Qua bài học giúp các em nắm được vẻ đẹp thiên nhiên mà Lí Bạch miêu tả qua bài thơ. Bước đầu nhận biết mối quan hệ gắn bó giữa tình và cảnh trong thơ cổ.
"Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên"
(Nắng rọi Hương Lô khói tía bay)
⇒ Ngọn núi Hương Lô với những làn khói tía rực rỡ, huyền ảo làm nền cho thác nước.
⇒ Khung cảnh sống động, kì vĩ, huyền ảo, thấp thoáng như tiên cảnh.
"Dao khan bộc bố quải tiền xuyên"
(Xa trông dòng thác trước sông này)
→ Nhìn từ xa dòng thác nước như dải lụa trắng, được treo bất động vào khoảng giữa vách núi và dòng sông.
⇒ Khung cảnh thiên nhiên tươi sáng, huyền ảo.
"Phi lưu trực há tam thiên xích"
(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)
→ Dòng nước lao thẳng mạnh xuống. Gây ấn tượng mạnh mẽ về độ nhanh, sức đổ và thế đổ của thác nước
⇒ Hình dung thế núi cao, dốc, có cảm giác mạnh mẽ, choáng ngợp trước sự hùng vĩ của thiên nhiên.
⇒ Diễn tả qui mô khổng lồ và tốc độ nước ghê gớm của thác
"Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên"
(Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây)
→ Sử dụng phép so sánh (dòng thác như dải Ngân Hà) và phép phóng đại (tuột khỏi mây rơi xuống)
⇒ Cảm giác kì diệu. Câu thơ kết hợp cái thực và cái ảo, cái hữu tình và cái thần kì
⇒ Cái đẹp bất tử cho bài thơ. Thác núi Lư đẹp tráng lệ, hùng vĩ.
Đề bài 1: Phân tích bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư" của Lý Bạch.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
“Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên”
(Nắng rọi Hương Lô khỏi tía bay)
→ Cảnh đẹp thác núi Lư được tả bằng mắt và bằng tưởng tượng vì nhà thơ đứng ở một nơi rất xa ngắm thác.
“Dao khan bộc bố quải tiền xuyên”
(Xa trông dòng thác trước sông này)
→ Câu thơ dịch rơi mất chữ “quải”. Hai câu thơ đầu có năm chi tiết được nói đến, có núi, thác và sông, có ánh mặt trời và làn khói tía. Chữ “sinh” là một vẻ động rất thần tình, gợi tả vẻ đẹp huyền diệu của núi và thác.
“Phi lưu trực há tam thiên xích”
(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)
“Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên”
(Tưởng dài Ngân Hà tuột khỏi mây)
→ Với trí tưởng tượng phi thường và cảm xúc lãng mạn bay bổng, Lí Bạch sử dụng thủ pháp nghệ thuật so sánh và thậm xưng để ví thác núi Lư kì vĩ, tráng lệ như dải Ngân Hà lấp lánh … triệu vì sao trên bầu trời. Dải Ngân Hà ấy đã rơi từ chín tầng mây cao xuống. Chữ “lạc” nghĩa là rơi, rụng, là thi nhãn trong câu thơ tuyệt cú.
3. Kết bài
Bài văn mẫu
Bài thơ có tựa đề Xa ngắm thác núi Lư (Vọng Lư sơn bộc bố) nhưng câu thơ mở đầu lại không hề nói đôn ngọn thác ấy, mà miêu tả làn khói tía (tử yên) đang tỏa lên từ ngọn núi Hương Lô. Làn khói tía được “sinh” ra từ sự “giao duyên” giữa mặt trời và ngọn núi: “Nhật chiếu Hương Lô”. Nhờ sự giao duyên ấy mà không gian ở đây bỗng trở nên thi vị và thật hừu tình...
Nhưng cho dù đã đắm mình trong không gian ấy, chúng ta vẫn không quên rằng nhà thơ đang miêu tả ngọn thác núi Lư. Vậy câu mở đầu có phải lạc chủ đề không?
Ai cũng biết thơ Đường, trừ thơ trường thiên, thường có khuôn khổ gò bó, có những quy tắc rất nghiêm ngặt về số câu, số chữ... Bởi thế, để đạt được ý đồ nghệ thuật của mình, nhà thơ luôn phải chọn lựa những chữ rất “đắt” và hàm súc; phải dùng những thủ pháp nghệ thuật như gợi, ước lệ, tượng trưng...
Bài thơ của Lí Bạch mà chúng ta đang nói là một bài tứ tuyệt thất ngôn; lại là một bài hay của thơ Đường, thì chắc chắn mỗi câu, mỗi chữ của ông đều có một giá trị nghệ thuật nhất định.
Quả vậy, đọc lại câu thơ đầu ta không chỉ thấy một không gian thi vị, hữu tình mà còn cảm nhận tầm vóc vũ trụ của ngọn Hương Lô kia. Dưới mặt trời đang tỏa nắng là một ngọn núi tựa như một bình hương khổng lồ đang nghi ngút tỏa những làn khói tía vào vũ trụ. Hương Lô là một ngọn núi của dãy Lư Sơn, nơi ngọn thác đang đồ xuông.
Vậy thì ở câu thơ này, Lí Bạch không chỉ tả, mà điều côt yếu là ông muôn gợi, gợi mở tầm cao vũ trụ của ngọn thác. Nếu như câu một là gợi thì câu hai lại tả, nhưng tả thông qua sự cảm nhận mang đậm dấu ấn chủ quan của nhà thơ: đứng từ xa mà nhìn lại thì ngọn thác như treo (quải) trên dòng sông phía trước. Động từ “quải” (treo) gợi trí tưởng tượng của người đọc về thế dựng đứng của ngọn thác, tô đậm cảm giác về sự hùng vĩ của thiên nhiên nơi đây.
Và chính ý đó đã tạo đà cho câu thơ thứ ba: "Phi lưu trực há tam thiên xích". Đến đây bức tranh ngọn thác núi Lư được hiện lên với nhưng đường nét rõ ràng nhất. Những động từ “phi” (bay), “trực” (thẳng) có sức biểu hiện mạnh mẽ, mang lại một ấn tượng mạnh về tóc độ và sức lực của dòng chảy đang đố xuống từ độ cao ba nghìn thước. Như vậy, sự kì vĩ, tầm vóc vũ trụ của ngọn thác mới chỉ đưực gợi và gợi tả ở câu một và câu hai, thì đến câu ba nó được thề hiện một cách cụ thể: chẳng những kì vĩ mà còn mang trong mình nó một sức mạnh vô biên, sức mạnh không gì cản được.
Dường như nét bút tả ngọn thác đã đến đỉnh điểm của nó. Và chính điều ấy khiến người đọc phải sững sờ bởi hình ảnh ngọn thác: "Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên". (Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây). Dải Ngân Hà - một dải màu sáng nhạt với những vì tinh tú nhấp nháy, vắt ngang bầu trời những đêm mùa hạ, không phải là một dòng sông thực, mà chỉ là một dòng sông trong tường tượng. Nói cách khác, dòng Ngân Hà chỉ là một hình ảnh tưởng tượng, có tính trừu tượng. Việc nhà thơ mang một cái trừu tượng để so sánh với cái cụ thể đã làm cho cái cụ thể trừu tượng hơn. Nhưng nhờ đó mà hình ảnh thơ (ngọn thác) trở nên huyền ảo và mang một nét đẹp diệu kì. Trước vẻ đẹp ấy, người đọc bị chông chênh giữa hai chiều nhận thức: thực - ảo; tiên giới - trần gian;... Điều đó không có gì lạ, mà nó chỉ khẳng định thêm cái cảm nhận về sự giao duyên, gặp gỡ giữa trời và đất mà chúng ta đã nói đến ở câu một mà thôi.
Thơ với người là một. Nét bút bay bổng, mạnh mẽ của Lí Bạch ở đây cũng chính là tâm hồn của nhà thơ. Một tầm vóc kì vĩ, một sức mạnh hào hùng và vẻ đẹp nên thơ cũng chính là những khao khát, ước vọng mà nhà thơ Lí Bạch vẫn thường vươn tới.
Đề bài 2: Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư" của Lý Bạch.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp kì vĩ của thác nước núi Lư
Nhật,chiếu Hương Lô sinh tử yên
(Nắng rọi Hương Lô khói tía bay)
→ Đỉnh núi Hương Lô là cái phông nền hoành tráng, tương xứng với vẻ đẹp phi thường của thác nước. Thời điểm miêu tả là vào buổi sáng, mặt trời tỏa nắng xuống vạn vật, tạo nên cảnh tượng tuyệt vời: Sương và mây bao phủ đỉnh núi Hương Lô, nắng chiếu xuống, hơi nước bốc lên như khói, phản quang ánh sáng mặt trời, chuyển thành màu tía lung linh, huyền ảo…
⇒ Lí Bạch miêu tả sự sống động của khung cảnh trên bằng động từ sinh và coi mặt trời là chủ thể làm cho mọi vật trở nên sống động.
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
(Xa trông dòng thác trước sông này)
→ Thể hiện cảm nhận ban đầu của nhà thơ trước hình ảnh tuyệt đẹp của thác nước. Từ góc độ và tầm nhìn xa rộng, Lí Bạch thấy thác nước giống như một dải lụa trắng khổng lồ treo dọc trên vách núi.
⇒ Sự kết hợp hài hoà giữa màu tía của khói sương và màu vàng của nắng, màu xanh thẫm của đỉnh núi và màu trắng xoá của dòng thác tạo nên một khung cảnh kì vĩ có một không hai.
Phi lưu trực há tam thiên xích
(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)
→ Đặc tả độ cao của ngọn núi Hương Lô và thác nước. Hình ảnh dòng thác tuôn từ đỉnh núi đầy mây phủ xuống chân núi thật hoành tráng và ấn tượng.
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
(Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây)
→ Sự liên tưởng độc đáo bắt nguồn từ hiện thực kết hợp với trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ. So sánh thác nước với dải Ngân Hà tuột khỏi mây là một so sánh thân tình khiến câu thơ được đánh giá là danh cú (câu thơ nổi tiếng để đời).
⇒ Cảm giác kì diệu của nhà thơ khi ngắm thác núi Lư thể hiện rất rõ ở câu thơ này.
3. Kết bài
Bài văn mẫu
Lí Bạch (701 – 762), là nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường. Tên chữ của ông là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cự sĩ, quê ở tĩnh Cam Túc. Lên năm tuổi, ông cùng gia đình định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc đất Miên Châu (Tứ Xuyên). Từ lúc còn trẻ, Lí Bạch đã thích đi du lịch khắp nơi, tìm cách tạo lập công danh sự nghiệp. Suốt đời, ông ấp ủ lí tưởng cứu đời, giúp dân nhưng chưa bao giờ toại nguyện. Lí Bạch có tài sáng tác thơ và ông được người hâm mộ đặt cho biệt hiệu là Thi tiên. Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do phóng khoáng. Hình ảnh trong thơ tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên, điêu luyện. Lí Bạch viết nhiều bài rất hay về đề tài chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn. Trong mảng viết về thiên nhiên, Xa ngắm thác núi Lư là bài thơ độc đáo có giá trị muôn đời.
Phiên âm chữ Hán:
Vọng Lư Sơn bộc bố
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
Dịch nghĩa:
Xa ngắm thác núi Lư
Mặt trời chiếu núi Hương Lô Sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
Tên chữ Hán của bài thơ là Vọng Lư Sơn bộc bố, có nghĩa là trông từ xa, thác nước trên núi Lư chảy xuống như một tấm vải treo trước mặt. Tên bài thơ đã thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận cảnh vật và tài hoa của thi sĩ.
Với những hình ảnh tráng lệ, huyền ảo, bài thơ đã miêu tả một cách sinh động vẻ đẹp nhìn từ xa của thác nước chảy từ đỉnh Hương Lô thuộc dãy núi Lư; qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên đằm thắm và phần nào bộc lộ tính cách mạnh mẽ, khoáng đạt của tác giả.
Nhà thơ ngắm thác nước từ xa. Từ điểm nhìn đó, nhà thơ không thể miều tả một cách chi tiết, tỉ mỉ nhưng lại có lợi thế là được thưởng thức toàn cảnh và ông đã miêu tả thành công vẻ đẹp độc đáo của thác Lư Sơn.
Câu thứ nhất:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
(Nắng rọi Hương Lô khói tía bay)
Vai trò của nó là phác họa ra cái phông nền hoành tráng, tương xứng với hình ảnh phi thường của dòng thác. Ngọn Hương Lô hiện lên với những đỉnh núi cao chất ngất, quanh năm mây mù bao phủ. Người đời đã đặt tên cho nó là Hương Lô (16 hương). Lí Bạch không phải là người đầu tiên phát hiện ra nét đặc trưng đó. Ba trăm năm trước, trong Lư Sơn kí (ghi chép về Lư Sơn), nhà sư Tuệ Viễn (334 – 417) đã tả: Khí bao trùm trên đỉnh Hương Lô mịt mù như hương khói. Cái mới mà Lí Bạch đem tới cho Hương Lô là miêu tả vẻ đẹp của nó dưới ánh nắng rực rỡ của mặt trời. Hơi nước bốc lên, phản quang ánh sáng mặt trời, đã chuyển thành màu tía lung linh, huyền ảo. Sự thực là hơi khói đã có từ trước, nói đúng hơn là tồn tại thường xuyên, song dưới ngòi bút của Lí Bạch, với động từ sinh, ánh sáng mặt trời xuất hiện như chủ thể làm cho mọi vật trở nên sống động.
Những vẻ đẹp khác nhau của thác nước được tác giả miêu tả trong ba câu tiếp theo:
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây).
Câu Dao khan bộc bố quải tiền xuyên thể hiện cảm nhận ban đầu của nhà thơ trước hình ảnh thác nước được ngắm từ xa. Qua cái nhìn đầy thi vị của Lí Bạch, thác nước vốn tuôn đổ ầm ầm từ đỉnh núi cao xuống đã biến thành một dải lụa trắng khổng lồ được treo trên vách núi. Trên đỉnh núi khói tía bốc mịt mù, dưới chân núi dòng sông tuôn chảy, choáng giữa là thác nước treo cao như dải lụa bạch, quả là một bức tranh hùng vĩ, hoành tráng!
Câu này còn có một cách hiểu khác. Quải là treo, tiền xuyên là dòng sông phía trước. Có người cho rằng dòng sông phía trước không phải là vị trí nơi thác đổ xuống, mà là hình ảnh dùng để so sánh với dòng thác nhìn từ xa. Nếu vậy thì cả câu có nghĩa là : Đứng xa trông ngọn thác giống như một dòng sông treo trước mặt. Thật là một hình tượng tuyệt mĩ được tạo nên bởi sức liên tưởng vô hạn của nhà thơ.
Ở bản dịch thơ, câu Xa trông dòng thác trước sông này vì đánh rơi mất chữ treo là chữ quan trọng nhất của câu thơ nên ấn tượng do hình ảnh dòng thác gợi ra biến mất. Trực tiếp tả thác song đồng thời tác giả lại giúp người đọc hình dung được thế núi cao và sườn núi dốc đứng, nên mới có cảnh Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước thật ấn tượng như vậy.
Vẻ đẹp huyền ảo của thác nước được nhà thơ miêu tả trong câu kết. Tác giả đã tỏ ra xuất sắc trong việc dùng các từ Nghi (ngỡ là), lạc (rơi xuống) và hình ảnh Ngân Hà. Ví thác nước giống như dải Ngân Hà tuột khỏi mây là một so sánh độc đáo đến mức kì lạ. Sông Ngân là dải sáng màu trắng vắt ngang bầu trời do các ngôi sao li ti hợp thành, thường nhìn thấy trong những đêm trời quang. Sự xuất hiện của hình ảnh Ngân Hà ở cuối bài đã được chuẩn bị từ hai câu đầu. Vì ngọn núi, Hương Lô luôn có mây mù bao phủ nên nhìn xa, thác nước đã được hình dung như một tấm lụa bạch lớn treo rủ, khiến người nhìn dễ liên tưởng tới dải Ngân Hà từ chân mây tuôn xuống. Mặt khác, trong thần thoại truyền thuyết Trung Hoa, Ngân Hà cũng đã được quan niệm như một dòng sông thực sự. Chữ lạc dùng rất đắt vì dòng Ngân Hà vốn nằm theo chiều ngang vắt qua bầu trời, còn dòng thác lại đổ theo chiều thẳng đứng từ đỉnh núi cao xuống mặt đất. Câu thơ cuối cùng này được coi là danh cú (câu thơ, câu văn hay nổi tiếng) vì đã kết hợp được một cách tài tình yếu tố chân thực và yếu tố huyền ảo, đặc tả được cảm giác kì diệu do hình ảnh thác nước gợi lên trong tâm khảm nhà thơ và để lại dư vị đậm đà trong lòng người đọc.
Bài thơ Xa ngắm thác núi Lư của Lí Bạch ca ngợi một danh thắng của đất nước Trung Hoa. Nhà thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp kì vĩ của thác nước Lư Sơn và gửi gắm vào đó tình yêu thiên nhiên đằm thắm của mình. Văn tức là người. Bài thơ hé lộ cho ta thấy phần nào tầm hồn phong phú, trái tim nhạy cảm và tính cách mạnh mẽ, phóng khoang của bậc Thi tiên họ Lí.
HỆ THỐNG BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM
Câu 1: Chủ đề của bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư" là gì?
a. Cảnh đẹp hùng vĩ của thác núi Lư.
b. Tâm hồn hoà nhập với thiên nhiên của nhà thơ
c. Cảnh thác núi Lư trong sự tưởng tượng phóng khoáng của thi nhân.
d. Cả a,b,c đều sai
Câu 2: Nhà thơ Lý Bạch được mệnh danh là gì?
Chọn phương án trả lời đúng:
a. Thánh thơ
b. Thần thơ
c. Tiên thơ
d. Cả a, b, c đều sai
Câu 3: Bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư" được viết theo thể thơ nào?
a. Thất ngôn bát cú
b. Ngũ ngôn tứ tuyệt
c. Ngũ ngôn bát cú.
d. Thất ngôn tứ tuyệt
Bài tập trắc nghiệm
Câu 4: Vì sao nhân dân gọi ngọn núi cao của dãy Lư Sơn là Hương Lô?
Chọn phương án trả lời đúng:
a. Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh ra khói tía nên gọi là Hương Lô
b. Núi cao có mây mù che phủ, trông xa như chiếc lò hồng nên gọi là Hương Lô
c. Mặt trời chiếu núi Hương Lô, mây mù che phủ nên gọi là Hương Lô
d. Cả a, b, c đều sai
Bài thơ Xa ngắm thác núi Lư là bài thơ tả cảnh thiên nhiên sinh động, tráng lệ, hùng vĩ và huyền ảo của thác nước núi Lư khi nhìn từ xa của nhà thơ Lí Bạch. Để nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như tình cảm mà tác giả gửi gắm vào trong bài thơ, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn xa ngắm thác núi Lư.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Để hiểu được ý nghĩa về bài thơ Xa ngắm thác núi Lư, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn mẫu dưới đây:
- Cảm nhận về bài thơ Xa ngắm thác núi Lư của Lý Bạch
-- Mod Ngữ văn 7 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Cái động và tĩnh, thực và ảo trong bài thơ xa ngắm hác núi Lư của Lí Bạch
Mong các bạn giúp mình. Gấp lắm!
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài:
– Lí Bạch (701 – 762) là nhà thơ đời Đường bên Trung Quốc, được người đời gọi là Thi tiên ( Tiên thơ).
– Ông có tài sáng tác thơ. Thơ Lí Bạch biểu hiện tâm hồn tự do, phóng khoáng và khả năng cảm nhận tinh tế trước thiên nhiên, trước cuộc đời.
– Xa ngắm thác núi Lư viết về một thắng cảnh nổi tiếng là thác nước ở Lư Sơn. Nghệ thuật miêu tả độc đáo đã tạo nên giá trị bất hủ của bài thơ.
2. Thân bài:
* Vẻ đẹp kì vĩ của thác nước núi Lư:
+ Câu đầu: Nhật,chiếu Hương Lô sinh tử yên
(Nắng rọi Hương Lô khói tía bay)
– Đỉnh núi Hương Lô là cái phông nền hoành tráng, tương xứng với vẻ đẹp phi thường của thác nước. Thời điểm miêu tả là vào buổi sáng, mặt trời tỏa nắng xuống vạn vật, tạo nên cảnh tượng tuyệt vời: Sương và mây bao phủ đỉnh núi Hương Lô, nắng chiếu xuống, hơi nước bốc lên như khói, phản quang ánh sáng mặt trời, chuyển thành màu tía lung linh, huyền ảo…
– Lí Bạch miêu tả sự sống động của khung cảnh trên bằng động từ sinh và coi mặt trời là chủ thể làm cho mọi vật trở nên sống động.
+ Câu thứ hai : Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
(Xa trông dòng thác trước sông này.)
– Thể hiện cảm nhận ban đầu của nhà thơ trước hình ảnh tuyệt đẹp của thác nước. Từ góc độ và tầm nhìn xa rộng, Lí Bạch thấy thác nước giống như một dải lụa trắng khổng lồ treo dọc trên vách núi.
– Sự kết hợp hài hoà giữa màu tía của khói sương và màu vàng của nắng, màu xanh thẫm của đỉnh núi và màu trắng xoá của dòng thác tạo nên một khung cảnh kì vĩ có một không hai.
+ Câu thứ ba: Phi lưu trực há tam thiên xích
(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)
– Đặc tả độ cao của ngọn núi Hương Lô và thác nước. Hình ảnh dòng thác tuôn từ đỉnh núi đầy mây phủ xuống chân núi thật hoành tráng và ấn tượng.
+ Câu thứ tư: Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
(Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây)
– Sự liên tưởng độc đáo bắt nguồn từ hiện thực kết hợp với trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ. So sánh thác nước với dải Ngân Hà tuột khỏi mây là một so sánh thân tình khiến câu thơ được đánh giá là danh cú (câu thơ nổi tiếng để đời).
– Cảm giác kì diệu của nhà thơ khi ngắm thác núi Lư thể hiện rất rõ ở câu thơ này.
3. Kết bài.
– Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ của thác nước Lư Sơn, đồng thời thể hiện tình yêu thiên nhiên đằm thắm của Thi tiên Lí Bạch.
– Đây cũng là điểm son trong sự nghiệp sáng tác của ông, là niềm tự hào của thơ Đường luật Trung Hoa.
chúc p hk tốt
phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ "vọng lư sơn bộc bố và "xa ngắm thác núi lư"
Câu trả lời của bạn
Vọng lư sơn bộc bố (Xa ngắm thác núi lư):
Trong con mắt thi nhân cảnh vật khoáng đạt đẹp đẽ biết bao. Với bút pháp điêu luyện hồn thơ bay bổng, tấm lòng say đắm, trí tưởng tượng diệu kỳ và sự sáng tạo độc đáo, tác giả đã dựng nên bức tranh về dòng thác với muôn nghìn sắc màu làm cho người đọc không khỏi bất ngờ và nhớ mãi.
Nếu như một thời độc giả hồ nghi tiên sinh Tản Đà được Ngọc Hoàng đầy xuống hạ giới để thực hiện xứ mệnh trời giao. Thì chúng ta chẳng có gì bỡ ngờ khi rất nhiều người cho rằng đầu thế kỉ thứ VIII - đời nhà Đường có một ông tiên thơ Lý Bạch được phái xuống trần gian. Do vậy thơ của ông mang phong cách “tiên” vừa phóng khoáng, lãng mạn lại kỳ vĩ tráng lệ. Chất thơ ấy thể hiện sâu sắc qua bài Vọng Lư sơn bộc bố.
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên.
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên Phi lưu trực há tam thiên xích Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây
(Tương Như dịch)
Nhan đề bài thơ là vọng (nhìn từ xa) hơn nữa lại là dao khan (trông từ xa). Từ đó ta thấy cảnh thác núi Lư sơn thật hùng vĩ, hoành tráng, mỹ lệ. Tác giả chọn vị trí từ xa để bao quát cảnh vật, đồng thời cảnh thác nước Lư sơn hiện ra vừa thực, vừa ảo lung linh sinh sắc:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
(Nắng rọi Hương Lô khói, tía bay)
Núi Lư là một ngọn núi cao, quanh năm mây mù bao phủ. Tác giả dùng hình ảnh ví von đặc biệt: ngọn núi được ví với Lô Hương giữa đất trời, mây bay chập chờn trên đỉnh Lô Hương. Đã thế tác giả lại khắc hoạ Lô Hương trong một ngày nắng đẹp.
Mặt trời phản chiếu vào Hương Lô sinh làn khói tía. Vì sao vậy? Khói thì màu trắng, mà tử yên là làn khói khá tươi đẹp, màu khói gợi sự mơ mộng, suy tư. Đến câu thơ thứ hai dòng thác hiện ra uyển chuyển:
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
(Xa trông dòng thác trước sông này)
Từ xa quan sát, thác nước như dải lụa trắng xoá mềm mại treo lên giữa lưng chừng núi và dòng sông. Trên thực tế núi thì cao, nước đổ thẳng xuống, và đương nhiên dòng thác sẽ không thể dội thẳng đứng được mà nó mềm mại như dải lụa được treo lên, mà lại treo lơ lửng. Ai có thể treo được một dòng thác? Đọc đến đây ta không khỏi ngỡ ngàng khi nhận thấy trên đỉnh núi Hương Lô mây bay rực rỡ, nghi ngút khói hương. Từ trong chính chỗ đó phun ra dòng thác trắng xoá bay xuống. Lạ kì thay thác chảy mà như lụa bay lơ lửng trước mắt nhà thơ. Từ quải được xem như là nhãn tự của câu thơ khiến dòng thác kỳ vĩ hơn lung linh hơn.
Phi lưu trực há tam thiên xích
(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)
Bằng những thanh bằng - bằng, trắc - trắc trong cụm từ (phi lưu trực há), ta cảm thấy như dòng thác lướt nhẹ như những thanh bằng. Ngọn thác cao vút đổ xuống ầm ầm bên sườn núi dựng đứng. Vậy thì tiếng thác chảy, bọt nước sẽ tạo thành màn sương và những âm thanh ào ạt, tiếng nước đổ khiến ta cảm thấy là có thật, nhưng làn khói sương mờ mờ ảo ảo ấy tạo thành bức tranh huyễn hoặc. Vì vậy khiến tác giả hồ nghi:
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
(Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây)
Có nhiều lúc người ta đang chứng kiến một sự thực nhưng lại không tin vào mắt mình. Cái lý trí bị lấn át bởi tình cảm. Trong hoàn cảnh này cũng vậy, dòng thác trước mắt nhà thơ là sản phẩm của sự phối hợp giữa thực và ảo, cái tỉnh và cái mơ, cõi trần gian và nơi thượng giới.
Ngỡ là tức là bản thân tác giả biết rằng nó không phải thế nhưng vẫn muốn tin là thế. Cảnh đẹp đã chắp cánh làm cho tác giả nghĩ đến dòng sông của thần thoại. Một dòng nước dội xuống từ ba ngàn thước, mà ngỡ như dòng sông Ngân rơi tựa chín tầng mây. Đây là hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ. Trí tưởng tượng tuyệt vời, ngôn ngữ thơ ca đã nâng ngọn bút và cảm hứng lãng mạn thần tiên lên đến tuyệt đỉnh mới tạo bức tranh đẹp đến như vậy.
Cùng đề tài này, cùng tả dòng thác Lư sơn, một nhà thơ Đường khác Từ Tử Ngưng đã viết:
Hư không lạc tuyền thiên nhẫn trực
Lôi bôn nhập giang bất tạm tức
Thiên cổ trường như bạch luyện phi
Nhất diều giới phá thanh sơn sắc.
Rõ ràng khi so sánh dòng thác trong hai bài thơ này ta thấy rằng dòng thác Lư sơn trong bài thơ của Lý Bạch kỳ vĩ huyền ảo và thơ mộng hơn nhiều. Hay nói cho đúng hơn không còn vần thơ nào tả được hay hơn Lý Bạch.
Trong con mắt thi nhân cảnh vật khoáng đạt đẹp đẽ biết bao. Với bút pháp điêu luyện hồn thơ bay bổng, tấm lòng say đắm, trí tưởng tượng diệu kỳ và sự sáng tạo độc đáo, tác giả đã dựng nên bức tranh về dòng thác với muôn nghìn sắc màu làm cho người đọc không khỏi bất ngờ và nhớ mãi.
Bạn tham khảo nhé! Chúc bạn học tốt!
Cho mình hỏi xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác bài Xa ngăm thác núi Lư
Câu trả lời của bạn
Lí Bạch (701 – 762), nhà thơ nổi tếng của Trung Quốc đời Đường, quê ở Cam Túc nhưng ngay từ khi mới năm tuổi ông đã theo gia đình về sống ở Tứ Xuyên. Vì thế, nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên là quê hương của mình. Lí Bạch từ nhỏ đã thích ngao du, mong lập nên công danh sự nghiệp, song đường quan nghiệp của ông có nhiều trắc trở.
Lí Bạch được mệnh danh là “tiên thơ”. Thơ ông thể hiện một tâm hồn tự do phóng khoáng. Hình ảnh tong thơ của ông tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Thơ ông hay nhất ở những bài vết về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn.
2. Tác phẩm
Vọng Lư sơn bộc bố được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Đây là một trong những bài thơ hay tiêu biểu cho đề tài chiến tranh của Lí Bạch.
Chúc bạn học tốt!
1. em hiểu gì về vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của nhà thơ qua các hình ảnh thơ "xa ngắm thác núi Lư".
2. cảm nhận của em về bài thơ.
gấp nha mọi người ơi! help me....e.....e.....e...
Câu trả lời của bạn
2.
Nhắc đến Lý Bạch là nhắc đến cây đại thụ của nền văn học cổ điển Trung Hoa. Ông sống vào đời Đường (701-762), học rộng, tài cao, tính tình phóng khoáng thích ngao du sơn thuỷ. Thơ ông tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn, khoáng đạt tự do bay bổng. Có lẽ như vậy mà ngọn núi Lư sơn hiện ra như một thắng cảnh tuyệt mỹ trong thơ ông:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây
(Tương Như dịch)
Lý Bạch đi nhiều, biết rộng. Hầu như tất cả các danh lam thắng cảnh trên đất nước Trung Hoa rộng lớn ông đều đặt chân tới. Bài thơ này tuyệt bút tả cảnh thác núi Lư hùng vĩ, tráng lệ qua đó biểu hiện một tình yêu thiên nhiên, yêu núi sông Tổ quốc.
Mở đầu bài thơ là cảnh thác núi Lư sơn từ xa nhìn lại:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Hương Lô là ngọn núi cao nằm phía tây bắc của dãy Lư sơn, đứng xa quan sát nó giống như một chiếc Lư Hương, làm cái phông nền cho dòng thác. Ngọn Hương Lô như gợi cho người đọc một sự liên tưởng và hình dung: ánh nắng mặt trời lan toả khoác lên dãy núi Lư lớp áo choàng huy hoàng rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy nổi lên ngọn Hương Lô, chiếc Lư Hương khổng lồ nghi ngút khói trầm hương màu tím. Đây chính là sự khúc xạ ánh sáng, trên đỉnh núi lúc này như được thắp lên những luồng sáng hàng nghìn ánh màu rực rỡ, lộng lẫy huy hoàng. Hình ảnh núi Hương Lô quan sát từ xa như vừa thực vừa ảo làm hiện lên vẻ đẹp kỳ lạ của thác núi Lư. Câu thơ như đầy màu sắc, màu trắng của thác, xanh của núi, vàng của nắng và tím của sương khói. Đằng sau câu thơ ta như thấy vị tiên thơ đang trầm ngâm ngắm cảnh, chiêm ngưỡng sự diệu kỳ này.
Cảnh Hương Lô thật kỳ tuyệt, nhưng thu hút và huyền ảo hơn vẫn là ngọn thác:
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Nhan đề là vọng một vị trí quan sát từ xa, nhìn dòng thác, thác nước tuôn trào đổ xuống ầm ầm tựa ngang trời. Dòng thác qua con mắt thi tiên đã biến thành dải lụa trắng xoá mềm mại treo ngang trời.Từ quải được coi như nhãn tự của câu thơ, nó biến cái động thành cái tĩnh, thể hiện rất thực cảm giác khi nhìn thấy dòng thác từ xa. Đỉnh núi khói tía bao phủ, ngang trời, lưng núi dòng sông tuôn chảy như dải lụa mềm mại uyển chuyển, bức tranh tráng lệ kỳ vĩ biết bao:
Phi lưu trực há tam thiền xích
Đến câu thơ thứ ba này cảnh vật từ tĩnh chuyển sang động. Thế nước chảy như bay (phi lưu) được diễn tả qua hai động từ đi kèm hai trạng từ. Ta hình dung thấy núi cao, nước đổ thẳng xuống như dựng đứng, ba ngàn thước là lối nói khoa trương nhưng người đọc vẫn cảm thấy chân thực.
Bằng cảm hứng lãng mạn của mình, sự liên tưởng kỳ lạ nhà thơ đã thấy:
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Câu thơ trác tuyệt thể hiện tài năng quan sát và cảm hứng lãng mạn tuyệt vời của thi nhân. Tả thác nước thần tình giữa cái ảo và cái thực, cái hình và cái thần diễn tả được cảm giác kỳ diệu do hình ảnh thác nước gợi trong tâm khảm nhà thơ. Do vậy nghi thị (ngỡ là) rất thành công. Hồ nghi mà vẫn cho là thật. Từ trên cao ba ngàn thước, thác nước ầm ầm tuôn trào uyển chuyến mạnh mẽ nhưng mềm mại như dải lụa. Hay hơn thế tác giả ngỡ là dòng sông sao tuột khỏi chín tầng mây đang lơ lửng treo ngang trời. Đây là hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ, ở đây ngôn ngữ thơ đã chắp cánh cho hồn thơ bay bổng diệu kỳ. Ngắm dòng thác Lư sơn ngỡ như lạc vào chốn bồng lai ngư phủ.
Với tình yêu thiên nhiên say đắm, thi tiên đã dựng lên bức tranh thác nước Lư sơn hoành tráng tuyệt vời. Hơn một thiên niên kỉ trôi qua đã mấy ai được đến núi Lư sơn để ngắm lại dòng thác khi nắng rọi? Quả vậy thác núi Lư làm cho thơ Lý Bạch vĩnh hằng bất tử với thời gian. Một nhà thơ khác đời Đường là Tử Ngưng phải thẹn thùng khi cất bút.
Bài thơi là một tuyệt tác, nó thể hiện trí tưởng tượng hiếm có, nét thậm xưng tráng lệ, cảm hứng lãng mạn dạt dào. Qua đó ta hiểu rõ một tâm hồn thơ say sưa với cảnh đẹp thiên nhiên đất nước. Biết bao danh lam thắng cảnh đã đi vào thơ ông để mãi mãi muôn đời nhớ đến thi tiên - Lý Bạch.
Hãy viết một bài văn biểu cảm về Lí Bách tác giả cảu bài "ngắm xa thác núi Lư"
Giúp mình với mình đang cần gấp
Câu trả lời của bạn
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
+) Lí Bạch (701 – 762) là nhà thơ đời Đường bên Trung Quốc, được người đời gọi là Thi tiên ( Tiên thơ).
+) Ông có tài sáng tác thơ. Thơ Lí Bạch biểu hiện tâm hồn tự do, phóng khoáng và khả năng cảm nhận tinh tế trước thiên nhiên, trước cuộc đời.
+) Xa ngắm thác núi Lư viết về một thắng cảnh nổi tiếng là thác nước ở Lư Sơn. Nghệ thuật miêu tả độc đáo đã tạo nên giá trị bất hủ của bài thơ.
2. Thân bài:
* Vẻ đẹp kì vĩ của thác nước núi Lư:
+ Câu đầu: Nhật, chiếu Hương Lô sinh tử yên
(Nắng rọi Hương Lô khói tía bay)
+) Đỉnh núi Hương Lô là cái phông nền hoành tráng, tương xứng với vẻ đẹp phi thường của thác nước. Thời điểm miêu tả là vào buổi sáng, mặt trời tỏa nắng xuống vạn vật, tạo nên cảnh tượng tuyệt vời: Sương và mây bao phủ đỉnh núi Hương Lô, nắng chiếu xuống, hơi nước bốc lên như khói, phản quang ánh sáng mặt trời, chuyển thành màu tía lung linh, huyền ảo…
+) Lí Bạch miêu tả sự sống động của khung cảnh trên bằng động từ sinh và coi mặt trời là chủ thể làm cho mọi vật trở nên sống động.
+ Câu thứ hai: Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
(Xa trông dòng thác trước sông này.)
+) Thể hiện cảm nhận ban đầu của nhà thơ trước hình ảnh tuyệt đẹp của thác nước. Từ góc độ và tầm nhìn xa rộng, Lí Bạch thấy thác nước giống như một dải lụa trắng khổng lồ treo dọc trên vách núi.
+) Sự kết hợp hài hoà giữa màu tía của khói sương và màu vàng của nắng, màu xanh thẫm của đỉnh núi và màu trắng xoá của dòng thác tạo nên một khung cảnh kì vĩ có một không hai.
+ Câu thứ ba: Phi lưu trực há tam thiên xích
(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)
+) Đặc tả độ cao của ngọn núi Hương Lô và thác nước. Hình ảnh dòng thác tuôn từ đỉnh núi đầy mây phủ xuống chân núi thật hoành tráng và ấn tượng.
+ Câu thứ tư: Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
(Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây)
+) Sự liên tưởng độc đáo bắt nguồn từ hiện thực kết hợp với trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ. So sánh thác nước với dải Ngân Hà tuột khỏi mây là một so sánh thân tình khiến câu thơ được đánh giá là danh cú (câu thơ nổi tiếng để đời).
+) Cảm giác kì diệu của nhà thơ khi ngắm thác núi Lư thể hiện rất rõ ở câu thơ này.
3. Kết bài
+) Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp hùng vĩ của thác nước Lư Sơn, đồng thời thể hiện tình yêu thiên nhiên đằm thắm của Thi tiên Lí Bạch.
+) Đây cũng là điểm son trong sự nghiệp sáng tác của ông, là niềm tự hào của thơ Đường luật Trung Hoa.
Bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư" là bài thơ tả cảnh hay tả tình? Vì sao?
Qua bài thơ, em có cảm nhận như thế nào về vẻ đẹp tâm hồn và tình cảm của tác giả?
Câu trả lời của bạn
Bài thơ "Xa ngắm núi thác Lư" vừa tả tình, vừa tử cảnh. Vì bài thơ miêu tả một cách sống động hình ảnh thiên nhiên của thác núi Lư nhìn từ xa,qua đó thể hiện được tình yêu thiên nhiên của tác giả đằm thắm và phần nào bộc lộ tình cảm mạnh mẽ, khoáng đạt của tác giả.
Em cảm nhận được bài thơ là một tuyệt tác, nó thể hiện trí tưởng tượng hiếm có, nét thậm xưng tráng lệ, cảm hứng lãng mạn dạt dào. Qua đó cho ta hiểu rõ một tâm hồn thơ say sưa với cảnh đẹp thiên nhiên đất nước. Biết bao danh lam thắng cảnh đã trở thành những bài thơ dạt dào tình cảm của ông để mãi mãi muôn đời nhớ đến thi tiên-Lý Bạch
Chúc bạn học tok
Nêu lên những vẻ đẹp khác nhau của thác nước đã đc Lý Bạch phát hiện và miêu tạt trong 3 câu tiếp theo.
Câu trả lời của bạn
Những vẻ đẹp khác nhau của thác được Lí Bạch phát hiện và miêu tả :
- Trong câu thứ hai: hình ảnh trung tâm của bức tranh là thác nước đã hiện lên ngay trước mắt chúng ta qua việc dùng từ “quải” rất thành công của tác giả: từ “quải” (treo) đã biến cái động thành tĩnh, vì đứng từ xa ngắm nên nhìn thác nước giống như một dải lụa trắng được treo giữa vách núi và dòng sông phía trước. Từ “quải” đã mang lại giá trị thẩm mĩ cao cho bài thơ, giúp cho hình tượng thác nước trở nên sống động và hùng vĩ.
- Trong câu thứ ba: Tác giả đã miêu tả dòng thác chảy từ trên cao xuống “ ba nghìn thước” trong trạng thái động ở các phương diện:
+ Tốc độ dòng chảy: “phi” (bay) nhanh khủng khiếp
+ Độ dốc của thác: “trực há” đổ thẳng xuống thành đường thẳng đứng vuông góc với dòng sông
+ Độ cao: cao vời vợi tới ba nghìn thước
+ Câu thơ như mở ra một không gian ba chiều rộng lớn, một khung cảnh hùng vì và tráng lệ.
- Trong câu thứ tư: Tác giả thật hay so sánh hết sức là độc đáo. Dòng thác như dải Ngân Hà tuột khỏi chín tầng mây. Sự so sánh đó làm cho thác nước không chỉ kì vĩ mà rất đẹp và huyền ảo.
Đề : phát biểu cảm nghĩ của em về văn bản Xa ngắm thác núi lư
GIÚP VỚI NHÉ
Câu trả lời của bạn
Phiên âm chữ Hán : Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên, Dao khan bộc bố quải tiền xuyên. Phi lưu trực há tam thiên xích, Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên. Tương Như dịch thơ : Nắng rọi Hương Lô khói tía bay, Xa trông dòng thác trước sông này. Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước, Tương dải Ngân Hà tuột khỏi mây. Đây là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt thuộc đề tài tả cảnh ngụ tình. Tuy là bốn câu theo thể Đường thi, nhưng bố cục bài thơ khá độc đáo. Không bố cục từng câu, nêu từng ý kiểu 1/1/1/1, cũng không bố cục hai phần 2 ý kiểu 2/2 mà là 1/3. Câu thứ nhất: Nắng rọi Hương Lô khói tía bay, Phác ra cái phồng nền của bức tranh toàn cảnh thác núi Lư. Nhà thơ Lí Bạch miêu tả thác nước vào lúc mặt trời chiếu rọi, nắng sáng. Thác nước đổ mạnh, tung bọt, bay như sương khói phản quang dưới nắng, hắt ra một màu tía rực rỡ, kì ảo. Ba câu tiếp sau đặc tả hình ảnh dòng thác đang tuôn chảy. Câu thứ hai tả nét tĩnh của dòng thác. Câu thơ nguyên tác phải hiểu là "Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước". Động từ "quải" nghĩa là "treo" có vẻ như "tĩnh", biến cảnh "động" thành nét "tĩnh". Tiếp đó là câu thứ ba: Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước, Từ nét "tĩnh" chuyển sang cảnh "động". "Nước bay thẳng xuống", nguyên tác chữ Hán "phi" nghĩa là bay, khiến bức tranh trớ nên linh hoạt, sống động. Và đến câu cuối thì cảnh thác Hương Lô mới thực là tuyệt vời: Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây Nghệ thuật so sánh ở đây cũng như phép cường điệu, phóng đại ở hai câu trên có vẻ như vô lí. Song đặt trong văn cảnh, người đọc vẫn cảm thấy chân thực, tự nhiên. Vì ngọn núi Hương Lô có mây mù bao phủ nên nhìn từ xa có cảm giác dòng nước như một dải lụa treo lơ lửng vắt từ trong mây, từ trên đỉnh trời mà trải xuống, chảy xuống. Do dó thi sĩ lãng mạn Lí Bạch mới ngỡ rằng sông Ngân Hà - một dòng sông đầy sao sáng trong huyền thoại cổ xưa - đang tuột khỏi mây, chảy xuống trần gian vậy. Nhiều người coi câu cuối bài thơ này là "danh cú" (câu thơ, câu văn nổi tiếng) bởi nó đã huyền thoại hoá một hình ảnh tạo vật ở trần gian và ngược lại nó trần gian hoá một hình ảnh của huyền thoại. Qua câu thơ, tác giả đã biểu hiện một cái nhìn đầy sáng tạo và một cảm xúc thật mạnh mẽ. Có thể nói, với những hình ảnh tráng lệ, huyền ảo, bài Xa ngắm thác núi Lư đã miêu tả một cách sinh động vẻ đẹp nhìn từ xa của thác nước chảy từ đỉnh Hương Lô, thuộc dãy núi Lư. Qua đó, Lí Bạch thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước đằm thắm và phần nào hộc lộ tính cách mạnh mẽ, hào phóng của một hồn thơ lãng mạn mà người đời thường gọi ông là "Tiên Thi". Tham khảo bài làm của bạn Nguyễn Thị Khánh Ly lớp 7A2 Trường THCS Phan Bội Châu - Đà Nẵng Nhắc đến Lý Bạch là nhắc đến cây đại thụ của nền văn học cổ điển Trung Hoa. Ông sống vào đời Đường (701-762), học rộng, tài cao, tính tình phóng khoáng thích ngao du sơn thuỷ. Thơ ông tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn, khoáng đạt tự do bay bổng. Có lẽ như vậy mà ngọn núi Lư sơn hiện ra như một thắng cảnh tuyệt mỹ trong thơ ông: Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên Dao khan bộc bố quải tiền xuyên Phi lưu trực há tam thiên xích Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên Dịch thơ: Nắng rọi Hương Lô khói tía bay Xa trông dòng thác trước sông này Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây (Tương Như dịch) Lý Bạch đi nhiều, biết rộng. Hầu như tất cả các danh lam thắng cảnh trên đất nước Trung Hoa rộng lớn ông đều đặt chân tới. Bài thơ này tuyệt bút tả cảnh thác núi Lư hùng vĩ, tráng lệ qua đó biểu hiện một tình yêu thiên nhiên, yêu núi sông Tổ quốc. Mở đầu bài thơ là cảnh thác núi Lư sơn từ xa nhìn lại: Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên Hương Lô là ngọn núi cao nằm phía tây bắc của dãy Lư sơn, đứng xa quan sát nó giống như một chiếc Lư Hương, làm cái phông nền cho dòng thác. Ngọn Hương Lô như gợi cho người đọc một sự liên tưởng và hình dung: ánh nắng mặt trời lan toả khoác lên dãy núi Lư lớp áo choàng huy hoàng rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy nổi lên ngọn Hương Lô, chiếc Lư Hương khổng lồ nghi ngút khói trầm hương màu tím. Đây chính là sự khúc xạ ánh sáng, trên đỉnh núi lúc này như được thắp lên những luồng sáng hàng nghìn ánh màu rực rỡ, lộng lẫy huy hoàng. Hình ảnh núi Hương Lô quan sát từ xa như vừa thực vừa ảo làm hiện lên vẻ đẹp kỳ lạ của thác núi Lư. Câu thơ như đầy màu sắc, màu trắng của thác, xanh của núi, vàng của nắng và tím của sương khói. Đằng sau câu thơ ta như thấy vị tiên thơ đang trầm ngâm ngắm cảnh, chiêm ngưỡng sự diệu kỳ này. Cảnh Hương Lô thật kỳ tuyệt, nhưng thu hút và huyền ảo hơn vẫn là ngọn thác:
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Nhan đề là vọng một vị trí quan sát từ xa, nhìn dòng thác, thác nước tuôn trào đổ xuống ầm ầm tựa ngang trời. Dòng thác qua con mắt thi tiên đã biến thành dải lụa trắng xoá mềm mại treo ngang trời.Từ quải được coi như nhãn tự của câu thơ, nó biến cái động thành cái tĩnh, thể hiện rất thực cảm giác khi nhìn thấy dòng thác từ xa. Đỉnh núi khói tía bao phủ, ngang trời, lưng núi dòng sông tuôn chảy như dải lụa mềm mại uyển chuyển, bức tranh tráng lệ kỳ vĩ biết bao: Phi lưu trực há tam thiền xích
Đến câu thơ thứ ba này cảnh vật từ tĩnh chuyển sang động. Thế nước chảy như bay (phi lưu) được diễn tả qua hai động từ đi kèm hai trạng từ. Ta hình dung thấy núi cao, nước đổ thẳng xuống như dựng đứng, ba ngàn thước là lối nói khoa trương nhưng người đọc vẫn cảm thấy chân thực. Bằng cảm hứng lãng mạn của mình, sự liên tưởng kỳ lạ nhà thơ đã thấy: Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên Câu thơ trác tuyệt thể hiện tài năng quan sát và cảm hứng lãng mạn tuyệt vời của thi nhân. Tả thác nước thần tình giữa cái ảo và cái thực, cái hình và cái thần diễn tả được cảm giác kỳ diệu do hình ảnh thác nước gợi trong tâm khảm nhà thơ. Do vậy nghi thị (ngỡ là) rất thành công. Hồ nghi mà vẫn cho là thật. Từ trên cao ba ngàn thước, thác nước ầm ầm tuôn trào uyển chuyến mạnh mẽ nhưng mềm mại như dải lụa. Hay hơn thế tác giả ngỡ là dòng sông sao tuột khỏi chín tầng mây đang lơ lửng treo ngang trời. Đây là hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ, ở đây ngôn ngữ thơ đã chắp cánh cho hồn thơ bay bổng diệu kỳ. Ngắm dòng thác Lư sơn ngỡ như lạc vào chốn bồng lai ngư phủ. Với tình yêu thiên nhiên say đắm, thi tiên đã dựng lên bức tranh thác nước Lư sơn hoành tráng tuyệt vời. Hơn một thiên niên kỉ trôi qua đã mấy ai được đến núi Lư sơn để ngắm lại dòng thác khi nắng rọi? Quả vậy thác núi Lư làm cho thơ Lý Bạch vĩnh hằng bất tử với thời gian. Một nhà thơ khác đời Đường là Tử Ngưng phải thẹn thùng khi cất bút. Bài thơi là một tuyệt tác, nó thể hiện trí tưởng tượng hiếm có, nét thậm xưng tráng lệ, cảm hứng lãng mạn dạt dào. Qua đó ta hiểu rõ một tâm hồn thơ say sưa với cảnh đẹp thiên nhiên đất nước. Biết bao danh lam thắng cảnh đã đi vào thơ ông để mãi mãi muôn đời nhớ đến thi tiên - Lý Bạch. Bài làm 3: Cảm nghĩ về bài thơ Xa ngắm thác núi lư của Lý Bạch. Lý Bạch là một nhà thơ nổi tiếng. Thơ ông có nhiều bài rất hay về chiến tranh, tình yêu, tình bạn và đặc biệt là về vẻ đẹp của những phong cảnh thiên nhiên. Bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư” là bài thơ hay về cảnh thiên nhiên như thế:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước Tưởng dải Ngân hà tuột khỏi mây
Lý Bạch tính tình phóng khoáng. Ông thường đi thăm thú nhiều nơi và đến đâu ông cũng để lại những áng thơ tuyệt bút. Khi ông đến Hương Lô, một ngọn núi cao ở phía tây bắc của dãy Lư Sơn, ông cũng hạ bút viết những câu thơ tươi sáng: Nắng rọi Hương Lô khói tía hay, Xa trông dòng thác trước sông này Cảnh Hương Lô được quan sát từ xa vào buổi sáng. Vì thế mà toàn cảnh trông giống như một bức tranh sơn thủy kỳ vĩ lớn lao. Hương Lô đã có mây mù bao phủ, lại có bọt khì từ thác nước bay lên. Nó gặp đúng lúc mặt trời hồng chiếu rọi vì thế mà những làn khói mới sinh màu đỏ tía. Cảnh đã đẹp và kỳ vĩ lại thêm sự thơ mộng, kỳ ảo lung linh. Câu thơ thứ nhất đã là một cái nhìn sáng tạo. Thế nhưng đến câu thơ thứ hai, chúng ta mới thấy nhà thơ Lý Bạch thật tài hoa. Chính vì tác giả đứng từ xa mà dòng thác thực sự hiện lên chẳng khác nào một dòng sông đang dựng ngược và treo ngay trước mặt. Cầu thơ đúng như một sự sáng tạo đầy táo bạo và ngẫu hứng của thi nhân. Hai câu thơ đầu bao quát toàn cảnh Hương Lô với những hình ảnh thơ tráng lệ và huyền ảo. Thế nhưng vẻ đẹp của dòng thác và vẻ đẹp tâm hồ của nhà thơ còn bay bổng hơn ở những câu sau: Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước Tưởng dải Ngân hà tuột khỏi mây Thật là một sự so sánh rất thần tình. Dòng thác chảy nhưng như là đang bay thẳng xuống. Nó như là một dải lụa trắng tinh ngàn vạn sải treo xuống trần gian từ phía chân trời. Nhưng chưa hết, câu thơ cuối còn là một sự liên tưởng táo bạo hơn. Dòng thác giờ đây không còn là cảnh của trần gian mà nó là dòng sông Ngân bị đánh rơi bởi bàn tay thượng đế. Chữ nghị thị (ngỡ là) dường như được viết bằng cả tâm hồn lãng mạn của nhà thơ. Nó đẩy câu thơ vào giữa hai bờ thực – ảo khiến cho bức tranh phong cảnh mang nhiều nét thơ mộng thần tiên. Cảnh Hương Lô lúc ấy thật đắm say và cuốn hút lòng người. Xa ngắm thác núi Lư là một bài thơ phóng khoáng. Cảnh thiên nhiên được miêu tả toát lên toàn bộ cái khí phách và tâm hồ đầy tài hóa lãng mạn của nhà thơ. Đọc bài thơ, chúng ta say yêu cảnh đẹp đồng thời cũng xúc động trước tình yêu đằm thắm và sâu sắc của nhà thơ.
Soạn bài xa ngắm thác núi lư ( vọng lư sơn bộc bố )
Câu trả lời của bạn
Câu 1 ( trang 111 sgk ngữ văn 7 tập 1)
Từ “vọng” với ý nghĩa là trông “xa”, dao là “xa”
- Tác giả đứng từ xa để nhìn thác nước núi Lư
- Vị trí này không thể quan sát chi tiết, cụ thể nhưng có thể nhìn bao quát, tổng thể
→ Cái đẹp của thác nước là cái đẹp được quan sát và miêu tả từ xa
Câu 2 (Trang 111 sgk ngữ văn 7 tập 1)
Nhà thơ Lí Bạch đã miêu tả thác nước vào lúc có mặt trời chiếu rọi:
+ Thác nước bọt tung, nước tỏa ra sương khói, mặt trời chiếu xuống tạo ra những tia khói huyền ảo
+ Thác nước trở nên đẹp hơn nhờ ánh nắng mặt trời, giống như lư hương khổng lồ tỏa lên bầu trời
- Ý nghĩa: Khi tả núi Hương Lô có tác dụng làm nổi bật thác nước lung linh, huyền ảo của tạo hóa.
Câu 3 (trang 111 sgk ngữ văn 7 tập 1)
- Câu thơ thứ hai:
+ Nhà thơ đứng từ xa quan sát thấy thác nước tuôn xuống ầm ầm biến thành dải lụa trắng rủ xuống yên ắng
+ Chữ “quải” biến cái động thành tĩnh, thống nhất với cảm nhận của tác giả
- Câu thứ ba: cảnh vật từ tĩnh chuyển thành động bởi chữ “treo”
+ Hình ảnh dòng thác mờ nhạt và ảo giác về dải ngân hà ở cuối câu trở nên thiếu cơ sở
+ Thế núi cao và sườn núi dốc đứng, tạo ra dòng chảy mạnh, huyền ảo
+ Miêu tả sự hùng vĩ của thác nước trong trạng thái động ở tốc độ chảy nhanh, mạnh
→ Một dòng thác mạnh, nhanh, dốc
- Câu thơ thứ tư:
+ Nhà thơ đứng giữa ranh giới giữa hư với thực
+ Tưởng tượng ra con thác giống như dải ngân hà giống như hàng ngàn ngôi sao lạc khỏi vũ trụ để rơi xuống
+ Tác giả gợi lên cảm xúc kì diệu trong lòng bạn đọc khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp hiếm có
Câu 4 (Trang 112 sgk ngữ văn 7 tập 1)
Lí Bạch là một trong số những nhà thơ nổi tiếng đời Đường được mệnh danh là thi tiên
+ Tâm hồn ông luôn rộng mở, phóng khoáng, tự do
+ Ông yêu và trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của tự nhiên, quê hương đất nước
+ Những câu thơ của ông thể hiện sự tài hoa và tình cảm tha thiết với tự nhiên
Câu 5 (trang 112 sgk ngữ văn 7 tập 1)
Trong hai cách giải thích thì em thích cách dịch trong phần dịch nghĩa vì:
- Nêu được điểm vẻ đẹp của dòng thác giống như dòng sông treo lơ lửng trên không trung tạo ra vẻ đẹp hùng vĩ
Bố cục (2 phần) :
- Câu đầu : Tả núi Hương Lô
- 3 câu sau : Tả thác nước núi Lư
Câu 1 (trang 111 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
Tác giả đứng ngắm thác nước từ xa, nơi có thể quan sát toàn cảnh để có cái nhìn tổng thể vẻ đẹp thác nước.
Câu 2 (trang 111 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
Câu thơ thứ nhất miêu tả thác nước khi được mặt trời chiếu rọi ánh nắng sinh ra những khói tía huyền ảo. Theo tên gọi đỉnh núi – Hương Lô – luôn có mây mù bao phủ nhưng khi nắng chiếu càng làm cảnh vật lộng lẫy. Hình ảnh được miêu tả tạo ra một phông nền cho hình ảnh trung tâm là thác nước.
Câu 3 (trang 111 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
Những vẻ đẹp khác nhau của thác được miêu tả trong ba câu tiếp :
- Câu thơ thứ hai : Từ “quải” (treo) được sử dụng biến cái động thành cái tĩnh (Nhìn xa thấy dòng thác như treo trên dòng sông phía trước). Ở đây bản dịch thơ đã làm mất đi cái tĩnh của từ “quải”.
- Câu thơ thứ ba : miêu tả thác nước với tốc độ mạnh, độ cao ngút và dốc thẳng, khung cảnh trở nên hùng vĩ, mãnh liệt.
- Câu thơ cuối : lối nói phóng đại nhưng vẫn tạo nên một hình ảnh chân thực, dòng nước cao, mạnh, sự so sánh lột tả hết sức mạnh nên thơ, như thực mà lạ thường.
Câu 4 (trang 112 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
Nhà thơ Lí Bạch qua đặc điểm cảnh vật được miêu tả : tâm hồn mạnh mẽ, phóng khoáng, ưa thích sự hùng vĩ, phi thường, yêu và say đắm vẻ đẹp thiên nhiên.
Câu 5* (trang 112 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
Mỗi cách hiểu đều có nét hay riêng, cách hiểu trong chú thích (2) rõ ràng hơn nhưng cả hai cách hiểu đều thể hiện được cảm xúc, tâm trạng tác giả.
XA NGẮM THÁC NÚI LƯ
(Vọng Lư sơn bộc bố)
Lí Bạch
Lí Bạch (701 - 762), nhà thơ nổi tếng của Trung Quốc đời Đường, quê ở Cam Túc nhưng ngay từ khi mới năm tuổi ông đã theo gia đình về sống ở Tứ Xuyên. Vì thế, nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên là quê hương của mình. Lí Bạch từ nhỏ đã thích ngao du, mong lập nên công danh sự nghiệp, song đường quan nghiệp của ông có nhiều trắc trở.
Lí Bạch được mệnh danh là “tiên thơ”. Thơ ông thể hiện một tâm hồn tự do phóng khoáng. Hình ảnh trong thơ của ông tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Thơ ông hay nhất ở những bài vết về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn.
Vọng Lư sơn bộc bố được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Đây là một trong những bài thơ hay tiêu biểu cho đề tài chiến tranh của Lí Bạch.
1. Như nhan đề của bài thơ (Xa ngắm thác núi lư) và căn cứ vào nghĩa của hai từ: vọng (trông từ xa), dao khan (nhìn từ xa), có thể thấy cảnh núi Lư được nhà thơ quan sát và miêu tả từ xa. Vị trí đứng này tuy không thể giúp nhà thơ miêu tả được những chi tiết của thiên nhiên, cảnh vật nhưng lại có thể quan sát được vẻ đẹp của toàn cảnh, miêu tả được cái hùng vĩ tự nhiên của thác nước.
2. Ngay ở câu thơ đầu tiên (Nắng rọi Hương Lô khói tía bay), tác giả đã hoạ nên hình ảnh núi Hương Lô thật mĩ lệ. Trong ánh nắng mặt trời chiếu rọi, mây khói chuyển thành màu tía, khói hương huyền ảo, khác thường (có người dịch là mây tím). Câu thứ nhất, với hình ảnh núi Lư, như đã làm nên một cái nền cho bức tranh phong cảnh. Trên cái nền ấy, ở câu thơ tiếp theo, hình ảnh thác nước mới thật nổi bật, sống động: Xa trông dòng thác trước sông này. Xa trông chứ không phải nhìn ngắm ở khoảng cách gần. Phải là từ xa thì, trong cái nhìn, mới thu nhỏ được hình ảnh thác nước để hình dung nó trong toàn cảnh.
3. Bản dịch thơ dịch không sát câu thứ hai. Nguyên tác là: Dao khan bộc bố quải tiền xuyên (nghĩa là: Nhìn xa thấy dòng thác như treo trên dòng sông phía trước). Chữ quải thật thần tình, bản dịch thơ làm mất chữ này. Thác nước cao trông xa như treo trước dòng sông, tựa như một dải lụa khổng lồ (bộc bố: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn xa như một tấm vải treo dọc buông rủ xuống). Trước mắt ta hiện ra một cảnh tượng thiên nhiên kì vĩ, phi thường. Hình ảnh dòng thác trên nền cảnh (đã được tạo ra ở câu 1) như một bức ảnh mà ở đó nhà nghệ sĩ đã làm cảnh vật tĩnh lại trong chớp nhoáng, lấy tĩnh mà tả động.
Đến câu thơ thứ ba, hình ảnh dòng thác thoắt chuyển sang trạng thái động: Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước. Từ phi (bay) trong câu này khiến khung cảnh hùng vĩ, ấn tượng mạnh mà không thiếu sự bay bổng. Để ở câu thơ cuối hồn thơ chợt cất cánh một ẩn dụ lãng mạn: Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây. Lối nói khoa trương lại diễn tả được một cách chân thực trạng thái cảm nhận về cái kì vĩ, phi thường. Chẳng có hình ảnh nào diễn đạt hơn được nữa cái sức mạnh nên thơ, như thực mà quá đỗi lạ thường của thác nước trong cái nhìn của thi sĩ như dải Ngân Hà rơi xuống từ chín tầng mây này.
4. Lí Bạch từng được mệnh danh là Thi tiên (tiên thơ). Thơ ông thể hiện một tâm hồn luôn vươn tới tự do, phóng khoáng. Hình ảnh trong thơ ông thường tươi sáng, bay bổng diệu kì bộc lộ một tình yêu quê hương đất nước thiết tha. Qua bài thơ Xa ngắm thác núi Lư ta phần nào thấy được điều đó.
5.* Về câu thơ thứ hai, em thích cách hiểu nào hơn? (cách hiểu trong bản dịch hay cách hiểu trong chú thích).
Không nhất thiết buộc phải hiểu theo một cách nào. Như thế có thể có ba lựa chọn: chọn cách hiểu trong bản dịch, chọn cách hiểu trong phần chú thích hoặc chủ trương phối hợp cả hai cách hiểu đã nêu. Quan trọng là đưa ra được lời giải thích hợp lí (căn cứ vào điểm nhìn của tác giả và nội dung của cả bà thơ).
Viết đoạn văn ngắn giới thiệu tác giả Lí Bạch
Câu trả lời của bạn
Suốt cuộc đời của mình, ông được tán dương là một thiên tài về thi ca, người đã mở ra một giai đoạn hưng thịnh của thơ Đường. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Ông cùng người bạn Đỗ Phủ trở thành hai biểu tượng thi văn lỗi lạc không chỉ trong phạm vi nhà Đường, mà còn trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa, thậm chí toàn bộ khu vực Đông Á đồng văn. Do sự lỗi lạc của mình, ông được hậu bối tôn làm Thi Tiên (詩仙) hay Thi Hiệp (詩俠). Giới thi nhân bấy giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh, nên gọi Lý Bạch là Tửu Tiên (酒仙) hay Trích Tiên Nhân (谪仙人). Hạ Tri Chương gọi ông làThiên Thượng Trích Tiên (天上謫仙).
Hãy so sánh cách thể hiện giữa cảnh và tình trong hai bài thơ của Lí Bạch để thấy sự khác nhay giữa chúng . Vì sao ?
Câu trả lời của bạn
Mình có gợi ý cho bạn về câu 1 nhé!:)
Cách thể hiện giữa cảnh và tình trong hai bài thơ "Xa ngắm thác núi Lư" và "Tĩnh dạ tứ" có nét tương đồng với nhau. Đây là hai bài thơ của cùng một tác giả, đọc qua hai bài thơ ta thấy nổi bật lên nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình". Nhà thơ thông qua tả cảnh để ngụ tình. Tình gắn bó với cảnh, trong cảnh có tình và ngược lại, trong tình lại có cảnh. Tình càng đậm thì cảnh càng rõ nét, sắc sảo. Trong thơ Lý Bạch, tình và cảnh có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
- Trong bài "Xa ngắm thác núi lư": nhà thơ miêu tả vẻ đẹp tráng lệ, huyền ảo, sinh động của thác nước chảy, nhưng qua đó cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên đằm thắm.
-Trong bài thơ "Tĩnh dạ tứ": Lí Bạch tả ánh trăng sáng rọi trong đêm thanh tĩnh, nhưng người đọc vẫn cảm nhận được cái "tình" của nhà thơ: nỗi nhớ về quê nhà, tình yêu quê hương một cách chân thành, sâu sắc.
hãy sắp sếp các từ dưới đây theo từng nhóm đồng nghĩa (đồng nghĩa hoàn toàn , đồng nghĩa không hoàn toàn):chết, hi sinh,tầu hỏa, xe hỏa, máy bay, ăn, xơi, nhỏ, bé, rộng rãi, bao la, toi mạng, quy tiên, xe lửa, phi cơ, tầu bay, mốn, đớp, loắt choắt, bé bỏng, bát ngát, mênh mông
LÀM ƠN GIÚP MÌNH VỚI
Câu trả lời của bạn
* Từ đồng nghĩa hoàn toàn :
1 . tàu hỏa , xe hỏa , xe lửa
=> đều chỉ 1 loại phương tiện giao thông chạy trên đường sắt .
2 . máy bay , phi cơ , tàu hỏa
=>đều chỉ một loại giao thông hàng không .
* Từ đồng nghĩa không hoàn toàn :
1 . ăn , xơi , đớp , ngấn
=> đều chỉ hành động đưa thức ăn vào miệng nhưng khác đối tượng .
2 . nhỏ bé , loắt choắt , bé bỏng
=> Để chỉ thân hình nhỏ bé hơn mức bình thường nhưng nguyên nhân khác nhau .
3 . rộng , rộng lớn , bao la , bát ngát , mênh mông
= > đều chỉ diện tích lớn hơn mức bình thường nhưng khác nhau về mức độ , vùng .
4 . chết , hi sinh , toi mạng
=> đều chỉ người ta không còn thở nữa ( mất ) , nhưng khác nhau về thái độ nói .
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ xa ngắm thác núi Lư và ko chép mạng
mk đang cần gấp
Câu trả lời của bạn
1.Mở bài:
Thiên nhiên chiếm một vị trí sang trọng trong hồn thơ Lí Bạch. Với thanh kiếm hiệp sĩ và bầu rượu, túi thơ, Thi tiên đã đi tới mọi chân trời góc bể. Ở đâu có cảnh đẹp là ông tìm đến thăm thú, thưởng ngoạn và đề thơ.
Núi Hương Lô, thác núi Lư ở Giang Tây, Trung Quốc là một danh lam thắng cảnh. Bài “Vọng Lư Sơn bộc bố” (Xa ngắm thác núi Lư) của Lí Bạch viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật (luật trắc, vần bằng):
Có thể dẫn nguyên tác hoặc bài thơ dịch ?
Bài thơ tả cảnh thác núi Lư tráng lệ với cảm xúc mạnh mẽ, ấn tượng sâu sắc của Lí Bạch khi đứng từ xa say sưa ngắm nhìn.
2.Thân bài:
Cảnh đẹp thác núi Lư được tả bằng mắt và bằng tưởng tượng vì nhà thơ đứng ở một nơi rất xa ngắm thác.
Câu thứ nhất tả núi Hương Lô (núi tựa như là cái lò hương thiên tạo khổng lồ) được ánh mặt trời chiếu xuống, rọi vào, sinh ra muôn ngàn làn khói tía (tím đỏ) vô cùng huyền ảo rực rỡ. Một nét vẽ thơ mộng:
“Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên”
(Nắng rọi Hương Lô khỏi tía bay)
Câu thứ hai, tả vị trí ngắm thác, ở một nơi rất xa. Núi cao, thác cao, tưởng như thác treo trên dòng sông lơ lửng, cheo leo ở phía trước. Chữ Hán “quải” nghĩa treo, một động từ tả hình dáng thác núi Lư. Đó là một thi nhân rất hình tượng và gợi cảm:
“Dao khan bộc bố quải tiền xuyên”
(Xa trông dòng thác trước sông này)
Câu thơ dịch rơi mất chữ “quải”. Hai câu thơ đầu có năm chi tiết được nói đến, có núi, thác và sông, có ánh mặt trời và làn khói tía. Chữ “sinh” là một vẻ động rất thần tình, gợi tả vẻ đẹp huyền diệu của núi và thác.
Câu thơ thứ ba tả độ cao, chiều dài, tốc độ của dòng thác. “Phi lưu trực há” nghĩa là chảy như bay đổ thẳng xuống, đó là độ cao, là tốc độ mạnh ghê gớm của dòng thác. Con số ước lượng ba nghìn thước tả chiều dài: chảy bay (phi lưu), các tính từ – trạng ngữ: thẳng xuống (trực há) là những vẻ động, rất thần tình:
“Phi lưu trực há tam thiên xích”
(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)
Câu thơ thứ tư là lời thốt lên vô cùng ngạc nhiên và thú vị của Thi tiên LíBạch:
“Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên”
(Tưởng dài Ngân Hà tuột khỏi mây)
Với trí tưởng tượng phi thường và cảm xúc lãng mạn bay bổng, Lí Bạch sử dụng thủ pháp nghệ thuật so sánh và thậm xưng để ví thác núi Lư kì vĩ, tráng lệ như dải Ngân Hà lấp lánh … triệu vì sao trên bầu trời. Dải Ngân Hà ấy đã rơi từ chín tầng mây cao xuống. Chữ “lạc” nghĩa là rơi, rụng, là thi nhãn trong câu thơ tuyệt cú.
...................CÒN LẠI BẠN TƯ LÀM NHÉ
lý bạch còn có biệt danh gì tại sao
Câu trả lời của bạn
Nhà thơ Lý Bạch có rất nhiều biệt danh. Suốt cuộc đời của mình, Lý Bạch được tán dương là một thiên tài về thi ca, là người đã mở ra một giai đoạn hưng thịnh của thơ Đường. Ông cùng người bạn Đỗ Phủ trở thành hai biểu tượng thi văn lỗi lạc không chỉ trong phạm vi nhà Đường, mà còn trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa, thậm chí toàn bộ khu vực Đông Á đồng văn. Do sự lỗi lạc của mình, ông được hậu bối tôn làm Thi Tiên ( tiên thơ ). Giới thi nhân bấy giờ lại rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh của ông, nên gọi Lý Bạch là Tửu Tiên hay Trích Tiên Nhân. Hạ Tri Chương còn gọi ông là Thiên Thượng Trích Tiên.
Đọc lại bài thơ " xa ngắm thác núi lư "
-Giải nghĩa các từ: rọi, trông trong bài thơ
-tìm các từ đồng nghĩa với mỗi từ đó
-đặt câu với các từ: rọi, trông. Thử thay thế bằng các từ đồng nghĩa với nó
Giúp mình với mai mình học rồi
Câu trả lời của bạn
- Rọi : hướng luồng ánh sáng chiếu thẳng vào
Trông : nhìn để nhận biết
- Từ đồng nghĩa với " rọi '' : soi , chiếu....
Từ đồng nghĩa với " trông " : nom , nhìn , liếc...
- Đặt câu với từ " rọi " : Ánh nắng mặt trời rọi xuống mặt sông.
Đặt câu với từ " trông " : Nó đang trông em.
- Thay thế bằng những từ đồng nghĩa khác;
+ Rọi : Ánh nắng mặt trời chiếu xuống mặt sông.
+ Trông : Nó đang nom em.
viết đoạn văn cảm nghĩ về xa ngắm thác núi Lư
Câu trả lời của bạn
Có thể nói, với những hình ảnh tráng lệ, huyền ảo, bài Xa ngắm thác núi Lư đã miêu tả một cách sinh động vẻ đẹp nhìn từ xa của thác nước chảy từ đỉnh Hương Lô, thuộc dãy núi Lư. Qua đó, Lí Bạch thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước đằm thắm và phần nào hộc lộ tính cách mạnh mẽ, hào phóng của một hồn thơ lãng mạn mà người đời thường gọi ông là "Tiên Thi".
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *