Nội dung bài học Đất nước của Nguyễn Đình Thi giúp các em cảm nhận được những xúc cảm và suy nghĩ của nhà thơ về đất nước qua những hình ảnh mùa thu và hình ảnh đất nước đau thương, bất khuất, anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Mời thầy cô và các em cùng theo dõi.
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi:
Mùa thu nay khác rồi
…
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Bài thơ Đất nước được Nguyễn Đinh Thi hoàn thành vào năm 1955, đưa in trong tập “Người chiến sĩ”. Bài thơ là khung cảnh mùa thu của hai vùng đất Hà Nội và chiến khu Việt Bắc. Để dễ dàng trả lời được các câu hỏi trong SGK và nắm được những kiến thức cần đạt về bài thơ này, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Đất nước.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Nguyễn Đình Thi - một tâm hồn, một con người đa tài với những tác phẩm, bài viết đủ mọi thể loại. Văn học, soạn nhạc, triết học, lí luận phê bình... mặt nào cũng rất tài hoa. Về thơ ca, ông đã có những đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam với giọng thơ sôi nổi, đằm thắm và sâu lắng nhưng lại tao nhã, giản dị gần gùi với mọi người. Tác phẩm nổi bật của thi sĩ trong thời kì này là bài thơ Đất nước. Để xác định được hướng lập dàn ý và viết bài văn hoàn chỉnh về bài thơ Đất nước, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Bình giảng khổ cuối bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi
- Bình giảng 4 khổ đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi
- Bình giảng 7 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi
- Bình giảng khổ 5 bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi
- Bình giảng khổ 3 bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi
- Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Tín hiệu gợi nhắc về mùa thu Hà Nội: sáng mát trong và gió thổi mùa thu hương cốm mới , đây là những nét đặc trưng của mùa thu Bắc Bộ, mùa thu Hà Nội.
Câu trả lời của bạn
Bức tranh mùa thu chân thực, thi vị, mang đậm đặc trưng của mùa thu Hà Nội nhưng thoáng buồn: những buổi sáng mát trong, hương cốm, chớm lạnh, hơi may xao xác, nắng lá, phố phường Hà Nội
⇒ Bức tranh mùa thu có hình khối, đường nét, màu sắc nhưng chứa đầy tậm trạng của người ra đi.
Câu trả lời của bạn
Nghệ thuật đặc sắc trong đoạn thơ:
- Hình ảnh thơ giàu sức gợi
- Câu thơ giàu tính nhạc
- Vận dụng hiệu quả phép điệp
- Giọng thơ phấn chấn, sôi nổi, cảm xúc mãnh liệt
Câu trả lời của bạn
Hình ảnh người đi buồn bã, lưu luyến nhưng cũng đầy cương quyết:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
⇒ Mùa thu Hà Nội đẹp nhưng buồn thấm thía bởi nhân vật trữ tình phải li biệt Hà Nội để đi tìm con đường thoát vòng nô lệ đau thương, tủi nhục.
Câu trả lời của bạn
Đất nước vượt lên đau thương để lao động và chiến đấu, chống lại kẻ thù: Những đêm dài hành quân nung nấu, Xiềng xích chúng bay không khóa được…Lòng dân ta yêu nước thương nhà.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Nguyễn Đình Thi là người đa tài. Thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện sự tìm tòi về hình ảnh. Bài thơ “Đất nước” chính là những tìm tòi độc đáo nhất. Bài thơ lấy hình tượng đất nước làm trung tâm với hai màu sắc vừa tươi đẹp vừa bất khuất.
Trước hết, Nguyễn Đình Thi cảm nhận đất nước trong mùa thu hoài niệm và mùa thu hiện tại. Mùa thu trở thể hiện nối tiếp từ hiện tại về quá khứ rồi trở lại hiện tại. Thi sĩ mở đầu “Đất nước” bằng một vài chiêm nghiệm:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới”
Không gian vô cùng tươi sáng của một buổi sớm thu đặc trưng quê hương Việt Nam. Một chút mùi vị “hương cốm” gợi lòng người bao điều. “Cốm làng vòng thơm mát những vòng tay”. Người ta bỗng nhớ những câu văn đầy đặc sắc Hà Nội trong thơ Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng… Người ta nhớ về người mẹ, người bà, người em thảo thơm. Thật bình dị và thân thương! Từ hương cốm, mùa thu năm xưa hiện về:
“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”
Hai câu đầu là cảnh, hai câu sau là người. Cảnh và người hợp hảo trong cuộc chia ly năm ấy. Mỗi câu từ chứa một nét chạm khắc thú vị như cái buồn vắng lặng của “những phố dài”, chút “chớm lạnh” cô đơn, đẹp nhưng buồn của cái “xao xác” và chút “hơi may”. Thiên nhiên đẹp nhưng buồn còn lòng người cũng không nguôi cảm giác đơn côi. Người ra đi tựa thế Kinh Kha đầy quyết tâm. Người ở lại chùn chân dưới lá thu bay. Hình ảnh thơ vừa giàu chất cổ điển vừa đầy tinh thần hiện đại.
Cuối cùng, thi sĩ về với mùa thu hiện đại. “Mùa thu nay khác rồi”. Thi sĩ reo vang về thu nay với tâm trạng phơi phới. Từ trong tư thế “đứng vui”, “phấp phới” mà tác giả cảm nhận được thiên nhiên như “thay áo mới”, “Trong biếc”, “nói cười”… Mùa thu ngày nay đầy hứng khởi và niềm vui sống. Từ đó, tâm trạng đơn côi xưa cũ đã thay thế cho tâm trạng hào phóng, tấm lòng rộng mở.
Nó được chứng minh từ những hình ảnh trải rộng về địa lí “trời xanh”, “núi rừng”, “cánh đồng”, “ngả đường”, “dòng sông”… Phụ từ “đây” như khoe như mời mọc tận hưởng. Hẳn thi sĩ đang tự hào về quê hương lắm!
Cùng với việc thể hiện đất nước tươi đẹp trong mùa thu, Nguyễn Đình Thi còn khắc họa hình ảnh đất nước trong chiến tranh. Đó là một đất nước kiên cường và bất khuất:
“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!”
Đất nước như có một sức sống bền bỉ. Đất nước anh dũng, kiên cường đã thành truyền thống, điều ấy khẳng định qua cụm từ “chưa bao giờ khuất”. Mặt khác, những từ láy “đêm đêm”, “rì rầm” thể hiện sức sống tiềm ẩn, sự tự cường trong lớp trầm tích ngàn năm. Đất nước đau thương mà quật khởi vô cùng:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều”
Thán từ “ôi” như niềm cảm xúc dâng trào khi nhìn lại đất nước. Đất nước chìm trong đau thương với “chảy máu”, “đâm nát”. Tác giả tố cáo đanh thép tội ác của giặc khi giày xéo quê hương. Thế rồi, đất nước cũng quật khởi vô cùng. Nguyễn Đình Thi đã sử dụng biện pháp đối lập để thể hiện.
Đó là sự đối lập giữa tàn bạo ác liệt của cuộc chiến đấu hiện lên trong “những năm đau thương”, “xiềng xích”, “súng đạn” với sức mạnh quân ta “ngời lên”, “bật lên”, “không khoá được”, “không bắn được”, “đứng lên”… Đó là sự đối lập giữa vất vả lam lũ “Ngày nắng đốt”, “đêm mưa dội” với tương lai ngời sáng “trời đất mới”, “ánh bình minh”… Cuối cùng, cả đất nước đọng lại trong tư thế “rũ bùn đứng dậy”:
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
Bốn câu thơ lục ngôn với giọng đanh, chất chứa cảm xúc của thi sĩ. Hình ảnh “người lên như nước vỡ bờ” hay “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” thể hiện sức mạnh cộng đồng vừa đau thương vừa anh dũng. Cũng từ cái kết này, người đọc thấy được niềm tin vào chiến thắng và tương lai của đất nước mà Nguyễn Đình Thi luôn hướng tới.
Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi rất đặc sắc trong cách sáng tạo ngôn từ, diễn đạt liền mạch đầy cảm xúc, giọng thơ phong phú và nhiều hình ảnh thú vị giàu sức gợi. Nguyễn Đình Thi đã mang tới một bài ca về đất nước đậm nét đặc trưng và tinh thần chung của người Việt.
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều”
Câu trả lời của bạn
Đất nước chìm trong máu và nước mắt: những cánh đồng quê chảy máu, dây thép gai đâm nát trời chiều,..
Cảm nhận về Đất nước qua góc độ lịch sử của Nguyễn Khoa Điềm
Câu trả lời của bạn
hơi khó
Từ sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc ta đã phải tiến hành liên tiếp hai cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược để gìn giữ nền độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Trong suốt ba mươi năm ấy, vận mệnh của đất nước luôn luôn là vấn đề lớn lao, nóng bỏng và chi phối mọi lĩnh vực của đời sống dân tộc và mỗi con người Việt Nam. Vì thế, cũng là lẽ tự nhiên, tình cảm yêu nước đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong thơ ca hiện đại Việt Nam, tiếp nối một truyền thống sâu đậm của văn học dân tộc từ ngàn xưa. Tình cảm yêu nước được biểu hiện trong thơ ca ta thống nhất nhưng cũng rất đa dạng, phong phú tùy theo hoàn cảnh sáng tác, tâm trạng cụ thể của từng nhà thơ. Trường ca Mặt đường khát vọng được viết giữa những năm tháng hào hùng cả toàn quân, toàn dân ta đang tập trung sức lực, tập trung trí tuệ để chiến thắng đế quốc Mĩ, có vai trò không nhỏ của tầng lớp tuổi trẻ học sinh, sinh viên các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam đang thức tỉnh, siết chặt đội ngũ xuống đường. Tầng lớp này cũng có nhiều tâm tư, nhiều suy ngẫm về thế hệ mình, về đất nước. Từ góc độ đó, ở Đất Nước, chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã định nghĩa, cảm nhận ngợi ca vẻ đẹp nhiều mặt của đất nước, trình bày ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh dân tộc giữa cơn thử thách lớn của lịch sử.
Hình tượng đất nước, trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, gắn với những nhân vật, hình ảnh hết sức cụ thể với những sinh hoạt rất đỗi thường ngày của mỗi chúng ta. Tình yêu lớn lao nhưng không hề xa xôi, trừu tượng mà được khơi gợi từ những sự vật, sinh hoạt gần gũi, từ những phong tục văn hóa có tự ngàn xưa. Đất nước có trong những câu chuyện cổ tích mẹ thường hay kể cho ta từ tuổi bé thơ, trong miếng trầu bây giờ bà ăn, trong lũy tre làng bao đời thành lũy thành chông cho dân mình đánh giặc. Đất nước gắn cùng tục búi tóc sau đầu, câu ca dao gừng cay muối mặn, gắn cùng cái kèo, cái cột, hạt gạo một nắng hai sương. Cảm nhận đất nước từ những cái bình thường quanh ta đã dẫn Nguyễn Khoa Điềm đến biện pháp nghệ thuật chiết tự. Từ ghép đất nước được tách thành đôi để nhà thơ định nghĩa thật cụ thể từng thành đôi.
Đất và Nước:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khai
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Dòng suy tưởng đưa Nguyễn Khoa Điềm trở về quá khứ, với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ khẳng định cội nguồn thống nhất của con người Việt. Đất nước trường tồn trong thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông. Vậy là những hình ảnh, sự vật trên rất đỗi bình thường, nhưng đâu phải tầm thường; trong đó ẩn chứa sâu xa chiều dài lịch sử, truyền thống văn hóa với bao phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Gợi lên truyền thống lịch sử - văn hóa vững bền, không gian địa lí mênh mông của đất nước từ những điều giản dị, thường ngày, đó là thành công đặc biệt của Nguyễn Khoa Điềm ở đoạn trích này. Đất nước là đời sống, là hơi thở hàng ngày của mỗi chúng ta. Đất nước là sông bể mênh mông, núi rừng hùng vĩ. Đất nước trải suốt chiều dài lịch sử từ truyền thuyết Hùng Vương đến đạo lí Hàng năm ăn đâu làm đâu - Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Ai biết được tự bao giờ con người Việt Nam biết kể chuyện cổ tích, có tục ăn trầu... Ai biết được tự bao giờ con người Việt Nam biết làm bạn với cây tre, với cái kèo, cái cột... Đằng sau những điều giản dị ấy là truyền thống lịch sử — văn hóa lâu đời, bền vững của đất nước Việt Nam ta. Từ góc độ đời sống cá nhân, nhà thơ nói được cả cuộc sống cộng đồng, đưa đến cho người đọc cảm nhận toàn vẹn, tổng hợp về vẻ đẹp đất nước.
Làm nên truyền thống lịch sử - văn hóa độc đáo, vững bền của đất nước chính là bao thế hệ nhân dân. Bởi thế, lòng yêu nước của Nguyễn Khoa Điềm ở đoạn trích này gắn liền cùng lòng yêu nhân dân, cùng niềm tự hào về vai trò to lớn của nhân dân. Đất Nước của Nhân dân đã trở thành tư tưởng nổi bật, xuyên suốt đoạn trích Đất Nước này và chính ngay cách cảm nhận đất nước từ những điều bình dị, gần gũi như trên sẽ tự nhiên dẫn đến tư tưởng ấy.
Có lẽ chưa bao giờ như trong thời đại dân tộc Việt Nam ta đánh Mĩ, vai trò to lớn, sức mạnh vô địch của nhân dân được thể hiện đầy đủ đến thế. Cuộc đối chọi quyết liệt với một kẻ thù giàu có và hung bạo vào bậc nhất đòi hỏi phải huy động triệt để sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Bởi vậy, Đất Nước của Nhân dân đã trở thành tư tưởng chung của thời đại, đã chi phối toàn bộ nền văn học cách mạng và làm nên rất nhiều tác phẩm có giá trị. Trong bối cảnh ấy, đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp một cách cảm nhận, cách thể hiện đặc sắc. Khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, những anh hùng nổi tiếng mà tự hào nhắc đến vô vàn lớp người vô danh bình dị:
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trờ về nuôi cái cùng con
Đối với nhân dân, cần cù làm lụng và ra trận đánh giặc, sống và chết đều thật giản dị và bình tâm vì lẽ tồn vong của đất nước. Khi đất nước thanh bình, họ "cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó". Khi đất nước gặp nạn ngoại xâm, họ đứng dậy cầm vũ khí, sẵn sàng xả thân vì độc lập, chủ quyền như lẽ tự nhiên. Chính những con người không ai nhớ mặt đặt tên ấy đã làm ra Đất Nước. Trong trường kì lịch sử, nhân dân là lực lượng chủ yếu sáng tạo, giữ gìn truyền lại mọi tài sản vật chất, mọi giá trị tinh thần để làm nên Đất Nước muôn đời:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân.
Bao lớp người vô danh, thầm lặng ấy đã hóa thân cho đất nước vững bền. Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận sự hóa thân của nhân dân hiển hiện trên gương mặt địa lí của đất nước. Không ít tác phẩm thơ văn đã nhắc tới những danh lam thắng cảnh, những sự tích núi sông của đất nước Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến. Nhưng gắn chúng cùng số phận, cùng phẩm chất của những người dân bình dị, thấy trong đó cuộc đời hi sinh cao đẹp của quần chúng nhân dân, ấy là Nguyễn Khoa Điềm. Sau khi nhắc tới hàng loạt danh lam thắng cảnh, sự tích núi sông trên các miền đất nước, nhà thơ đi đến một khái quát thấm thía:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
Làm sáng tỏ tư tưởng Đất Nước của nhân dân từ nhiều phía, nhiều chiều như thế, đoạn trích đã đem đến cho người đọc niềm tin vào sự trường tồn của đất nước. Đất Nước là của nhân dân, mà nhân dân thì mênh mông, vĩ đại và bất tử. Vì thế, Đất Nước này mãi mãi trường tồn cùng với nhân dân.
Chiêm ngưỡng tiếp nhận Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại từ góc độ thế hệ trẻ trong thời đại dân tộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã gợi nhắc trách nhiệm đối với vận mệnh đất nước. Phải chăng đây chính là mục đích của đoạn thơ Đất Nước này khi ra đời giữa những năm tháng chiến tranh quyết liệt, hào hùng, khi lịch sử đang yêu cầu mọi con người phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở. Ý thức trách nhiệm này được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận, dẫn dắt rất tự nhiên cùng quá trình khám phá ngày càng sâu về đất nước. Ban đầu, đất nước là những gì thân thiết ở ngoài ta, ở xung quanh ta. Nhưng dần về sau, đất nước đã ở trong ta, đất nước có trong mỗi người:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cẩm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mỗi con người hôm nay đều đang thừa hưởng những di sản vật chất và tinh thần quý báu của đất nước, của nhân dân, của bao thế hệ đi trước, vì thế phải biết cống hiến đời mình vì lẽ tồn vong của đất nước. Ý thức trách nhiệm được nhà thơ trình bày thật thiết tha. Đó là mệnh lệnh cất lên từ trái tim đang xúc động:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Như vậy, tiếp thu nguồn mạch cảm hứng yêu nước chưa bao giờ vơi cạn trong lịch sử văn học Việt Nam, nằm trong bối cảnh của thời đại dân tộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng đã thể hiện những nhận thức, khám phá mới mẻ về vẻ đẹp đất nước. Trên nền văn hóa dân gian vững chắc, Nguyễn Khoa Điềm đã hướng sự tìm tòi, suy ngẫm tới nhiều bình diện như lịch sử, địa lí, phong tục... để làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của Nhân dân và gợi nhắc ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước. Nhưng sức hấp dẫn của chương Đất Nước không chỉ ở các nội dung cảm nhận mà còn ở cách thể hiện của Nguyễn Khoa Điềm. Khi đưa vào đây nhiều kiến thức về lịch sử, địa lí, về văn hóa dân gian, thơ dễ sa vào diễn ca theo lối phô bày hiểu biết, dễ chỉ tác động vào lí trí mà khó lay thức tình cảm người đọc. Nguyễn Khoa Điềm đã vượt qua thử thách đó và Đất Nước vừa làm sáng bừng nhận thức, vừa lay động sâu xa tâm hồn mỗi con người Việt Nam. Cái gì đã tạo nên thành công ấy? Điều chủ yếu là do tất cả các kiến thức, tư liệu, sự kiện phong phú này đã được thẩm thấu qua tâm hồn chứa chan xúc cảm của Nguyễn Khoa Điềm và nhà thơ đã tìm được một cách nói riêng, bằng giọng điệu tâm tình, qua hồi ức lại những kỉ niệm riêng tư:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Ngay từ phần mở đầu, Đất Nước dẫn ta vào câu chuyện tâm tình thiết tha, sâu lắng. Toàn bộ chương này được thể hiện bằng hình thức "anh" trò chuyện cùng "em". Với hình thức này, giọng điệu thơ tất phải ngọt ngào, thủ thỉ. Nguyễn Khoa Điềm nói về lịch sử mà như tâm sự về những kỉ niệm tuổi thơ, như nhắc lại những hồi ức cảm động về người thân trong gia đình là bà, là mẹ. Bề dày của lịch sử, của nền văn hóa phong phú, lâu đời, cả không khí của truyền thuyết Thánh Gióng, cổ tích Trầu Cau bỗng được sống dậy trong cảm nhận gần gũi của mỗi người đọc. Chính nhờ lối thể hiện ấy mà vẻ đẹp sâu xa của đất nước, ý thức trách nhiệm công dân trước vận mệnh đất nước được người đọc nhận cảm một cách tự nhiên, thấm thía.
Tiếp nối dòng mạch thơ ca yêu nước trong lịch sử văn học dân tộc, Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã mang nội dung cảm nhận cùng cách thể hiện thật độc đáo. Thành công của đoạn trích Đất Nước này góp phền chứng tỏ tầm trí tuệ, sức khám phá của một nhà thơ trưởng thành cùng thời đại kháng chiến chống Mĩ cứu nước anh hùng.
Câu trả lời của bạn
Đối với mỗi con người, hai tiếng đất nước, Tổ quốc bao giờ cũng thiêng liêng hết mực. Chẳng vậy mà các nhà thơ, nhà văn luôn có cho mình một cảm hứng dạt dào khi viết về hình tượng đất nước. Trải qua bao nhiêu thời gian với bốn ngàn năm dựng và giữ nước, biết bao áng thơ văn đã tạc nên hình tượng non sông. Trong đó phải kể tới hai bài thơ cùng tên của hai tác giả thi ca nổi tiếng Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm. Cả hai bài thơ cùng tên "Đất nước" thể hiện cùng một tình yêu nước vô cùng sâu nặng nhưng lại được thể hiện qua từng cách cảm nhận riêng của mỗi tác giả. Điều đó đã đem đến cho người đọc chúng ta cái nhìn thật toàn diện, thật mới mẻ và sâu sắc hơn về hình tượng đất nước.
Cả hai tác phẩm thơ đều ra đời sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, khi mà nhân dân Việt Nam đã được hưởng tự do, độc lập, có được quyền làm chủ non sông, vậy nên chúng đều thể hiện hình tượng của một đất nước trù phú, giàu đẹp, với người dân anh hùng. Cả hai nhà thơ đều sử dụng giọng thơ trữ tình - chính luận khi viết về Đất nước mang tính hàm súc và triết lý cao. Không chỉ vậy, nó còn thể hiện sự tìm tòi, khám phá những điều mới lạ cho hình tượng đất nước. Thế nhưng, tựu chung lại, chúng đều thể hiện một tình yêu đất nước non sông vô cùng sâu sắc của những người con đất Việt.
Tuy vậy, về cơ bản, hai bài thơ đều có chung hướng đi, có chung điểm đến, thế nhưng cách thức, cách cảm nhận và biểu hiện đều mang nét riêng của từng tác giả. Mỗi người đều có những khám phá riêng về Đất nước của mình.
Với "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi, ông bắt đầu viết từ năm 1948, nhưng mãi tới 1955 mới hoàn thành. Chặng đường làm nên tác phẩm kéo dài tám năm, suốt cuộc kháng chiến chống Pháp lần hai của quân và dân ta. Vậy nên cảm nhân về đất nước của ông mở rộng từ quá khứ tới tương lai về một đất nước kiên cường, bất khuất, vươn dậy trở thành "những anh hùng áo vải", đem đến một tương lai huy hoàng. Bài thơ của Nguyễn Đình Thi mang màu sắc hiện đại, trẻ trung, pha chút u buồn, trầm lắng, nhưng không thiếu đi nét dân tộc, truyền thống. Tính dân tộc trong bài thơ được thể hiện qua hình ảnh của mùa thu xử sở với gió heo may, với "hương cốm mới", với cảm giác "chớm lạnh" giữa "những phố dài" của Hà Nội thủ đô:
"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa"
Hay "Những phố dài xao xác hơi may"
Đó là mùa thu của một đất nước hiền hòa, một mùa thu thật đẹp nhưng có chút gì đó man mác buồn suy tư. Để tiếp đến sau đó là hình ảnh về một mùa thu mới của non sông, mùa thu hiện tại với niềm vui phơi phới:
"Mùa thu nay đã khác rồi"
Đó là niềm vui về một đất nước tự do, được làm chủ quê hương, niềm tự hào khi đất nước được "thay áo mới". Đồng thời, cũng qua đó, Nguyễn Đình Thi bày tỏ niềm tự hào về một hình ảnh đất nước Việt Nam giàu có, trù phú với:
"Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa"
Hình ảnh đất nước hiện lên sao đẹp đẽ và thân thương đến thế! Không chỉ gắn liền với hôm nay, đất nước còn nối liền mạch với truyền thống, với quá khứ của dân tộc:
"Nước chúng ta
Nước những con người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm từ trong đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về"
Mạch nguồn của truyền thống kết nối với hiện tại để làm nên một đất nước anh hùng. Truyền thống đó được lớp lớp người con Việt Nam kế cận, không chỉ là về văn hóa, phong tục mà còn về truyền thống anh dũng, quyết tâm chiến đấu bảo vệ quê hương mình. Ở đây, màu sắc hiện đại của bài thơ nổi lên khá rõ, đó là hình ảnh của một đất nước trong cuộc chiến tranh vệ quốc ở thế kỉ XX. Hình tượng đất nước được ấp ủ trong suốt cuộc kháng chiến chín năm với bao nhiêu là trải nghiệm được đúc kết. Để đến cuối cùng, khi nói về đau thương của chiến tranh gây ra cho quê hương, Nguyễn Đình Thi chỉ thốt lên:
"Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều"
Chiến tranh đi qua bao giờ cũng để lại những tang tóc, những đau thương mất mát. Những ai đã từng đi qua chiến tranh đều hiểu cái điêu tàn, tang thương nó để lại và Nguyễn Đình Thi đã thể hiện hình tượng đất nước trong chiến tranh bằng hình ảnh "cánh đồng quê chảy máu", với "dây thép gai đâm nát trời chiều". Tư duy ấy gắn liền với tư duy của thơ hiện đại khi mà mỗi quốc gia đều đang oằn mình dưới chân kẻ thù, đang phải đấu tranh để giành lấy độc lập, tự do trong thế kỉ XX. Đồng thời những hình ảnh ấy cũng gợi lên sự đau thương tới vô tận, sự căm thù vô biên dành cho kẻ thù. Đất nước đã bị chúng dày xéo tới tan nát, không còn chút bình yên.
Thế nhưng, từ trong nỗi đau thương ấy, đất nước ta, dân tộc ta đã đứng lên với tinh thần bất khuất:
"Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà"
Nguyễn Đình Thi đã lấy cái hữu hạn để so sánh với cái vô hạn, cái cụ thể so sánh với cái trừu tượng: "xiềng xích - trời đầy chim và đất đầy hoa", "súng đạn - lòng dân ta yêu nước thương nhà", cốt để nói lên sự bất lực của kẻ thù đối với sự bất diệt, tình yêu nước của dân tộc ta.
Đặc biệt, Nguyễn Đình Thi đã viết lên lời thơ trong niềm tin chiến thắng về tương lai chói lòa của dân tộc:
"Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa"
Đó là khi chủ nghĩa anh hùng cách mạng làm nên chiến thắng chói lòa, khiến cho muôn vạn kẻ thù khiếp sợ. Đây là đỉnh cao của xúc cảm, những suy tư, suy ngẫm về đất nước. Bức tranh đất nước hiện lên cụ thể, mạch lạc, từ quá khứ, tới hiện tại rồi tới tương lai, kết lại bằng chiến thắng vang dội với hình ảnh mang tính sử thi, hoành tráng, có sức khái quát. Khổ thơ cuối là hình tượng đất nước Việt Nam từ trong vũng "bùn" lầy tăm tối, đau thương của kiếp nô lệ, bứt đứt gông xích, đứng lên hiên ngang làm nên chiến thắng lịch sử "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Bức chân dung ấy của đất nước được vẽ lên vô cùng chân thực, bởi ngòi bút tài hoa gắn liền với tư duy thơ hiện đại, trên nền khói lửa, máu xương, một Việt Nam kiên cường, sừng sững kiêu hãnh trước năm châu bốn bể.
Cùng chung cảm hứng về đất nước nhưng Nguyễn Khoa Điềm lại vẽ lên hình tượng một đất nước với đầy màu sắc văn hóa dân gian. Không như Nguyễn Đình Thi dùng mùa thu để nói về hình tượng đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng chất liệu dân gian, của ca dao và thần thoại để tạo nên hình tượng đất nước, đồng thời thể hiện tư tưởng "đất nước của nhân dân". Đây là một tư duy tư tưởng vừa mới mẻ lại vừa hết sức quen thuộc. Bởi dân gian cũng chính là nhân dân, nhân dân là phần cơ bản nhất, rõ ràng nhất để nhận ra đất nước. Nhưng nó cũng vô cùng mởi mẻ bởi chất liệu dân gian dựng lên hình tượng đất nước gợi ra một đất nước bình dị, gần gũi, hiền hòa, đầy chất thơ, luôn sống mãi cùng con người và dân tộc.
Khi nói về sự hình thành, cội nguồn của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện đất nước từ chiều sâu của văn hóa, của những phong tục, tập tục được nối truyền, từ cha mẹ với "gừng cay muối mặn", từ "miếng trầu bà ăn", ... Đất nước là những gì quen thuộc nhất, gần gũi nhất với chúng ta:
"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ hay kể
Đất Nước bắt đầu với miềng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó ..."
Tác giả đã lý giải cội nguồn của đất nước, khẳng định Đất Nước "có rồi" như một điều tất yếu, đương nhiên, đó là một trong những động lực khiến chúng ta phải đi tìm lại cội nguồn của đất nước. Đất nước bắt nguồn từ những điều giản dị, chân thành, thân thuộc nhất với mỗi con người chúng ta, từ tục ăn trầu, từ những câu chuyện cổ tích "ngày xửa ngày xưa..." mẹ hay kể, từ thói quen vấn tóc sau đầu của mẹ, từ truyền thống "trồng tre" lấy chông đánh giặc của cha ông, ... Và đất nước cũng trưởng thành mỗi ngày như một thực thể, trưởng thành trong quá trình lao động của con người:
"Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã, giần, sàng"
Cái nhìn về cội nguồn của đất nước của tác giả thật mới mẻ. Nó chứa đựng trong đó cả chiều sâu về lịch sử, phong tục, văn hóa, ...
Không chỉ làm rõ cội nguồn của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục làm rõ khái niệm đất nước trong cái thước đo "thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông", của lịch sử, của địa lý.
Định nghĩa về đất nước được thể hiện qua phương diện không gian, địa lý:
"Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"
Đất nước là sự kết hợp của hai yếu tố: Đất và Nước. Hai yếu tố đó được định nghĩa là những gì quen thuộc, thân thuộc nhất của đôi lứa yêu nhau, gắn liền với đời sống sinh hoạt của con người "nơi anh đến trường", "nơi em tắm", gắn liền với kỉ niệm của đôi lứa yêu nhau "nơi ta hò hẹn". Trong hình ảnh đất nước ấy có những lời ca dao, những truyền thuyết, thần thoại, không gian bao la. Nó là không gian sinh tồn của các thế hệ con người Việt Nam:
"Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ"
Không chỉ dựng lên hình ảnh đất nước qua không gian, chiều sâu địa lý, Nguyễn Khoa Điềm còn dựng lên hình tượng đất nước thông qua chiều sâu lịch sử, xuyên suốt bốn ngàn năm của đất nước ta. Đó là khi ta biết tới những truyền thuyết về u Cơ - Lạc Long Quân, về Hùng Vương, về ngày giỗ Tổ:
"Đất là nơi chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và u Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu ở đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"
Đây là đất nước trong quá khứ của dân tộc, trong hiện tại, đất nước nằm trong sâu thẳm mỗi con người, mỗi con người đều mang một phần giá trị của đất nước. Và khi chúng ta đoàn kết lại với nhau, những giá trị ấy sẽ gắn kết lại, đất nước sẽ "hài hòa nồng thắm".
"Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa nắm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khí chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn"
Hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự thống nhất, gắn kết giữa cái chung và cái riêng, giữa các cá nhân với cả cộng đồng lớn. Hình tượng ấy cũng được soi chiếu qua lăng kính văn hóa dân gian để đến thế hệ tương lai kế cận, chúng sẽ mang đất nước "đi xa" hơn nữa, đất nước của chúng ta sẽ trường tồn muôn đời:
"Mai sau con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng"
Đến đây, Nguyễn Khoa Điềm lại trở lên thật suy tư và trầm lắng, bởi ông nhận ra cái trách nhiệm của mỗi cá nhân cho đất nước. Mỗi người phải biết "gắn bó và san sẻ", đóng góp cho đất nước "hóa thân cho dáng hình xứ sở", không chỉ bởi đất nước là máu xương của mình mà còn bởi vì tương lai đất nước trường tồn:
"Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Để làm nên Đất Nước muôn đời..."
Hình tượng đất nước ở đây hiện lên thật gần gũi, thân thuộc biết bao, thế nhưng cũng chẳng kém phần thiêng liêng, hào hùng. Hòa trong đó là khát vọng về một đất nước thịnh vượng, trường tồn trong sự gắn kết của mỗi con người trong xã hội.
Trong khi xây dựng hình tượng đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không quên cái tư tưởng cốt lõi làm nên đất nước đó là "Đất nước của nhân dân". Tại khổ cuối này, ông đã bộc lộ những cảm xúc của mình về tư tưởng đó đồng thời thể hiện những cảm nhận của riêng mình về đất nước.
Nguyễn Khoa Điềm cho rằng đất nước được là nên từ những phẩm chất, số phận của con người, của mỗi người dân trong xã hội, nó được dựng lên bằng máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên lịch sử của đất nước bốn ngàn năm:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp lên hòn trống mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
....
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta"
Đó là một đất nước vừa thi vị lại vừa giàu tính trí tuệ. Những cái tên, cảnh trí thiên nhiên đều là những con người những số phận tạo nên. Những gò đất, ruộng đồng, bờ bãi đều là những phẩm chất, "lối sống của cha ông". Chính những chất liệu đặc biệt ấy đã khiến đất nước trở lên vừa thiêng liêng nhưng cũng thân thiết lên bội phần.
Thế nhưng, đất nước không chỉ được tạo nên bởi những người được "nhớ mặt đặt tên", đất nước còn được làm nên từ vô số những con người vô danh:
"Trong bốn nghìn lớp người giống chúng ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước"
Và cũng chính những con người ấy đã tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần cho đất nước chúng ta lưu truyền, làm nên bản sắc riêng của đất nước. Họ là người đặt nền móng cho sự phát triển dài lâu, thịnh vượng của non sông:
"Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa giống
...
Họ đắp đập be bờ để người sau trồng cây hái trái"
Như đã nói ở trên, đoạn thơ này, Nguyễn Khoa Điềm tập trung nói về tư tưởng "Đất nước của nhân dân", vậy nên cảm hứng bao trùm toàn bộ đoạn thơ là tư tưởng đó. Một đất nước biết yêu thương, trân quý nghĩa tình, có ơn trả ơn, có thù báo thù, cùng nhau góp sức xây dựng đất nước, cùng chiến đấu bảo vệ non sông:
"Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại"
Như vậy, tóm lại, hình tượng đất nước mà Nguyễn Khoa Điềm thể hiện vừa có chiều sâu lịch sử, vừa có không gian của địa lý, bề rộng của phong tục, tập quán. Mọi khía cạnh đều được nhìn từ cái nhìn của phong tục tập quán. Trong đó có những phát hiện mới mẻ về cội nguồn đất nước, về sự hình thành đất nước cũng như một tư tưởng cốt lõi "Đất nước của nhân dân". Tác giả đã sử dụng chất liệu dân gian bằng giọng thơ của mình, bằng sự sáng tạo của mình để tạo nên một hình tượng đất nước thật sâu sắc trong bài thơ. Bài thơ của ông tạo nên sự mới mẻ trong thơ ca Việt, đồng thời tạo nên bức chân dung mới về hình tượng đất nước trong thời đại mới ngày nay.
Cả hai bài thơ của hai tác giả đều cảm nhận về đất nước ở một khía cạnh riêng của mình, có mới lạ, hiện đại, có truyền thống, dân gian. Nhưng tựu chung lại, nó đều làm nổi bật lên tình yêu nước sâu sắc của hai nhà thơ, đồng thời làm hoàn thiện hơn hình tượng đất nước trong nền thơ ca Việt Nam, làm cho người đọc chúng ta càng có cái nhìn đầy đủ nhất, mới mẻ nhất về đất nước chúng ta.
Mỗi người một phong cách, người dùng chất liệu hiện đại, người dùng chất liệu dân gian, nhưng dù là ai cũng đều mang đến cho người đọc những xúc cảm tuyệt vời về hình ảnh đất nước. Qua đó, chúng ta cảm nhận được tình yêu đất nước tới sâu nặng của cả hai người con đất Việt qua từng câu chữ, và họ cũng đã góp phần giúp mỗi người con Việt Nam càng thêm yêu quý và trân trọng Tổ quốc thiêng liêng của mình hơn nữa.
Câu trả lời của bạn
Thể loại bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi là thể thơ tự do.
Câu trả lời của bạn
Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm viết trong khoảng thời gian từ 1948 đến 1955. Bài thơ là sự tổng hợp của những sáng tác Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948), Đêm mít tinh (1949) và Đất nước (1955). Đây là thời gian ông trải nghiệm, trưởng thành cùng Đất Nước trong kháng chiến chống Pháp lần 2.
Câu trả lời của bạn
Giá trị nội dung của bài thơ Đất nước:
- Bài thơ thể hiện cảm hứng về đất nước. Đó là những suy cảm về một đất nước giàu đẹp, hiền hòa; về lịch sử cách mạng của một đất nước đau thương.
- Bài thơ thể hiện những cảm xúc sâu lắng tinh tế của tác giả về Đất Nước trong kháng chiến chống Pháp đau thương nhưng anh dũng, kiên cường và chiến thắng vẻ vang.
Câu trả lời của bạn
Giá trị nghệ thuật của bài thơ Đất nước:
- Các câu thơ dài, ngắn xen kẽ nhau, nhịp điệu biến đổi linh hoạt.
- Hình ảnh sinh động, biểu cảm, có những đoạn hình ảnh tương phản, có sức khái quát cao.
- Nhà thơ chú ý diễn tả sâu sắc, tinh tế tiếng nói nội tâm của nhân vật trữ tình. Trong đó có sự kết hợp giữa cảm xúc và suy tưởng.
Câu trả lời của bạn
Chủ đề của bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi: Bài thơ thể hiện tinh thần yêu nước, niềm tự hào sâu sắc về truyền thống anh hùng bất khuất của Đất Nước.
Câu trả lời của bạn
- Cảm xúc về đất nước được khơi nguồn từ một buổi sáng mùa thu:
+ Sáng mát trong: sáng mùa thu trong thiên nhiên trong lành của núi rừng Việt Bắc → tác giả nhớ về mùa thu của Hà Nội năm xưa trong không gian thu khoáng đạt, cao vời, sáng trong, mát lành.
+ Hương cốm.
+ Lặp từ thu.
+ sáng chớm lạnh.
+ Xao xác hơi may.
+ Thềm nắng – lá rơi đầy.
⇒ Bức tranh mùa thu đẹp nhưng đượm buồn đặc trưng. Đây là mùa thu bước vào cuộc kháng chiến nên dưới cái nhìn của tác giả có chút xao xuyến, bâng khuâng.
- Người ra đi/đầu không ngoảnh lại ⇒ thể hiện ý chí quyết tâm, những con người ra đi lặng lẽ, dứt khoát nhưng cũng đầy lưu luyến.
Câu trả lời của bạn
- Câu thơ 5 chữ Mùa thu nay khác rồi → Lời thơ ngắn gọn, chắc khoẻ nhằm khẳng định sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội, trong nhận thức của con người.
- Tâm trạng con người đứng vui nghe: niềm vui, sự hân hoan phơi phới khi đứng giữa đất trời tự do.
- Nghệ thuật nhân hóa, lối nói ẩn dụ: Gió thôi rừng tre phấp phới/ Trời thu thay áo mới/ Trong biếc nói cười thiết tha → Mùa thu đã thay áo mới, hiện diện bằng những hình ảnh bình dị, dân dã, khỏe khoắn và tươi sáng. Giờ đây thiên nhiên không lặng im mà như đang lên tiếng nói.
⇒ Bức tranh thu đẹp, lóng lánh niềm vui sướng, tự hào. Từ hoài niệm về mùa thu năm xưa Hà Nội, nhà thơ đã vẽ lên một bức tranh mùa thu chiến khu Việt Bắc với một tâm trạng hoàn toàn thay đổi.
- Trời xanh, núi rừng, ngả đường, cánh đồng, dòng sông: bằng thủ pháp nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc câu kết hợp với biện pháp liệt kê tác giả đã cho người đọc cảm nhận được cái hình hài của đất nước: vừa có chiều cao, chiều dài, chiều rộng, chiều sâu. → Khẳng định sự trù phú, giàu có của đất nước.
- Điệp ngữ của chúng ta: thể hiện sự nhấn mạnh vào chủ quyền của đất nước ta.
- Cụm từ Nước chúng ta – trang nghiêm, trang trọng.
- Nước những người chưa bao giờ khuất: đất nước được cảm nhận trong chiều dài lịch sử và tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc.
- Từ láy đêm đêm, rì rầm – sự liên tưởng về mối quan hệ giữa hiện tại và quá khứ.
- Đại từ tôi đã chuyển thành ta sự nhận thức của nhân vật trữ tình cái chung rộng lớn đã thay thế cho cái riêng.
⇒ Giọng điệu khỏe khoắn phấn khởi đầy hào hứng diễn tả sự đổi thay mạnh mẽ. Mùa thu của một đất nước lầm than nô lệ đã qua, từ đây là một mùa thu của độc lập, tự do. Đoạn thơ như một định nghĩa hoàn chỉnh về đất nước được cảm nhận ở hiện tại lẫn nhìn nhận trong chiều sâu quá khứ.
Câu trả lời của bạn
- Hình thức thể hiện: thơ 6 chữ cô đúc.
- Nhịp thơ nhanh, âm điệu rắn đanh.
- Súng nổ rung trời giận dữ: Khái quát hóa trận chiến ác liệt, khí thế anh hùng của đất nước. → Không khí của chiến trường không chỉ được bao trùm bởi sự ác liệt, mà còn nằm ở khí thế của người chiến đấu, đem sự căm thù hóa thành tiếng súng giận dữ, hào hùng.
- Người lên như nước vỡ bờ: Hình ảnh lớp lớp quân dân ta tiến vào chiến trường một cách rầm rộ. → Mang ý nghĩa biểu trưng cho sức mạnh đang tuôn trào sánh ngang với tầm vóc của thiên nhiên kỳ vĩ này.
- Nước Việt Nam từ máu lửa/Rũ bùn đứng dậy sáng lòa: Từ hình tượng người lính chiến bước ra từ trong khói lửa chói lòa, lấm lem bùn đất đã khái quát hóa thành biểu tượng chung cho đất nước Việt Nam. Mang khuynh hướng sử thi và chất anh hùng ca, qua biết bao nhiêu cuộc chiến nhưng vẫn hùng dũng đứng thẳng, mạnh mẽ vươn mình, rũ sạch bùn đất của kiếp nô lệ lầm than suốt mấy mươi năm. → Nhờ cảm hứng lãng mạn và hiện thực đã cho ta thấy sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân dân Việt Nam.
⇒ Vậy hình ảnh quật khởi hào hùng của một đất nước trong một bối cảnh rộng lớn được hiện ra trước mắt. Đó chính là tư thế chiến đấu và chiến thắng lẫm liệt, hào hùng của quân và dân ta trong trận Điện Biên Phủ.
Câu trả lời của bạn
* Đất nước trong đau thương:
- Cánh đồng quê – chảy máu.
- Dây thép gai – đâm nát trời chiều.
- Bát cơm chan đầy nước mắt.
- Đứa đè cổ – đứa lột da.
→ Những hình ảnh thể hiện sự đau thương của đất nước trong chiến tranh. Kẻ thù huỷ hoại tất cả đời sống tinh thần cũng như vật chất.
- nhớ mắt người yêu: sự hài hoà giữa cái chung – riêng, tình yêu lứa đôi – tình yêu đất nước.
→ Những con người hiền lành biến tình yêu nước nồng nàn thành sự cháy bỏng căm hờn và kiên quyết chiến đấu giành quyền sống chính đáng.
* Đất nước của những con người anh hùng, dũng cảm, bất diệt:
- Ngời lên nét mặt quê hương.
- Bật lên những tiếng căm hờn.
→ quyết liệt, dữ dội
- Nghệ thuật đối lập:
Xiềng xích >< trời đầy chim
Súng đạn >< đất đầy hoa
yêu nước,
thương nhà
→ Thể hiện sự tàn bạo của giặc và tấm lòng yêu nước của dân ta. Khẳng định sức mạnh tinh thần, tâm hồn người Việt Nam
- Sự thay đổi về cảnh vật → vừa chiến đấu vừa xây dựng.
- Sự thay đổi con người → giản dị mà bất khuất, kiên cường, quật khởi.
- Động từ ôm (trong câu thơ: ″ôm đất nước...″) được hiểu theo nghĩa như một tính từ: sự níu giữ, niềm tin yêu vô bờ, không để ai cướp lấy.
- Nổi bật và đặc sắc nhất vẫn là 4 câu thơ cuối bài ″Súng nổ...đứng dậy sáng loà″
+ Hình thức thể hiện: thơ 6 chữ cô đúc, rắn rỏi.
+ Bút pháp nhân hoá, kết hợp với sự linh hoạt, nhuần nhị trong việc đưa thành ngữ ″tức nước vỡ bờ″ vào thơ.
⇒ Tạo nên vẻ đẹp hào hùng, tráng lệ về con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Đoạn thơ đã khái quát được sức vươn dậy thần kỳ của dân tộc Việt Nam chúng ta. Con người Việt Nam đã đứng đúng tư thế hào hùng rũ bỏ vết nhơ nô lệ.
Câu trả lời của bạn
- Các câu thơ dài ngắn xen kẽ, cách lựa chọn hình ảnh sinh động, biểu cảm, nhịp điệu linh hoạt đã giúp Nguyễn Đình Thi dựng được bức tượng đài về hình ảnh đất nước trong chiến đấu và chiến thắng. Chiến thắng của dân tộc Việt Nam là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu mồ hôi đã rơi và nỗi đau, gian khổ ập đến. Song chiến thắng ấy cũng là sự kết tinh lớn lao của tình yêu nồng thắm, của tinh thần chiến đấu mãnh liệt và khát vọng hòa bình sâu thẳm.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Đình Thi sinh ra tại thành phố Luông Pha Băng, nước Lào.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *