Nội dung của bài học Người lái đò sông Đà giúp các em nhận rõ và yêu quý hơn vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người lao động Việt Nam. Cảm phục, mến yêu tài năng sáng tạo của Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ uyên bác, tài hoa đã dùng văn chương để khám phá và ca ngợi vẻ đẹp của nhân dân và Tổ quốc. Ngoài ra, HỌ247 mời các em xem thêm video bài giảng của cô Phan Thị Mỹ Huệ. Bài giảng được trình bày một cách chi tiết, dễ hiểu và dễ ghi nhớ giúp các em thuận tiện hơn trong quá trình tiếp thu bài học. Mời các em cùng theo dõi!
Phân tích hình tượng ông lái đò trong đoạn trích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
Phân tích hình ảnh sông Đà, con sông Tây Bắc hung bạo mà trữ tình.
Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân kể về người lái đò, một người nghệ sĩ tài hoa trên sông nước nhưng đồng thời cũng là một người lao động giản dị bình thường. Để cảm nhận được sự hấp dẫn cũng như nắm được nội dung của tác phẩm, các em có thể tham khảo bài soạn Người lái đò sông Đà.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Người lái đò sông Đà là tùy bút hay của Nguyễn Tuân, cái hay, cái tài của nhà văn Nguyễn Tuân không chỉ dừng lại ở việc miêu tả, tái hiện hình ảnh con người - ông lái đò Lai Châu mà còn thể hiện rất rõ, vô cùng sâu sắc qua hình tượng thiên nhiên được tác giả dày công miêu tả. Để lập được dàn ý và viết bài văn hoàn chỉnh về tác phẩm này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- So sánh cảnh cho chữ của Huấn Cao và cảnh vượt thác sông Đà
- Phân tích cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích Người lái đò sông Đà
- Cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà
- Phân tích cảnh vượt thác trong tác phẩm Người lái đò sông Đà
- Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
- Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân qua Người lái đò sông Đà
- Hình tượng con sông Đà trong Người lái đò sông Đà
- Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà trong Người lái đò sông Đà
- Bình luận về vẻ đẹp hình tượng ông lái đò trong Người lái đò sông Đà
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Đến với sông Đà, hăm hở, say mê đến nỗi tác giả như thấy mình như đang “sắp đổ ra sông Đà”. Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” … Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa… lặng tờ “như từ Lí, đời Trần, đời Lê”.
Tìm những chi tiết miêu tả cảnh sông nước sông Đà, các phép tu từ được sử dụng miêu tả và tác dụng của nó
Câu trả lời của bạn
Ông đò Lai Châu bạn tôi làm nghề chở đò dọc sông Đà đã 10 năm liền và thôi làm đò cũng đã đôi chục năm nay. Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng. Giọng ông nói ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông. Nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào trong sương mù. Quê ông ở ngay chỗ ngã tư sông sát tỉnh. Ông chở đò dọc, chở chè mạn, chè cối từ Mường Lay về Hòa Bình, có khi trở về đến tận bến Nứa Hà Nội. Ông bảo: Chạy thuyền trên sông không có thác, nó sẽ dễ dại tay chân và buồn ngủ. Cho nên ông chỉ muốn cắm thuyền ở Chợ Bờ, cái chỗ biên giới thủy phân cuối cùng của đá thác sông Đà…
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của những người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp. Nguyễn Tuân là một nhà văn như thế. Ông quan niệm: “Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo”.
Với tùy bút Người lái đò Sông Đà, ngòi bút Nguyễn Tuân như nở hoa trong sự hòa phối kì diệu giữa cái đẹp của ngôn từ với vẻ đẹp tuyệt mĩ của hình ảnh mang đến cho người đọc một hình dung mới mẻ, độc đáo trong chất vàng của thiên nhiên đồng thời là chất vàng mười đã qua thử lửa nơi tâm hồn con người Tây Bắc. Nguyễn Tuân – Một tác gia của nền văn học Việt Nam hiện đại với những thành tựu xuất sắc ở cả hai giai đoạn trước và sau năm 1945. Nguyễn Tuân là biểu hiện độc đáo, trọn vẹn về hình ảnh người nghệ sĩ: vừa rất tài hoa, vừa rất ngông. Tài hoa là cách thể hiện tài năng, sự am hiểu hơn người của mình. Từ người tử tù tài hoa đến một người lái đò bình thường bỗng trở thành người nghệ sĩ. Ngông là cách biểu hiện khinh bạc, khác đời, khác người.
Nguyễn Tuân là một nhà văn duy mĩ bởi ông quan niệm cuộc đời hành trình đi tìm cái đẹp và khẳng định cái đẹp. Con sông Đà trong tùy bút của Nguyễn Tuân hiện lên với những vẻ đẹp độc đáo, gây ấn tượng mạnh mẽ. Người tử tù không nhìn nhận ở phương diện tội ác mà nhìn nhận của sự tài hoa. Người lái đò không chỉ nhìn nhận ở phương diện nghề nghiệp mà được nhìn nhận trên phương diện của một chiến sĩ, một người nghệ sĩ trên sông Đà. Nguyễn Tuân có một kho từ vựng hết sức phong phú và khả năng sáng tạo từ mới. Với ông, viết văn mà hạn hẹp và thiếu thốn từ ngữ sẽ tạo ra loại văn “thấp khớp”, hời hợt, nông cạn.
Cái tôi của Nguyễn Tuân là cái tôi có cảm hứng mãnh liệt đối với những gì gây cảm giác mạnh, gây ấn tượng sâu đậm, độc đáo. Dữ dội phải tới mức khủng khiếp (con sông Đà hung bạo), đẹp phải tới mức tuyệt mĩ (con sông Đà thơ mộng, trữ tình), tài năng phải tới mức siêu phàm (hình tượng ông lái đò). Không chỉ vậy, cái tôi của ông còn là cái tôi giàu suy tư trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước. Thưởng ngoạn vẻ đẹp sông Đà, lòng tác giả dậy lên cảm giác liên tưởng về lịch sử: nhắc tới đời Lí, đời Trần, đời Lê. Trước vẻ đẹp hoang dại của dòng sông, nhà văn suy nghĩ về về tiếng còi tàu, về cuộc sống hiện đại. Trải lòng, hóa thân vào dòng sông để đắm tình non sông đất nước: Nhớ thương hòn đá thác, lắng nghe giọng nói êm êm của người xuôi, trôi những con đò mình nở chạy buồm vải…
Nguyễn Tuân tài hoa trong việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, câu văn. Uyên bác vận dụng tri thức của nhiều kiến thức về địa lí, lịch sử, văn hóa, điện ảnh để miêu tả sông Đà ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau để tiếp cận và miêu tả con sông Đà và người lái đò. Tri thức về võ thuật, quân sự, thể thao để miêu tả cuộc vượt thác của người lái đò như một trận thủy chiến. Tác phẩm Người lái đò Sông Đà không chỉ có giá trị văn học mà còn có những giá trị văn hóa khác.
Nguyễn Tuân là một cái tôi đầy bản lĩnh, đầy ngạo nghễ trong dòng văn học Việt Nam hiện đại. Bằng nỗ lực không ngừng để làm mới mình, Nguyễn Tuân đã khẳng định được một phong cách riêng độc đáo. Người xưa thường nói: “Văn cũng như người”, Nguyễn Tuân là con người thích cuộc sống tự do phóng khoáng thậm chí đôi lúc còn phóng túng. Ông ham mê du lịch, thích chủ nghĩa xê dịch, không chịu được những cái gì chung chung, bằng phẳng, nhợt nhạt. Một cá tính mạnh mẽ, không ưa sự gò bó, khuôn phép. Cho nên Nguyễn Tuân tìm đến với thể loại tuỳ bút, một thể văn tự do, phóng khoáng là một điều dễ hiểu. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cũng đã từng nhận xét: “Nguyễn Tuân là một nhà văn đứng hẳn ra một phái riêng cả về lối viết, tư tưởng”. Điều này thể hiện nhất quán trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông. Trong đó tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một ví dụ mẫu mực cho phong cách đó.
Ai đã từng đọc Vang bóng một thời chắc cảm nhận được cái sắc sảo, lịch lãm, tài hoa của Nguyễn Tuân khi ông nói về thư pháp, về uống trà, chơi đèn trung thu của những nhà nho thuở trước mà lòng thêm thư thái, tự hào về bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa Việt Nam được kết tinh trong tâm hồn dân tộc qua qua hàng nghìn năm lịch sử.
Đọc Người lái đò Sông Đà ta vui thú thấy Nguyễn Tuân đã để thơ vào sông nước. Ông đã khám phá sự vật – con sông Đà – ở phương diện thẩm mĩ, đã miêu tả, nhận diện con người – ông lái đò – ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tả cảnh thì biến hóa trong bốn mùa, trong mọi thời gian. Nói về thác ghềnh thì đa thanh, phức điệu bằng tất cả cảm giác tinh tế, bằng những liên tưởng đầy góc cạnh với một kho từ vựng dồi dào, sáng tạo. Văn Nguyễn Tuân đúng là những giọt mật của con ong yêu hoa – cần mẫn, sáng tạo, đem thơm thảo dâng hết cho đời.
I. Mở bài
II. Thân bài
III. Kết bài
Câu trả lời của bạn
Nhốt cả sông Đà vào một quyển sách, công việc trị thủy ấy của văn chương thật khó thay. Vậy mà Nguyễn Tuân làm được. Nhưng phải là cật lực. Phải bám những người lái đò sông Đà (kể cả ông đò hay cởi truồng) để trôi dài theo bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, phải tìm một lối riêng, lặn sâu xuống hút nước để từ cái rốn sông ấy mà thấy bụng nước như một cái thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, phải bay lên thật sự, nâng con người tới tầm cao có thể nhìn con sông năm trăm cây số dài chỉ còn là một áng tóc trữ tỉnh, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mấy trời Tây Bắc... Phải đi đến cùng từng trải, tài năng, khổ công... thâu tóm lấy con sông hung tợn để rồi chính nó ngoan ngoãn theo đầu ngọn bút mà bền bỉ bồi đắp đầy ắp những trang Sông Đà ta đang có trên tay.
Một con sông văn như thế viết ra được đã khó, đọc nó cũng không phải dễ. Đã đành phải theo Nguyễn Tuân xuôi đến trang cuối của tác phẩm nhưng nhiều khi phải thoát ra sự hạn chế của dòng văn, trang văn để tìm ra cái đẹp toàn bài văn. Thoát ra rồi nhìn lại toàn bài Người lái dò sông Đà mới hay, cho mãi đến dòng cuối của bài viết, cái bến đò màu cờ mới được xuất hiện khi đoàn thuyền khoa học gắn quốc kì đã ghé vào và thả neo như hạ một quyết tâm đỏ, trị con sông dữ tợn này, bắt nó phải phục vụ cuộc sống, nhưng cứ nghĩ, cái bến đỏ cờ ấy chính là cái bến xa nào đó trong sương mù mà người lái đò Sông Đà ngay khi bước vào trang văn đã hướng nhỡn giới vòi vọi mong chờ, đã mong chờ từ ngay thượng nguồn của bài tùy bút này.
Mối liên hệ nghệ thuật giữa nhỡn giới của ông lái đò và bến đậu của ngọn quốc kì có thể xem như phép kết cấu đầu cuối tương ứng, xem như chuyện phục bút kịp thời ở đoạn đầu để thuận đà mà hạ bút đắc địa nơi phần cuối. Nhưng tất cả các kĩ thuật kĩ xảo đó, ở văn tài Nguyễn Tuân đã diễn ra tự nhiên như một sáng tạo ngẫu hứng. Sau khi đã mở được nhỡn giới cho nhân vật và xác định cái bến sẽ cắm cột cờ trị thủy, định hướng cho dòng cảm hứng của chính mình, Nguyễn Tuân thả sức viết, viết như cày xới vốn sống, như tỉa tót chữ nghĩa. Ngòi bút không ngại bới sâu vào lịch sử đời Trần, đời Lí, đời Lê, đào ngang khơi tắt vào địa mạo, địa danh, quyết bắt cho được thần thái con sông với thượng lưu, hạ lưu nước cuốn,, với tả ngạn hữu ngạn đất trụ, với ngọn nguồn tích tụ sự cuốn đi cùng trụ lại kia... Và trên một dòng sông chở nặng thông tin về chính nó, một dòng văn ăm ắp những biện pháp nghệ thuật, Nguyễn Tuân khắc họa hình tượng hiên ngang một người lái đò sông Đà.
Nguyễn Tuân khéo đưa vào thiên tùy bút một ông và một cô đò để dễ bề thể hiện cả sự hiên ngang và sự đằm thắm của những khách thương hồ ấy. Đằm thắm như câu chuyện kể nơi đuôi én thuyền then của cô đò người Thái, thỏ thẻ, thật thà không nói chuyện vượt thác, vận chuyển quân lương qua những khúc sông chưa giải phóng ban ngày mà cũng tối sầm như ban đêm, dành lời để tri ân chú gà trống đè sóng, giữ nhịp thời gian cho con người chèo chống: "Đi đường xa qua bờ này bến khác, có tiếng gà gáy đem theo, nó đỡ nhớ nương ruộng, bản mường".
Đỡ nhớ đất để mà nhớ đóng đinh vào lòng tất cả những nguồn nước của tất cả những con thác hiểm trở. Nhưng kiểu nhớ đóng đanh này là nhớ của những ông đò hiên ngang với giọng nói ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, với thân hình cao to và gọn quánh như sừng như mun, với vẻ phớt đời có lần vượt thác vừa xuôi vừa dám ngủ gật nữa kia nhưng sẵn sàng chỗ bằng thì chèo, chỗ dựng vách đá thì chống, vượt thác mà bờ bằng thì kéo. Sẵn sàng, chỉ với ba tiếng chống, chèo, kéo đơn giản như ba phách mạnh của một nhịp hò dô vậy thôi, người lái đò đã vào cuộc thì chỉ có lao đi chứ không lùi lại.
Bằng ấy chi tiết cho một nhân vật cũng đã là nhiều, nhưng với Nguyễn Tuân, ngần ấy chưa đủ, ông cho họ lao vào trùng vi thạch trận để từ trận thủy chiến giáp lá cà quyết liệt này mà cực tả, mà khắc họa sắc nét hơn khí phách hiên ngang của ông lái đò sông Đà.
Tả cuộc đối đầu giữa con người với sức nước tàn phá, trước Nguyễn Tuân hàng ngàn năm đã có truyện Sơn Tinh - Thủy Tinh. Nhưng đó là thần thoại, với phép thần thông, chỉ cần một câu thôi "nước dâng bao nhiêu núi lại cao bấy nhiêu" thế là phân thắng bại, cái hiện thực chống lũ chỉ còn như chút bóng nhòe đổ xuống từ câu chuyện. Sau Nguyễn Tuân, cuộc đối đầu ấy được thể hiện trong chương kể chuyện giữ đê biển trước gió to sóng lớn của Bão biển (Chu Văn). Nhưng Bão biển là tiểu thuyết hiện thực, cho nên sóng gió vẫn chỉ là sóng gió mù quáng tàn phá và con người dù phải xả thân chống lại thì vẫn chỉ là xả thân trong một công trường, cái mà một thời người ta thuận miệng gọi là cuộc chiến đấu chống thiên nhiên lại chưa ra một chiến trường. Với Nguyễn Tuân thì khác, ngay từ đầu, ông đã xác định cuộc đối đầu ấy là một chiến trường, một mặt trận. Và để dựng cho ra chiến trường, mặt trận ấy, Nguyễn Tuân đã hà hơi, đã ban phép nhân hóa khiến nước sông, đá thác sống dậy làm tướng dữ, quân tợn.
Nhờ phép ấy, nước xiết thành lời; "Tiếng nước thác nghe như lời oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo". Chỉ trong một câu mà nước dữ đã lật lọng đổi giọng đến bốn lần. Mới van xin đã khiêu khích, oán trách chưa xong đã chế nhạo. Khi cái hòa âm nghịch bốn giọng ấy, hình tượng thính giác ấy được tăng cấp rống lên, gầm thét bằng tiếng một ngàn con trâu da cháy bùng bùng thì sự lật lọng đã thành điên loạn.
Nhưng chưa hết, hãy nhìn đồng bọn của lũ lật lọng điên loạn này, hãy cùng Nguyễn Tuân điểm mặt đá. Đá mai phục ngàn năm để chờ dịp nhổm cả dậy vồ lấy thuyền. Chưa vồ được thì dụ, thì hất hàm thách thức, lừa đối phương vào thế đá trái, thúc gối của nước dữ, để nước túm chặt lưng ông đò rồi ra đòn hiểm độc nhất, bóp chặt lấy hạ bộ. Nguyên Tuân đã đá thì mạnh tay bút như khắc để tạo cái cằm sắc nhọn đưa ra như mũi dao của đá tảng hất hàm, tả nước lại nhanh tay như nghệ sĩ nhiếp ảnh, bấm máy kịp lúc bàn tay nước chộp vào chỗ hiểm để ghi lại được cái tích tắc kinh hoàng, mặt ông đò méo bệch vì hạt sinh dục vụt muốn thọt lên cổ.
Đọc tới đây, từ cận cảnh bàn tay nước chộp, trung cảnh hàm đá hất, mà nhớ ngược lên toàn cảnh trắng xóa cả một chân trời đá ngàn năm mai phục, người đọc như được xem mọt chiến trận trên màn ảnh. Trên đó thế toàn rồi trung, rồi cận chiến tưởng đã hất ông lái và những người bạn chèo khỏi chiến cuộc như hất cái hột giống nòi nhỏ xíu kia. Nhưng ngay trong phút nghẹt thở ấy, ông lái vẫn lừng lững giữa dòng.
Trước ồn ào, ầm ĩ kiểu võ mồm của một mặt sông sùi bọt mép mà thở, kêu, ằng ặc, réo, rống, oán trách, van xin, khiêu khích, chế nhạo, gầm thét, reo hò... ông lái như không thèm chấp, chỉ ngắn gọn chỉ huy, để còn dành nội lực nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, để thuộc quy luật phục kích. Ông lái dụng trí chứ không lạm ngôn, không bẻm mép. Khi đã có trí thì dù cho thế lực hung ác kia lấy hai chọi một, dù cho chúng tiểu nhân đến mức phải dụ, phải lừa, võ biền đến liều mạng, thúc gối đá trái thì cũng đến lúc con người nắm chặt, đè sấn, chặt đôi, giành lấy chiến thắng, mở đường sống cho mình.
Đó là con đường anh chiến binh trở lại làm nhà đò, làm người chân sào, với khúc hò dô chống, chèo, kéo đã vang lên ở đoạn trên. Nguyễn Tuân thôi không để chữ nghĩa của mình hừng hực nộ khí xung thiên nữa. Nộ khí ấy đã làm xong cái việc bổ sung kịch tính cho thiên tùy bút, nó xèo xèo tan hòa trong chất trữ tình lai láng một tấm lòng muốn để thơ vào sông nước, thơ hoài cổ một thời bi tráng Tây Bắc chống Pháp xâm lược, thơ cảm thán về một non sông đang ngày một đẹp lên để có được một cái gì khang khác, chưa từng thấy trên sông này, có được ngọn cờ đỏ chấm dấu son lãng mạn vào câu kết của tác phẩm. Bằng sự chuyển đổi giọng điệu ấy, Nguyễn Tuân muốn ta hiểu ba thế võ "nắm chặt, đè sấn, chặt đôi" mà ông lái mới xuống tay kia cũng chỉ là cách điệu, thăng hoa, biến tấu của ba ngón nghề đưa đò chống, chèo, kéo mà thôi. Muôn đời ông lái vẫn là bạn của dòng sông. Một người bạn cao thượng sớm quên đi những tướng dữ quân tợn để nhớ về một con sông Đà của cá anh vũ đầm xanh. Một sông Đà đã vặn mình thay đổi.
"Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình..." Chữ vặn có lẽ Nguyễn Tuân mượn của Tản Đà, mượn trong câu thơ ngày ấy Tản Đà lên chơi tỉnh Hòa Bình "Sông Đà ai vặn một dòng quanh". Mượn chữ vặn chỉ là để có câu hỏi "ai vặn" kia cho cả cuốn Sông Đà trả lời rằng, những chủ nhân của một nước Việt Nam mới đã vặn, đã nắn, đã dẫn dòng sông chảy đúng vào tuốc bin thủy điện sông Đà, để dòng nước hung hăng một thời, hóa thân thành ánh sáng, về việc hóa thân này, Nguyễn Tuân, băng văn chương của mình đã có công dự báo. Còn công đầu của việc nắn lại dòng sông thì thuộc về những Người lái đò Sông Đà.
Câu trả lời của bạn
Trong “Trường ca mặt đường khát vọng”, Nguyễn Khoa Điềm từng viết:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gọi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…
Non sông gấm vóc Việt Nam được tạo nên từ trăm ngàn con sông lớn nhỏ. Từ những dòng sông ở đồng bằng mang đến bao phù sa màu mỡ đến những con sông ở miền núi cao với tiềm năng thủy điện, chúng đều có những vẻ đẹp riêng. Với Nguyễn Tuân – nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp – lại bị cuốn hút bởi một con sông đặc biệt: sông Đà. Vẻ đẹp của sông Đà được Nguyễn Tuân xem là “thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc”.
Trong “Trường ca mặt đường khát vọng”, Nguyễn Khoa Điềm từng viết:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gọi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…
Non sông gấm vóc Việt Nam được tạo nên từ trăm ngàn con sông lớn nhỏ. Từ những dòng sông ở đồng bằng mang đến bao phù sa màu mỡ đến những con sông ở miền núi cao với tiềm năng thủy điện, chúng đều có những vẻ đẹp riêng. Với Nguyễn Tuân – nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp – lại bị cuốn hút bởi một con sông đặc biệt: sông Đà. Vẻ đẹp của sông Đà được Nguyễn Tuân xem là “thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc”.
Vàng mười không chỉ đẹp mà còn rất có giá trị. Và có lẽ vì đó mà nhà văn gọi sông Đà là “thứ vàng mười”. Sông Đà đẹp, nhưng lại mang một vẻ đẹp rất khác, đầu tiên nằm ở hướng chảy của nó. Ngày từ đầu tác phẩm, Nguyễn Tuân đã trích hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích:
Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu
Trong khi mọi dòng sông đều rủ chảy nhau về hướng đông thì sông Đà ung dung ngược về phương bắc, chỉ riêng mình nó chảy về phương bắc mà thôi. Có lẽ vì vậy mà con sông này có đến hai nét tính cách riêng biệt: hung bạo nhưng cũng rất đỗi trữ tình.
Sông Đà trước tiên là dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Cái hùng vĩ của nó được thể hiện qua những tảng đá ven bờ được dựng thành vách. Vách cao đến nỗi “mặt sông chõ ấy chỉ lúc chính ngọ mới có mặt trời”. Thậm chí, nói còn “chẹt òng sông như một cái yết hầu”. Ở đây, Nguyễn Tuân đã sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh rất thành công, tái hiện lại cho người đọc được độ cao của vách đá cũng như sự âm u đáng sợ của sông Đà. Tiếng gầm thét của con sông nghe cúng thật đáng sợ. suốt năm suốt tháng cứ gầm ghè gào thét, “nghe như à tiếng đòi nợ xuýt” vậy. Ghềnh Hát Loong nước đổ dữ dội “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Người lái đò qua đây phải vô cùng cẩn thận nếu không thuyền sẽ bị lật ngửa lên ngay. Tác giả đã sử dụng biện pháp điệp từ khiến con sông trở nên dữ dội hơn, dồn dập hơn. Con sông Đà hung ạo còn bởi những cái hút nước chết người. Chúng như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu, khi thì “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”,khi thì “ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Hút nước vốn đã ghê rợn lại được nhà văn sử dụng các từ như “thở, kêu, sặc, ặc ăc” càng làm tăng thêm sự khủng khiếp của chúng. Trong phần này, Nguyễn Tuân đã chứng minh sự tài hoa uyên bác của mình bằng cách sử dụng vốn kiến thức từ nhiều lĩnh vực từ điện ảnh, âm nhạc, hội họa đến xây dựng để miêu tả sự kỳ vĩ, hung bạo của Đà giang. Có thể nói, ông là người đầu tiên so sánh nước với lửa: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”. Nước và lửa vốn là hai thứ có sức hủy diệt lớn, lại luôn tương khắc nhau, nay dưới ngòi bút tài ba của Nguyễn Tuân mà trở thành hai yếu tố hợp sức với nhau để tái hiện nên cái kỳ vĩ của thác nước. tiếng nước nghe “như là oán trách, rồi lại như van xin, khi thì khiêu khích, giọng gằn chế nhạo.” Tác giả đã nhân cách hóa dòng sông, biến nó thành một tạo vật trái tính trái nết, lúc nào cũng gầm gừ gào thét những âm thanh ghê rợn.
Cái hùng vĩ của sông Đà không chỉ ở thác nước mà còn ở những “trùng vi thạch trận” đầy hiểm nguy. Tác giả chia đá ở đây thành ba trùng vi thạch trận. vòng đầu tiên là “hàng tiền vệ” với bốn của tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm về phía tả ngạn dòng sông. Chúng có nhiệm vụ dụ thuyền vào giữa tuyến rồi “đánh khuýp quật vu hồi lại”. Tiếp đến là vòng thứ hai. Vòng này tăng thêm cửa tử, cửa sinh dược bố trí về hữu ngạn với những boong ke pháo đài có nhiệm vụ tiêu diệt những thuyền vượt qua vòng một. Trùng vi thứ ba thì ít cửa hơn, cửa sinh lại nằm ở chính giữa. Đi hết cửa này lòng sông bỗng trở nên thanh bình. Sông Đà hiện lên như một loài thủy quái đầy mưu mô, xảo quyệt. Những loại đá thì như những binh sĩ hung tợn, tên nào tên nấy ngỗ ngược, nhăn nhúm và hiếu chiến. Một lần nữa nhà văn lại thể hiện sự uyên bác của mình qua lĩnh vực quân sự, thể thao, võ thuật để miêu tả sông Đà. Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm tài ba đang kể lại cho chúng ta chuyến thủy trình đầy hiểm nguy bằng những ngôn từ, liên tưởng vô cùng sống động. Sự ghê rợn của Đà giang nghìn đời nay vốn vẫn quyết đầu với con người. Có thể nói, qua việc miêu tả thác nước song Đà, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên sức mạnh chế ngự tự nhiên của con người. Nhưng suy cho cùng, sự dữ dội của con sông ấy lại mang về tiềm năng thủy điện, tiềm năng kinh tế cho người dân, đất nước.
Đáng sợ là thế nhưng sông Đà cũng là một dòng sông rất trữ tình. Đi qua cái dữ dội của thác đá, sông Đà lại trở về là một dòng sông thanh bình, dịu êm. Không còn những trùng vi thạch trận đầy hiểm nguy, không còn những hòn đá ngỗ ngược, sông Đà lúc này êm đềm với những chuồn chuồn, bươm bướm. Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân. Do đó, ông hiểu cái “chất đằm đằm ấm ấm” thân quen và cái chất thơ mộng mị của cảnh sắc thiên nhiên sông Đà. Ven bờ là những bãi ngô non, là cỏ gianh, là đàn hươu thong dong gặm cỏ. Sông Đà không chỉ mang đến tài nguyên thủy điện mà còn bồi đắp phù sa màu mỡ cho núi rừng Tây Bắc. Sông Đà, trong mỗi hoàn cảnh lại có một vẻ đẹp riêng. Khi đi máy bay, có người sẽ thấy đó là “cái dây thừng ngoằn nghoèo”, có người lại thấy con sông như “một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc.” Theo cách nói của tác giả, “đối với mỗi người, sông Đà lại gợi cảm theo mọt cách khác.” Nước sông Đà đổi màu đa dạng theo thời gian. Mùa xuân, nước sông xanh màu ngọc bích, màu xanh quý phái khác hẳn sông Gâm sông Lô”. Mùa thu nước sông lại “lừ lừ chín đỏ”. Và đặc biệt, nước sông Đà chưa từng có màu đen như Thực dân Pháp “lếu láo” gọi. Rõ ràng, Nguyễn Tuân phải hiểu rất rõ về sông Đà mới đưa ra khẳng định như thế. Điều đó vừa làm tôn lên vẻ đẹp của sông Đà, vừa thầm kín thể hiện tình yêu của tác giả đối với dòng sông đặc biệt này. Sông đà còn là dòng chảy của lịch sử nước Nam ta. Bởi lẽ, từ đời Lý – Trần, Lê sơ, cảnh ven sông đều lặng lẽ như tờ. Bờ sông bấy lâu nay vẫn tĩnh lặng hoang sơ giờ đây cần được đổi mới. Giá mà có tiếng còi xe lửa mang theo sự nhộn nhịp giàu sang ở miền xuôi lên Tây Bắc thì tốt biết bao! Những câu văn của Nguyễn Tuân như những bản tình ca êm ái,vừa sống dậy những vẻ đẹp hiện đại, vừa đưa ta trở về với những miền ký ức xa xăm nay chỉ còn là vang bóng.
Nhìn sông Đà như một cố nhân, Nguyễn Tuân thể hiện cái tình cảm tri âm tri kỷ đối với dòng sông kỳ lạ này. Đối với ông, sông Đà không chỉ là mọt tạo vật thuần túy mà còn là một sản phẩm nghệ thuật cần được trân trọng, khám phá. Bằng cái nhìn độc đáo, cảm nhận tinh tế, Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thấy “cái chất vàng mười đã qua thử lửa” có một không hai của Tây Bắc. Sông Đà không đơn thuần là một dòng sông, nó là một nhân tố làm giàu đẹp thêm tương lai đất nước.
Đọc “Người lái đò sông Đà”, ta mới thấy rõ con người suốt đời đi tìm cái đẹp của Nguyễn Tuân. Không những thế, ta càng thêm yêu thiên nhiên đất nước, say mê với vẻ đẹp tiềm tàng của núi rừng Tây Bắc thân thương.
Câu trả lời của bạn
Nguyễn Tuân (1910 - 1987) được mệnh danh là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp của cuộc đời và viết lên những áng văn hay cho hậu thế. Trước CMT8 năm 1945, quan niệm cái đẹp của Nguyễn Tuân là những thứ chỉ còn xuất hiện trong quá khứ ở những bậc cao nhân tài hoa. Còn sau cách mạng với sự thay đổi của thời đại quan điểm cái đẹp của ông đã thay đổi gắn liền với cuộc sống thường nhật từ những gì dung dị nhất. Thông qua hai nhân vật Huấn Cao trong "Chữ người tử tù" và ông lái đò trong "Người lái đò sông Đà" ta thấy rõ nhất sự chuyển dịch trong cảm hứng sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân.
Có thể nói, "Chữ Người Tử Tù" được xem là truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân trong giai đoạn trước CMT8 năm 1945. Truyện ngắn này được trích ra từ tập "Vang bóng một thời" đây là tập truyện kể về những con người tài hoa giờ đã vang bóng một thời. Nhân vật chính của truyện là Huấn Cao người mang vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài hoa với khả năng viết chữ thư pháp đẹp nức tiếng gần xa. Ngay cả Viên quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết: "Chữ ông đẹp lắm, vuông lắm...có được chữ ông Huấn Cao mà treo trong nhà là có một vật báu ở trên đời". Cho nên sở nguyện của Viên quản ngục là một ngày kia ngôi nhà của ông sẽ được treo một đôi câu đối do chính tay ông Huấn Cao viết.
Huấn Cao không chỉ có tài viết chữ đẹp mà ông còn có một thiên lương trong sáng. Ông không bao giờ ép mình cho chữ vì tiền hay vì quyền thế. Ông chỉ cho chữ những người biết trân quý cái đẹp cái tài. Cho nên suốt đời Huấn Cao mới chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn mà ông yêu mến. Lúc đầu, ông tỏ ra khinh bạc viên quản ngục vì nghĩ rằng hắn định có âm mưu đen tối gì với mình khi biệt đãi trong phòng giam. Rồi từ từ Huấn Cao mới cảm nhận được tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" của ông quản ngục và viên thơ lại.Họ là những người biết yêu cái đẹp thành tâm xin chữ Huấn Cao. Và để không phụ lòng viên quản ngục ông đã cho chữ ngay trong nhà lao. Nguyễn Tuân đã mô tả cảnh cho chữ là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
Nhân vật Huấn Cao không chỉ đẹp ở tài năng mà còn đẹp ở cái tâm và ý chí bất khuất hiên ngang của người quân tử. Ở ông có khí phách của người anh hùng mà không phải ai cũng có thể có được. Thông qua nhân vật Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã bộc lộ niềm tin bất diệt vào những cái đẹp mang giá trị cao quý ngay cả trong những nơi tối tăm, dơ bẩn nhất vẫn tỏa sáng.
Nếu như Huấn Cao được ví như anh tài xuất chúng được xây dựng trong hoàn cảnh có một không hai thì nhân vật ông lái đò lại có chút bình dị hơn. Trong tùy bút "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân nhân vật ông lái đò được xây dựng hết sức chân thật qua công việc ông làm. Ông lái đò là người có ngoại hình rất đặc biệt với hai tay "lêu nghêu", chân "khuỳnh khuỳnh", giọng nói thì "ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh", đôi mắt thì "vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó"...Với đặc điểm ngoại hình như thế chúng ta thấy được rất phù hợp với môi trường lao động trên sông nước của ông.
Ông lái đò được Nguyễn Tuân miêu tả là một người rất tài trí và có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ. Ông là người làm nghề rất có tâm hiểu biết tường tận từng ngóc ngách của con sông cũng như tính nết của nó. Ông nhớ như đóng đanh vào lòng những luồng nước và tất cả những con thác hiểm trở. Nắm bắt được trận đồ binh pháp của thần sông, thần đá. Thuộc làu quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Đặc biệt, ông còn chỉ huy được các cuộc vượt tác một cách tài tình biết rõ từng cửa sinh, cửa tử mà vượt qua.
Nguyễn Tuân miêu tả ông lái đò như một vị tướng hiên ngang "tả xung hữu đột" trước muôn trùng sóng nước của sông Đà. Ông là người rất dũng cảm biết chịu cái đau của thể xác do vật lộn với sóng to gió lớn để chiến thắng thác dữ bằng những động tác táo bạo và vô cùng chuẩn xác. Ta thấy ông lái đò được xây dựng như một nghệ sĩ thực thụ chứ không phải là một người lái đò bình thường.
Cả hai nhân vật Huấn Cao và ông lão lái đò đều được xây dựng bằng biện pháp lí tưởng hóa. Xuất phát từ cơ sở cái nhìn độc đáo của nhà văn Nguyễn Tuân. Ông nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ có thể làm nổi bật lên những vẻ đẹp phi thường trong tài năng, cốt cách của họ. Nhà văn đã đặt hai nhân vật vào những tình huống đầy thử thách để giúp họ bộc lộ được phẩm chất đáng quý của mình.
Nếu như khi xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân sử dụng tri thức nghệ thuật thì xây dựng nhân vật ông lái đò nhà văn lại vận dụng nhiều vốn tri thức đời sống.Chính điều này đã khiến cho ngòi bút Nguyễn Tuân thuyết phục được nhiều đối tượng độc giả.Những tác phẩm văn chương của ông không chỉ đẹp về mặt ngôn từ còn có giá trị nghệ thuật rất đặc sắc mà hậu thế phải công nhận.
Câu trả lời của bạn
Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một:
"Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn..."
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. "Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất", người lái đò "phá luôn vòng vây thứ hai". Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động "tấn công": Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.
Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân.
Câu trả lời của bạn
Năm sinh: 1910
Năm mất: 1987
Câu trả lời của bạn
Hung bạo và trữ tình.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Thể loại kí.
Câu trả lời của bạn
Tình yêu thiên nhiên đất nước và sự tôn vinh người lao động.
Câu trả lời của bạn
So sánh một đặc tính vốn trừu tượng với một hình ảnh còn trừu tượng hơn, tạo ra sự liên tưởng bát ngát cho người đọc.
Câu trả lời của bạn
Nhân hóa.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *