Bài học giúp các em cảm nhận được tình cảm tri ân sâu sắc pha nỗi xót xa ân hận muộn màng của nhà thơ đối với người bà đã khuất. Hiểu được những nét riêng của Nguyễn Duy trong cách nhìn về quá khứ, về tuổi thơ cũng như trong cách thể hiện những cảm nhận về người bà lam lũ tảo tần giàu yêu thương.
⇒ tinh nghịch, hiếu động, hồn nhiên.
⇒ cơ cực, tần tảo, yêu thương .
“Khi tôi biết thương bà thì đã muộn
Bà chỉ còn một nấm cỏ thôi "
⇒ thấu hiểu nỗi khổ cực của bà; thể hiện nỗi ngậm ngùi, sự ân hận muộn màng khi bà không còn nữa.
⇒ Tôn vinh, ngợi ca tấm lòng nhân từ cao cả của bà. Khẳng định sự bất diệt của hình ảnh người bà.
Phân tích hình ảnh người bà và kí ức tuổi thơ của nhân vật trữ tình trong bài thơ Đò lèn của Nguyễn Duy
b. Thân bài
Bài thơ Đò lèn được cấu tứ theo mạch hồi tưởng, những mẩu kí ức lần lượt hiện lên làm sống dậy một quãng đời tuổi thơ của Nguyễn Duy, trong đó sâu đậm nhất là hình ảnh người bà. Để có thể dễ dàng trả lời được hệ thống các câu hỏi trong SGK, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Đò lèn.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Nguyễn Duy là một nhà thơ có nhiều đóng góp trong nền thơ ca Việt Nam, bản thân tác giả là một người sớm mồ côi cha mẹ nên cảm xúc của ông về tuổi thơ của mình thật gần gũi và gắn bó trong quãng đời của ông, chính vì vậy những cảm xúc đó đã tạo nên những nguồn cảm hứng để ông sáng tác bài Đò Lèn. Để nắm được cách lập dàn bài và viết một bài văn hoàn chỉnh phân tích tác phẩm này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích hình tượng người bà trong tác phẩm Đò Lèn của nhà thơ Nguyễn Duy
- Phân tích đoạn thơ cuối trong bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy
- Cảm nhận về bài thơ Đò lèn của Nguyễn Duy
- Phân tích bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Cách nhìn về tuổi thơ của tác giả:
-Thời thơ ấu: câu cá , bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật,ăn trộm nhãn, đi chơi đền,chân đất đi đêm, níu váy bà đòi đi chợ...⇒ tinh nghịch, hiếu động, hồn nhiên.
- Cách nhìn: thành thực, thẳng thắng, tự nhiên, đậm chất quê, khác với lối thi vị hoá thường gặp ⇒ cách nhìn mới mẻ.
Câu trả lời của bạn
- Hình ảnh người bà: mò cua xúc tép ,gánh chè xanh những đêm lạnh ,bán trứng ga Lèn ngày bom Mỹ dội, năm đói củ dong riềng luộc sượng.. .
⇒ cơ cực, tần tảo, yêu thương .
Câu trả lời của bạn
- Tình cảm của nhà thơ khi nghĩ về bà ngoại:
+ Thấu hiểu nỗi cơ cực, tần tảo, tình yêu thương của bà .Thể hiện tình yêu thương, sự tôn kính, lòng tri ân sâu sắc đối với bà.
+ Sự ân hận , ngậm ngùi , xót đau muộn màng:
″Khi tôi biết thương bà thì đã muộn
Bà chỉ còn một nấm cỏ thôi″
Câu trả lời của bạn
Những đặc sắc trong cách thể hiện của ND trong thi đề viết về tình bà cháu:
- Sử dụng thủ pháp đối lập:
+ Đối lập giữa cái tinh nghịch vô tư của người cháu với cái cơ cực, tần tảo của người bà.
+ Đối lập giữa chiến tranh ác liệt với tình yêu thương của người bà.
+ Đối lập giữa cái vĩnh hằng của vũ trụ với cái ngắn ngủi, hữu hạn của cuộc đời con người.
⇒ thấu hiểu nỗi khổ cực của bà; thể hiện nỗi ngậm ngùi, sự ân hận muộn màng khi bà không còn nữa.
-Sử dụng phép so sánh đối chiếu:
+ Giữa cái hư và cái thực; giữa bà với Tiên , Phật, thánh thần ⇒ tương đồng
+ Giữa thần thánh với bà đặt trong một bối cảnh chiến tranh ⇒ tương phản
⇒ Tôn vinh, ngợi ca tấm lòng nhân từ cao cả của bà.Khẳng định sự bất diệt của hình ảnh người bà.
- Giọng điệu: thành thực, thẳng thắng.Vì thế tạo được dư vị về nỗi ngậm ngùi, đắng xót , ân hận pha lẫn những suy niệm đầy màu sắc triết lí về sự sống con người.
Câu trả lời của bạn
Hai khổ thơ đầu: Đó là kí ức tuổi thơ hồn nhiên, vô tư với những trò chơi nghịch ngợm của trẻ con (câu cá, bắt chim, hái trộm nhãn, níu váy theo bà đi chợ, ...). Đó là niềm say mê, mơ mộng thế giới hư ảo của tiên Phật, thánh thần (chơi đền Cây Thị, xem lễ đền Sòng, tâm hồn trẻ thơ ngây ngất trước mùi thơm của hương trầm, hoa huệ, trước điệu hát văn của cô đồng, ...)
Câu trả lời của bạn
Ba khổ thơ tiếp: Hiện lên hình ảnh người bà trong cuộc đời thực với bao vất vả, khổ cực, gian nan. Cuộc sống nghèo khó nên phải "mò cua xúc tép", "gánh chè xanh" trĩu nặng trên vai cùng bà con xuôi ngược buôn bán khắp nơi; ăn "củ dong riềng luộc sượng" để cầm hơn qua cơn đói khát; thời chiến tranh ác liệt, nhà bà bị bom Mĩ dội bà phải đi "bán trứng ở ga Lèn"
Câu trả lời của bạn
Hoàn cảnh sáng tác: Nguyễn Duy viết bài thơ "Đò Lèn" vào tháng 9 năm 1983, khi tác giả có dịp trở về quê, sống trong những kí ức buồn vui thời thơ ấu. Đò Lèn là địa danh, quê ngoại ông.
Bố cục bài thơ:
Câu trả lời của bạn
Chủ đề của bài thơ Đò lèn qua những kí ức tuổi thơ gắn liền với người bà và địa danh thân thuộc quê hương, tác giả đã bộc lộ tình yêu quê hương và bộc lộ những giá trị thức tỉnh rất nhân bản.
Câu trả lời của bạn
Cách nhìn của Nguyễn Duy về tuổi thơ của mình:
– Thời thơ ấu: câu cá, bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật, ăn trộm nhãn, đi chơi đền, chân đất đi đêm xem hội… níu váy bà đòi đi chợ…
→ Kỉ niệm tuổi thơ vui tươi, tinh nghịch, hiếu động, hồn nhiên. Những địa danh cụ thể, thân quen gắn liền với những hiếu động, nghịch ngợm của trẻ nhỏ được nhắc đến, hiện lên đầy sinh động và gần gũi, như mở ra vùng kí ức thơ dại, chạm đến những kỉ niệm sâu lắng nhất trong lòng người.
– Nét mới: kể những kỉ niệm không đẹp, cái xấu của trẻ thơ và được nhắc tới một cách chân thực rất sinh động Ăn trộm nhãn chùa Trần, khiến người đọc càng liên tưởng tới vẻ tinh nghịch, vui nhộn của một thời từng trải qua → Cách nhìn thành thực, thẳng thắng, tự nhiên, đậm chất quê, khác với lối thi vị hoá thường gặp.
Câu trả lời của bạn
Hình ảnh cậu bé tinh nghịch vô tư sống giữa đất trời quê ngoại dân dã với kỷ niệm vui buồn đan xen, đặc biệt gắn liền với hình ảnh bà ngoại. Kí ức hiện lên với hai mảng hình ảnh tương phản, ngầm thể hiện sự ân hận, day dứt của nhân vật tôi trong quá trình nhận thức.
Câu trả lời của bạn
Ý nghĩa “ trong suốt, hư- thực”:
=> Nguyễn Duy đứng giữa "bờ hư-thực" để nghĩ về bà, dùng tấm lòng trong suốt, tinh tế để cảm nhận về bà và tình cảm của bà, bà luôn dành cho cháu thứ tình cảm nhân từ, độ lượng, yêu thương vô cùng.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Duy đứng giữa "bờ hư-thực" để nghĩ về bà, dùng tấm lòng trong suốt, tinh tế để cảm nhận về bà và tình cảm của bà, bà luôn dành cho cháu thứ tình cảm nhân từ, độ lượng, yêu thương vô cùng.
Câu trả lời của bạn
Những bài thơ về hình ảnh người bà:
=> Cùng với Đò Lèn, Những bài thơ trên là bông hoa nghệ thuật tô đẹp hình tượng người bà kính yêu trong mỗi gia đình Việt Nam chúng ta. Chúng đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Duy viết bài thơ "Đò Lèn" vào tháng 9 năm 1983, in trong tập thơ "Ánh trăng", xuất bản năm 1984. Bài thơ có hai câu thơ bảy tiếng, một câu thơ chín tiếng, còn lại 32 câu thơ tám tiếng.
Các dòng thơ nối tiếp xuất hiện như giọng kể tâm tình. Các địa danh thân thuộc của quê hương thân yêu từng gắn bó với tâm hồn của tác giả thời thơ bé, từng in dấu chân, hơi thở, nhịp sống của bà được nhắc lại xiết bao nổi ân tình: Đò Lèn, cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng, Ba Trại,... Hình ảnh người bà nghèo khổ, tần tảo, đôn hậu... được tái hiện trong những vần thơ bình dị có một sức ám ảnh và cuốn hút kì lạ. Nguyễn Duy mồ côi mẹ, sống trong sự chăm chút yêu thương của bà ngoại, nên lời thơ mới chân thực và cảm động như vậy. Càng về cuối, giọng thơ càng bùi ngùi nhớ thương bà.
Hai khổ thơ đầu tác giả nhắc lại những kỉ niệm tuổi thơ của một chú bé nhà nghèo, thích chơi bời lêu lổng, nghịch ngợm... chẳng kém ai: đi câu cá ở cống Na, theo bà đi chợ Bình Lâm, đi bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật, cũng có "đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần". Có những câu thơ giản dị, bình dị như lời nói mà gợi lên nhiểu rung động về cái hồn nhiên, ngộ nghĩnh của một cậu bé nơi làng quê trước đây:
"níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và dôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần".
Cũng đã từng "lên chơi đền Cây Thị".Với đôi chân đất của con nhà nghèo, vẫn háo hức trong mùa lễ hội, vẫn "đi đem xem lễ đền Sòng". "Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh" (Tản Đà), giáp giới với tỉnh Ninh Bình thế mà chú bé vẫn lặn lội đất đi đêm xem lễ đền Sòng".Hoa huệ trắng, khói trầm, điệu hát văn và bóng cồ đồng "lảo đảo" đã in sâu vào tâm hồn tuổi thơ của Nguyễn Duy:
"mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng".
Từ láy "lảo đảo" là cái thần của bức tranh về cô đồng mà chúng ta thường nhìn thấy ở một số lễ hội dân gian. Nguyễn Duy thường nhắc đến hoa huệ với màu trắng và mùi thơm bằng tất cả sự thanh khiết của tâm hồn mình. Hoa huệ trên bàn thờ mẹ:
"Bần thần hương huệ thơm đêm
khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn".
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
Trong bài thơ "Đò Lèn",ông cũng hai lần nhắc đến:
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm...
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm...
Sức cuốn hút, ám ảnh của bài thơ "Đò Lèn" là ở hình tượng người bà. Đó là bà ngoại của Nguyễn Duy. Ân hận, khẽ trách mình vô tâm, vô tình: "Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế". Nhà nghèo, bà lặn lội "mò cua xúc tép" ở đồng Quan để có tiền mua gạo nuôi cháu. Bà đi gánh thuê chè xanh Ba Trại, gánh nặng, đường xa và gồ ghề, đêm tối và gió rét, đỏi chân bà "thập thững" bước đi. Đôi vai "chín dạn" vì gánh đòn tre. Chân bước cao bước thấp, lúc ngả lúc nghiêng, bước đi "thập thững" trong đêm tối, trong gió rét. Bà vất vả và cơ cực. Bà là hiện thân của đức hi sinh, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam, của những cái cò lặn lội trong cuộc đời. Nguyễn Duy đã gửi gắm bao tình thương và biết ơn đối với bà:
"Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua, xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn".
Năm đói, một củ dong riềng luộc sượng bà dành cho cháu. Trong vị ngon ngọt của củ dong riềng, đứa cháu "nghe" được mùi thơm của huệ trắng, của hương trầm. Nguyễn Duy đã lấy mùi thơm của huệ trắng, hương trầm để diễn tả những xúc cảm về tình thương bao la, mênh mông của bà. Bà hiền lành, tâm hồn bà đôn hậu, thánh thiện. Tiên, Phật, thánh soi sáng lòng từ bi, bác ái mà bà hướng tới. Sống trong tình thương ấp ủ của bà, nên đứa cháu mới thấu hiểu được lòng bà, tâm hồn của bà:
"Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực
giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần".
Giữa thời khói lửa, bom đạn giội làm nhà bà "bay mất", đền Sòng cũng "bay", chùa chiền "bay tuốt cả",... Khi mà "thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết" bà vẫn trụ vững giữa cuộc đời, bà vẫn bươn bả kiếm sống, bà vẫn chống chọi với mọi khó khăn lam lũ:
"bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn".
Đó là một nét vẽ rất thực, rất đậm trong hình tượng về người bà của nhà thơ; và đó cũng là hình ảnh người bà rất gần gũi với mỗi gia đình Việt Nam chúng ta.
Đoạn cuối nói lên nỗi xúc động của đứa cháu khi đứng trước ngôi mộ bà ngoại:
"Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi".
Sự kết hợp hài hoà giữa cảm xúc và tính triết lí đã tạo nên sự rung cảm sâu xa của vần thơ. Dòng sông xưa mà tác giả nói đến là sòng Chu, sông Mã, sông Đò Lèn. Những năm dài chiến tranh loạn lạc đã đi qua. Ọuê hương đất nước thanh bình, ngày một đổi thay, ngày một tươi đẹp. Câu thơ "dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi" mang hàm nghĩa về cuộc đời bể dâu, về sự đổi thay của quê hương xứ sở.
Câu cuối bài thơ "bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi" cũng mang ý vị triết lí về kiếp người hữu hạn trong dòng chảy vô cùng của thời gian và vũ trụ. Câu thơ của Nguyễn Duy man mác buồn, làm ta liên tưởng đến câu thơ của Nguyễn Gia Thiều trong "Cung oán ngâm khúc":
"Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì".
Bà ngoại đã mất, nhưng tình thương và sự tẩn tảo của bà vẫn còn lại mãi với con cháu.
"Đỏ Lèn" là một bài thơ đặc sắc của Nguyễn Duy. Cùng với "Bếp lửa" của Bằng Việt, bài thơ "Đò Lèn" của Nguyễn Duy là bông hoa nghệ thuật tô đẹp hình tượng người bà kính yêu trong mỗi gia đình Việt Nam chúng ta.
Hơn mười địa danh được nhà thơ nhắc đến đã làm cho ý nghĩa bài thơ thêm đẹp và sâu sắc: tình yêu bà, yêu gia đình gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết. "Đò Lèn" là một trang thơ cảm dộng về kí ức tuổi thơ của người lính.
Câu trả lời của bạn
Câu thơ cuối bài thơ “bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi ” man mác buồn, mang ý vị triết lí về kiếp người hữu hạn trong dòng chảy vô cùng của thời gian, vũ trụ. Đồng thời thể hiện nỗi ân hận của người cháu vì năm xưa đã vô tâm, không thể chăm sóc bà.
Câu trả lời của bạn
Tình cảm gia đình luôn là một thứ tình cảm thiêng liêng nhất, vì chỉ có gia đình mới là người bên ta dù cho khó khăn hay sung sướng mà thôi. Có biết bao nhiêu thứ tình cảm đi qua đời một con người như tình bạn, tình yêu, tình bằng hữu… nhưng duy nhất chỉ có tình cảm gia đình là bền vững nhất. Trong tình cảm lớn ấy chúng ta không chỉ biết đến công cha nghĩa mẹ mà còn biết đến sự yêu thương chăm sóc của bà. Người bà đã biết bao nhiêu lần trở thành đề tài văn học tiêu biểu trong những bài thơ bài văn nói về bà ấy có thẻ nhắc đến hình tượng người bà trong bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy. Qua tác phẩm này ta thấy những vẻ đẹp của người bà hiện lên một cách rõ ràng và nó tiêu biểu cho hình tượng những người bà trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Trước hết người bà còn hiện lên với vẻ đẹp của một người yêu thương cháu hết mực. bà tham gia những lễ đền lễ chúa chính vì thế mà tác giả Nguyễn Duy ngay từ bé đã quen với những nơi như chùa Trần, Phật Tổ:
"Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Hay đó chính là tín ngưỡng tôn đạo Phật mà nhân dân ta. Qua những vần thơ kể về tuổi thơ của Nguyễn Duy ta thấy được hình ảnh người bà ấy có cái tâm thật tĩnh và hướng thiện. Vì chỉ có hướng thiện thì bà mới hay đi chùa như thế. Và cũng chính vì hay đi chùa cho nên Nguyễn Duy mới có những trò chơi gắn liền với hình ảnh chùa chiền đến vậy. Lớn lên bên bà nên Nguyễn Duy cũng sớm quen cái mùi hương trầm. đó là nhưng hương thơm tạo nên không khí thiêng liêng kính cẩn của chùa phật.
Không những thế người bà ấy còn là một người rất thương yêu cháu mình, bà đi đâu thì nhà thơ cũng theo tới đó:
"Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng"
Nhà thơ không chỉ quen với hương trầm huệ trắng mà còn quen cả những bóng cô đồng lảo đảo hát chầu văn. Và hình ảnh rất đồi giản dị mà gợi lên tất cả những gì của đơn sơ nghèo mà đời sống tâm hồn thì phong phú đó là hình ảnh tác giả đi chân đất đi chợ đền Sòng với bà.
Hình tượng người bà còn hiện lên thật hay qua những công việc của bà. đó chính là sự khổ cực và đức hi sinh cao cả của bà trong những năm tháng kháng chiến chống mỹ đầy ác liệt. Bà chọn cho mình công việc cả ngày cả đêm. Đó không chỉ là một công việc mà đó là rất nhiều công việc. Qua những công việc đó ta thấy được sự cơ cực của người bà. Sáng ra bà mò cua xúc tép, rồi đi gánh chè xanh Ba Trại. Tối đến bà lại đi Quán Cháo, Đồng Giao. Đó chính là những nét đẹp hi sinh vất vả đẹp đẽ của bà:
"Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm"
Và chính vì thế mà trong mắt nhà thơ bà hiện lên không khác gì với những thánh thần kia cả. Bà đẹp cái vẻ đẹp hiền hậu, nhân hậu, lương thiện và giàu đức hi sinh giống như những ông Phật Tổ kia ban phước cho đời thì bà chính là ngươi ban phước mang niềm hạnh phúc đến cho cuộc đời của cháu.
Hình tượng người bà hiện lên với sự kiên cường của những bà mẹ Việt Nam anh hùng:
"Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn"
Dù cho biết bao nhiêu bom đạn rơi xuống, nhà của bà mất, đời sống tâm linh của bà cũng bay tuốt nhưng mà vẫn không lùi bước. Bà vẫn kiên cường chống lại thứ vu khí hủy diệt kia bằng cách sống theo một nghề khác. Cuộc sống nghèo khổ và đau thương không làm cho bà mệt mỏi và ngã quỵ mà còn khiến cho bà kiên cường hơn. Bà đi bán trứng để tiếp tục cuộc sống của mình. và đến khi mất đi rồi bà vẫn còn ở tâm trí người cháu Nguyễn Duy cậu bé hồn nhiên hồi nào.
Có thể nói hình tượng người bà trong bài thơ Đò Lèn đại diện cho những vẻ đẹp của người mẹ anh hùng Việt Nam. Những người mẹ đó tuy đã già nhưng vẫn rất kiên cường chống lại bom đạn và sự tàn ác của kẻ thù. Bà không ngại khó khăn để mang đến một cuộc sống cho cháu, để những người cháu ấy lớn lên và cầm vững tay súng để bảo vệ chủ quyền cho đất nước cũng như để giữ yên nấm cỏ khô kia khỏi bom đạn chiến tranh.
Câu trả lời của bạn
Trong phong trào của các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước, Nguyễn Duy đã xác lập cho mình một lối đi riêng: không ngang tàng bụi bặm như Phạm tiến Duật, không gân guốc như Nguyễn Đức Mậu hay nghiêm trang như Nguyễn Khoa Điềm; ở Nguyễn Duy là những cảm xúc đầm ấm, hồn hậu đã lắng kết ngàn đời, trở thành tâm thức văn hóa, thành những hồi ức không thể nào quên. Những điều ấy được thể hiện qua dòng suy tư của nhân vật trữ tình trong bài thơ “Đò Lèn”.
“Đò Lèn” được sáng tác khi đất nước đã lặng im tiếng súng (1983), cuộc sống yên bình đã trở lại nhưng vẫn còn đó, nguyên vẹn một Nguyễn Duy đằm sâu triết lí mà thanh thoát, nhẹ nhàng trong hơi thở dân dã tự nhiên, một cái tôi có khả năng kết nối từ hồi ức riêng tư đến lịch sử dân tộc. Bài thơ “Đò Lèn” là lời của người cháu đã trưởng thành nhìn lại tuổi thơ, nhìn lại những năm tháng sống bên bà mà suy nghĩ, thức tỉnh. Cái nhìn có vẻ đơn sơ, hồn nhiên mà cũng thấm thía, sâu sắc trong sự song hành quá khứ - hiện tại, trong những suy tưởng triết lí ẩn hiện phía sau. Bài thơ kết cấu theo dòng chảy của hoài niệm tuổi thơ, ngỡ ngọt ngào mà hóa ra xa xót, ngậm ngùi.
Bài thơ mở ra với những hồi ức tuổi thơ tươi đẹp:
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng”
Cái “tôi” hồi ức, kể lể, dãi bày về câu chuyện ấu thơ: “Thuở nhỏ tôi…” Đó là cái “tôi” hồn nhiên của một thời vô lo, vô nghĩ với những trò chơi dân gian thân thuộc đã làm nên tuổi thơ: câu cá, theo bà đi chợ, bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật, ăn trộm nhãn chùa Trần.” Đó là một cậu bé hiếu động và nghịch ngợm. Nguyễn Duy thật tài tình khi chỉ vài nét bút đã làm hiện lên cậu bé hoạt bát “chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng” và còn có thể làm mờ hóa không gian bằng và trong hai câu thơ sau đẹp như ảo ảnh. Hai câu thơ không một từ nào khó hiểu nhưng đặt cạnh nhau lại tạo nên một ám ảnh da diết lạ thường. Câu trên là một màu sắc, hương thơm ảo; câu dưới là một âm thanh ảo, bóng hình ảo.
Cái hồn nhiên, vô lo nghĩ một thời “níu váy bà đi chợ Bình Lâm” trong cái nhìn hiện tại lại có gì day dứt khôn nguôi:
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Một chữ “thập thững” mang theo bao bước chân già nua trong đói rét, như có cả hơi thở hổn hển. Không phải bước chân hốt hoảng của Hoàng Cầm: “Bước cao thấp bên bờ tre hun hút” (“Bên kia sông Đuống”) mà là bước đi thường ngày của người già: bước lên – bước xuống theo nhịp quang gánh trĩu nặng, yếu ớt. Những địa danh riêng “Quán cháo, đồng Quan, Đồng Giao,…” mà vẫn đem lại cảm xúc chung về quê hương nguồn cội; bà của “tôi” mà như của mọi người. “Tôi đâu biết” là cái giật mình đầy xa xót như cái giật mình đầy xa xót của biết bao người con khi nghĩ về bà, về mẹ - những người phụ nữ Việt Nam. Đại từ “tôi” bé nhỏ, âm thầm, không phải cái thế kiêu bạc của người lính chiến “ung dung buồng lái ta ngồi” (Phạm Tiến Duật) mà trĩu nặng những ân tình, bộc bạch, sẻ chia. Những nhận thức, ăn năn về đạo đức chứ nhẹ nhàng đến mà thấm thía như thế.
Từ đó mà mạch thơ dẫn về tâm linh qua những cảm nhận nguyên sơ của con trẻ:
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm”
“Trong suốt” – một cảm nghiệm tâm linh hay một ảo giác, một tín ngưỡng trong tâm hồn thơ dại? “Tiên, Phật, thánh thần” là hư mà cũng từng là thực trong niềm tin tuổi nhỏ. Bà là thực mà cũng là hư trong bao điều mà “tôi đâu biết”. Những tương phản tạo nên sức ám ảnh của câu thơ: hư – thực, hiện thực (“củ dong riềng luộc sượng”) và tâm linh huyền ảo (“mùi huệ trắng hương trầm”) hay niềm tin vượt lên hiện thực? Cái đói là hiện thực nhưng nó cũng không giết được cái đẹp mà giữ người ta trong trạng thái “trong suốt” – nhìn xuyên thấu, hòa nhập vào tâm linh. Trong mắt cháu, bà hiện lên là một ám ảnh, một niềm vui, một nỗi xót xa và cả sự tâm linh lạ kì.
Sự kiện “Bom Mĩ dội nhà bà tôi bay mất” khiến nhân vật bừng tỉnh. Bầu trời cổ tích vỡ tan và hiện thực nghiệt ngã về cuộc đời hiện ra: “Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”. Sự bừng tỉnh đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời nhân vạt trữ tình. Cậu bé hồn nhiên sống trong tình yêu thương vô điều kiện đã bước khỏi tuổi thơ để nhìn thấy bà trong đời thực. Khiến thánh thần bay mất: “thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết” như đang giải huyền thoại cho một niềm tin ngây thơ. Những ngôn ngữ đậm chất dân dã, hài hước càng rõ nét cho sự giải thiêng để khẳng định sức sống của con người bình thường.
Và rồi kết thúc câu chuyện là một nỗi buồn sâu, buồn lâu và một suy ngẫm phổ quát rất “Nguyễn Duy”, đậm tính suy tưởng Nguyễn Duy
Cách kể “Tôi đi lính lâu không về quê ngoại” ngỡ như một lời tự sự bình thường mà dồn nén thời gian cả một cuộc chiến, chất chứa trong đó cả một cuộc đời. Đứa trẻ năm nào nhìn dòng sông trong sự toàn vẹn của nó: “bên lở bên bồi”. Thì ra, cuộc đời này vẫn luôn là thế: là sự được – mất, thành – không luôn song hành. Con người ta đôi khi để có được điều gì đó lại phải đánh đổi những điều rất quý giá của mình. Đôi khi, đến cuối con đường, lại nhận ra sự trả giá ấy là quá đắt: “biết thương bà thì đã muộn”. Cái “nấm cỏ” kia có thể là “cỏ khâu xanh rì” hay “sè sè nắm đất bên đường”, chẳng hề vô tri mà là cuộc đời của cả một con người, là dòng thác cuộn chảy của cả một thời kì lịch sử.
Bài thơ tưởng như rất cá nhân (từ nhan đề “Đò Lèn” – một địa danh cụ thể đến danh xưng “tôi”) lại mang đậm màu sắc nhân sinh là một cách thức nhận lại mình, lại lịch sử một cách công bằng và trung thực hơn. Triết lí mà không cao siêu, nhẹ nhàng mà thấm thía trong cách cảm vè sự đời và con nười, giản dị trong tiếng nói mà gây thành ấn tượng, ám ảnh. Mỗi đoạn thơ chỉ có chữ đầu tiên đoạn viết hoa, tưởng như là mỗi câu văn của một câu chuyện được thủ thỉ, tâm tình, giãi bày rất thân thương, gần gũi. Ngôn từ không một chút khó hiểu nhưng khi ứng hiện với nhau tạo lên một hình thức lấp lánh, đầy sức gợi mở. Bài thơ đã thực hiện sứ mệnh của văn học: làm cho người ta không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người, quên rằng đó là tiếng nói của ai nà chỉ thấy nó như tiếng ca từ trong lòng mình, như là của mình vậy. Và như thế, văn học không rao giảng đạo đức mà là sự “ăn năn về đạo đức” để tự nhận thức, tự đổi thay.
Như Thanh Thảo chiêm nghiệm: “Muôn đời thơ vẫn là chuyện rút ruột rút gan mình ra mà thôi”. Bằng những tiếng lòng sâu thẳm nhất, đó chính là điều đã giữ bài thơ đến tận ngày hôm nay và kéo tên tuổi Nguyễn Duy ra khỏi quy luật băng hoại nghiệt ngã của thời gian.
Câu trả lời của bạn
Thể loại của bài thơ Đò lèn là thể thơ 8 chữ.
Câu trả lời của bạn
Giá trị nội dung của bài thơ Đò lèn:
- Những dòng kí ức về tuổi thơ gắn với những kỉ niệm quê ngoại của Nguyễn Duy đã gợi ra một miền quê cơ cực, từng phải chịu bao tàn phá đau thương bởi bom đạn của chiến tranh.
- Tình cảm yêu thương sâu sắc giữa hai bà cháu.
- Hình bóng người lao động Việt Nam ở mọi miền quê: lam lũ, nghèo khó mà cần cù, nhân hậu, rất giàu tình cảm đối với cội nguồn, với văn hóa truyền thống…
Câu trả lời của bạn
Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Đò lèn:
- Bài thơ được sáng tác vào tháng 9 - 1983 khi Nguyễn Duy trở về quê ngoại thăm bà sau bao năm xa cách nhưng bà đã không còn.
- In trong tập thơ Ánh Trăng (1984).
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *