Bài giảng Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm giúp các em cảm nhận được những suy tư sâu sắc của nhà thơ về Đất Nước và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương, xứ sở. Hiểu được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính luận và trữ tình, sự vận dụng các chất liệu văn hóa và văn học dân gian, sự phong phú, linh hoạt của giọng điệu thơ. Chúc quý thầy cô và các em có tiết học sôi động, hấp dẫn và hiệu quả hơn tại lớp.
⇒ Tác giả đã hướng tới cái nhìn toàn vẹn và nhiều chiều về đất nước để khơi dậy một đất nước có chiều dài của thời gian lịch sử, chiều rộng của không gian địa lí và chiều sâu của truyền thống văn hoá dân tộc.
⇒ Xây dựng và bảo vệ Đất nước muôn đời (nghĩa vụ).
⇒ Đất nước hiện lên vừa gần gũi vừa thiêng liêng.
⇒ Sự phát hiện thú vị và độc đáo về đất nước được triển khai theo hướng vừa khơi sâu, vừa phát triển những ý nghĩa mới trên các phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá với nhiều ý nghĩa mới: Muôn vàn vẻ đẹp của đất nước đều là kết tinh của bao công sức và khát vọng của nhân dân, của những con người vô danh, bình dị .
Mời các em cùng củng cố lại kiến thức trọng tâm của bài học thông qua sơ đồ sau:
Anh (chị) hãy phân tích 9 câu đầu của bài thơ Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm.
Nếu như các nhà thơ khác thường dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, mang tính tiểu tượng, tạo ra những khoảng cách để cảm nhận chiêm ngưỡng về Đất Nước thì Nguyễn Khoa Điềm lại đưa bạn đọc đến với hình ảnh Đất Nước trong những gì gần gũi, quen thuộc và thân thương nhất. Để hiếu sâu sắc hơn về bài thơ, các em có thể tham khảo bài soạn sau đây: Bài soạn Đất nước.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Mặt đường khát vọng là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời trong chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ, tại chiến trường Trị - Thiên - một điểm nóng - trên chiến trường miền Nam vào năm 1971. Bài thơ đã truyền đến người đọc bao xúc động, tự hào về Đất Nước và nhân dân. Để xác định được hướng lập dàn ý và viết bài văn hoàn chỉnh về bài thơ Đất nước, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
- Tư tưởng đất nước của Nhân dân qua đoạn trích Đất nước
- Phân tích đoạn thơ trong đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
- Cảm nhận đoạn thơ trong đoạn trích đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
- Chất liệu dân gian qua đoạn thơ đầu đoạn trích Đất Nước
- Phân tích đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
- Cảm nhận mới mẻ về đất nước và con người trong Đất Nước
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
A. Nằm ở phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”
B. Nằm ở phần đầu chương VII của trường ca “Mặt đường khát vọng”
C. Nằm ở phần đầu chương VIII của trường ca “Mặt đường khát vọng”
D. Nằm ở phần đầu chương IX của trường ca “Mặt đường khát vọng”
Câu trả lời của bạn
Đoạn trích “Đất nước” : nằm ở phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”, là một trong những đoạn thơ hay về đề tài Đất Nước trong thơ Việt Nam hiện đại.
Chọn đáp án: A
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
…
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
A. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân
B. Cảm nhận độc đáo về quá trình hình thành, phát triển của đất nước; từ đó khơi dậy ý thức về trách nhiệm thiêng liêng với nhân dân, với đất nước.
C. Cả hai đáp án trên đều đúng
D. Cả hai đáp án trên đều sai
Câu trả lời của bạn
Nội dung chính của đoạn thơ dưới đây là: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể. … Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Phần 1: Từ đầu đến Làm nên đất nước muôn đời… : Cảm nhận độc đáo về quá trình hình thành, phát triển đất nước; từ đó khơi dậy ý thức về trách nhiệm thiêng liêng với nhân dân, với đất nước.
Chọn đáp án: B
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
…
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
A. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân
B. Cảm nhận độc đáo về quá trình hình thành, phát triển của đất nước; từ đó khơi dậy ý thức về trách nhiệm thiêng liêng với nhân dân, với đất nước.
C. Cả hai đáp án trên đều đúng
D. Cả hai đáp án trên đều sai
Câu trả lời của bạn
Phần II: Tiếp theo đến Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi : tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”
Chọn đáp án: A
Câu trả lời của bạn
Đất nước được cảm nhận trên nhiều phương diện:
- Phương diện lịch sử, văn hóa dân tộc
- Phương diện không gian địa lí
- Phương diện thời gian
A. Thể thơ tự do phóng túng
B. Lời đối đáp giao duyên của ca dao dân ca
C. Giọng thơ suy tưởng: đặt câu hỏi và tự trả lời
D. Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian
E. Giọng thơ trữ tình – chính luận
F. Giọng thơ sôi nổi, hào hùng
Câu trả lời của bạn
Giá trị nghệ thuật của bài Đất Nước:
- Thể thơ tự do phóng túng
- Giọng thơ suy tưởng: đặt câu hỏi và tự trả lời
- Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian nhuần nhị, sáng tạo
- Giọng thơ trữ tình – chính luận
Câu trả lời của bạn
Đất nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai: Đó là một đất nước thiêng liêng, hào hùng trong quá khứ (gắn liền với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết về các vua Hùng dựng nước), giản dị gần gũi trong hiện tại (Trong anh và trong em…) và triển vọng sáng tươi trong tương lai (Mai này con ta…)
Câu trả lời của bạn
Không gian:
- Không gian gần gũi với con người: nơi sinh hoạt của mỗi người, không gian tuyệt diệu của tình yêu và nỗi nhớ đầy thơ mộng với bao kỉ niệm ngọt ngào
- Không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ: Từ quá khứ (Những ai đã khuất), hiện tại (Những ai bây giờ), đến các thế hệ tương lai (Dặn dò con cháu chuyện mai sau). Tất cả đều không quên nguồn cội: “Hàng năm ăn đâu làm đâu. Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
⇒ Nguyễn Khoa Điềm nhìn đất nước ở cự li gần và ông đã phát hiện ra một đất nước hết sức thân quen, một đất nước thân thương đối với mỗi cá nhân con người.
Câu trả lời của bạn
Đất nước gắn liền với:
- Văn hóa lâu đời của dân tộc: truyện cổ tích, phong tục
- Cuộc trường chinh không nghỉ ngơi: chống ngoại xâm, cuộc sống lao động vất vả
⇒ Đất nước được hình thành và phát triển theo quá trình sống của mỗi con người, rất bình dị, thân thuộc và gần gũi.
Câu trả lời của bạn
Những câu thơ thể hiện trách nhiệm của thế hệ mình với đất nước:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”
- Đất nước – “máu xương” của mỗi người – là những giá trị vật chất và tinh thần mà mỗi người được thừa hưởng.
- Trách nhiệm của mỗi người là phải biết san sẻ, hóa thân
- Nghĩa vụ: Xây dựng bảo vệ đất nước muôn đời
⇒ Ý thơ mang tính chất tâm sự nhiều hơn là kêu gọi, giáo huấn nên sức truyền cảm rất mạnh.
Câu trả lời của bạn
Chính nhân dân, những con người bình dị, vô danh đã “Làm nên Đất Nước muôn đời”. Và vì vậy, khi cảm nhận Đất Nước bốn nghìn năm lịch sử, nhà thơ không nói đến các triều đại, các anh hùng dân tộc mà nhấn mạnh đến những con người vô danh, bình dị. Chọn nhân dân không tên tuổi kế tục nhau làm nên đất nước là nét mới mẻ độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm.
Câu trả lời của bạn
Tác giả nhắc đến những địa danh: Núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái, Chín mươi chín con voi quây quần chầu phục Đất Tổ, Núi Bút, non Nghiên, Ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Câu trả lời của bạn
Vai trò của nhân dân:
- Giữ gìn và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị vật chất và tinh thần của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói đến cả tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
- Có công trong việc chống ngoại xâm, dẹp nội thù
⇒ Giữ yên bờ cõi, xây dựng cuộc sống hòa bình
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Khoa Điềm khẳng định vai trò của nhân dân trong việc giữ gìn và lưu truyền văn hóa dân tộc qua các thế hệ, từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói đến cả tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân.
Câu trả lời của bạn
Từ nền văn học dân gian, nhà thơ đã khám phá ra những vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của dân tộc:
- Vẻ đẹp quý trọng nghĩa tình: “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Chương Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng là sự cảm của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò và những hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời kỳ chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân thông qua những trải nghiệm của chính bản thân mình. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca này.
Tư tưởng chủ đạo nói trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ trữ tình - chính luận. Cái lý lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản dị: Không phải ai khác mà chính nhân dân - những người vô danh - đã kiến tạo và bảo vệ, giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống vãn hoá, lịch sử hàng ngàn đời của dân tộc. Lý lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà bằng hình ảnh gợi bằng giọng thơ sôi nổi tha thiết của mình. Thông qua những vần thơ kết giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước thế hệ trẻ trong những năm chống Mĩ.
Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu chương V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của cảm hứng của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân. Tư tưởng đó được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được triển trên các bình diện: trong chiều dài của thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện, thống nhất chặt chẽ với nhau trong một “hệ quy chiếu”. Đất nước của nhân dân vốn là linh hồn của cả bài thơ.
Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi không khí của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ gợi lên được cái hồn thiêng của non sông, đất nước. Điều đó không đơn thuần chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng không phải chỉ là một tiếp thu có sáng tạo vãn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng Đất nước của Nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài thơ - đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của bài thơ.
Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh động, đầy gợi cảm.
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua cái kèo, cái cột, qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày.
Đất nước không phải là cái gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn đề dân tộc nói lên như một vân đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước không phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san xẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn đời.
Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta. Chiều sâu của lịch sử, truyền thống, phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca dao quen thuộc, ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương diện truyền thống, vãn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc sống của mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền với quá khứ, hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:
Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ - ngày giỗ Tổ.
Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất Nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, hoá thân của những con người không tên, không tuổi: “Những người vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau nên hòn Trống Mái”. “Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Bút non Nghiên”. Cả đến “Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này, từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con người vô đanh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người bình dị, vô danh đó:
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa, tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo:
Đất Nước này là Đất nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao, thần thoại.
Đọc chương Đất Nước, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là chương tiêu biểu và tinh tuý nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo nên được những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế hệ mình về đất nước.
Câu trả lời của bạn
Nếu như bắt rễ được vào trí nhớ trong hình thái toàn vẹn là lẽ sống còn của thơ, thì các bản trường ca quả đã gặp nhiều khó khăn. Dân mình trong một quy mô lớn mà đi tới toàn bích, thật thiên nan vạn nan. Đọc một trường ca nào đó, thường người ta hay nắm cái Tứ lớn, cái Cốt chung, rồi nhớ vài mảng, vài đoạn lẻ hay nhất đây đó, chứ khó nạp vào bộ nhớ tất tật. Nói khác đi, trường ca thường sống bằng cách xé lẻ bàn thân mình. Việc người đọc dường như quên đi phần lớn các chương khác của "Mặt đường khát vọng"để chỉ nhớ mỗi chương "Đất nước", phải chăng là thuộc vào cái quy luật nghiệt ngã đó? Nhưng một bản trường ca dài rộng mà ghim vào trí nhớ người đọc được cả một chương lớn chẳng phải đã là thành công sao! Nghĩ thật vui: cùng viết về một đề tài, cũng là thành công tiêu biểu cho thi ca của hai cuộc kháng chiến, nhưng, nếu "Đất nước’ của Nguyễn Đình Thi được hình thành từ hai "tiền thân" nhỏ hơn, thì "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm lại vỡ ra từ một chỉnh thể lớn hơn. Vì điều đó, chúng đã cùng sống bước vào kí ức của người yêu thơ? không hẳn. Còn bời một tương phản khác đáng kể hơn: Nguyễn Đình Thi chừng như đã hoà tan suy tư của mình vào cảm xúc Trong khi ở Nguyễn Khoa Điềm cảm xúc muốn kết tinh lại trong suy tư Người ta có thể nói đến hiện tượng đốt cháy trái tim lên thành trí tuệ và đốt cháy trí tuệ lên thành tình cảm. Phải chăng hai tác giả kia với hai thi phẩm của mình đã phần nào ứng với hai suy cảm đó? Sự chuyển hóa trong tư duy thơ ở thi phẩm Nguyễn Khoa Điềm có thể gọi là trữ tình triết luận.
Ai đã đọc “Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm đểu thấy nể độc đáo trước nhất thuộc về chất liệu của nó: chất liệu văn hoá dân gian
Nhưng tìm đến chất liệu này cũng là hướng đi của không ít cây bút. Trước đó ở những mức đậm nhạt khác nhau, có thể thấy chất liệu này có mặt trong "Bài thơ quê hương" của Nguyễn Bính, hay "Tiếng Việt" của Lưu Quang Vũ những thi phẩm gần gũi về đề tài Cho nên, tính độc đáo thực sự phải nằm ở việc xử lí chất liệu ấy Nguyễn Khoa Điềm đã xử lí bằng lối suy cảm triết luận trữ tình vậy
Trước tiên, cả chương thơ được tổ chức thành một cuộc tâm tình của một đôi trai gái. Họ hẹn hò với nhau, tâm sự, tự tình. Những khi riêng tư nhất, cần phải nói những chuyện sâu kín nhất, họ lại nói về Đất nước. Đất nước trở thành mối quan tâm hàng đầu của cả dân tộc. của từng con người, của mỗi lứa đôi. Qua đó Nguyễn Khoa Điềm đã làm được điều này: biến một vấn đề chính trị thành một câu chuyện tâm tình, chuyển hoá ý thức công dân thành tình cảm cá nhân, đời tư hoá một chủ đề sử thi. Là cuộc tâm tình, nên lối biểu hiện nghiêng về suy ngẫm, mỗi lời thơ kết tinh bao suy tư chiêm nghiệm của thi sĩ. Lời tâm sự lứa đôi đấy luyến ái (ở đây chủ yếu là lời người con trai bỗng trở lên thiêng liêng trang trọng, như là một tâm nguyện của một thế hệ. Đọc theo chương thơ, giọng tâm tình sâu đậm luôn cất lên mặn mà đằm thắm : "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi", "Em ơi em hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm đất nước", "Nhưng em có biết có những người con gái con trai/ Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi", "Em ơi em đất nước là máu xương của mình". Có thể nói đây là môi trường trữ tình dành cho cả chương thơ, môi trường ấy quyết định giọng điệu cảm xúc của toàn thi phẩm: giọng trầm lắng trang trọng. Tuy nhiên đây chưa phải là điều thật quan hệ đến chất liệu văn hoá dân gian
Điểm mấu chốt khiến tác giả mài sắc lối suy cảm triết luận và huy động vốn văn hoá dân gian hết sức bề bộn của mình chính là một cảm hứng riêng về cái đề tài chung ấy. "Đất nước là gì? Đất nước của ai dường như đó là những câu hỏi xoáy sâu vào trong niềm trăn trở của Nguyễn Khoa Điềm. Nó đòi được trả lời. Để tìm kiếm câu trả lời, thi sĩ đã dùng trí tuệ đốt cháy những cảm xúc của mình thành những ngẫm ngợi, những đúc kết, có tầm khái quát cao sâu, đã dùng một suy cảm vừa giàu triết lí vừa thơ mộng để nhào nặn tái tạo lại toàn bộ vốn văn hoá nhân gian của mình đặng lắng nghe từ cao biểu tượng dân gian quá ư quen thuộc những tiếng nói hết sức bất ngờ, những nghĩa lí như chưa từng nghe thấy. Và tiếng nói tập trung nhất của mọi biểu tượng văn hoá dân gian mà thi sĩ nghe thấu chính là: Đất nước ở trong ta. Đất nước ở quanh ta và Đất nước của nhân dân - "trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất nước/ Khi hai đứa cầm tay Đất nước hài hoà nồng thắm/ Khi chúng ta cầm tay mọi người/Đất nước vẹn tròn to lớn", "Đất nước của nhân dân/Đất nước của ca dao thần thoại"... Vì thế, dù muốn dù không, sự sắc sảo của một tư duy đã giúp thi sĩ đột phá vào chiều sâu của vấn để triển khai sự trả lời của mình trên những bình diện cơ bản nhất cấu thành một Đất nước. Toàn bài là một dòng tâm sự tuôn chảy khá tự nhiên phóng túng. Nhưng đúng là nhìn sâu vào cái dòng chảy luôn có xu hướng tràn lan ấy vẫn thấy suy tư của người làm thơ xoáy vào ba bình diện chính là: bề rộng không gian lãnh thổ, chiều dài thời gian lịch sử và bề dày văn hoá. Ba bình diện ấy đan xen chuyển hoa sang nhau trong cùng một dòng chảy tràn trề trào ra từ một bầu tâm huyết bỏng cháy đối với đất nước mình. Chính điều này cho thấy rõ lối suy cảm triết luận trữ tình ở Nguyễn Khoa Điềm ở đây đã đạt đến độ nhuần nhuyễn thế nào.
Nét chủ đạo trong tư duy triết luận trữ tình là đào sâu cái bản chất của các sự vật dưới dạng những biểu tượng thi ca sống động. Tư duy ấy chuyển động dựa trên mạch logic biện chứng với những mối liên hệ thật bất ngờ kỳ thú. Câu thơ định nghĩa ở đây thật lợi hại, nó vừa là những mệnh đề triết học vừa là những hình tượng thơ truyền cảm. Hình dung về sự sinh thành của Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm thấy nó là sự sinh trưởng của Đất và Nước, cùng sự sinh sôi của các địa danh. Tìm kiếm văn hoá, thi sĩ tìm thấy những giá trị văn hoá lớn lao ẩn ngay trong những vật phẩm nhỏ nhoi tầm thường... Ở đâu cũng loé sáng những phát hiện, những khám phá bất ngờ. Có lẽ đối với bất cứ Tổ quốc nào, thì hai thành phần khởi đầu, hai "nguyên tố", hai tế bào khởi đầu cho mọi sự sinh thành đểu phải là Đất và Nước. Hai nguyên tố này kết hợp với nhau để rồi từ có mà sinh thành cái cơ thể đất đai, nước non, xứ sở. Nguyễn Khoa Điềm đã suy cảm về lãnh thổ bắt đầu từ hai "nguyên tố" ấy .
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Chỉ bằng trực cảm cũng có thể thấy đoạn thơ trên là một loạt những định nghĩa bằng thơ, chúng là sản phẩm của một tư duy vừa giàu chất trữ tình thơ ca. vừa mang tính huyền thoại, vừa thấm đượm phong vị triết học. Không phải ngẫu nhiên mà Đất tương ứng với Anh, Nước tương ứng với Em. Một yếu tố thuộc Âm. Một yếu tố thuộc Dương. Khi nói riêng về từng người thì Đất và Nước cũng đứng tách riêng thành hai chữ, nhưng đến khi Anh với Em hò hẹn, để hợp lại thành Ta thì Đất và Nước cũng liền lại với nhau thành Đất Nước. Như vậy chẳng phải Đất và Nước hoà hợp cùng với tình yêu và trong tình yêu của con người hay sao? Từ đó bắt đầu sự sinh sôi. Và khi Em nhớ Anh thì cả Đất Nước dường như cũng sống trong nỗi nhớ thầm. Cho nên câu thơ "Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” là một câu thơ đẹp, trong đó tình yêu đôi lứa đã hoà hợp làm một với tình yêu non sông đất nước. (Xin mở một ngoặc đơn để ghé nhìn sang Nguyễn Đình Thi. Khác với ở Nguyễn Khoa Điềm, hai biểu tượng làm công cụ chính để cho tác giả suy cảm về "Đất nước" lại là Mặt đất và Bầu trời). Cứ thế Đất nước lớn lên trong tình yêu. Cả tình yêu của phạm vi đôi lứa. cả tình yêu trong phạm vi cộng đồng. Tư duy triết luận cứ mở rộng mãi để bao quát sự sinh thành, trưởng thành, mở mang của toàn thể Đất Nước:
Đất là nơi con chim Phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá Ngư Ông móng nước biển khơi
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lọc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Song song với quá trình hình thành Đất và Nước để tạo ra địa bàn cư trú của người Việt suốt mấy nghìn năm qua là sự sinh sôi của các địa danh. Mỗi một địa danh không phải là một dòng tên vô nghĩa. Đằng sau mỗi tên đặt, tên làng, tên núi, tên sông là những cuộc đời; mỗi cuộc đời là một kì tích, một huyền thoại Một mảnh đất chưa có tên là một miền đất hoang chưa có lịch sử, chưa có sự sống đích thực của con người. Vì thế, khi địa danh lan đi đến đâu thì đất đai được mở rộng đến đó. Nó là dấu ấn về sự sinh tồn của dân tộc này. Lan theo những địa danh, Nguyễn Khoa Điềm đã dựng lại được cả diện mạo của non sông đất nước. Mỗi địa danh đều làm rung động sâu tâm linh của con người: Núi Bút non Nghiên. Hòn Vọng Phu Hòn Trống Mái, Vịnh Hạ Long, Sông Cửu Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen. Bà Điểm... Mỗi địa danh là một cuộc đời, mỗi cuộc đời hóa thân thành sông núi:
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Điều đó cũng có nghĩa: chính Nhân Dân đã gây dựng, mở mang, truyền giữ đất nước này.
Lối suy cảm triết luận trữ tình trước khi tác động vào trái tim người đọc, thường khi phải vòng qua trí tuệ của họ. Hay như Chế Lan Viên nói: Tư duy phải đi trước một bước. Cách tác động phổ biến nhất (hữu hiệu nhất?) của nó phải chăng là tạo ra các nghịch lí? Các chân lí thi ca thường đi vào sự tiếp nhận của người yếu thơ triết luận trong y phục nghịch lí. Người ta không khỏi ngỡ rằng. Nghĩa là câu thơ kia có một phút ngập ngừng. Nhưng sau phút ngập ngừng bên ngưỡng cửa của sự tiếp nhận, nó bước thẳng vào kí ức người ta rồi ờ lì, bám rễ vào tâm khảm. Cho nên, nghịch lí (hay hình thức có tính phi lí) là sự hiện hình phổ biến cho những suy cảm ở thi phẩm này. Tôi muốn nói đến những câu thơ khi Nguyễn Khoa Điềm trầm tư triết luận về Văn hoá.
Thống nhất với lối viết về các bình diện bề rộng không gian, chiều dài thời gian - ghi công cho những người vô danh, nghiền ngẫm về bề dày văn hoá, thi sĩ này cũng không nhắc đến các công trình nổi danh thuộc nền văn hoá bác học. Không kế những công trình kiến trúc như Chùa Một Cột, Chùa Bút Tháp ..., không kể những công trình điêu khắc như Phật Bà nghìn mắt nghìn tay, Mười tám vị La Hán Chùa Tây Phương... cũng không điểm đến những tác phẩm văn chương bất hủ như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Lục Vân Tiên v.v. Đó cũng là những công trình hết sức tiêu biểu cho nền văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, đó là thứ Văn hoá dễ thấy, nó cũng giống những người anh hùng hữu danh lưu trong sử sách, ở đây, Nguyễn Khoa Điềm quan tâm nhiều hơn đến thứ văn hoá khác: những sản phẩm văn hóa nhỏ nhoi bình thường đến tầm thường, quen thuộc đến quen nhàm trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường dửng dưng quên lãng Đất nước đã được phát hiện từ một câu chuyện cổ tích, một câu ca dao vất vưởng trôi nổi ở chốn thôn quê được phát hiện từ cái kèo. cái cột nôm na. từ vị gừng cay muối mặn mộc mạc, từ cách làm ra hạt gao dãi dầu một nắng hai sương, từ cách bới tóc sau đầu của những người mẹ Việt. Tất cả khiến cho người đọc sững sờ: hoá ra chẳng phải nhọc công tìm kiếm Đất nước ở đâu xa. Trái lại, đất nước ở quanh ta. Đất nước ở trong ta, và ở ngay những gì đơn sơ thân thuộc nhất.
Song, có lẽ bất ngờ hơn cả vẫn là phát hiện này:
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Câu thơ là một nghịch lí, phi lí. Đất nước là một khái niệm lớn lao, thiêng liêng, hệ trọng, tại sao lại có thể nằm trong một miếng nhỏ nhoi, tầm thường, không có gì quan trong? Đi tìm sự khởi thuỷ của một đất nước, nghĩa là phái ngược thời gian trở về với ngọn nguồn xa xưa, sao lại bắt đầu với miếng trầu của "bây giờ”? Câu thơ xem ra thật phi logic nhưng ngẫm nghĩ ta sẽ thấy rằng cái phi logic kia chi là hình thức của câu thơ. Tác giả đã mượn một hình thức phi lí để chứa đựng một chân lí. Đó là: một đất nước dù lớn đến đâu cũng bắt đầu từ những cái nhỏ nhoi, vô số những cái nhỏ nhoi mới làm nên sự lớn lao. Nói cách khác không có những cái nhỏ nhoi như miếng trầu thì cũng không có sự lớn lao như đất nước. Thì ra mỗi miếng trầu ngỡ như vô nghĩa kia đều gánh trong nó một phần Đất nước. Mỗi miếng trẩu bà ăn hôm nay đều đã có bốn nghìn năm tuổi ! Mỗi cái hiện diện trong hôm nay, của bây giờ, phía đằng sau có cả một lịch sử lâu dài. Vì thế quá khứ luôn có mặt trong hiện tại, lịch sử vẫn đang hiện diện đến hôm nay.
Những câu thơ như thế thật là một sự phát kiến bất ngờ, khiến người đọc phải giật mình. Nó không chỉ là một sản phẩm của một tư duy sắc sảo. Mà trước hết nó là sản phẩm của một tình yêu, một tấm lòng Nếu không có sự trân trọng với tất cả những gì mà tổ tiên chắt chiu, chi chút, gìn giữ trong mấy nghìn năm qua, thì mọi thứ triết luận dù sắc sảo đến đâu cũng không thể có được những câu thơ có thể đánh động vào tầng sâu của tâm linh người đọc đến thế được. Mối giao kết giữa yếu tố trữ tình và yếu tố triết luận trong mọi suy cảm thi ca chân chính chẳng phải là tuân theo cái cơ chế đó sao?
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp thi sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Những năm 1970, 1971,... ông sống và hoạt động tại chiến trường Trị - Thiên; trường ca "Mặt đường khát vọng" được ông sáng tác vào thời gian ấy. Chương V "Đất nước” trích trong trường ca "Mặt đường khát vọng”.
Phần đầu 42 câu tác giả nhận diện Đất Nước có nguồn gốc lâu đời. Tục ăn trầu, cổ tích Trầu - Cau, truyền thuyết Thánh Gióng dùng gốc tre đánh đuổi giặc Ân mà “mẹ thường hay kể":
"Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc".
Nhà thơ cảm nhận Đất Nước trong dòng chảy thời gian “đằng đẵng” trên không gian địa lý "mênh mông", qua sự tích “Trăm trứng" và giỗ Tổ Hùng Vương. Nhà thơ bằng giọng tâm tình đã dẫn hồn ta ngược thời gian bốn nghìn năm trở về cội nguồn Đất Nước:
"Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
(...) Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ".
Tục "bới tóc xăm mình" của người Lạc Việt, câu ca dao "gừng cay muối mặn" nói về đạo vợ chồng, ngôn ngữ dân tộc hình thành, phát triển, nên “cái kèo, cái cột thành tên”, công việc cấy cày làm ăn “xay, giã, giần, sàng” được chỉ rõ. Cội nguồn “Đất nước có từ ngày đó”.
Đất nước trong quá khứ mang vẻ đẹp kì diệu, huyền thoại:
"Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Đất nước hiện tại gắn bó yêu thương với mọi người, "trong anh và em hôm nay - Đều có một phần Đất nước". Mai này Đất nước nhiều "mơ mộng". Yêu nước là nghĩa vụ thiêng liêng:
"Em ơi em Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất nước muôn đời".
Phần thứ hai có 68 câu (Văn 12 chỉ trích học 47 câu) nói về tư tưởng "Đất Nước của Nhân Dân”. Nhân Dân sáng tạo ra Đất Nước. Các danh lam thắng cảnh đều biểu tượng cho phẩm chất cao đẹp, "lối sống" của ông cha như tình nghĩa vợ chồng thủy chung, tình yêu lứa đôi thắm thiết, sức mạnh quật khởi, tinh thần đại đoàn kết của dân tộc, truyền thống hiếu học của Nhân Dân ta:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương".
Núi Bút non Nghiên, vịnh Hạ Long, ông Đốc ông Trang... đều do Nhân Dân ta "góp cho", "cùng góp cho", "góp tên”- mà Đất Nước đẹp tươi, hùng vĩ.
"Bốn nghìn lớp người" đã đem mồ hôi, xương máu ra xây dựng và bảo vệ Đất Nước:
"Khi có giặc người con trai ra trận - Người con gái trở về nuôi cái cùng con – Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh". Nhân Dân đã sáng tạo ra Đất Nước và làm chủ Đất Nước. Họ là những con người vô danh mà vĩ đại:
"Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Nhân Dân là người sản xuất "giữ vã truyền cho ta hạt lúa ta trồng”. Nhân Dân đã sáng tạo ra ngôn ngữ "truyền giọng điệu của mình cho con tập nói”. Nhân Dân đã diệt thù trong giặc ngoài để giữ gìn Đất Nước, làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp:
"Có ngoại xâm thì chống xâm
Cố nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Tóm lại, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục, ngôn ngữ để cảm nhận về nguồn gốc lâu đời của Đất Nước, khẳng định Nhân Dân vĩ đại đã sáng tạo ra Đất Nước và làm chủ Đất Nước. Chương “Đất nước” chứa chan tình yêu và niềm tự hào dân tộc.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà thơ thời kì chống Mỹ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam. Bài thơ “Đất nước” nằm phần đầu của chương năm trường ca “Mặt đường khát vọng”.
“Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971 và in lần đầu năm 1974. Đó là những năm tháng nhân dân miền Nam kiên cường chống đế quốc Mĩ và tay sai. “Mặt đường khát vọng” là một trong những bản trường ca lớn của thơ ca chống Mĩ viết về đất nước, nhân dân. Tác phẩm viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ vùng tạm chiến miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về đất nước, hướng về nhân dân, ý thức được với sứ mệnh của thế hệ mình đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu của dân tộc.
Trường ca “Mặt đường khát vọng” gồm nhiều chương, mỗi chương có một chủ đề riêng: “Lời chào”, “Báo động”, “Giặc Mĩ”, “Tuổi trẻ không yêu”, “Đất nước”, “Xuống đường”. Đoạn trích “Đất nước” nằm phần đầu của chương V, là một trong những đoạn thơ hay nhà thơ viết về tư tưởng: Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại.
Hình thức đoạn thơ cũng như cả bài thơ là hình thức tự do phóng túng, thoải mái tạo nên lối tư duy hiện đại và tính triết luận của tác phẩm trả lời cho các câu hỏi.
“Đất nước có tự bao giờ?”
“Đất nước là gì?”
“Ai đã làm nên đất nước?”
Kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và suy tưởng. Giữa yếu tố chính luận và màu sắc trữ tình. Giọng điệu thủ thỉ tâm tình như là trò truyện của anh với em tạo nên âm vang ngân nga sâu lắng thiết tha và trang trọng về đất nước nhân dân. Tác phẩm sử dụng phong phú sáng tạo các yếu tố văn hóa dân tộc, phong phú tập quán, huyền thoại, huyền sử, ca dao, tục ngữ tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng. Đất nước thật bình dị gần gũi mà vô cùng thiêng liêng, sâu xa, bay bổng, lãng mạn và lấp lánh sắc màu ca dao, cổ tích.
“Đất nước” góp phần thổi lên khí thế hào hùng tham gia kháng chiến của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến miền Nam nói riêng, thế hệ thanh niên Việt Nam nói chung hòa nhịp vào cuộc chiến đấu hào hùng sôi nổi của toàn dân tộc.
Câu trả lời của bạn
Trong bản hợp xướng của thơ ca chống Mỹ, nổi lên những âm vang trầm hùng, sâu lắng thiết tha về đất nước. Đất nước hiện lên qua màu xanh Tre Việt Nam của Nguyễn Duy, trong dòng người cuồn cuộn trên Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, Những người đi tới biển của Thanh Thảo. Đất nước đó cũng rung lên mạnh mẽ khi tuổi trẻ không yên những tà áo trắng đã xuống đường trong Mặt đường khát vọng (1974) của Nguyễn Khoa Điềm. Trong bản trường ca chín chương sôi sục nhiệt huyết của tuổi trẻ trước vận mệnh của dân tộc, ông đã dành hẳn một chương (V) để nói về đất nước:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân đã thấm nhuần trong cả chương thơ về Đất Nước. Điều mà chúng ta dễ nhận ra trước tiên là tác giả đã sử dụng rộng rãi các chất liệu văn hoá dân gian. Nghĩa là văn hoá của nhân dân từ ca dao tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến cuộc sống dân dã hàng ngày: miếng trầu, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột. Các chất liệu ấy đã tạo ra được một thế giới nghệ thuật hết sức quen thuộc gần gũi mà sâu xa, bay bổng của văn hoá dân gian Việt Nam bền vững và độc đáo. Đây không chỉ là sự vận dụng sáng tạo truyền thống văn hoá dân gian, mà chính là thấm nhuần quan niệm về Đất Nước của Nhân dân, là sự thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi ấy trong cảm hứng và sáng tạo hình ảnh thơ của tác giả:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cải ngày xửa ngày xưa... mẹ thương hay kể
Bằng giọng tâm tình như lời kể truyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm xúc và suy tưởng của mình về đất nước. Cảm hứng có vẻ phóng túng, tự do như một thứ tuỳ bút bằng thơ, nhưng thực ra nó vẫn có một hệ thống lập luận khá chặt chẽ rõ ràng. Tác giả đã tập trung thể hiện đất nước trên các bình diện chủ yếu đó là, Đất Nước trong chiều dài thời gian lịch sử (quá khứ xa xưa cho đến hiện tại tương lai); trong chiều rộng không gian lãnh thổ, địa lý. Và cuối cùng là trong bề dày văn hoá, tâm hồn cốt cách. Ba phương diện ấy được thể hiện trong sự gắn bó thống nhất. Nhiều khi một chi tiết đưa ra cũng nói về mấy cả phương diện ấy của đất nước. Nhưng ở bất cứ phương điện nào thì quan niệm Đất Nước của Nhân dân cũng là tư tưởng cốt lõi, là sợi chỉ đỏ xâu chuỗi mọi cảm xúc và suy tưởng cụ thể và chính nhờ đó, mà tác giả đã có những phát hiện mới mẻ, có chiều sâu nhiều khi ở chính những hình ảnh chất liệu quen thuộc.
Nói về lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu như nhiều nhà thơ khác. Ông dùng lối kể đậm đà của dân gian:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Hình ảnh thơ phải chăng đã gợi cho ta về sự tích trầu cau từ đời Hùng Vương dựng nước xa xưa, về truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân đã đi vào lịch sử? Nghĩa là lịch sử đất nước được đọng lại trong từng câu chuyện kể, hiện hình trong miếng trầu bây giờ bà ăn, trong trồng tre mà đánh giặc. Hay nói cách khác đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi người dân, trường tồn trong đời sống tâm hồn nhân dân qua bao thế hệ. Đó cũng chính là Đất Nước của Nhân dân.
Vì vậy khi nghĩ về mấy ngàn năm lịch sử của đất nước, tác giả không điểm lại các triều đại từ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nên nền độc lập (Nguyễn Trãi) và cũng không nhắc
lại tên tuổi những anh hùng lừng danh trong sử sách như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,... mà Nguyễn Khoa Điềm đã nhấn mạnh đến muôn ngàn những con người bình dị vô danh:
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Những con người vô danh ấy chính là nhân dân vô tận đã tạo dựng và gìn giữ đất nước trải qua mọi thời đại. Họ không chỉ đánh giặc ngoại xâm mà còn là người sáng tạo và truyền lại mọi giá trị vật chất và tinh thần cho các thế hệ nối tiếp nhau:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh tên làng tên xã trong mỗi chuyến di dân
Cùng với thời gian đằng đẵng là không gian mênh mông được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ: Đất là nơi chim về - Nước là nơi rồng ở. Một đất nước đẹp đẽ và thiêng liêng biết bao!
Nhưng đất nước cũng là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày của mỗi người dân: Đất là nơi anh đến trường - Nước là nơi em tắm và đất nước ấy đã chứng kiến những mối tình đầu của biết bao lứa đôi:
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Từ quan niệm Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã có những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về vẻ đẹp thiên nhiên đất nước gắn liền với con người mà trước hết là những con người bình thường. Và chính những con người bình thường ấy đã làm nên vẻ đẹp muôn đời của thiên nhiên đất nước, một vẻ đẹp không chỉ mang màu sắc gấm vóc của non sông, mà còn là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn, truyền thống dân tộc:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Rồi người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên, cho đến những địa danh thật nôm na bình dị. Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điềm. Từ đó, tác giả đã đi tới một nhận thức khái quát sâu xa:
Ôi! Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta
Đất nước ấy còn có một bề dày văn hoá, tâm hồn cốt cách Việt Nam. Cũng như hai phương diện trên, bề dày văn hoá không được nói đến qua các danh nhân văn hoá như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm... mà được thể hiện trong nguồn mạch phong phú của văn hoá dân gian để nêu lên truyền thống tinh thần và vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại. Trong các kho tàng văn hóa phong phú ấy, tác giả tìm thấy những vẻ đẹp nổi bật của tâm hồn tính cách Việt Nam. Đó là thật say đắm và thuỷ chung trong tình yêu: Yêu nhau từ thuở trong nôi; cha mẹ yêu nhau bằng gừng cay muối mặn; Biết quý trọng tình nghĩa: Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội. Nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù: Biết trồng tre đợi ngày thành gậy - Đi trả thù không sợ dài lâu. Ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc đã được ông nói lên sâu sắc, thấm thía từ những câu ca dao đẹp - những tiếng lòng của nhân dân trải qua từng thời kỳ lịch sử.
Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là đất nước của Nhân dân của ca dao thần thoại. Những thi liệu dân gian đậm đà chất thơ, được kết hợp với những suy nghĩ giàu chất trí tuệ đã tạo nên nét đặc sắc cho bài thơ. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm cho ý niệm về đất nước của thơ ca chống Mỹ.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *