẹ, người thân, nhà cửa… A Phủ đã từng bị bắt cóc, đem xuống núi bán đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới 10 tuổi nhưng A Phủ không thích ở dưới cánh đồng thấp, cậu cố tìm cách trốn thoát rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ trở thành một thanh niên khỏe mạnh, có sức sống mạnh mẽ, cách ham sống tự do, có tài năng lao động đáng quý: đục lưỡi cày, đục cuốc, cày giỏi, săn bò tót giỏi. Con gái trong làng nhiều cô mê.
Cuộc sống hoang dã cùng hoàn cảnh sống cực nhọc, vất vả đã hun đúc A Phủ trở thành một chàng trai có tính cách mạnh mẽ, gan góc, can đảm và nghĩa khí. Mùa xuân, thanh niên đi chơi quay, thổi sáo. A phủ cũng đi chơi. A Sử đến phá quấy bị A Phủ ném quay vào mặt và bị đánh tới tấp khiến cho A Sử bị thương. Hành động nhanh, dồn dập thể hiện tính cách mạnh mẽ, gan góc và khát vọng tự do quyết liệt của A Phủ.
A Phủ đã phải trả giá rất đắt cho hành động táo tợn của mình. Trận đánh ấy đã mở đầu cho một chặng đường khổ sở tột cùng trong cuộc đời A Phủ. Anh bị Thống lí Pá Tra bắt, đánh đập và phạt vạ.
Nhà văn Tô Hoài tỏ ra rất sắc sảo trong việc miêu tả con người và cuộc sống vùng cao. Cha con tên Thống lí cùng lũ tay sai là hiện thân của giai cấp thống trị tàn ác, vô nhân đạo. Cuộc xử kiện tại nhà Thống lí Pá Tra diễn ra trong khói thuốc mù mịt kéo dài suốt mấy ngày đêm. Cứ mỗi đợt chúng hút xong, A Phủ lại phải quỳ ra giữa nhà để lũ tay sai của tên Thống lí xông đến đánh. “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. A Phủ bị đánh đập tàn nhẫn nhưng chỉ quỳ im như tượng đá. A Phủ phải chịu phạt 100 đồng bạc, được Pá Tra cho vay và ở lại nhà Pá Tra làm thuê trừ nợ. Hủ tục, pháp lý nằm trong tay bọn chúa đất. Đây là cảnh xử kiện quái đản, lạ lùng. Tác giả vừa tố cáo tội ác dã man của bọn Thống lí Pá Tra vừa nói lên tình cảnh khốn khổ của những người dân.
Qua giá trị hiện thực của tác phẩm (cuộc đời, số phận của nhân vật Mị và A Phủ) nhà văn Tô Hoài đã thể hiện giá trị nhân đạo sâu xa. Nhà văn đã chỉ ra con đường giải phóng cho người lao động có cuộc đời tăm tối, số phận bi thảm. Con đường ấy được thể hiện rõ nét qua diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân và hành động Mị cởi trói cho A Phủ, cùng A Phủ trốn thoát.
Là con dâu trong nhà Thống lí Pá Tra bị đày đọa, bóc lột sức lao động, cầm tù về tinh thần nhưng từ sâu trong lòng Mị vẫn ấp ủ một ngọn lửa khát vọng sống, tự do, chỉ chờ cơ hội là trỗi dậy mạnh mẽ. Sự hồi sinh của nhân vật Mị được tác giả miêu tả sâu sắc và tinh tế. Những yếu tố bên ngoài tác động vào tâm lí nhân vật như khung cảnh mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình,… đã thức tỉnh tất cả cảm xúc của Mị: căm ghét sự bất công, tàn bạo, khao khát một cuộc sống tự do, hạnh phúc.
Mùa xuân đến với Hồng Ngài. Một mùa xuân hiện ra với màu sắc, âm thanh: tiếng sáo, tiếng khèn,… Cái không khí nồng nàn của mùa xuân như được tăng thêm bởi bữa rượu ngày Tết ở nhà Thống lí với tiếng chuông đánh ầm ĩ,… “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Mị đang sống trong một trạng thái khác thường. Men rượu làm cho Mị lâng lâng say, nhưng tâm hồn cô thì từ từ thức tỉnh. Cái cách uống rượu “ực từng bát” khiến ta nghĩ như thể Mị đang cố uống cạn những cay đắng, uất hận của phần đời đã qua. Hơi men của rượu đã đưa tâm hồn Mị đi theo tiếng sáo, nó khiến cô nhớ lại những kỉ niệm đẹp của thời con gái,…
Nhớ lại quá khứ có nghĩa là Mị đã thoát ra khỏi tình trạng sống mà như đã chết. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra mình còn trẻ lắm và cô muốn đi chơi. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén, giờ đây trỗi dậy mạnh mẽ, không gì ngăn nổi.
Xuất hiện trong tâm trí Mị đầu tiên là một ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thật. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay,…”. Nghịch lý trên cho thấy khi niềm khao khát sống được khơi lên, nó sẽ trở thành một mãnh lực xung đột gay gắt với trạng thái vô nghĩa của thực tại. Mị đã ý thức được thực tại của mình. Đó là biểu hiện của lòng khát khao sống mãnh liệt.
Trong khi đó, tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, mời gọi. Tiếng sáo là biểu tượng về khát vọng tình yêu. Tiếng sáo được miêu tả song hành với diễn biến tâm trạng Mị. Nó chính là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa vẫn đang cháy âm ỉ trong lòng cô gái khao khát tình yêu. Tiếng sáo đầy ám ảnh đã nhập vào thế giới tâm hồn Mị. Giờ đây tâm hồn Mị đang rập rờn tiếng sáo.
Sức sống trỗi dậy trong tâm hồn Mị như những đợt sóng ào ạt. Hành động Mị vào phòng lấy mỡ thắp nến cho sáng có nghĩa là Mị đang soi sáng tâm hồn mình để tìm lối thoát. Con người đích thực trong Mị đã sống lại, hòa lẫn với con người thực tại khiến tâm hồn cô chập chờn bất định. Dường như không đếm xỉa gì đến những xiềng xích tàn bạo của nhà Thống lí Pá Tra, Mị hành động như một con người tự do theo suy nghĩ, cảm xúc của mình. Cô quấn lại tóc, rút cái váy hoa trên vách, sửa soạn đi chơi Tết.
Giữa lúc khát vọng sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là lúc nó bị vùi dập phũ phàng nhất. A Sử trói đứng Mị vào cột nhà khiến cô không thể cúi, nghiêng đầu được. A Sử chỉ trói được thể xác của Mị, nhưng không trói được tâm hồn của Mị. “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm hồn Mị vẫn đi theo tiếng sáo và quên nỗi đau thể xác. Đến khi cô muốn “vùng bước đi” thì mới biết mình đang bị trói, tay chân đau nhức, Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Nhưng vào khuya, cô lại quên ngay hiện tại và bồi hồi sống lại cùng tiếng sáo. Mị “lúc mê, lúc tỉnh” cho đến khi trời tang tảng sáng lúc nào cũng không biết. Mị bàng hoàng tỉnh và thấy im ắng, không biết có chuyện gì xảy ra nữa. Mị chợt nhớ lại câu chuyện mà người ta hay kể ở nhà Thống lí Pá Tra, ngày xưa có một người vợ chết vì bị chồng trói trong nhà ba ngày. Nghĩ thế, Mị sợ lắm. Cô còn thử cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Mị đã thức tỉnh và khao khát được sống.
Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị bên cạnh tình huống đầy bi kịch: khát vọng sống mãnh liệt và hiện thực phũ phàng, nhưng sức sống của Mị lại càng dữ dội hơn. Nhà văn muốn khẳng định con người có sức sống mãnh liệt cho dù bị đày dọa, dẫm đạp đến thế nào.
Phản ứng của Mị chưa thể giải phóng được cuộc đời Mị, đem đến cho Mị một cuộc sống tự do, hạnh phúc. Mị chỉ thực sự được giải thoát khi cô có hành động cởi trói cho A Phủ.
Từ khi đi ở trừ nợ cho nhà quan Thống lí Pá Tra, A Phủ làm “phăng phăng”, việc gì cũng làm tốt cả. Nhưng sơ ý, vì mải mê bẫy nhím nên hổ đã bắt mất một con bò. A phủ không trốn tránh trách nhiệm mà đã dũng cảm nhận lỗi và xin Pá Tra cho mượn súng để đi bắn hổ nhưng bị từ chối. Suốt mấy ngày đêm, anh bị cha con Thống lí Pá Tra trói đứng vào một cây cột trong góc nhà chờ chết. Người con trai dũng mãnh ấy đã lâm vào tình cảnh tuyệt vọng. Nhưng cuộc sống của anh chưa hẳn đã dừng lại tại đây. A Phủ đã được Mị cắt dây cởi trói và cứu thoát.
Ban đầu chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, Mị vẫn hoàn toàn vô cảm “thản nhiên ngồi thổi lửa, hơ tay”. Nhưng vào một đêm Mị tỉnh dậy sưởi lửa, cô nhìn thấy một dòng nước mắt chảy trên má A Phủ đen và xám lại. Lúc đó, cô mới nhận ra mình bởi cô cũng đã phải chịu đựng những khổ sở, cay đắng như thế. Cô cảm thấy thương A Phủ, cảm nhận được sự tàn ác của nhà Thống lí Pá Tra. “ Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết…”. “Chúng nó thật độc ác…”. “Người kia việc gì mà phải chết thế”. Mị nhớ lại đời mình, lại tưởng tượng cảnh A Phủ tự trốn thoát,… Nghĩ thế, “Mị cũng không thấy sợ….”. Lòng thương người đã cho cô dũng cảm để cắt dây cởi trói cho A Phủ. Ban đầu, cô sợ mình phải đứng thế vào chỗ đó và “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Nhưng sức sống mãnh liệt đã khiến cô có đủ dũng cảm chạy theo A Phủ, trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa và giác ngộ cách mạng. Hành động của Mị hoàn toàn là tự phát. Cô cởi trói cho A Phủ cũng chính là giải thoát cho cuộc đời mình. Đó là quy luật tất yếu của nhận thức “tức nước vỡ bờ”.
Mị là một cô gái trẻ đẹp, bị đẩy vào hoàn cảnh bi đát, phải sống triền miên trong đau khổ khiến cô dần tê liệt. Nhưng trong Mị vẫn tiềm tàng về sức sống, nó đã thức dậy và giúp cô có hành động táo bạo giải thoát cho cuộc đời mình. Cô có đời sống nội tâm âm thầm nhưng mạnh mẽ.
Qua việc miêu tả số phận và cuộc đời của nhân vật Mị và A Phủ, cách kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn; ngôn ngữ hồn nhiên, giàu hình ảnh; nghệ thuật xây dựng nhân vật, phân tích tâm lý tinh tế, miêu tả phong tục tập quán đặc sắc… Nhà văn Tô Hoài đã làm sống lại quãng đời tăm tối, tủi cực của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất, thực dân phong kiến. Đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, không bị hủy diệt của những người dân nô lệ. Tác giả khẳng định: chỉ có sự vùng dậy của chính họ thì mới dẫn tới cuộc đời tươi sáng. Đó là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
Câu trả lời của bạn
Từ xưa đến nay hình ảnh người phụ nữ đã được xem là cảm hứng bất tận cho các tác phẩm thơ ca nhạc họa. Chủ đề người phụ nữ đã làm tốn không ít giấy mực của các nhà văn nghệ sĩ. Nhiều người đã khắc họa rất thành công hình tượng người phụ nữ trong số đó phải kể đến nhà văn Tô Hoài. Ông đã xây dựng rất thành công hình ảnh người phụ nữ Tây Bắc thông qua nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
Truyện ngắn “Vợ Chồng A phủ” được trích trong tập Truyện ngắn Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm đã khắc họa xuất sắc hình tượng nhân vật Mị tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Tây Bắc chịu thương chịu khó bao đời nay.
Từ xưa đến nay hình ảnh người phụ nữ đã được xem là cảm hứng bất tận cho các tác phẩm thơ ca nhạc họa. Chủ đề người phụ nữ đã làm tốn không ít giấy mực của các nhà văn nghệ sĩ. Nhiều người đã khắc họa rất thành công hình tượng người phụ nữ trong số đó phải kể đến nhà văn Tô Hoài. Ông đã xây dựng rất thành công hình ảnh người phụ nữ Tây Bắc thông qua nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
Truyện ngắn “Vợ Chồng A phủ” được trích trong tập Truyện ngắn Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm đã khắc họa xuất sắc hình tượng nhân vật Mị tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Tây Bắc chịu thương chịu khó bao đời nay.
Câu trả lời của bạn
Tô Hoài và Nguyễn Trung Thành đều là những cây bút văn xuôi tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam sau năm 1945. Nếu Tô Hoài rất sở trường với hiện thực cuộc sống của người dân miền núi Tây Bắc thì Nguyễn Trung Thành lại gắn bó máu thịt với mảnh đất Tây Nguyên trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Nếu nói đến Tô Hoài, không thể quên truyện ngắn Vợ chồng A Phủ – một truyện ngắn xuất sắc viết về cuộc sống của những người dân Tây Bắc dưới chế độ phong kiến, thực dân, thì nhắc đến Nguyễn Trung Thành là phải nói đến Rừng xà nu – một “Đất nước đứng lên” của thời đánh Mĩ. Đặt hai nhân vật A Phủ (Vợ chồng A Phủ) và Tnú (Rừng xà nu) bên cạnh nhau, ta sẽ thấy rất nhiều ý nghĩa trong những nét tương đồng và khác biệt giữa họ.
A Phủ và Tnú tuy được xây dựng trong hai tác phẩm của hai tác giả ở hai thời kì khác nhau, ở hai miền đất khác nhau, nhưng đều là những con người miền núi. Một người thuộc dân tộc Mèo ở vùng Tây Bắc nên thơ (A Phủ), một người thuộc dân tộc Strá ở vùng Tây Nguyên hùng vĩ (Tnú). Cả hai đều mồ côi cha mẹ từ thuở ấu thơ, mang dáng dấp những đứa con côi trong cổ tích. A Phủ và Tnú đều sớm dạn dày, gan góc bởi hoàn cảnh sống đầy thử thách. Có nét gì chung rất dễ nhận ra ở hai con người cách nhau hàng ngàn cây số: đó là sự mạnh mẽ về thể chất và tinh thần. A Phủ đã dám đánh cả con quan, để rồi kiên gan chịu đựng những trận đòn báo thù khủng khiếp. Tnú thì thuở ấu thơ đã dám ra rừng đem gạo nuôi cán bộ, bị bắt, bị chém ngang dọc trên bụng trên lưng vẫn không hé răng khai báo nơi ở của cán bộ, bị đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa xà nu vẫn cắn mồi đến bật máu để chịu đựng. Hai người chịu hai kiểu hành hạ, hài kiểu cực hình khác nhau, nhưng ta đều thấy ở họ sự chịu đựng phi thường.
Cả A Phủ và Tnú đều là những con người luôn hướng về ánh sáng. Tnú bắt gặp lí tưởng cách mạng được truyền từ anh Quyết, cán bộ của Đảng hoạt động bí mật, Tnú giống như cây xà nu tiếp ánh sáng mặt trời để không ngừng vươn toả lên bầu trời tự do. A Phủ cũng lao khỏi bóng tối ở Hồng Ngài, chạy hàng tháng trời trong rừng để đến Phiềng Sa – khu du kích, rồi sau đó gặp cán bộ, được giác ngộ, trở thành đội trưởng đội du kích. Phẩm chất cách mạng ở những người dân miền núi trong hoàn cảnh ngặt nghèo đã được hai nhà văn thể hiện rất sinh động.
Hai nhân vật ở hai vùng đất khác nhau, thuộc hai tộc người khác nhau, nhưng ta vẫn thấy ở họ có nét nào đó tương đồng trong tính cách. Ngoài sự cứng cỏi, gan góc, A Phủ và Tnú đều rất lặng lẽ, ít nói. Họ thuộc loại nhân vật hành động. Ấn tượng sâu nhất mà người đọc có được về hai nhân vật này là những hành động của họ. Với A Phủ, đó là hành động đánh con quan, hành động đi săn thú rừng, vác cả con bò bị hổ ăn mất một phần, làm bất cứ việc nặng nhọc nào trong nhà thống lí… Nó cho thấy sức mạnh thể chất của một con người. với Tnú, đó là hành động mang gạo ra rừng nuôi cán bộ, đi một mình lên núi cao ba ngày để mang đá trắng về làm phấn học chữ, lấy đá tự đập vào đầu khiến máu chảy ròng ròng khi học chữ không vào, cùng dân làng thức mài vũ khí hằng đêm để chuẩn bị chiến đấu, bóp chết tên đồn trưởng của giặc bằng hai bàn tay thương tích…
Bên cạnh nhiều điểm tương đồng, A Phủ và Tnú còn có những nét riêng, độc đáo, thể hiện khả năng cá biệt hoá của hai nhà văn. Điều này thể hiện đầy đủ qua số phận riêng của từng nhân vật.
Phủ hiện ra qua những trang truyện của Tô Hoài là một chàng trai mang trong mình những phẩm chất đáng quý. A Phủ lao động giỏi, có thể đúc lưỡi cày hoặc làm bất cứ việc gì. Thế nhưng, dù giỏi giang như vậy, rốt cuộc A Phủ cũng chỉ an phận làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày. Mặc cho bao nhiêu con gái trong bản ước ao có được A Phủ, chàng trai nghèo này không bao giờ dám mong có được một tổ ấm hạnh phúc gia đình. Một nét nổi bật của A Phủ là sự mạnh mẽ và phóng túng. Không bị trói buộc bởi mặc cảm nghèo hèn, A Phủ vẫn hoà mình vào những cuộc hẹn trong đêm tình mùa xuân như bao nhiêu trai gái trong bản. Cũng bởi tính cách mạnh mẽ, không chấp nhận sự ngang ngược vô lý của kẻ quyền thế, A Phủ dám đánh cả con quan. Có thể đây chỉ là hành động bột phát, tức thời, nhưng nó cũng cho thấy cái sức mạnh thể chất và tinh thần của một con người.
Cũng vì hành động liều lĩnh ấy mà A Phủ phải chịu đựng biết bao nhiêu đau khổ cả về thể chất lẫn tinh thần. Trước hết là những trận đòn báo thù độc ác. Bọn người nhà thống lí trói A Phủ, đưa về, đánh chửi tàn nhẫn mấy ngày liền, khiến cho mặt mày sưng lên như mặt hổ phù. Không dừng lại ở đó, chúng còn muốn tước đoạt quyền sống của một người tự do bằng cách bắt A Phủ phải nộp một trăm đồng bạc trắng để ăn vạ. Số tiền đó là một đời A Phủ nằm mơ cũng không thấy. Buộc A Phủ vay tiền để nộp vạ, thực chất, thống lí Pá Tra đã sử dụng một thủ đoạn quen thuộc: dùng những đồng tiền nợ để trói buộc số phận con người. Hãy nghe lời tuyên án: "Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Với A Phủ, đó là bản án chung thân.
Đi ở trừ nợ có nghĩa là phải chấp nhận thân phận của kẻ nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Với sự hỗ trợ của thần quyền, chúng tước đoạt hoàn toàn ý thức về sự tự do tối thiểu của con người. Đã làm kiếp con ở trừ nợ, A Phủ không hề có ý định bỏ trốn, dù đó là việc nằm trong tầm tay. Dường như có sợi dây trói vô hình siết chặt, khiến A Phủ chấp nhận số phận mình như một lẽ đương nhiên.
Nỗi đau khổ ghê gớm nhất của A Phủ thể hiện qua việc chịu đựng hình phạt của thống lí Pá Tra. Mải đi săn nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra áp dụng hình phạt mà hắn quen dùng: trói đứng vào cột cho đến chết. Theo lệnh thống lí, A Phủ lặng lẽ đi lấy cọc, tự tay chôn cọc, lấy dây rồi ngoan ngoãn đứng vào bên cọc để thống lý thực hiện hành động trừng phạt. Không một sự phản kháng, không có sự vùng vằng chống đối. Con người mạnh mẽ, từng dùng cả con quay bằng gỗ ngát đánh vào mặt con quan giờ đây chỉ là một kẻ nô lệ mà sự sống chết hoàn toàn bị định đoạt bởi bàn tay của chủ. Hành động trừng phạt A Phủ không chỉ cho thấy sự tàn bạo của những kẻ thống trị, mà quan trọng hơn, nó thể hiện sâu sắc bi kịch của những con người bị áp bức. Đó không chỉ là nỗi đau về thể xác, mà còn là nỗi thống khổ khôn cùng về tinh thần. Sợi dây trói và thái độ của A Phủ ở đây có tính chất như một biểu tượng. Nó giúp người đọc hiểu rằng: sợi dây trói vật chất thì có thể cắt đứt bằng dao, nhưng sợi dây trói tinh thần thì vô cùng bền chặt. Sợi dây ấy chỉ có thể bị chặt đứt bằng sự giác ngộ về quyền làm người của mỗi cá nhân mà thôi.
Xây dựng nhân vật Tnú trong truyện Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành tô đậm hai nét cơ bản trong tính cách của Tnú: sự gan góc, dũng cảm và đời sống tình cảm phong phú. Thuở ấu thơ, sống trong sự đùm bọc của dân làng, Tnú đã tỏ ra gan góc đến liều lĩnh. Không gì có thể khiến Tnú run sợ. Chính điều đó đã phát triển thành phẩm chất dũng cảm vô song của Tnú lúc trưởng thành. Vượt ngục trở về, Tnú thực hiện ngay hai điều anh Quyết dặn lại trước lúc hi sinh: thay anh làm cán bộ và cất giữ vũ khí để có lúc dùng đến. Làm cán bộ của Đảng và mài vũ khí để cất giữ chẳng khác nào thách thức sự truy diệt của kẻ thù. Với lòng dũng cảm, Tnú đã đối mặt với thử thách ghê gớm này. Ấy là khi anh bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay bằng giẻ tấm nhựa xà nu. Là con người bằng xương bằng thịt, Tnú cũng đau đớn đến cháy ruột cháy gan, nhưng anh không thèm kêu. Anh đã giữ vững dũng khí của một người cách mạng, để người dân Xô Man nhìn vào anh mà hiểu rằng, kẻ thù dù tàn bạo đến đâu cũng không thể dập tắt tinh thần quật cường của họ.
Con người dũng cảm, cứng cỏi như sắt đá ấy cũng là một người rất giàu tình cảm. Tình cảm phong phú, đẹp đẽ của Tnú được thể hiện trước hết trong quan hệ với Mai. Từ nhỏ, Tnú và Mai đã bên nhau trong lúc vui cũng như lúc buồn, từng cùng nhau mang gạo ra rừng tiếp tế cho cán bộ, từng chụm đầu bên nhau để học những con chữ đầu đời. Vượt ngục trở về, người mà Tnú gặp đầu tiên lại cũng là Mai. Tình yêu trong sáng, thắm thiết giữa đôi trai gái tự do, phóng khoáng của núi rừng Tây Nguyên đã cho kết quả là một gia đình hạnh phúc với đứa con trai đầu lòng. Tình cảm của Tnú đối với Mai và con đã trải qua những thử thách ghê gớm. Đó là lúc Tnú phải chứng kiến cảnh Mai và con bị đánh bằng roi sắt hết sức dã man, để rồi anh phải nhảy xổ ra giữa lũ giặc khi trong tay không một tấc sắt. Đó là đêm về thăm làng, bên bếp lửa xà nu tại nhà cụ Mết, hình ảnh Mai lại hiện lên rõ nét trong tâm trí anh, đến mức, thoạt nhìn thấy Dít, anh ngỡ đó là Mai.
Tình cảm riêng tư của Tnú hoà quyện đẹp đẽ với tình yêu quê hương. Đi chiến đấu ở chiến trường xa, anh xin về dù chỉ một đêm thôi để được nhìn thấy những khuôn mặt thân thương, để được sống trong không khí ấm áp, để được nghe lại câu chuyện huyền thoại của làng mình.
Như vậy, A Phủ và Tnú, bên cạnh những nét tương đồng, mỗi nhân vật còn có những nét cá biệt, thể hiện tài năng sáng tạo của hai nhà văn. Nhờ đó, nền văn xuôi của chúng ta vừa có sự thống nhất, vừa có sự phong phú.
Câu trả lời của bạn
Lên Tây Bắc ngắm nhìn cảnh sắc núi non điệp trùng, mây cuộn mình trong sương, sương giăng mờ đỉnh núi. Đất trời ưu ái cho Tây Bắc vẻ đẹp miên viễn như huyền thoại, như thi ca. Nhưng ai biết đâu Tây Bắc cũng từng có những ngày chìm trong đêm đen của xã hội phong kiến – thực dân bao phủ. Cái xã hội ấy thật tàn bạo bởi nó đã bóp nghẹt sự sống của con người, tước đoạt ước mơ, giết chết khát vọng. Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là một điển hình.
Tô Hoài là nhà văn có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của đồng bào miền núi cao Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” (1952) chính là “món nợ ân tình” mà Tô Hoài phải trả cho đồng bào nơi đây bởi họ sống ân nghĩa ân tình quá đỗi, Tô Hoài không thể nào quên. Tác phẩm viết về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên đi tìm cuộc sống tự do. Trong truyện, cô Mị là một nhân vật đầy ám ảnh. Hoàn cảnh khốn khổ và tâm lý biến đổi theo thời gian của Mị để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người, đặc biệt là khi cô Mị “Ở lâu trong cái khổ” và từ trong “cái khổ” mà “phơi phới trở lại”, qua đây người đọc nhận ra tư tưởng nhân đạo cao quý của Tô Hoài gửi gắm trong thiên truyện.
Mỗi nhà văn đều có một tạng riêng. Nếu Nam Cao để lại dấu ấn trong lòng người bằng tiếng kêu thống thiết của kiếp người lầm than, đói khổ lay lắt, bị bần cùng hóa, tư sản hóa mà ra; Thạch Lam gây ấn tượng bởi giọng trữ tình đượm buồn nhưng sâu xa, ý nhị về những miền đời bị xã hội bỏ quên; Nguyễn Tuân với câu từ trau chuốt, tỉ mỉ, hình ảnh góp nhặt từ một thời đại nào xa xưa lắm lung linh rực rỡ “đẹp đến toàn thiện toàn mỹ” trên trang văn… thì văn phong Tô Hoài nhẹ nhàng, không lên gân, không “ngùn ngụt sát khí” nhưng đủ sức bóp nghẹt tâm can người đọc, khiến người đọc rưng rưng nước mắt khi cám cảnh cùng cực của kẻ bất hạnh, sống mỏi mòn nhưng không buông xuôi thụ động như nhân vật trong cổ tích. Mị trong “Vợ chồng A Phủ” là cô gái vừa xinh đẹp như bông hoa rừng lại vừa tài hoa, hiếu thảo. Với những phẩm chất tốt đẹp mà Mị có, nếu sống trong một xã hội bình thường chắc chắn Mị sẽ được sống những tháng ngày an yên, hạnh phúc.
Nhưng không, vì nghèo, vì món nợ ngày xưa bố mẹ Mị vay nhà thống lí Pá Tra cùng với phong tục hôn nhân kì lạ của người Mông mà Mị trở thành “con dâu gạt nợ” nhà thống lí, vợ của A Sử. Trên danh nghĩa là dâu, nhưng thực tế Mị lại là con ở không công nhà thống lí. Tại ngôi nhà quyền lực mà u ám này, Mị bị bóc lột sức lao động, bị đầu độc tâm hồn bởi thần quyền và cường quyền, dần dần Mị đã đánh mất chính mình, cô gái xinh đẹp yêu đời năm nào phải ngậm ngùi sống kiếp người đội lốt “con rùa nuôi trong xó cửa”.
Về làm vợ A Sử, con dâu thống lí Pá Tra ít lâu, Mị đã quen dần với cái khổ, từ một cô gái tràn đầy sức sống, khao khát yêu thương bỗng chai sạn tâm hồn, mất nhận thức về thời gian, không gian, cả nỗi khổ mà mình đang gánh chịu. Ở đoạn văn thứ nhất, Tô Hoài đưa người đọc vào không gian mà cô Mị đang sống: khổ cực, tăm tối. Ngay từ những dòng văn đầu, nhà văn đã để lại ấn tượng về khoảng thời gian mà Mị đã sống trong nhà thống lí: “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau”, chỉ mấy năm thôi nhưng chắc là lâu lắm. Đó là quãng thời gian mà Mị nếm trải khổ đau, nếm trải sự xói mòn trong tâm hồn của mình. “Mấy năm” là bao nhiêu năm? Bao nhiêu năm đã chầm chậm trôi qua mà Mị không hề nhớ rõ bởi bấy giờ Mị có còn biết khổ đau, bất hạnh, cơ cực là gì nữa đâu? Cái khoảng thời gian không xác định ấy tưởng chỉ mang tính chất giới thiệu thôi mà ngẫm lại đớn đau khó tả. Hóa ra Mị đã về làm dâu nhà thống lí “Mấy năm” rồi, “bố Mị” – người thân duy nhất của Mị cũng đã bỏ Mị mà đi, còn Mị thì đương sống trong tình trạng sống không ra sống mà chết thì Mị chưa nghĩ đến. Nếu ngày trước Mị đã từng có ý định ăn lá ngón tự tử vì không chịu đựng được nỗi khổ đau thì giờ phút này “Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Lá ngón – một loài lá độc mọc dại ở miền núi cao Tây Bắc – khi đi vào văn chương lại trở thành một chi tiết nghệ thuật nói lên thật nhiều thân phận con người.
Phải khổ đau, uất ức lắm người ta mới tìm đến lá ngón để mưu sinh. Lúc trước Mị định ăn lá ngón để chết, để khỏi phải đối mặt với những cơ khổ và bạo tàn nhà thống lí Pá Tra. Khi Mị muốn chết là lúc khát vọng được sống đúng nghĩa dâng trào. Còn bây giờ… “Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”, nghĩa là Mị chấp nhận khổ đau, cam chịu cảnh sống cực hơn là chết nhà thống lí. Mị không muốn chết bởi Mị đã chai lì, bởi Mị đã “quen khổ rồi”. Môi trường độc địa ấy đã ngấm vào trong Mị, cái khổ đã đồng hóa Mị, khiến Mị quen dần và không một biểu hiện phản kháng. Ngay cả Mị cũng “tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, câu văn chất chứa nỗi xót xa cùng cực của Tô Hoài dành cho nhân vật của mình. Thân phận của Mị chẳng khác nào thân phận “trâu ngựa”.
Con trâu con ngựa suốt tháng suốt năm phải làm việc lam lũ trên nương, khoảnh khắc nghỉ chân của nó thật ngắn ngủi. Mị cũng thế, từ hồi về nhà thống lí Pá Tra làm dâu, quanh năm Mị quanh quẩn trên nương “bẻ bắp”, “hái củi”, “bung ngô”, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Vậy có khác nào con ngựa, con trâu? Con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm” chứ đâu than khổ than cực?! Cô Mị cũng vậy, Mị tất bật với bao nhiêu công việc không lúc nào ngơi tay mà Mị đâu có lời nào vãn than. “Quen khổ”, cái thói quen ấy mới thật khắc khoải làm sao. Đoạn văn thứ nhất đã mở ra thân phận cam chịu, tủi nhục của Mị. Người đàn bà ấy đã gồng gánh gian lao đi qua cơ cực mỏi mòn mà chẳng biết nặng là gì. Rõ là cái xã hội ấy thật bất nhơn, nó tước đoạt đi quyền hạnh phúc, đồng thời cắt đứt mạch sống của người con gái đương phơi phới xuân thì.
Những tưởng đời Mị sẽ không bao giờ “ngóc đầu” lên nổi. Nhưng không, bằng tấm lòng nhân đạo cao quý, Tô Hoài đã cho cô Mị “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” kia “phơi phới trở lại”. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc trong Mị không vĩnh viễn mất đi mà chỉ ngủ quên dưới lớp tro buồn, gặp cơ hội thuận lợi lập tức những hạt mầm ấy lại bén đất đâm chồi non khỏe khoắn. Mùa xuân Hồng Ngài có sắc màu rực rỡ của thiên nhiên, có tiếng sáo gọi bạn tình và hơi rượu đưa Mị trở về miền nhớ xa xăm.
Thuở ấy, Mị được uống rượu, thổi sáo, được đi chơi ngày Tết. Còn bây giờ Mị phải sống trong cảnh cá chậu chim lồng, mà cũng không hẳn bởi Mị đâu chỉ mất tự do như con chim mà còn bị hành hạ, bị đánh đập tàn nhẫn. Khoảnh khắc “ngồi trơ một mình giữa nhà” Mị suy nghĩ biết bao điều. Từ lúc nãy Mị đã “phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mốc thời gian “những đêm Tết ngày trước” là những đêm Tết trước khi Mị về làm dâu nhà thống lí. Thuở ấy Mị được tự do, được bay nhảy, được vui chơi rộn rã cùng bao người. Trong tình cảnh này, Mị nhận ra “Mị còn trẻ lắm”. Từ hồi về làm dâu nhà Pá Tra đến giờ, đây là lần đầu tiên Mị nhận thức được sự trẻ trung vẫn còn nơi mình. Nét đẹp của cô gái Mông Tây Bắc vẫn còn phảng phất trên mặt Mị. Bao nhiêu người con gái Mông có chồng cũng được đi chơi ngày Tết, còn Mị có già dặn gì đâu mà cam chịu cảnh ngồi trong buồng tối không được đi chơi. Dường như “trẻ lắm” trở thành điệp khúc Mị tự nhắc nhở mình dẫn đến hành động “muốn đi chơi”. Có thể nói cô Mị thực sự “nổi loạn” trong đêm tình mùa xuân vì từ trước đến nay Mị chưa từng muốn đi chơi.
Cái ước muốn đơn giản bình dị ấy đã bị kìm lại trong Mị, hoặc Mị không dám nói ra suốt mấy năm Mị làm dâu ở nhà thống lí Pá Tra. Mị nhận ra: “A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau!”. Tại sao vậy? “Không có lòng” thôi thì hãy giải thoát cho nhau, cớ gì ép buộc, gò bó nhau cho khổ cực cuộc đời cô Mị? Một lần nữa hình ảnh chiếc lá ngón xuất hiện trong tâm tưởng cô Mị: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Khi đã thức tỉnh, lòng ham sống trở về với Mị, Mị lại muốn ăn lá ngón tự tử.
Ở đây, người đọc nhận thấy có sự đối lập rõ ràng. Sống và chết luôn nằm ở hai đối cực khác nhau, song khoảnh khắc này lại tương hỗ thật nhiều trong cuộc đời cô Mị. Mị muốn chết càng chứng tỏ Mị đã “sống lại” và tỉnh táo hơn bao giờ hết. Chết để được tự do, được thanh thản, để đỡ phải khổ trong chuỗi ngày kế tiếp. Lần này Mị muốn chết nhưng Mị không thể chết vì thực tại Mị đang ở trong buồng, kín mít, mà khát khao đi chơi cũng đang chiếm lĩnh tâm hồn Mị. Lá ngón trong lần xuất hiện này như một giao điểm giữa những ngày thầm lặng, bị đối xử tàn nhẫn, bị bóc lột về thân xác, áp chế về tinh thần với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc cuồng nhiệt như con sóng trong lòng cô Mị ngày xưa. Tóm lại, Mị đã tỉnh sau những tháng ngày u mê, ngủ say dưới lốt của một con rùa nuôi trong xó cửa không hi vọng, không mơ ước gì đến chuyện tương lai.
Hai đoạn văn mở ra hai trạng thái tâm lí của cô Mị, một là “quen khổ rồi”, hai là “phơi phới trở lại”, “muốn đi chơi”. Nếu ở đoạn văn thứ nhất người đọc nhận ra một cô Mị thụ động, cam chịu số phận thì đến đoạn văn thứ hai, dấu ấn về sự “nổi loạn”, bứt phá bắt đầu xuất hiện trong cô gái này. Đó là sự trỗi dậy của Mị, tiền đề cho những phản kháng để giải thoát thân phận ở những diễn biến kế tiếp. Từ đây ta nhận ra cô Mị của Tô Hoài không giống kiểu người hiền hậu khốn khổ như trong cổ tích đã từng dựng xây. Tô Hoài đã thổi vào trang văn của mình cảm hứng của con người hiện đại, không cam chịu đã vùng lên khát khao tìm hạnh phúc, tìm cuộc sống tự do.
Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng chứa đựng thái độ của nhà văn đối với cuộc sống, trước hết là với con người, “Văn học là nhân học” (M. Gorki). “Vợ chồng A Phủ” đã để lộ cái nhìn nhân đạo của Tô Hoài. Nhà văn đã phát hiện ra sự trỗi dậy mạnh mẽ của Mị, ngòi bút của ông luôn đau đáu tìm hướng dắt dìu cô Mị từ trong đau khổ đứng lên hướng về phía niềm vui, phía ánh sáng. Trước sau Tô Hoài vẫn tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghiệt đến mấy cũng không thể tiêu diệt hoàn toàn khát vọng cao cả trong Mị. Vì vậy mà Mị đã sống lại bằng tuổi trẻ, bằng nỗi day dứt về thân phận của mình. Chính cái khát vọng sống mãnh liệt không thể chết được ở Mị, giúp Mị tự giải thoát khỏi cái chốn địa ngục trần gian để làm lại cuộc đời, để sống như một con người. Tô Hoài đã phản ánh cuộc sống tối tăm, tủi nhục của người lao động nghèo vùng cao Tây Bắc trước Cách mạng, đồng thời đanh thép tố cáo tội ác, thế lực thực dân phong kiến, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, khẳng định sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ, quá trình vùng lên giải phóng của người lao động Tây Bắc.
Bằng giọng văn mềm mại cùng lối kể chuyện hấp dẫn, Tô Hoài đã đưa người đọc vào thế giới Hồng Ngài xinh đẹp mà u buồn, ở đó có bóng dáng cô Mị sống lầm lũi, bĩ cực đang lao đao đi tìm lẽ sống cho riêng mình. Nhà văn đã phát huy biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế để từ đó nhân vật của ông sống dậy, vùng vẫy, run rẩy phập phồng trên trang văn dày đặt ngôn từ. Trên hết vẫn là tư tưởng nhân đạo cao quý mà Tô Hoài đã gửi gắm. Chất nhân đạo góp phần làm nên tác phẩm văn học chân chính, có lẽ vì thế mà hơn nửa thế kỉ trôi qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” vẫn đủ sức ám ảnh tâm trí bạn đọc. Và bao giờ cũng vậy, mỗi lần nghĩ về Tây Bắc hoặc có dịp lên Tây Bắc ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên, lập tức bóng dáng vợ chồng A Phủ lại hiện ra trước mắt người đọc. Nhưng không phải một cô Mị tủi buồn và một chàng A Phủ bất lực khóc ròng trong đêm bị trói. Mà là một khung cảnh tươi sáng hơn, cô Mị với nụ cười tươi rói trên môi bởi cô đã cùng A Phủ sống những tháng ngày thật sự ý nghĩa, góp sức cho Cách mạng, giải phóng quê hương.
Câu trả lời của bạn
Tô Hoài và Kim Lân đều là một trong những tác giả tiêu biểu của văn xuôi thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm của họ đều lấy cảm hứng từ cuộc sống hiện thực của người nông dân Việt Nam trước CMT8. Hai tác phẩm “Vợ Nhặt” và “Vợ chồng A Phủ” tuy phản ánh số phận của hai người nông dân khác nhau nhưng đều mang một kết thúc mở. Nơi mà niềm hy sinh về cuộc sống mới tự do và hạnh phúc của họ được gửi gắm.
Khái quát về hai tác phẩm “Vợ Nhặt” và “Vợ chồng A Phủ” thì cả hai tác phẩm đều có nhân vật chính là người nông dân Việt Nam trước CMT8 năm 1945. Cuộc sống của họ đều điểm chung là khó khăn bất hạnh nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất cao đẹp và điều đặc biệt là họ đang trong quá trình giác ngộ cách mạng.
Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện kể về nhân vật Mị là một cô gái vùng cao nghèo khó. Nhưng dẫu cuộc sống khó khăn vẫn luôn luôn yêu đời và tin tưởng vào lao động. Mị bị bán cho nhà Thống Lí Pá Tra để làm dâu gạt nợ. Mặc dù phải sống trong thân phận nô lệ bị đầy đọa quanh năm làm việc quần quật khổ cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng Mị vẫn luôn ham sống. A Phủ cũng vì đánh con quan nên bị bắt về nhà thống Lí bị đánh đập rồi phải trở thành người đi ở đợ cho nhà thống lí. Hai thân phận nô lệ đã gặp nhau cảm thông và giải thoát cho nhau. Trong một đêm đông Mị đang ngồi sưởi lửa hơ tay thì bắt gặp “Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Chính giọt nước mắt đấy đã tác động đến nhận thức của Mị khiến cô có hành động táo bạo “Lấy con dao nhỏ cắt lúa cắt nút dây mây” để giải thoát cho A Phủ. Sau đó Mị cũng chạy theo A Phủ bởi Mị biết một điều rằng “Ở đây thì chết mất”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau chạy xuống dốc núi. Trong cái đêm tối mịt mù đó hai người dìu nhau chạy một mạch. Những chi tiết đấy đã thể hiện cho sức sống tiềm tàng mãnh liệt của con người dưới sự áp bức đè nén của bọn phong kiến. Nếu như trước đây “Sống lâu trong cái khổ Mị quen rồi” thì nay Mị đã có ý thức vùng lên để giành quyền sống. Hành động của Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ tuy là hành động tự phát nhưng có thể nhận thấy không thể sống ở đây được. Phải có một sức sống tiềm tàng thì mới có thể vực Mị từ một người đã quyết ăn lá ngón tự tử đến việc vùng lên mạnh mẽ trong đêm tình mùa xuân. Và đến hành động táo bạo là giải thoát cho A Phủ. Kết thúc của truyện thể hiện cho tinh thần đấu tranh của người dân chống lại bọn địa chủ phong kiến với quy luật tất yếu là “có áp bức là có đấu tranh”.
Truyện ngắn “Vợ Nhặt” trích trong tập tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau khi CMT8 thành công. Nội dung chính của truyện là phản ánh cuộc sống của những người nông dân ở xóm ngụ cư. Mà trong đó nhân vật chính là anh cu Tràng làm nghề chở xe bò thuê. Vì cái đói cái nghèo nên Tràng không có nổi một đám cưới đàng hoàng. Tràng nhặt được vợ một cách ngẫu nhiên trên đường về nhà và đám cưới cũng chỉ là một bữa cơm thảm hại “Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo”. Trong ngày đón nàng dâu mới về chưa kịp vui thì họ đã nghe thấy tiếng trống thúc thuế, tiếng hờ khóc của người hàng xóm vì gia đình có người ra đi từ xa vọng về. Truyện kết thúc với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Hình ảnh lá cờ cuối tác phẩm được xem là chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Kết thúc đó cũng có cơ sở từ những thực tiễn của đời sống. Câu chuyện có bối cảnh là nạn đói năm 1945 một thời điểm lịch sử có thật khi mà người dân phải chịu áp bức, bóc lột, một cổ ba tròng. Trong hoàn cảnh cùng cực đó người nông dân đã đứng lên khởi nghĩa phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Trải qua khó khăn áp bức những người nông dân đó đã biết đứng lên đấu tranh và tìm kiếm con đường cho mình bằng cách tìm đến với cách mạng như một điều tất yếu.
Hai câu chuyện kể về hai số phận của người nông dân khác nhau. Nhưng kết thúc cùng chung một kết thúc mở. Kết thúc của hai tác phẩm cũng nhấn mạnh cho sự thay đổi tư tưởng của các nhà văn. Nếu trước đây nhà văn Nam Cao cũng viết về đề tài nông dân với tác phẩm Chí Phèo có kết thúc đi vào ngõ cụt thì nay trong tác phẩm “Vợ Nhặt” và “ Vợ chồng A Phủ” chúng ta đã thấy được tương lai tươi sáng cho những người nông dân. Đó là CMT8 thành công chế độ phong kiến hủi lậu bị lật đổ.
Câu trả lời của bạn
Trong các tác giả văn học Việt Nam, Tô Hoài được nhớ tới như một bậc thầy lão luyện, kho tàng văn học ông để lại đã gắn bó với bao lớp thế hệ, từ dế mèn phưu lưu kí, đế vợ chồng A Phủ. Nói đến truyện ngắn vợ chồng A Phủ, ta không thể không nghĩ ngay đến nhân vật Mị. Cô gái đã thắp sáng lên ngọn lửa hi vọng cho mọi cô gái chịu áp bức ở Tây Bắc nước ta thời bấy giờ.
Mị là hiện thân cho tấm lòng nhân đạo, và ngòi bút hết sức bén nhạy của Tô Hoài. Ông vốn là một người ưa tìm hiểu những phong tục tập quán, nên có cái nhìn rất rõ về hoàn cảnh số phận, những khó khăn mà người phụ nữ miền núi phải gánh chịu lúc bấy giờ.
Tô Hoài nhắc đến Mị, đầu tiên với những vẻ đẹp phẩm chất của cô, mà vẻ đẹp ấy đẹp lắm, trong sáng thuần khiết và thanh cao lắm, quý như một viên ngọc giữa núi rừng và không gì có thể làm viên ngọc ấy bị mài mòn và ngừng tỏa sáng. Tuy nhiên, hoàn cảnh của Mị lại trớ trêu, vì đúng là “hồng nhan bạc mệnh”. Mẹ mất sớm, Mị ở với cha, và ở trong một gia đình mà có truyền kiếp nợ thống lí. Nhưng Mị lại là một cô gái đẹp và tài năng, mị không những biết thổi sáo mà còn là cô gái khiến các chàng trai trong bản “đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị” không những thế Mị còn là một cô gái vô cùng hiếu thảo và ngoan ngoãn, Mị có thể chịu khổ cực vất vả để trả nợ thay cha, chứ nhất quyết không bán rẻ lòng tự trọng và chịu gò ép trong hoàn cảnh là con dâu nhà giàu. Mị hiện lên đầu truyện với những đức tính cao quý mà một cô gái như vậy, xứng đáng có được cuộc sống như mình hằng ao ước.
Nhưng, đời không cho Mị tự do, dù Mị có muốn trốn chạy như thế nào đi chăng nữa. Hôm ấy, Mị bị A Sử bắt về cúng trình ma làm con dâu gạt nợ cho thống lí Pá Tra, và kể từ đó, cuộc sống tâm hồn và thể xác Mị bị đọa đày khổ cực. Nhưng, với tấm lòng cảm thương sâu sắc, Tô Hoài đã để cho bản chất của Mị được hiện lên, những khát vọng, ước ao một thời lại trỗi dậy mạnh mẽ. Trong đêm tình mùa xuân, hồi ức của một thời được sống với chính mình, với những gì mình ao ước trỗi dậy trong Mị. Mị “cứ uống ừng ực từng bát” rượu, rồi lại thấy “phơi phới trở lại” Mị nhận ra mình vẫn còn trẻ, nhận ra mình với A Sử đến với nhau chẳng vì tình. Mị muốn vui chơi, Mị muốn được sống và Mị khát khao sống. Nhưng, ngay hôm đó, khi ngọn lửa tâm hồn Mị vừa trỗi dậy thì A Sử đã trói chặt Mị vào cột nhà, đầy đau đớn và thương tâm, Mị không khóc được, không cựa quậy được, và Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Ngày A Phủ bị giải đến nhà thống lí, và lần đầu tiên gặp A Phủ, Mị vẫn còn cái tâm trạng khá thờ ơ. Bởi trong lòng Mị vốn đã chết, nên cuộc sống với Mị cũng chỉ là sự lặp đi lặp lại của thời gian và của sự tồn tại mà thôi. Nhưng, hôm ấy lại khác, “Mị lé mắt trông sang” chợt thấy một giọt nước mắt đắng cay, tủi hờn từ A Phủ. Giọt nước mắt lóng lánh ấy đã nhắc lại cho Mị nhớ thời gian Mị bị thằng A Sử trói đứng đầy nhẫn tâm, tàn ác. “Chúng nó thật độc ác” Mị nhận ra một sự thật mà bấy lâu nay ẩn chứa từ sâu trái tim đã nguội lạnh của mình. “chết đau, chết đói, chết rét” Mị cảm thương cho A Phủ bằng chính sự cảm thương Mị có ngày trước, trái tim tiềm tàng của Mị được thức tỉnh nhanh chóng. Và dứt khoát, Mị cắt dây trói và nói “đi ngay”..
Và hành động trói dây buộc A Phủ cùng việc ngay sau đó Mị chạy theo A Phủ vào bóng tối, cũng là điều tất yếu của một con người đã bị dồn nén đến mức cùng cực. sức sống mạnh mẽ được trỗi dậy, và đã kết thúc quãng thời gian đày ải, tối tăm mà Mị đã phải chịu trong nhà thống lí Pá Tra, hành trình đi theo A Phủ cũng chính là một hành trình tìm đến sự sống mới của Mị, và những hi vọng dù là trong bóng tối, Mị cũng đã không còn gì để mất, để phải sợ nữa..
Mị là nhân vật số phận, và nhờ số phận hành động của Mị đã kể cho ta nghe về một ngòi bút đầy nhân đạo, và một trái tim đầy cảm thông của Tô Hoài. Nhà Văn đã góp một tiếng nói chung vào dòng chảy của văn học dân tộc, để ca ngợi những phẩm chất cao quý của người phụ nữ, và khẳng định niềm tin tưởng, hi vọng vào cuộc sống luôn hướng về cái đẹp, cái thiện.
Trong một bức thư bàn luận về văn chương, Nguyễn văn Siêu có viết: "Văn chương [...] có loại đáng thờ, có loại ko đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên.
Câu trả lời của bạn
Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: "Phong cách chính là người." Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào?
Câu trả lời của bạn
Cần lưu ý những ý chính sau:
Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: "Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra".
Câu trả lời của bạn
Cần làm rõ một số ý sau:
Nền văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945 là "Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn". Anh (Chị) hãy trình bày ý kiến của mình về nhận định trên.
Câu trả lời của bạn
Cần nêu được một số ý sau:
Vì sao có thể nói văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người? Liên hệ thực tế văn học.
Câu trả lời của bạn
Cần nêu được một số ý sau:
Thế nào là văn học chân chính:
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *