Qua bài giảng Sống chết mặc bay giúp học sinh hiểu được giá trị hiện thực, nhân đạo và những thành công nghệ thuật của truyện bên cạnh đó các em nắm được nội dung phê phán hiện thực tấm lòng nhân đạo của tác giả và những nghệ thuật đặc sắc trong truyện ngắn Sống chết mặc bay.
Cảnh đê sắp vỡ
→ Tình thế vô cùng nguy nam và khẩn cấp.
→ Nhốm nháo, vất vả, mệt nhọc.
→ Nghệ thuật tăng cấp, đối lập, khung cảnh hộ đê ngoài đình rất nhốn nháo, căng thẳng thiên tai đâng từng lúc đe dọa cuộc sống của người dân.
→ Cuộc sống quan lại xa hoa, vương giả.
→ Ăn chơi, ham mê cờ bạc.
→ Hách dịch, bàng quan, vô trách nhiệm.
→ Dân chúng rơi vào cảnh khốn cùng.
Tác giả đã kết hợp thành công nghệ thuật tương phản và nghệ thuật tăng cấp
Sống chết mặc bay cho thấy sự đối lập hoàn toàn giữa cuộc sống cơ cực của người dân và cuộc sống sa hoa, sung sướng của bọn cầm quyền mà đứng đầu là tên quan phụ mẫu lòng lang dạ thú. Thể hiện niềm thương cảm của tác giả trước cuộc sống cơ cực của người dân do thiên tai và sự thờ ơ, vô trách nhiệm của bọn cầm quyền đưa đến mà đứng đầu là tên quan phủ độc ác.
Đề bài: Phân tích nhân vật quan phụ mẫu trong truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn.
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
Văn xuôi quốc ngữ buổi đầu đã có sự đóng góp của Phạm Duy Tốn. Truyện ngắn Sống chết mặc bay của ông là một trong những thành tựu đầu tiên của dòng văn học hiện thực thuở sơ khai. Truyện ngắn được đăng tải trên báo Nam Phong số 18, tháng 12-1918.
Truyện kể chuyện một quan phụ mẫu ung dung ăn chơi, bài bạc trong cảnh vỡ đểlàm cho nhân dân trên một vùng rộng lớn chìm đắm trong thảm họa. Tác giả đã lên án thói vô trách nhiệm, bộ mặt vô nhân đạo của bọn quan lại trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Tên quan phụ mẫu được miêu tả bằng những chi tiết rất hiện thực, có giá trị tố cáo sâu sắc.
2. Thân bài
Sống sang trọng xa hoa:
Đi hộ đê mà mang theo ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm... trông mà thích mắt.
3. Kết bài
Một lối viết ngắn, sắc sảo. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong thế tương phản rất đặc sắc. Câu chuyện đầy kịch tính, thương tâm, giàu giá trị tố cáo hiện thực và tinh thần nhân đạo
Xây dựng thành công nhân vật quan phụ mẫu, mệnh danh là “cha mẹ dân” mà coi tính mạng của dân như rơm rác, “sống chết mặc bay!”. Tên quan phụ mẫu khá điển hình cho sự thối nát của chế độ quan trường thời Pháp thuộc.
Đâu chỉ có tên quan phụ mẫu thôi nát! Hắn là một trong hàng ngàn hàng vạn bọn quan lại ngày xưa; hắn là sản phẩm, là công cụ đắc lực của chế độ thực dân nửa phong kiến thôi nát.
Tác phẩm “Sống chết mặc bay” là một tác phẩm tiêu biểu cho nền văn học hiện đại, phản ánh hiện thực lúc bấy giờ. Thông qua câu chuyện của mình, Phạm Duy Tốn muốn thể hiện cái nhìn nhân sinh quan đối với xã hội, sự thương cảm của mình với những người dân cùng đinh khốn khổ. Để nắm được nội dung và nghệ thuật của văn bản, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Sống chết mặc bay.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn được in trên báo Nam Phong, số 18, năm 1918. Đến năm 1989, Nhà xuất bản khoa học xã hội tuyển chọn đưa vào tập Truyện ngắn Nam Phong. Tác phẩm được xem là “bông hoa đầu mùa” của truyện ngắn Việt Nam hiện đại bởi lẽ nó là một trong những truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ, mặc dù cách diễn đạt vẫn còn lưu lại khá rõ dấu ấn của văn học trung đại (lối văn biền ngẫu). Để nắm nội dung văn bản và cách viết một bài văn phân tích, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích tác phẩm Sống chết mặc bay
- Cảm nghĩ về tác phẩm Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn
- Phân tích hình ảnh viên quan phụ mẫu trong truyện ngắn Sống chết mặc bây
-- Mod Ngữ văn 7 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Chứng minh giá trị nhân đạo của truyện Sống chết mặc bay
Câu trả lời của bạn
Phạm Duy Tốn (1883 – 1924), nguyên quán làngPhượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây; sinh quán thôn Đông Thọ (nay là phố Hàng Dầu, Hà Nội),ông là một trong số ít người có thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại. Và một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là Sống chết mặc bay.
Với hai bức tranh đời tương phản, tác giả đã phản ánh rõ nét toàn cảnh xã hội phong kiến thời xưa. Hai hình ảnh trái lập nhau đã làm càng tăng thêm ý nghĩa, lên án, tố cáo những kẻ cầm đầu độc ác, không biết quan tâm đến đời sống nhân dân hay nói đúng hơn là tên quan phủ – một viên quan vô trách nhiệm lòng lang dạ sói trong tác phẩm. Văn bản này vào đề bằng một hình ảnh hết sức căng thẳng, gay cấn, khó khăn. Đó là vào một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông dâng cao đe doạ vỡ đê. Với công cụ thô sơ, những người dân chân lấm tay bùn với hàng nghìn tư thế khác nhau: người vác cuốc, người vác tre, kẻ bì bõm ướt như chuột lột cùng nhau gắng sức chống lại thiên tai, bão lụt. Hình ảnh muôn sầu nghìn thảm ấy làm bất cứ ai được đọc, được nghe đều không khỏi xót thương. Sự vất vả của người dân kéo dài tới mãi đêm khuya vẫn chưa chấm dứt. Tiếng hò, tiếng gọi, í ới, gấp gấp, sự căng thẳng ấy được bộc lộ qua nét mặt của từng người. Trước tình cảnh như vậy thì bất kì ai cũng đặt ra câu hỏi: Vậy trước thế cùng sức kiệt như vậy thì quan phụ mẫu, những người có chức quyền ở đâu. Thì ra những vị quan phụ mẫu đang hộ đê trong đình, một khung cảnh hoàn toàn trái ngược. Bầu không khí ấm áp không chút lo âu. Sự bình thản của mỗi người trên từng quân bài. Quan phụ mẫu đang hộ đê trong tư thế ung dung, nhàn hạ, tay cầm bát yến, ngồi khểnh vuốt râu. Sự oai phong của quan được thể hiện ở lời nói. Những tên xu nịnh vây quanh nịnh hót, quan thắng bài đó là niềm hạnh phúc. Từng khung cảnh cũng được đề cập đến trong văn bản càng bộc lộ rõ nét hơn. Than ôi! Xã hội phong kiến bất công biết bao. Bằng những ngôn từ, biện pháp tự sự, kết hợp với miêu tả, bình luận cùng với những cảm xúc chân thực, tác giả đã đưa người đọc vào trong cuộc sống bấy giờ, tái hiện lại những nghịch cảnh trớ trêu, lay động lòng người, đánh thức lên một nỗi niềm xót cảm. Không mảy may một chút vương lòng, những hình ảnh nhàn hạ, nào quan phủ, nào thầy lí, thầy đề, những tên cương hào, ác bá được lột tả dưới ngòi bút của tác giả. Với những ngôn từ bình dị, cổ xưa, tác giả đã gợi lên một khung cảnh chân thực. Hơn thế nữa, một loạt những nghệ thuật độc đáo được được sử dụng. Khi thời điểm tưởng chừng ngàn cân treo sợi tóc, văng vẳng từ xa tiếng người vào bẩm báo: “Dễ có khi đê vỡ”. Cảnh bình chân như vại của viên quan bằng lời nói: “Mặc kệ” khi đợi bài ù. Không chỉ vậy sự thách thức của hắn còn được bộc lộ bởi câu nói: “Đê có vỡ, nước có dâng lên cao thì cũng không lo đình sập, đình vỡ” Thật là nghịch chướng. Đó là phép tăng cấp rất độc đáo. Hay nghệ thuật tương phản cũng khá ấn tượng. Hai khung cảnh một trời một vực, một bên ung dung nhàn nhã, một bên gấp gáp lo âu. Sự tương phản này là mâu thuẫn quan điểm của hai lớp người trong xã hội xưa.
Có thể nói với sự khéo léo trong việc vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn hai biện pháp nghệ thuật cùng với ngôn từ chặt chẽ điêu luyện, phù hợp tương tác với nhau, bài văn đã rất thành công trong việc lột tả hai hình tượng đối lập. Đồng thời cũng lên án những tên quan phụ mẫu đại diện chính quyền lại vô trách nhiệm hay nói đúng hơn là lòng lang dạ sói cứ ung dung, thoải mái trong nhung lụa, hạnh phúc, bỏ mặc người dân trong cảnh lầm than, cơ cực. Hai bức tranh đời này mang đậm đà chất hiện thực và thắm đượm những cảm xúc nhân văn và gợi lên lòng đồng cảm nơi người đọc.
Các bạn ơi giúp mk nhé mk đang gấp lém!!
Viết một đoạn văn 8-10 câu trình bày suy nghĩ, cảm xúc của em về nỗi khổ của người dân trong truyện ngắn:" Sống chết mặc bay " của Phạm Duy Tốn trong đó có sử dụng 1 câu bị động, câu đặc biệt và một trạng ngữ
Giúp mk nhé
mk đang rất cần nhé~~~
Câu trả lời của bạn
một cây bút viết truyện ngắn xuất sắc nhất của những năm đầu thế kỷ XX. Một trong số những tác phẩm ông để lại, Sống chết mặc bay là truyện ngắn tiêu biểu hơn cả, nó được coi như một trong những tác phẩm mở đầu cho khuynh hướng văn học hiện thực phê phán sau này. Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã tái hiện khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn xa hoa của lũ quan lại. Viết Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn đã mạnh mẽ tố cáo thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời.Mở đầu tác phẩm, tác giả đã xây dựng một tình huống độc đáo được đặt trong sự đối lập gay gắt. Một bên là tình cảnh vô cùng nguy khốn của dân chúng: "Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất". Tính mạng "con dân" cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Quang cảnh hàng trăm ngàn con người đang ra sức chống chọi lại với cơn lũ thật khẩn trương, vất vả. "Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre", "người nào người nấy lướt thướt như chuột lột". Một bên là cảnh quan huyện "kẻ cha mẹ của dân" có trách nhiệm đốc thúc dân chúng bảo vệ đê thì lại đang chễm chệ trong đình "cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng chẳng việc gì". Ngoài kia con dân đang chân lấm tay bùn, đem thân hèn yếu để chống chọi lại với sức nước thì trong đình "đèn thắp sáng trưng", "nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn rịp". Dường như ngoài kia và trong này là cả hai thế giới khác biệt hoàn toàn. Nếu ngoài kia là thảm cảnh thì trong này là thú vui. Ngoài kia gấp gáp khẩn trương, trong này thong dong nhàn nhã. Cái náo loạn đặt bên cạnh cái yên ả. Trái với "con dân" đang "trăm lo ngàn sợ", quan phụ mẫu "uy nghi chễm chện ngồi" như không hề hay biết đến tình trạng thảm thương của dân chúng. Dựng lên hai cảnh đối lập gay gắt đó, tác giả vạch trần thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời. Trong tình cảnh ấy, vô trách nhiệm chính là một tội ác.Người đọc không thể tưởng tượng được trong tình thế nan nguy của tính mạng hàng ngàn người dân mà quan phụ mẫu vẫn điềm nhiên đánh bạc và hưởng lạc. Trong khi "sức người khó lòng địch nổi sức trời" thì bọn nha lại tay chân chỉ mải lo hầu bài quan.
Đọc đoạn văn và trả lời các câu hỏi bên dưới"Trong đình ,đèn thắp sáng trưng,trông mà thích mắt"
1. Nội dung chính của đoạn trích ?phương thức biểu đạt chính?
2. biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn trích trên?Tác dụng của biện pháp đó
3. Trong văn bản có phép tương phản và tăng cấp.chỉ ra nghệ thuật tăng cấp và tương phản trong truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn,nêu tác dụng
Câu trả lời của bạn
3/
Hai mặt tướng phản của truyện sống chết mặc bay. một bên là cảnh nhân dân đang vật lộn căng thẳng, vất vả đến cực độ trước nguy cơ đê vỡ. Một bên là cảnh quan phủ cùng nha lại, chánh tổng lao vào cuộc tổ tôm ngay trong khi họ “đi hộ đê”.
b) Phân tích làm rõ từng mặt tương phản:
- Mặt tương phản thứ nhất:
+ Thời gian: gần một giờ đêm (giờ đáng lẽ người dân được yên nghỉ sau một
ngày lao động vất vả, cực nhọc).
+ Mưa to và độ dâng của nước sông.
+ Không khí, cảnh tượng hộ đê: nhốn nháo, cảng thẳng (Qua tiếng động, tiếng tù và, tiếng người xao xác gọi nhau hộ đê, qua các hoạt động chống đỡ vừa sôi động vừa lộn xộn của người dân).
+ Sự hất lực của sức người trước sức người. Sự yếu kém của thế đê trước thế nước.
Sống chết mặc bay :
1 . Liệt kê những dẫn chứng chứng tỏ sự vô trách nhiệm , vô lương tâm của quan
2 . Liệt kê các dẫn chứng chứng tỏ nỗi khổ của người dân
3 . Nêu giá trị hiện thực nhân đạo của '' Sống Chết Mặc Bay ''
Ca Huế Trên Sông Hương :
Liệt kê các dẫn chứng chứng tỏ sự phong phú , đa dạng của Ca Huế
Chú ý : Những dẫn chứng đấy thì lấy y chang như trong sách giáo khoa , không tóm tắt dẫn chứng , viết hẳn ra
Tuy hơi dài nhưng giúp mik nhá . Mik đg cần gấp
Câu trả lời của bạn
1. Với hai bức tranh đời tương phản, tác giả đã phản ánh rõ nét toàn cảnh xã hội phong kiến thời xưa. Hai hình ảnh trái lập nhau đã làm càng tăng thêm ý nghĩa, lên án, tố cáo những kẻ cầm đầu độc ác, không biết quan tâm đến đời sống nhân dân hay nói đúng hơn là tên quan phủ – một viên quan vô trách nhiệm lòng lang dạ sói trong tác phẩm. Văn bản này vào đề bằng một hình ảnh hết sức căng thẳng, gay cấn, khó khăn. Đó là vào một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông dâng cao đe doạ vỡ đê. Với công cụ thô sơ, những người dân chân lấm tay bùn với hàng nghìn tư thế khác nhau: người vác cuốc, người vác tre, kẻ bì bõm ướt như chuột lột cùng nhau gắng sức chống lại thiên tai, bão lụt. Hình ảnh muôn sầu nghìn thảm ấy làm bất cứ ai được đọc, được nghe đều không khỏi xót thương. Sự vất vả của người dân kéo dài tới mãi đêm khuya vẫn chưa chấm dứt. Tiếng hò, tiếng gọi, í ới, gấp gấp, sự căng thẳng ấy được bộc lộ qua nét mặt của từng người. Trước tình cảnh như vậy thì bất kì ai cũng đặt ra câu hỏi: Vậy trước thế cùng sức kiệt như vậy thì quan phụ mẫu, những người có chức quyền ở đâu. Thì ra những vị quan phụ mẫu đang hộ đê trong đình, một khung cảnh hoàn toàn trái ngược. Bầu không khí ấm áp không chút lo âu. Sự bình thản của mỗi người trên từng quân bài. Quan phụ mẫu đang hộ đê trong tư thế ung dung, nhàn hạ, tay cầm bát yến, ngồi khểnh vuốt râu. Sự oai phong của quan được thể hiện ở lời nói. Những tên xu nịnh vây quanh nịnh hót, quan thắng bài đó là niềm hạnh phúc. Từng khung cảnh cũng được đề cập đến trong văn bản càng bộc lộ rõ nét hơn. Than ôi! Xã hội phong kiến bất công biết bao. Bằng những ngôn từ, biện pháp tự sự, kết hợp với miêu tả, bình luận cùng với những cảm xúc chân thực, tác giả đã đưa người đọc vào trong cuộc sống bấy giờ, tái hiện lại những nghịch cảnh trớ trêu, lay động lòng người, đánh thức lên một nỗi niềm xót cảm. Không mảy may một chút vương lòng, những hình ảnh nhàn hạ, nào quan phủ, nào thầy lí, thầy đề, những tên cương hào, ác bá được lột tả dưới ngòi bút của tác giả. Với những ngôn từ bình dị, cổ xưa, tác giả đã gợi lên một khung cảnh chân thực. Hơn thế nữa, một loạt những nghệ thuật độc đáo được được sử dụng. Khi thời điểm tưởng chừng ngàn cân treo sợi tóc, văng vẳng từ xa tiếng người vào bẩm báo: “Dễ có khi đê vỡ”. Cảnh bình chân như vại của viên quan bằng lời nói: “Mặc kệ” khi đợi bài ù. Không chỉ vậy sự thách thức của hắn còn được bộc lộ bởi câu nói: “Đê có vỡ, nước có dâng lên cao thì cũng không lo đình sập, đình vỡ” Thật là nghịch chướng. Đó là phép tăng cấp rất độc đáo. Hay nghệ thuật tương phản cũng khá ấn tượng. Hai khung cảnh một trời một vực, một bên ung dung nhàn nhã, một bên gấp gáp lo âu. Sự tương phản này là mâu thuẫn quan điểm của hai lớp người trong xã hội xưa.
Có thể nói với sự khéo léo trong việc vận dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn hai biện pháp nghệ thuật cùng với ngôn từ chặt chẽ điêu luyện, phù hợp tương tác với nhau, bài văn đã rất thành công trong việc lột tả hai hình tượng đối lập. Đồng thời cũng lên án những tên quan phụ mẫu đại diện chính quyền lại vô trách nhiệm hay nói đúng hơn là lòng lang dạ sói cứ ung dung, thoải mái trong nhung lụa, hạnh phúc, bỏ mặc người dân trong cảnh lầm than, cơ cực. Hai bức tranh đời này mang đậm đà chất hiện thực và thắm đượm những cảm xúc nhân văn và gợi lên lòng đồng cảm nơi người đọc.
nêu nội dung , ý nghĩa của văn bản : sống chết mặc bay
tóm tắt văn bản trên !
Câu trả lời của bạn
mình tính trả ời mà thui hehehe
“Sống chết mặc bay” đã lên án gay gắt tên quan phủ “lòng lang dạ thú” và bày tỏ niềm thương cảm trước cảnh “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên
Nội dung- ý nghĩa của văn bản Sống chết mặc bay là:
+ phản ánh sự đối lập giữa cuộc sống xa hoa của quan Phụ mẫu và cuộc sống đời sống sinh mạng khó khăn của người dân trước tình cảnh thảm sầu.
+ đồng thời thể hiện tình cảm thương xót trước tình cảnh của người dân chống chọi với cơn bão lũ.
+ phê phán lên án bọn quan lại mà đứng đầu là quan phụ mẫu.
Chúc bạn học tốt nhé!!!:)):))
Viết đoạn văn khoảng 10 câu trình bày suy nghĩ về số phận người dân có văn bản sống chết mặc bay có sử dụng câu đặc biệt
Mn giúp mình với T.T
Câu trả lời của bạn
Trong văn bản "Sống chết mặc bay", tác giả đã rất khéo léo làm rõ sự bất công oan trái của người dân trong xã hội phong kiến đương thời. Một bên là cảnh người dân lam lũ chống chọi thiên tai; một bên lại là cảnh quan "phụ mẫu" ăn chơi nhàn nhạ, ngồi đánh tổ tôm trong đình vững chãi, trông thật sung sướng làm sao! Quan vui vẻ bao nhiêu thì quan có biết người dân khổ bấy nhiêu đâu. Biết sức mk không địch lại đc sức trời nhưng vẫn cố gắng cầm cự vì cuộc sống mưu sinh chỉ trông chờ vào mảng ruộng bé tí tẹo, mùa gặt k đủ lo cho gia đình mà còn phải phục vụ quan "cha mẹ", thử hỏi đạo lí ở đâu?! Xin trình, đạo lí ấy kia kìa, đang rất là vô tư vui vẻ với chánh tổng, sở tại,... trông mới uy nghiêm "như thần như thánh" làm sao! Bằng 2 nghịch cảnh khác nhau, tác giả đã lên án tên quan lòng lang dạ thú mặt người và sự đày đọa khốn đốn của người nông dân xưa.
Trong văn bản "Sống chết mặc bay", tác giả đã rất khéo léo làm rõ sự bất công oan trái của người dân trong xã hội phong kiến đương thời. Một bên là cảnh người dân lam lũ chống chọi thiên tai; một bên lại là cảnh quan "phụ mẫu" ăn chơi nhàn nhạ, ngồi đánh tổ tôm trong đình vững chãi, trông thật sung sướng làm sao! Quan vui vẻ bao nhiêu thì quan có biết người dân khổ bấy nhiêu đâu. Biết sức mk không địch lại đc sức trời nhưng vẫn cố gắng cầm cự vì cuộc sống mưu sinh chỉ trông chờ vào mảng ruộng bé tí tẹo, mùa gặt k đủ lo cho gia đình mà còn phải phục vụ quan "cha mẹ", thử hỏi đạo lí ở đâu?! Xin trình, đạo lí ấy kia kìa, đang rất là vô tư vui vẻ với chánh tổng, sở tại,... trông mới uy nghiêm "như thần như thánh" làm sao! Bằng 2 nghịch cảnh khác nhau, tác giả đã lên án tên quan lòng lang dạ thú mặt người và sự đày đọa khốn đốn của người nông dân xưa.
Với cách kết hợp tài tình giữa phép tương phản và tâng cấp, Phạm Duy Tốn đã thể hiện rõ thái độ vô trách nhiệm, bàn quan của tên quan phụ mẫu trong tác phẩm "Sống chết mặc bay" - một tên "lòng lang dạ sói". Hãy thử tưởng tượng mà xem, khi lũ con dân của mình đang "chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân yếu hèn mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài" thì quan phụ mẫu lại đang say sưa trong ván bài. Với hắn, có lẽ những ván bài đỏ đen còn quan trọng gấp vạn lần tính mạng con dân. Ôi thôi, liệu cái ván bài đó có đáng để hi sinh hơn mấy trăm mạng ngươi chứ! Thật là một tên vô lại! Mà ấy còn chưa hết, thậm chí khi "đứa con" của ngài chạy vào nói: "Bẩm...quan lớn...đê vỡ mất rồi!", hắn còn quát vào mặt, đe doạ: "....Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng , thời ông bỏ tù …..! Có biết không?..." rồi đuổi ra.
Thật đúng là kẻ vô lương tâm, độc ác! Liệu cái xã hội có đầy rẫy nhưng kẻ như vậy sẽ ra sao đây! Phải nói rằng, tác phẩm "Sống chết mặc bay" quả là một tác phẩm tuyệt vời!
Hãy chỉ rõ nghệ thuật tương phản, đối lập trong đoạn văn dưới đây và phân tích tác dụng.
Ngoài kia, tuy mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít, nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch lắm: trừ quan phụ mẫu ra, mọi người ko ai dám to tiếng. So vs cảnh trăm họ đang gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đe, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ, nguy nga ...
Câu trả lời của bạn
*Biện pháp tu từ: -So sánh:như đàn sâu lũ kiến ở trên đê;như thần như thánh.”
*Nhân hóa:Gội tắm mưa
*Liệt kê: nhàn nhã, đường bệ, nguy nga
*Tác dụng:Than ôi! Xã hội phong kiến bất công biết bao. Bằng những ngôn từ, biện pháp tự sự, kết hợp với miêu tả, bình luận cùng với những cảm xúc chân thực, tác giả đã đưa người đọc vào trong cuộc sống bấy giờ, tái hiện lại những nghịch cảnh trớ trêu, lay động lòng người, đánh thức lên một nỗi niềm xót cảm. Không mảy may một chút vương lòng, những hình ảnh nhàn hạ, nào quan phủ, nào thầy lí, thầy đề, những tên cương hào, ác bá được lột tả dưới ngòi bút của tác giả. Với những ngôn từ bình dị, cổ xưa, tác giả đã gợi lên một khung cảnh chân thực. Hơn thế nữa, một loạt những nghệ thuật độc đáo được được sử dụng.Thật là nghịch chướng. Đó là phép tăng cấp rất độc đáo. Hay nghệ thuật tương phản cũng khá ấn tượng. Hai khung cảnh một trời một vực, một bên ung dung nhàn nhã, một bên gấp gáp lo âu. Sự tương phản này là mâu thuẫn quan điểm của hai lớp người trong xã hội xưa.
Gợi ý chung:
Đoạn văn này được trích từ bài " Sống chết mặc bay". Đoạn văn này tác giả sử dụng phép liệt kê, so sánh và nhân hóa.
+) Liệt kê: trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ, nguy nga
==> Miêu tả cảnh trong đình
+) Nhân hóa: Gội gió tắm mưa
==> Từ nhân hóa " gội " thể hiện được hình ảnh vất vả của người dân trong hoàn cảnh khó khăn.
+) So sánh: Như đàn sâu lũ kiến
==> Hình ảnh của người dân như đàn kiến đang mang các thứ về tổ của mình nhanh chóng không để bị mất hoặc ướt. Với người dân thì mong giữ được tài sản, ngăn được lũ...
1. Có ý kiến cho rằng:" Truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn đã cho đc thấy bộ mặt sâu xa vô trách nhiệm của xã hội phong kiến đương thời mà điển hình là tên quan phụ mẫu lòng lang dạ sói" Dựa vào văn bản trên, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
ĐB:Lập dàn ý cho đề bài trên:
Câu trả lời của bạn
thank you!
I/ GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1/ Tác giả
– Tác giả Phạm Duy Tốn (1883 – 1924) quê ở làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), ông sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, là người viết văn và làm báo.
– Văn xuôi bằng chữ quốc ngữ buổi đầu có sự đóng góp của Phạm Duy Tốn với tác phẩm “Sống chết mặc bay” được đánh giá là thành tựu đầu tiên của dòng văn học hiện thực buổi sơ khai.
2/ Tác phẩm
– Tác phẩm này được viết vào tháng 7 – 1918, được đăng tải trên tạp chí Nam Phong số 18, tháng 12 – 1918.
II/ HƯỚNG DẪN HỌC SINH CẢM THỤ VĂN BẢN
1/ Về nội dung
– Nội dung truyện kể về một tên “quan phụ mẫu” có thái độ vô trách nhiệm, trong cảnh vỡ đê vẫn ung dung ăn chơi, cờ bạc, trong khi đó nhân dân cả một vùng chìm đắm trong lụt lội, một thảm cảnh của thiên tai.
– Tác phẩm đậm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
– Tác giả phản ánh bộ mặt thật của giai cấp thống trị, phê phán và lên án mạnh mẽ bọn quan lại phong kiến mang danh là cha mẹ dân nhưng để dân “sống chết mặc bay” và bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc tới những người dân nghèo khổ.
– Tác phẩm đã dựng lên hai mặt tương phản gay gắt: Một bên là người dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả. Bên kia là viên quan đi hộ đê ngồi chỗ an toàn, nhàn nhã, mải mê bài bạc, không cho phép ai nấy quấy rầy ván bài của mình, coi việc đánh bài là trên hết, mặc dân sống chết khi đê vỡ.
2/ Về nghệ thuật
– Đây là truyện ngắn viết theo kiểu hiện đại bằng chữ quốc ngữ. Nhân vật bước đầu đã có tính cách. Nhân vật quan phụ mẫu được xây dựng khá sắc nét, bộc lộ bản chất xấu xa, vô trách nhiệm qua các hành động, lời nói của y với tay chân và người dân.
– Nghệ thuật tương phản và tăng cấp kết hợp với lời bình luận trực tiếp để tó cáo và phê phán. Lối kể chuyện cụ thể, sinh động, sự kết hợp với các chi tiết rất thực với đời sống hằng ngày đã tạo nên một sự hứng thú cho người đọc, người nghe.
– Tác phẩm có sự kết hợp đa dạng các hình thức ngôn ngữ: ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ miêu tả, ngôn ngữ bình luận. Giữa ngôn ngữ và tính cách nhân vật có sự liên hệ chặt chẽ. Ngôn ngữ phản ánh tính cách nhân vật. Đây cũng là sự thành công trong nghệ thuật của tác giả.
III/ HƯỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH VĂN BẢN
1/ Bố cục
Truyện ngắn: “Sống chết mặc bay” có thể chia làm 3 đoạn như sau:
– Đoạn 1: Từ đầu đến “…Khúc đê này hỏng mất”. Toàn đoạn cho biết nguy cơ đê bị vỡ và sự chống đỡ của người dân.
– Đoạn 2: Tiếp theo đến “…Điếu mày!”: Đoạn cho thấy tên quan phụ mẫu rất vô trách nhiệm, ung dung ăn chơi cờ bạc trong cảnh vỡ đê.
– Đoạn 3: Phần còn lại: Nói về hậu quả đê vỡ, nhân dân lâm vào cảnh “nghìn sầu muôn thảm”.
2/ Phân tích cụ thể
a/ Đoạn 1
– Mở đầu truyện ngắn là tình huống vô cùng hiểm nguy của khúc đê sông Nhị Hà được tác giả miêu tả bằng nhiều chi tiết cụ thể về thời gian và không gian: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X. thuộc phủ X. xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”.
Hình ảnh người dân hốt hoảng, lo lắng, tất bật… tìm mọi cách để giữ đê trước sức nước khủng khiếp, cũng được miêu tả bằng ngòi bút hiện thực thấm đẫm cảm xúc xót thương: “kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm dưới bùn lầy ngập quả khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột…”
– Không khí căng thẳng, hãi hùng được tạo nên từ sự đối lập giữa sức người và sức nước, sự pha trộn các âm thanh: “Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lử cả rồi…”. Cảnh dân phu đang loay hoay, tuyệt vọng chống chọi với nước để cứu đê là để chuẩn bị cho sự xuất hiện của cảnh tượng hoàn toàn trái ngược. Hai cảnh tượng cùng diễn ra ở một thời điểm nguy cấp, ở cùng trên một mối đê với những con người có chung bổn phận bảo vệ khúc đê xung yếu đã cho thấy hai cách ứng xử ngược chiều.
b/ Đoạn 2
– Tác giả kể chuyện viên quan phủ mải mê, chơi tổ tôm với đám quan lại dưới quyền và được lũ sai nha, lính lệ hầu hạ, cung phụng đến nơi đến chốn. Giọng văn tường thuật khách quan thật cụ thể, chi tiết nhưng đằng sau nó chứa chất thái độ mỉa mai, châm biếm và phẫn uất.
– Cảnh tên quan đang cùng nha lại chơi bài trong đình được khắc họa với không khí tĩnh mịch, trang nghiêm: quan phụ mẫu “uy nghi, chễm chện ngồi”, trong đình đèn thắp sáng choang. Không những thế quan dựa gối xếp, có lính gãi chân, có lính quạt hầu, có tên chực hầu điếu đóm.
– Hình ảnh tên quan phủ đi “hộ đê” được tác giả khắc hoạ với “cuộc sống hết sức nhàn nhã vương giả”, đi hộ đê mà mang theo ống thuốc bạc, đồng hồ vàng, dao chuôi ngà, ống vôi chạm, ăn thì ăn yến hấp đường phèn. Chỗ ngồi cao nhất của quan là “trong đình” khi quan ngồi trên thì nhà ngồi dưới, nghi vệ tôn nghiêm như thần như thánh.
– Trong khi đi “đốc thúc việc hộ đê” thì quan vẫn ăn chơi, cờ bạc, vẫn thản nhiên ung dung trong khi dân đang phải tắm mưa gội gió. Khi có người báo tin đê vỡ thì quan gắt “mặc kệ”. Khi có người nhà quê hốt hoảng chạy vào đình báo thì quan quát: “Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày!”.
– Mồm quan thì quát dân, thậm chí sai lính đuổi người nhà quê ra khỏi đình, sau đó thì lại tiếp tục vui mừng vì đã ù ván bài, đó là thái độ vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến.
– Dụng ý của tác giả khi dựng lên cảnh tương phản này nhằm mực đích so sánh, tô đậm sự đối lập của hai cảnh tượng, hai tầng lớp khác nhau. Một bên là người đại diện cho quyền lực, là bậc mẫu nghi thiên hạ thì lại vô trách nhiệm, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc. Một bên là nhân dân lao động đang phải gồng mình chống chọi với thảm cảnh của thiên nhiên trong tâm trạng lo lắng tuyệt vọng khôn cùng.
– Hậu quả tất yếu, sự vô trách nhiệm của tên quan đã dẫn tới cảnh đê bị vỡ. Hình ảnh đối lập sắc nét nhất, quan sung sướng ù ván bài to “Ừ! Thông tôm, chỉ chi nảy!… Điếu, mày!”, ngoài kia dân đang khổ vì nước lụt.
– Biện pháp tương phản, tăng cấp được sử dụng triệt để.
– Ngôn ngữ đối thoại phát huy tác dụng tối đa để các nhân vật bộc lộ tính cách và tâm trạng.
– Ngôn ngữ gián tiếp của người kể chuyện chỉ còn giữ vai trò dẫn truyện. Đặc biệt, tác giả có sự thay đổi và kết hợp giọng điệu rất linh hoạt: giọng văn xót xa thương cảm ở đoạn đầu chuyển thành giọng giễu nhại, chỉ trích. Giọng chỉ trích, giễu nhại mở rộng thành mạch bình phẩm không thể kìm nén về nhân cách “quan phụ mẫu”: “Ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa kết hội thì dầu trời long đất lở, đè vỡ dân trôi, ngài càng thây kệ”; “Mặc! Dân, chẳng dân thời chớ! Con bài ngon há nỡ bỏ hoài ru! Quan lớn ngài ăn, ngài đánh; người hầu kẻ dạ, kẻ vâng. Sướng bao nhiêu, thích bao nhiêu. Lúc quan hạ, bài ù, ai ai là người chẳng ngợi khen tấm tắc! Một nước bài cao, bằng mấy mươi đê lở, ruộng ngập! Vậy mà không hiểu thời thật là phàm!”. Những lời phẩm bình ấy sẽ được chứng minh bằng cảnh tượng diễn ra ở phần cuối câu chuyện.
c/ Đoạn 3
– Đoạn cuối truyện ngắn giống như một màn kịch ngắn, chia thành lớp lang, có thắt nút, mở nút. Xung đột được mở ra ngày càng tăng cấp và lên đến đỉnh điểm. Lúc quan ù ván bài thì cũng là lúc ngoài kia đê vỡ, nước trần lênh láng xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết. Lúc quan vui nhất cũng là lúc bi kịch của dân lên đến cao nhất. Các biện pháp tương phản, tăng cấp được sử dụng triệt để, làm cho kịch tính ngày càng gay gắt.
– Phép tăng cấp được tác giả sử dụng rất khéo léo, cụ thể như sau:
+ Sự tăng cấp trong việc miêu tả mức độ của trời mưa đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự còn hoặc mất của con đê, cả khúc đê có thể bị vỡ bất cứ lúc nào. Tiếng trống vẫn đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau. Mưa mỗi lúc một tầm tã, nước sông càng dâng cao, nhân dân thì đã mệt mỏi, đuối sức vì ngày đêm vật lộn với sự khắc nghiệt của thời tiết.
+ Sự tăng cấp trong việc miêu tả mức độ đam mê bài bạc của tên quan phủ được khắc hoạ rõ nét qua thái độ vô trách nhiệm đáng phê phán và lên án. Đê thì sắp vỡ mà tên quan không hề lo lắng, vẫn ngồi trong đình tận hưởng sự sung sướng, ăn những món ăn ngon, có kẻ hầu ăn, hầu chơi.
+ Vì thú chơi bài mà quan có thể bỏ qua tất cả, bỏ qua sự sống chết của biết bao người dân trong gang tấc. Quan chơi bài trong sự nhàn hạ. chỉ có người báo tình hình đê thế nào là quan sai lính đuổi ra, gắt lên và quát tháo đòi cách cổ, bỏ tù. Sự vô lí trong hành vi của quan ngày càng hiện rõ đó là thành công trong việc sử dụng nghệ thuật tăng cấp của tác giả.
– Tác dụng của sự kết hợp hai nghệ thuật tương phản và tăng cấp trong việc vạch trần bản chất của viên quan nhằm dụng ý phê phán sắc nét. Việc chơi cờ bạc là thói xấu phổ biến của bọn tham quan, nhưng đặt trong hoàn cảnh nhân dân đang “ngàn cân treo sợi tóc” đang vật lộn với cái chết thì rất đáng lên án.
+ Tính mạng và tài sản của nhân dân đang bị huỷ diệt trong tầm tay của quan, liệu quan có xứng đáng là “phụ mẫu” của dân chúng không. Quan sung sướng khi thắng ván bài, nhưng có đáng sung sướng không khi đê vỡ, bao người dân khổ sở cùng cực. Cười trên nỗi đau và sự mất mát của người dân, chỉ có kẻ mất hết tính người mới có hành vi như vậy.
– Nhờ sự kết hợp hai hình thức nghệ thuật này mà chất hiện thực và sức cộng phá chĩa vào bọn tham quan vô lại càng đậm nét.
Như vậy:
– Truyện “Sống chết mặc bay” là thành tựu mở đầu của dòng văn học hiện thực. Tác giả đã phản ánh rõ nét bộ mặt của giai cấp thống trị, bọn tham quan mất nhân tính, chúng chỉ biết ăn chơi hưởng lạc mà quên đi vai trò và trách nhiệm của mình, có biết bao người mất nhà, tan nát cơ nghiệp vì bão lũ, tình cảnh thật xót xa.
– Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở sự cảm thông sâu sắc, sự chia sẻ và đồng cảm với nỗi khốn khổ của người lao động trước cảnh thiên tai. Vì thái độ vô trách nhiệm của bọn quan lại mà nhân dân điêu đứng, khốn cùng.
– Gíá trị nghệ thuật thể hiện ngay ở chữ viết, viết theo kiểu hiện đại là chữ quốc ngữ. Hình tượng nhân vật đã bắt đầu được khắc hoạ rõ nét qua hình tượng quan phụ mẫu, sự biểu hiện ở tính cách ngang tàn, thái độ vô trách nhiệm,…
– Biện pháp nghệ thuật tương phản, tăng cấp và những lời bình luận trực tiếp làm tăng sức mạnh cho lời tố cáo và phê phán, càng đọc thì hình tượng quan phụ mẫu càng bộc lộ sự xấu xa, đê tiện
Truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn phản ánh cuộc sống khổ cực của người dân, đồng thời lên án thói vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến. Em hãy làm sáng tỏ nhận định trên bằng một bài văn nghị luận. + Kiểu bài: Văn nghị luận chứng minh. + Yêu cầu chung: vận dụng văn nghị luận chứng minh và hiểu biết về truyện ngắn Sống chết mặc bay để làm sáng tỏ 2 ý lớn : - Truyện phản ánh cuộc sống khổ cực của người dân. - Đồng thời lên án thói vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến, đại diện là tên quan phủ. |
Mở bài: - Giới thiệu khái quát về Phạm Duy Tốn, khẳng định: Ông là một trong số nhà văn có thành tựu đầu tiên về truyện ngắn hiện đại. - Giới thiệu về truyện ngắn Sống chết mặc bay |
Thân bài: Bằng việc phân tích sự khéo léo trong việc kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật, học sinh làm sáng tỏ 2 ý lớn ( theo yêu cầu của đề bài) a) Truyện phản ánh cuộc sống khổ cực của người dân do thiên tai, do sự vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên. - Sự tăng cấp trong việc miêu tả cảnh trời mưa, cảnh nước sông dâng cao, nguy cơ vỡ đê ... - Sự tăng cấp trong cảnh hộ đê của người dân: vất vả, căng thẳng, nguy cấp qua tiếng trống đánh, tiếng ốc thổi, tiếng người gọi nhau ... - Tình cảnh thê thảm của những người dân chân lấm tay bùn, đem thân hèn yếu ra chống đỡ với sức mưa to, nước lớn của trời ... - Sự bất lực của sức người trước sức trời, thiên tai giáng xuống, đe dọa tính mạng của người dân... b) Lên án gay gắt thói vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến, tên quan phủ là đại diện: - Bằng nghệ thuật tương phản, tác giả đã vạch trần thói vô trách nhiệm của tên quan phủ: cảnh người dân hộ đê trong tình thế nguy kịch tương phản với cảnh tên quan phủ đang cùng nha lại chơi bài trong đình với không khí tĩnh mịch ... - Niềm cảm thương với sự khổ cực của người dân - Lên án gay gắt thói vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến, tên quan phủ là đại diện; Sự vô trách nhiệm của tên quan phủ qua việc làm "hộ đê": tư thế, cách ngồi, lời nói, thái độ vô trách nhiệm khi biết tin đê vỡ ... Ý khái quát: - nêu nhận xét về giá trị hiện thực và nhân đạo được thể hiện qua truyện: phản ánh nỗi khổ cực của người dân và thể hiện niềm cảm thương của tác giả trước cuộc sống cơ cực, lầm than của người dân do thiên tai, do thói vô trách nhiệm của bọn quan lại phong kiến đưa đến... |
Kết bài: - Khẳng định lại giá trị nội dung của truyện ngắn. - Có thể liên hệ hoặc mở rộng bằng một số tác phẩm đã học ... |
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *