Bài học giúp các em có kĩ năng vận dụng các thao tác phân tích, bình luận, chứng minh, so sánh... để làm văn nghị luận văn học. Biết cách làm bài văn nghị luận về một tác phẩm một trích đoạn văn xuôi.
Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, khi Mị bị A Sử trói vào cột, Tô Hoài viết :
“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “ Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
( Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài)
Từ đoạn văn trên, anh (chị) hãy làm rõ hình ảnh nhân vật Mị và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn.
=> Tài năng của nhà văn
Cảm nhận của anh/chị về tình huống truyện trong đoạn trích sau: “Ít lâu nay hắn xe thóc Liên đoàn lên tỉnh. Mỗi bận qua cửa nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đây […] đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về…”
(Trích Vợ nhặt – Kim Lân)
Để biết cách làm bài văn nghị luận về một tác phẩm một trích đoạn văn xuôi, các em có thể tham khảo thêm bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
- Đối tượng của bài nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi rất đa dạng:
+ Có thể là giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm nói chung.
+ Có thể là một phương diện, một khía cạnh nội dung hoặc nghệ thuật của tác phẩm hoặc của các tác phẩm, đoạn trích khác nhau.
- Nội dung của bài nghị luận về một tác phẩm/đoạn trích văn xuôi thường như sau:
+ Giới thiệu tác phẩm/đoạn trích cần nghị luận.
+ Phân tích giá trị nội dung, nghệ thuật hoặc một số khía cạnh đặc sắc theo định hướng của đề.
+ Đánh giá chung về tác phẩm, đoạn trích.
Câu trả lời của bạn
Truyện ngắn "Vi hành" châm biếm, đả kích vua bù nhìn Khải Định và bọn mật thám Pháp trong chuyến Khải Định công du sang Pháp dự đấu xảo Pa-ri.
Câu trả lời của bạn
Cái vị đời này người ta luôn có một sự khao khát về tình yêu và hạnh phúc. Trong cái xã hội này, cái tình người luôn là một ngọn lửa đem lại sự ấm áp đem lại một niềm tin mới một sức sống mới cho những người khốn khổ. Khi con người ta rơi vào một bước đường cùng, cái khao khát về một cuộc sống thực sự mạnh mẽ. Và khi đọc tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân chúng ta sẽ thấy được cái sự khao khát đó.
Câu chuyện kể về anh cu Tràng. Một anh chàng nhà nghèo đã nhặt được vợ trong cái hoàn cảnh xóm ngụ cư người chết đói đầy đường. Tác phẩm đã phản ánh được số phận của những con người trong cái xã hội đó trước khi cách mạng bùng nổ. Họ có một sự khao khát về một cuộc sống, về một tình yêu hạnh phúc. Những khao khát thực sự bình dị của những con người nghèo khó.
Tác phẩm “Vợ nhặt” là một tác phẩm được đánh giá là có giá trị nhất trong nền văn chương Việt Nam khi nói về nạn đói năm 1945. Khi mà chưa có tác phẩm nào thể hiện được hay và xúc động như thế. Cảm hứng về sự nhân đạo trải dài khắp câu chuyện.
Khi đọc tác phẩm “Vợ nhặt” chúng ta thấy được nỗi đau khổ tột cùng của người dân. Nạn đói Ất Dậu 1945 đã cướp đi sinh mạng của bao con người. Những xác chết ngổn ngang khắp các lều chợ, đoàn người đói ăn dắt díu nhau “xam xám như những bóng ma”. Quạ đen bay từ những ngọn cây bay vù lên “Như những đám mây đen” chờ ăn xác chết. Mùi xác người khắp các xóm chợ, chết như ngả rạ. Cái cảnh đó lúc nào cũng hiện hữu vào những buổi sáng, có ít nhất bốn năm cái thây chết còng queo bên đường. Thực sự là một sự đớn đau đến tột cùng.
Trong cái cảnh đó, đói chết đâu có tha cho bất cứ ai. Mẹ con Tràng cũng “rúm ró” trong cái nhà vắng teo trong cái mảnh đất mọc phủ đầy cỏ dại. Tấm phên cửa rách nát, mọi thứ bừa bộn khắp mọi nơi trên đường dưới đất. Nhìn thấy cái sự thực đó nàng dâu mới của Tràng cũng phải thấy thực sự thất vọng “nén một tiếng thở dài”.
Bà cụ Tứ “mặt bủng beo u ám”. Anh cu Tràng “bước mệt mỏi”. Cái đầu “trọng nhẵn chúi về đằng trước’’ với bao lo lắng, chật vật. Đám trẻ con xóm chợ, trước đây tinh nghịch thế, giờ đây chúng “ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích”. Trước nhà kho trên tỉnh có mấy chị con gái “ngồi vêu ra”. Đặc biệt nhân vật “thị”, cái đói đã đi tất cả. Không họ tên, tuổi tác, không gia đình, anh em. Không quê hương bản quán. Hình hài tiều tụy, xơ xác đáng thương. Áo quần “tả tơi như tổ đỉa “gầy sọp hẳn đi”, khuôn mặt lưỡi cày “xám xịt”, chỉ còn thấy hai con mắt.
Phía trước con đường đó chính là vực thẳm, cái đói đã cướp đi tất cả những gì “thị” có. Chỉ nghe thấy Tràng nói “muốn ăn gì thì ăn”. Con mắt của thị cũng bừng sáng lên “trũng hoáy”. Và trong cái cơn đói đó, một người người cũng trở nên thô lỗ, “thị” đã ăn một chặp bốn bát bánh đúc. Nhưng trong cái hoàn cảnh đó người ta chỉ thấy được một sự đáng thương, không hề đáng chê. Đói đến sắp chết đến nơi, mà nhặt được miếng ăn, thì người ta sẽ phải ăn để có thể sống. Không chỉ riêng “thị” mà bất cứ ai trong cái nạn đói Ất Dậu năm đó đều cũng có thể như vậy mà thôi. Đó là cuộc sống đói khát của những người nghèo thời bấy giờ.
Cái xóm ngư cụ càng về chiều “càng xơ xác, heo hút”. Nhà cửa “úp súp,tối om”, những khuôn mặt “hốc hác u tối”. Bữa cơm đón nàng dâu mới của bà cụ Tứ là một nồi cháo cám. Người con gái giữa trận đói như một thứ vứt đi, có thể “nhặt” được. Thị lấy chồng không một quả cau, không một lá trầu, chẳng có quan tám tiền cheo, quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau”. Về nhà chồng, đứng trước mẹ chồng, nàng dâu mới “khép nép”. “Cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Tối tân hôn “tiếng khóc tỉ tê” của những gia đình có người mới chết đó vọng đến thê thiết não nùng.
Sáng tinh mơ tiếng trống thúc thuế dội lên từng hồi “dồn dập, vội vã”. Bằng những chi tiết rất hiện thực, rất điển hình. Kim Lân đã thể hiện tình cảm xót thương, lo âu cho số phận của người nghèo khổ trước hoạn nạn, trước nạn đói đang hoành hành. Đáng quý hơn nữa, ông đã đứng về phía nhân dân. Về phía người nghèo vạch trần và tố cáo tội ác của Nhật – Pháp, bắt trồng đay, bắt đóng thuế. Bóc lột dân ta đến tận xương tủy, gây ra trận đói năm Ất Dậu làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân đã nói lên sự trân trọng với hạnh phúc của con người. Câu chuyện với lối kể hóm hỉnh về việc anh cu Tràng nhặt được vợ. Chỉ vài câu “tầm phơ tầm phào” rồi cho thị bốn bát bánh đúc thế là nhặt được thị làm vợ.
Nhưng nhặt được thị Tràng vẫn nghĩ phải liều “Chặc, kệ”. Nghĩ đến gạo không đủ để nuôi thân còn “đèo bòng”. Trên đường dẫn vợ mới nhặt được về nhà xin phép mẹ già, anh cu Tràng vui như mở cờ trong bụng. Kim Lân tả đôi mắt và nụ cười của anh con trai cục mịch này để làm nổi bật niềm hạnh phúc mới nhặt được vợ. Các hình ảnh Tràng “phởn phơ khác thường”, “tủm tỉm cười nụ”, hai mắt “sáng lên lấp lánh”, mặt “vênh vênh tự đắc”. Tác giả đã lột tả được sự khao khát về một cuộc sống hạnh phúc của một con người nghèo khó lớn đến dường nào.
Hình ảnh Tràng và thị đi bên nhau trông “hay đáo để”. Tràng khoe hai hào dầu, rồi cười hì hì, bị thị “phát đánh đét” vào lưng với câu mắng yêu: “Khỉ gió”, nghểnh cổ thổi tắt phụt ngọn đèn con. Bị thị mắng: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Những tình tiết ấy rất hay nói lên tình yêu mạnh hơn cái chết.
Cảnh mẹ chồng gặp nàng dâu mới thật vô cùng cảm động. Vượt qua phong tục tập quán ăn hỏi cưới xin, chẳng có dăm ba mâm. Bà cụ Tứ thương người đàn bà xa lạ, thương con và thương mình. Bà nhận nàng dâu mới: “Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Tình thương của bà mênh mông, bà nghĩ “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này. Mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được…”.
Bà dịu dàng yêu thương gọi nàng dâu mới là “con”. Lòng đầy thương xót, bà nói với hai con: năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá. Qua đó ta càng hiểu sâu hơn cái lẽ đời. Nhân dân lao động nghèo khổ đứng trước tai họa, họ đã dựa vào nhau. San sẻ tình thương, san sẻ vật chất cho nhau để vượt qua mọi thử thách. Hướng tới ngày mai với niềm tin và hy vọng: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời…”. Người đọc cảm thấy ngọn đèn “vàng đục” chiếu sáng trong mái lều đêm tân hôn của vợ chồng Tràng, là ngọn đèn hy vọng và hạnh phúc ấm no.
Bữa cháo cám đón nàng dâu mới là một chi tiết mang giá trị nhân đạo tiêu biểu nhất trong truyện Vợ nhặt. Bà cụ Tứ gọi là “chè khoán… ngon đáo để”. Bà tự hào nói với hai con là “xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Trong bữa cháo cám, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cái gia đinh mẹ con vô cùng “đầm ấm hòa hợp” hạnh phúc. Sau này, vợ chồng cái Tràng có thể có những bữa cơm nhiều thịt cá ngon lành hơn. Nhưng không bao giờ có thể quên được bữa cháo cám buổi sáng hôm ấy. Vị cháo “đắng chát” mà lại ngọt ngào chứa đựng bao tình thương của mẹ. Kim Lân sống gần gũi người nhà quê, ông hiểu sâu sắc tâm lý, tình cảm của họ.
Ông đã làm cho những thế hệ mai hậu biết cái đắng chát trong cuộc đời của ông cảm nhận được cái hương đời. Cái tình thương của lòng mẹ, mà không một cao lương mĩ vị nào có thể sánh được?.
Kim Lân đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, nồng hậu nhất về sự đời của người dân cày Việt Nam. Mừng cho anh cu Tràng có vợ, bọn trẻ tinh nghịch reo lên: “chông vợ hài”. Việc Tràng có vợ, dân ngụ cư xóm cảm thấy “có một cái gì lạ lùng và tươi mát. Thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối của họ”. Bà cụ Tứ vui sướng vì con trai đã có vợ, bà như trẻ lại, nhẹ nhõm tươi tỉnh “rạng rỡ hẳn lên”.
Vợ Tràng trở thành người đàn bà “hiền hậu đúng mực”. Tràng như từ một giấc mộng bước ra. Anh ngủ dậy cảm thấy lửng lơ”. Hạnh phúc đến quá bất ngờ. Việc hắn có vợ sau một ngày một đêm mà hắn “vẫn ngỡ ngàng như không phải”.
Sự đổi đời còn được thể hiện ở cảnh vật. Mẹ và vợ Tràng đã dậy sớm, quét tước thu dọn lại nhà cửa, sân ngõ. Tiếng chổi quét sàn sạt. Hai cái ang được kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được sạch. Mẹ chồng, nàng dâu mới, con trai, ai cũng muốn góp phần sửa sang tổ ấm gia đình hạnh phúc. Họ không nghĩ đến cái chết mà hướng về sự sống về hạnh phúc và sự đổi đời. Tràng cảm thấy hắn đã “nên người”, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này!
Trong tác phẩm một chi tiết nói về việc Cách mạng sắp đến. Nạn đói bị đẩy lùi đó là khi vợ Tràng nghe tiếng trống thúc thuế báo tin ở Thái Nguyên, Bắc Giang. Người ta đã phá kho thóc của Nhật chia cho người đói, người ta không phải nộp thuế nữa. Hình ảnh lá cờ đỏ cách mạng trong truyện “Vợ nhặt” thể hiện một dự cảm về một tương lai tương đẹp, ấm no, hạnh phúc và nó làm đậm lên giá trị nhân đạo của tác phẩm. Hạnh phúc của Tràng, niềm vui của người mẹ già mặc dù có đôi chút muộn màng nhưng thực sự đáng quý và đáng trân trọng.
Có lẽ đời này chắc chẳng có ai nhặt được vợ như thế. Cái cuộc sống đói khác, đường cùng đó do bè lũ xâm lược Nhật – Pháp đã gây ra thực sự đáng hận. Nhưng cũng chính trong cái sự khốn cùng đó lại toát lên được cái khát khao sống, cái khát khao hạnh phúc. Vị đời thực sự có nhiều thứ quá ngọt ngào, tình người ấm áp đã làm tỏa sáng cái giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
;
Có lẽ Tô Hoài là nhà văn đã từng có sự gắn bó sâu sắc với đất và con người Tây Bắc, ông đã từng phải thốt lên rằng: "đất và người Tây Bắc đã để thương để nhớ trong tôi nhiều quá". Chính bởi nỗi niềm đó, ông đã dành riêng một tập truyện viết về núi rừng Tây Bắc đó là tập "truyện Tây Bắc". Vợ chồng A phủ là một trong những câu chuyện được rút trong tập đó. Có thể nói tình yêu thương Tây Bắc được Tô Hoài gửi trọn vẹn trong nhân vật Mị.
Phân tích
1. Trước khi về làm dâu
Mị được coi là một cô gái với khá nhiều đức tính tốt. Cô là một người con của núi rừng Tây bắc xinh đẹp, tài hoa, chăm chỉ, hiếu thảo và tự do, cô có tình yêu đẹp và niềm tin vào cuộc sống tương lai tươi sáng. Tuy nhiên, từ khi sinh ra cô cô đã phải gánh trong mình những món nợ, món nợ về cường quyền và món nợ về thân quyền đè nặng lên vai cô.
Có lẽ yêu tây bắc như nào thì Tô hoài gửi gắm tình yêu vào nhân vật Mị bất nhiều, ông đã mang bao yêu thương phủ lên đời Mị những ánh hào quang rực rỡ nhất của một người đàn bà. Mị xinh đẹp "những đêm tình mùa xuân đến, trai đứng nhẵn cả bức vách đầu buồng Mị". Mị có tài thổi sáo khiến "biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị".... Mị sống trong những tháng ngày tươi đẹp của tuổi trăng tròn, tràn trề cơ hội được hưởng thụ tình yêu và hạnh phúc. Cô cũng đã có người yêu, một tình yêu đẹp với ngón tay đeo nhẫn và hiệu gỗ vách hẹn hò.
Bên cạnh vẻ đẹp tài năng trong con người Mị thì bản chất của một người lao động chân chính vẫn không mất đi trong con người Mị. Cô vẫn là một cô gái của bản làng, của núi rừng. Mị biết cuốc nương, làm ngô và sẵn sàng làm nương ngô trả nợ cho bố mẹ. Mặc dù vậy cô vẫn luôn yêu đời và yêu tự do, không ham giàu sang phú quý, cô đã từng nói, từng xin bố rằng "bố đừng bán con cho nhà giàu con sẽ làm nương ngô trả nợ cho bố".
Tuy nhiên, cuộc đời Mị không theo ý muốn của cô, cô không thể tự quyết định cuộc đời của mình được. Mị đã phải bước chân về nhà Thống lý Pá Tra ép sống kiếp dâu con mà như thân phận nô tì để gạt nợ cho cha.
2. Mới về làm dâu
Đang là một cô gái trẻ đẹp với bao khát vọng về cuộc sống hạnh phúc và tươi sáng nơi tương lai, Mị như chết đứng với số phận tại đây. Về nhà thống lý Pá tra làm dâu gạt nợ, Mị âm thầm chịu đựng nỗi đau "có đến mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc". Cô sẵn sàng quên hết đi tất cả để tìm đến cái chết khi ý thức được cuộc sống và tháng ngày sau này mình sẽ phải chịu đựng như thế nào, cuộc sống thật không đáng sống. Đã nhiều lần Mị có ý định như vậy, cô vào rừng hái nắm lá ngón, giấu vào trong tay áo và về quy lạy bố để chết. Nhưng bởi vì một chữ hiếu mà Mị không đành lòng nhìn bố mẹ mình chịu khổ cực. Mị đành từ bỏ ý định, cô ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi khát vọng hạnh phúc của cuộc đời mình vậy. Mị đã coi việc làm dâu con trong nhà thống lý pá tra như làm kiếp trâu ngựa để trả nợ cho cha mẹ năm xưa.
3. Khi làm dâu đã quen
Người ngoài không biết nhìn vào Mị nghĩ Mị được làm dâu trong nhà giàu có chắc cuộc sống hạnh phúc và sung sướng lắm. Tuy nhiên thực tế, thân xác và tinh thần của Mị luôn bị hành hạ. Thời gian và công việc đã làm tê liệt tinh thần của cô, hàng ngày vẫn là công việc đó, bên cạnh chuồng ngựa khiến tinh thần Mị bị tê liệt. Mị đã quen dần với cái khổ cực nơi đây.
Mấy năm sau bố Mị mất, giờ thì cô không còn nghĩ đến cái chết nữa "ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi".
=> Khát vọng sống, niềm khao khát hạnh phúc luôn tiềm ẩn trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật. Nó giống như ngọn lửa vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một làn gió mát lành thổi tới là có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động ngoại cảnh là không nhỏ nhưng sức mạnh tiềm tàng mới là điều quyết định sức sống của Mị.
Kết bài
Khác với hoàn cảnh trong đêm tình mùa xuân lần này Mị không chỉ có một mình đơn độc. Cả A Phủ và Mị đều là những người giàu sức sống, khi sức sống tiềm tàng trong mỗi cá nhân tỏa sáng và kết hợp với nhau sẽ tạo thành sức mạnh giải phóng cho người, khi sự đồng cảm giữa những người cùng cảnh ngộ kết hợp với ý thức phản kháng đấu tranh tạo thành sức mạnh đấu tranh giai cấp thì sức sống trong mỗi cá nhân sẽ được nhân lên bội phần tạo ra những kết quả bất ngờ mà tất yếu. Mấy câu cuối đoạn văn A Phủ nói: "Đi với tôi ! Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi" như chấp chới như cánh chim bay mở đầu, như hối hả những dòng chảy tung phá, đời người đàn bà ở nợ cất mình khỏi nấm mồ tăm tối, đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui.
Những ý trên có thể giúp bạn viết bài
MONG ĐC TICK
CHÚC BẠN HỌC TỐT
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *