Qua bài soạn Luyện tập lập luận chứng minh giúp các em hiểu sâu thêm về phương pháp lập luận chứng minh trong văn nghị luận và biết vận dụng được phương pháp lập luận chứng minh cho một bài văn.
Cho đề văn: "Chứng minh rằng nhân dân Việt Nam từ xưa đến nay luôn luôn sống theo đạo lí "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây", "Uống nước nhớ nguồn".
Để hiểu sâu thêm về phương pháp lập luận chứng minh trong văn nghị luận, các em có thể tham khảo thêm bài soạn Luyện tập lập luận chứng minh.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 7 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Viết một đoạn văn ngắn chứng minh: Bảo vệ môi trường.
p/s: thanks trước nhé!!!
Câu trả lời của bạn
Môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và sức khỏe của cộng đồng nhưng hiện nay môi trường đang bị đe dọa một cách nghiêm trọng do chính bàn tay của con người. Vì vậy mỗi chúng ta cần ý thức và hiểu được rằng: bảo vệ môi trường là bảo vệ cuộc sống của chúng ta.
Môi trường là tất cả những gì ở xung quanh chúng ta và rất thân thiện gần gũi với chúng ta. Môi trường bao gồm: môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo. Môi trường tự nhiên bao gồm: đất đai, sông ngòi, không khí, cây cối, động thực vật,……Môi trường nhân tạo là do con người tạo nên như đường xá, nhà máy, xí nghiệp,… Tất cả những vấn đề trên đều có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người.
Thật vậy ! Môi trường có một mối quan hệ mật thiết tới cuộc sống con người. Những cánh rừng bạt ngàn như những lá phổi xanh khổng lồ đem lại bầu không khí trong lành cho con người. Không những thế rừng còn che chắn bão lũ, là nơi trú ngụ của những loài động vật quý hiếm. Vậy mà giờ đây rừng đang bị chính bàn tay con người tàn phá một cách không thương tiếc dẫn đến thiên tai, lũ lụt xảy ra ngày càng nghiêm trọng dẫn đến bao cảnh đau lòng.
Mặc khác nguồn nước cũng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi các chất thải từ các nhà máy dẫn đến cá chết hàng loạt nguồn nước sinh hoạt không được đảm bảo dẫn đến nhiều bệnh nguy hiểm cho con người. Ở các thành phố lớn dân cư đông đường xá cầu cống xuống cấp lượng xe cộ nhiều nên không khí cũng bị ô nhiễm nặng tai nạn giao thông ngày càng nhiều đã cướp đi bao nhiêu sinh mạng. Ở nông thôn, do hình thức và trình độ hiểu biết của người dân chưa cao nên sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu không có hiệu quả. Từ những vấn đề nêu trên đã giúp chúng ta hiểu rõ môi trường có ảnh hưởng rát lớn đến sức khỏe của cộng đồng nói chung và sự sống của con người nói riêng. Từng ngày từng giờ môi trường đang lên tiếng kêu cứu. Vậy mỗi chúng ta phải làm gì để bảo vệ ngôi nhà chung của chúng ta?
Tóm lại môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe cộng đồng. Vậy nên chúng ta phải có ý thức giữ gìn môi trường sống. Là học sinh chúng ta hãy có ý thức trồng thêm cây xanh, giữ gìn vệ sinh trường lớp. Làm được như vậy là chúng ta đã góp phần bảo vệ được cuộc sống của chính mình.
Môi trường là tất cả những gì ở xung quanh chúng ta và rất thân thiện gần gũi với chúng ta. Môi trường bao gồm: môi trường tự nhiên và môi trường nhân tạo. Môi trường tự nhiên bao gồm: đất đai, sông ngòi, không khí, cây cối, động thực vật,……Môi trường nhân tạo là do con người tạo nên như đường xá, nhà máy, xí nghiệp,… Tất cả những vấn đề trên đều có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người.
Thật vậy ! Môi trường có một mối quan hệ mật thiết tới cuộc sống con người. Những cánh rừng bạt ngàn như những lá phổi xanh khổng lồ đem lại bầu không khí trong lành cho con người. Không những thế rừng còn che chắn bão lũ, là nơi trú ngụ của những loài động vật quý hiếm. Vậy mà giờ đây rừng đang bị chính bàn tay con người tàn phá một cách không thương tiếc dẫn đến thiên tai, lũ lụt xảy ra ngày càng nghiêm trọng dẫn đến bao cảnh đau lòng.
Mặc khác nguồn nước cũng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi các chất thải từ các nhà máy dẫn đến cá chết hàng loạt nguồn nước sinh hoạt không được đảm bảo dẫn đến nhiều bệnh nguy hiểm cho con người. Ở các thành phố lớn dân cư đông đường xá cầu cống xuống cấp lượng xe cộ nhiều nên không khí cũng bị ô nhiễm nặng tai nạn giao thông ngày càng nhiều đã cướp đi bao nhiêu sinh mạng. Ở nông thôn, do hình thức và trình độ hiểu biết của người dân chưa cao nên sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu không có hiệu quả. Từ những vấn đề nêu trên đã giúp chúng ta hiểu rõ môi trường có ảnh hưởng rát lớn đến sức khỏe của cộng đồng nói chung và sự sống của con người nói riêng. Từng ngày từng giờ môi trường đang lên tiếng kêu cứu. Vậy mỗi chúng ta phải làm gì để bảo vệ ngôi nhà chung của chúng ta?
Kết bài:
Tóm lại môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe cộng đồng. Vậy nên chúng ta phải có ý thức giữ gìn môi trường sống. Là học sinh chúng ta hãy có ý thức trồng thêm cây xanh, giữ gìn vệ sinh trường lớp. Làm được như vậy là chúng ta đã góp phần bảo vệ được cuộc sống của chính mình.
Em hãy giải thích và chứng minh câu
"Ai ơi giữ chí cho bền
Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai"
Câu trả lời của bạn
Trong mọi công việc của một cá nhân, tác động từ phía khách quan không phải là nhỏ mà có khi nó làm đảo ngược ý định ban đầu, đẩy con người vào tình thế lúng túng, bị động và kết quả là hỏng việc. Để rèn luyện bản lĩnh, nhân dân lao động thuở xưa đã khuyên nhau:
Ai ơi giữ chí cho bền
Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai.
+ Nghĩa đen:
Nói về chuyện làm nhà, chủ nhà đã định thế nào thì cứ làm như thế, không nên dao động bởi sự can thiệp của người khác.
+ Nghĩa bóng:
Trong cuộc sống, ta phải giữ vững chủ ý. Tức là có ý chí, lập trường và quyết tâm hoàn thành công việc sau khi đã xác định mục đích đúng đắn. Không nên dao động trước dư luận vì điều đó sẽ ảnh hưởng không tốt đối với quá trình thực hiện công việc.
Khẳng định:
Ý nghĩa câu ca dao trên là hoàn toàn đúng đắn. Trước khi bắt tay vào làm một việc gì đó, ngựời ta thường đặt ra mục đích và mong muốn đạt được mục đích. Trong quá trình thực hiện công việc, tiến tới mục tiêu cuối cùng, có thể có nhiều thay đổi nhưng phải suy đoán cẩn trọng, giữ vững ý định, hướng đến kết quả cao nhất.
Trong khi làm việc, khó khăn là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy muôn đạt được mục đích thì phải có ý chí và quyết tâm cao. Giữ vững ý chí và quyết tâm là điều kiện cơ bản dể quyết định thắng lợi của công việc, là đức tính cần thiết hàng đầu của người lao động. Không có ý chí, không có lập trường vững vàng, dễ dao động không những khiến kế hoạch bị thay đổi so với dự định ban đầu mà con đường tiến đến thành công trở nên khó khăn hơn nhiều. Thậm chí nó có thể làm thay đổi hoàn toàn mục tiêu.
Như câu chuyện ngụ ngôn Đẽo cày giữa đường đã cho ta một bài học sâu sắc rằng neus khong có lập trường, không tin tưởng bản thân thì nhất định sẽ thất bại. Chuyện kể rằng có một người nông mang một khúc gỗ ra giữa đường để đẽo cày. Lúc bao đầu, ông ta làm việc rất hăng say. Nhưng, đến tầm giữa trưa, khi cái cày sắp được làm xong, co một người đi ngang che rằng chỗ này, chỗ kia chưa được. Người nông dân vội vàng sữa chữa như lời nhận xét kia. Cứ thế, nhiều người khác đi qua lại góp ý khiến ông sữa không ngừng. Đến chiều, cái cày vẫn chưa đẽo xong. Giờ đây, người nông dân nhìn lại nó đã bị biến dạng quá nhiều đến nỗi không thể sữa chữa được nữa.
Chỉ vì không tin ở bản thân, không có lập trường vững vàng, một người nông dân có nhiều kinh nghiệm trong việc đẽo cày đã tự mình chuốc lấy thất bại đắng cay.
Ý nghĩa lời khuyên trên chỉ hoàn toàn đúng khi mục đích đúng đắn, phương pháp làm việc phù hợp với thực tế khách quan. Nếu dư luận tác động vào công việc là dư luận xấu thì nhất thiết ta không nên nghe theo, làm theo vì sẽ dẫn đến kết quả xấu. Nên tham khảo và tiếp thu có sáng tạo cái mới, cái đúng, vận dụng cho phù hợp với hoàn cảnh của mình, nhằm dạt được mục đích ban đầu dã đặt ra. Ý chí kiên định, quyết tâm cao cần đi đôi với biện pháp linh hoạt trong khi làm việc.
Câu ca dao ai ơi giữ chí cho bền là một lời khuyên đúng đắn, chân tình, rất phù hợp với con người và hoàn cảnh Việt Nam. Việc rèn luyện ý chí, quyết tâm là diều hết sức cần thiết đối với mỗi người. Ý chí lớn, quyết tâm cao kết hợp với trí tuệ sắc sảo là những yếu tô’ quan trọng dẫn đến thắng lợi trong mọi công việc và trong sự nghiệp.
Trong dòng chảy thời gian hàng ngàn năm, hàng trăm năm sẽ có bao chuyện đời bị phủ mờ, bị quên lãng. Thế nhưng lại có một sự kì lạ, những câu nói dân gian, nhất là ca dao tục ngữ cứ đậu lại trong lòng, gợi nhớ gợi thương, nhắc nhở ta bao điều.
Xã hội biến động không ngừng, lòng người luôn đổi thay, đến một phút giây nào đó, trước nhưng trắc trở, tình huống gai góc trong cuộc sống, những vấn đề cần giải đáp, thì bất chợt những câu tục ngữ, ca dao ấy liền vụt hiện, làm sáng lên trong tâm hồn ta bao ý tưởng đẹp, bao gợi ý hay. Câu ca dao dưới đây là một ví dụ:
"Ai ơi giữ chí cho bền,
Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai".
Hai tiếng "ai ơi" cất lên làm cho câu ca dao trở thành một tiếng gọi đàn tha thiết. Ba chữ "ai" cùng xuất hiện nối tiếp, hô ứng đều là đại từ nhân xưng phiếm chỉ. Chữ "ai" trong câu ca thứ nhất là đại từ nhân xưng chỉ ngôi thứ 2, có thể là anh, chị, hoặc mỗi chúng ta, người trực tiếp nhận lời nhắn gọi. Hai chữ "ai" trong câu ca thứ hai chỉ người đời gần xa, là đại từ nhân xưng ngôi thứ ba.
Trong ngôn ngữ dân tộc, chữ "chí" trong câu "Ai ơi giữ chí cho bền” có nhiều nghĩa như ý chí, chí khí, chí hướng, nói lên sức mạnh tinh thần quyết không thay đổi. Chữ "bền” chỉ sự dẻo dai, bên vững, giữ vững được lâu dài, không biến đổi, không suy yếu, dù có bị tác động bất lợi từ bên ngoài. "Giữ chí cho bền" ‘nghĩa là quyết tâm giữ vững ý chí, không nao núng, không thay đổi trước mọi khó khăn trở ngại, quyết thực hiện mục đích cao đẹp của mình.
Câu thứ hai nói về thiên hạ, nói về những sự việc khách quan đang diễn ra, và "ai ơi" hãy bình tâm "giữ chí cho bền" trước những sự việc đó:
"Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai".
"Hướng" là phương hướng, chí hướng. "Nền " là nền tảng, là cơ sở. Làm nhà thì phải xem hướng, đắp nền để nhà cửa bền vững, thoáng mát, mĩ quan. Tục ngữ có câu: "đắp nền xây nhà, đi xa trông hướng". Hướng và nền chỉ sự bền vững, tính mục đích trong làm ăn, trong sinh sống của mỗi người. Những kẻ "xoay hướng đổi nền" là những con người không có chí hướng bền vững, hay thay đổi, dao động trong cuộc sống. Vì thế mới có thành ngữ: "xoay như xoay chong chóng". Bốn chữ: "dù ai, mặc ai" nhắc nhở một cách ứng xử, nói lên một thái độ phủ định, khuyên nhủ mọi người đừng dao động, không nên lệ thuộc vào hành động thiên hạ, việc làm của người ta thì mặc kệ người ta, đừng có a dua, bắt chước một cách vội vã, thiếu cân nhắc, tính toán.
Tóm lại, câu ca dao "Ai ơi giữ chí cho bền – Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai" nêu lên một lời khuyên chân thành, một bài học vể giữ vững ý chí, chí hướng của mình, bản lĩnh của mình, quyết tâm hành động để thực hiện tốt đẹp mục tiêu của mình đã đề ra. Không nên bị động, dao động vì thiên hạ mà nhụt chí, ngã lòng.
"Giữ chí cho bền" vô cùng quan trọng. Đường đời nhiều khó khăn thử thách. Vạn sự khởi đầu nan. Việc học hành, việc làm ăn, kinh doanh buôn bán, công tác nghiên cứu khoa học, v.v… đều phải có mục đích, có kế hoạch, đâu có thể tùy tiện được. Có mục đích, có kế hoạch chưa đủ mà còn cần phải có nghị lực, có ý chí để đương đầu với mọi khó khăn, dũng cảm vượt qua mọi thử thách, trở ngại thì mới có thể giành thắng lợi.
Phải biết giữ chí cho bền. Cuộc đời không bao giờ nuông chiều hoặc "bày cỗ" cho những kẻ thiếu bản lĩnh, yếu hèn, sống bị động, dao động. Thiên hạ trăm người trăm ý, vạn người vạn ý. Khen chê phải, trái; bình luận đúng, sai là chuyện đời mà ta thường nghe thấy. Nhiều người bị hỏng việc vì dao động khi nhìn thấy thiên hạ "xoay hướng đổi nền”. Có người bị tan tành cả cơ nghiệp như anh thợ mộc ngày xưa "đẽo cày giữa đường" là vậy!
Sống giữa cuộc đời, ta phải biết bình tâm lắng nghe ý kiến mọi người, phải để ý xem xét hành động "xoay hướng đổi nền” của thiên hạ. Chính trong hoàn cảnh ấy, trí tuệ ta thêm sáng suốt, ý chí ta thêm sắt đá, quyết tâm ta càng thêm cao, công việc sẽ hoàn thành tốt đẹp. Ý chí, chí hướng là phẩm chất cao quý hàng đầu của con người chân chính. Vì thế, Bác Hổ đã dạy thanh niên:
"Không cố việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền.
Đào núi và đắp biển,
Quyết chí ắt làm nên".
Hình như câu ca dao này còn ngụ ý nêu lên bài học biết giữ vững sự thủy chung son sắt trong tình yêu ? Nó cũng tương tự như bài ca dao:
"Dù ai nói đông nói tây
Thì ta cũng vững như cây giữa rừng.
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta cũng vững như kiềng ba chân".
"Ai ơi giữ chí cho bền – Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai" là tình cảm, tư tưởng, trí tuệ dân gian, là sản phẩm tinh thần của một nền sản xuất tiểu nông nhỏ bé, khép kín. Ý chí, chí hướng là phẩm chất cao quý, nhưng chưa đủ. Con người còn cần phải có trí tuệ thông minh sáng suốt. Có chí hướng, có ý chí nhưng không được bảo thủ, tự coi mình là "nhất thiên hạ". Phải sáng suốt, tỉnh táo phân biệt đúng, sai, cái tiến bộ, lạc hậu và cái lỗi thời. Biết gạt bỏ cái hạn chế của mình, thấy rõ cái sở đoản của mình, biết khiêm tốn học hỏi cái hay, cái tốt đẹp của thiên hạ mới là con người thức thời, khôn ngoan. Đổi mới, hòa nhập xu thế của thời đại. Không thể đóng cửa tự khép kín mình mà phải vừa học hỏi cái tinh hoa của người, vừa dám đem cái tốt đẹp của mình để thi thố tài năng với thiên hạ.
Nhân loại đã bước vào thiên niên kỉ mới, thời đại của nền văn minh tri thức. Chủ quan, tự mãn, duy ý chí là những tư tưởng phải khắc phục. Sống trong xã hội mới, xã hội của nền sản xuất công nghiệp hóa và hiện đại hóa, câu ca dao trên đây là một bài học bổ ích cho mỗi chúng ta trong việc trau dồi phẩm chất ý chí, xác định chí hướng, nêu cao quyết tâm trong hành động, trong học tập và lao động. Thời đại của nền văn minh tri thức, với những phát minh kì diệu về tin học, về vũ trụ, về sinh học,… ta nên nhớ và nên biết, cùng với sức mạnh của ý chí là sức mạnh của trí tuệ. Vì thế, tuổi trẻ phải biết học tập một cách thông minh và sáng tạo, biết đổi mới nội dung và phương pháp học tập.
Ca dao dân ca đã cùng sữa mẹ và lời ru của mẹ nuôi dưỡng tâm hồn tuổi thơ mỗi chúng ta. Cho nên phải biết học ca dao. Phải biết nói bằng ca dao. Và còn phải biết suy nghĩ từ ca dao, suy nghĩ một cách mới mẻ. Câu ca dao:
"Ai ơi giữ chí cho bền,
Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai".
càng đọc ta càng cảm thấy thú vị.
nhớ tick mk ^^
Trong cuộc sống của mỗi người, sự tác động của hoàn cảnh khách quan đến suy nghĩ và hành động của bản thân là rất lớn. Không phải ai cũng đủ ý chí, đủ cái tâm vững vàng để không dễ dàng bị xoay chuyển. Để có thể giúp tâm tĩnh, không bị người khác tác động quá nhiều đòi hỏi bản lĩnh. Cha ông ta đã có câu ca dao khuyên răn con người rằng “Ai ơi giữ chí cho bền. Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai”.
Người ta vẫn nói rằng làm nhà là việc quan trọng của người con trai, hay nói cách khác thì đây chính là việc hệ trọng cần phải làm, cố gắng làm. Cũng không phải bỗng nhiên cha ông ta lại mượn hình ảnh làm nhà để nói đến ý chí giữ vững lập trường của bản thân mình. Ý chí, sự quyết đoán, chính kiến cũng như việc làm nhà, cần phải tìm hiểu thật kĩ, không nên nghe răm rắp theo ý kiến người khác mà xoay chuyển tram đường.
Câu ca dao trên nhằm khuyên răn chúng ta nên bền gan vững chí để không bị lung lay bởi hoàn cảnh khách quan bên ngoài. Mặc dù vẫn biết rằng nên nghe người khác đưa ra ý kiến nhưng không đồng nghĩa với việc nghe và làm theo những gì họ nói mà không có chính kiến của bản thân mình. Câu ca dao không chỉ nói riêng một ai, mà nhắn nhủ chung tất cả moi người cần phải giữ vững lập trường và chính kiến của bản thân mình.
Bên cạnh câu ca dao này còn có câu:
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
Thật vậy, mỗi người mỗi tính nhưng việc xây dựng cho mình một lập trường riêng thực sự rất quan trọng trong đời sống hiện nay. Người nói mặc người, bản thân tiếp thu những điều hay, làm những điều đúng, giữ được chính kiến khi đứng giữa hàng tram hàng vạn người khác nhau.
Trong quá trình học tập hay làm việc thì ít nhiều chúng ta vẫn bị tác động, ảnh hưởng bởi những người xung quanh. Người có ý tốt, người có ý xấu; quan trọng chúng ta cần biết được bản thân nên làm gì, làm như thế nào. Một người có đủ bản lĩnh cũng như có đủ ý chí thì sẽ biết được nên làm gì và không nên làm gì.
Có không ít người trên con đường đi tìm ước mơ đã nghe theo lời người khác, cứ coi suy nghĩ của họ là đúng và làm theo. Lối sống này sẽ tạo thành thói quen cho bản thân mình sau này, tâm không vững và lòng không vững. Rất dễ bị lung lay bởi tác động của ngoại cảnh.
Vế thứ hai của câu ca dao “Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai” có ý nghĩa khẳng định rằng dù người khác có làm gì, có xoay chiều như thế này thì mình hãy luôn giữ vững lập trường như lúc ban đầu. Từ “mặc” đã có ý mặc kệ, không để ý đến lời lẽ của thiên hạ, của những người xung quanh cuộc sống của mình.
Việc giữ vững lập trường, giữ chính kiến của mình sẽ khiến bạn được mọi người tôn trọng và yêu quý. Giữ chính kiến sẽ đối lập với a dua, gió chiều nào xoay theo chiều đấy. Hơn hết giữ chính kiến còn giúp cho bạn hoàn thiện bản thân mình từng ngày theo hướng tích cực. Cuộc sống vẫn luôn cần những người như vậy, để không chỉ tốt cho bản thân mà còn tốt cho xã hội.
Có một anh chàng rất tài giỏi nhưng lại thiếu quyết đoán, nghe theo lời người khác, ai nói gì cũng đúng. Vì anh ta không có chính kiến của người khác nên dù có giỏi, có tài đến đâu đi chăng nữa thì vẫn sẽ mãi loay hoay trong chính suy nghĩ của bản thân mình.
Đối với những người trẻ hiện nay thì việc khăng định cái “tôi” cá nhân, khẳng định được nét riêng biệt của bản thân thì cần thiết phải có chính kiến, có được lòng quyết đoán của mình. Như vậy mới có thể tồn tại và phát triển được trong xã hội có nhiều bon chen như hiện nay
Như vậy câu ca dao trên đã khuyên răn con người ta nên có chính kiến và lập luận của bản thân mình để không ngừng hoàn thiện và phát triển tốt con người mình hơn. Đó là nền tảng để sau này chúng ta có bước tiến hơn.
Nêu các bước thực hiện một trong hai đề sau:
Đề 2: Chứng minh chân lí được nêu trong bài thơ:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên
Câu trả lời của bạn
Để có được ngày hôm nay ông cha ta đã phải vượt qua vô vàn khó khăn gian khổ. Để có được thành công con người phải bền gan, vững chí, phải có lòng quyết tâm, kiên trì, tinh thần vượt khó. Nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ về phẩm chất tinh thần đặc biệt ấy, trong một lần nói chuyện với thanh niên, Bác Hồ đã ân cần khuyên bảo:
"Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên."
Chỉ với vài câu thơ ngắn ngủi, Bác Hồ đã dạy bảo chúng ta một chân lí trong cuộc sống: Nếu có ý chí, quyết tâm thì dù công việc khó khăn đến đâu cũng có thể vượt qua.Chân lí đó đã được hiện thực cuộc sống khẳng định và chứng minh. Lời thơ của Bác vô cùng giản dị, dễ hiểu, giống như những lời nói thường ngày: Không có việc gì khó khăn, chỉ sợ ta không có ý chí, lòng kiên trì, sự nhẫn nại; công việc dù gian nan đến đâu, chỉ cần ta quyết chí thì ắt sẽ thành công. Hình ảnh “đào núi và lấp biển” chỉ là hình ảnh mang tính ước lệ, khái quát tượng trưng cho những công việc phi thường tưởng chừng khó thực hiện được. Bài thơ của Bác đã phản ánh một chân lí giàu tinh thần nhân văn: nếu có ý chí, sự nỗ lực con người nhất định sẽ đạt được ước mơ. Chân lí ấy giản dị biết bao và cũng có biết bao con người trên thế gian này đã mang hết sức lực của mình để chứng minh cho điều đó.
Những tấm gương trong cuộc sống mà thế hệ trước đã để lại cho con cháu bài học về sự kiên trì bền bỉ, vượt qua khó khăn gian khổ. Hẳn nhiều người biết đến câu chuyện, vợ chồng nhà bác học người Pháp Pi-e Quy-ri và Ma-ri Quy-ri, họ đã kì công trong bốn năm trời lọc đi lọc lại tám lần bã quặng để tìm được một phần mười gam chất phóng xạ Radium. Thế mới biết muốn tìm ra một nguyên tố hóa học cũng đòi hỏi sự bền bỉ, kiên trì mãnh liệt. Ca sĩ Ô-pê-ra nổi tiếng En-ri-cô Ca-xu-rô từng bị thầy giáo chê là thiếu chất giọng và không thể nào hát được. Lúc còn học phổ thông, Lu-I Pa-xtơ chỉ là một học sinh đứng thứ 15 trong số 22 học sinh về môn Hóa…
Đó là những tấm gương của người nước ngoài còn ở Việt Nam ta, không ai không biết đến tấm gương đầy nghị lực của thầy Nguyễn Ngọc Kí. Thuở nhỏ, thầy bị liệt cả hai tay không viết được. Trải qua bao đau đớn, bao khó khăn, chật vật của những lần bị chuột rút cuối cùng thầy đã có thể viết chữ bằng chân. Không những thế, chữ của thầy còn rất đẹp. Sau này, thầy trở thành người Nhà giáo ưu tú được nhiều thế hệ học sinh yêu mến, cảm phục. Thầy thực sự là một tấm gương lớn cho thế hệthanh niên Việt Nam. Tiếp sau thầy Nguyễn Ngọc Kí còn có nhà văn Mai Xuân Thưởng. Trong một vụ tai nạn giao thông, anh đã bị mất hai cánh tay nhưng vượt lên trên những mặc cảm, những khổ đau anh đã tự học rồi trở thành một nhà văn. Trong lao động sản xuất, ta có thể kể đến tấm gương của những bác Lương Định Của, bác sĩ Đặng Văn Ngữ, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch… Bác Lương Định Của là một nhà bác học nghiên cứu về nông nghiệp. Để tạo một giống lúa mới có năng suất cao, có khả năng chống rầy tốt, bác phải làm việc vô cùng vất vả, khó nhọc. Hằng ngày từ tờ mờ đất bác đã ra ruộng lội bì bõm nghiên cứu, thử nghiệm đến tối mịt mới về. Qua nhiều vụ lúa dày công, một giống lúa mới được tạo lập đáp ứng tốt yêu cầu của tình hình đất nước đã ghi công sự kiên nhẫn, bền bỉ của bác trong nỗ lực đem lại sự no ấm cho cuộc đời…
Những trường hợp kể trên chỉ là một số trong vô vàn những tấm gương đầy nghị lực trong cuộc sống mà chúng ta không thể kể hết được. Còn nhiều hơn nữa những con người thành công, vượt qua mọi khó khăn gian khổ bằng khả năng của bản thân. Những nghị lực phi thường đó sẽđược đời sau tôn vinh. Còn với thế hệ chúng em, những tấm gương đó đã và đang động viên chúng em vượt qua khó khăn đồng thời tận dụng những thuận lợi của hoàn cảnh để cố gắng nỗ lực đạt được những thành tích tốt nhất trong học tập, sáng tạo.
Bốn câu thơ trên của Bác là một lời khuyên vô cùng quý báu. Bằng trí tuệ sắc sảo, Bác đã vạch ra chân lý đúng đắn nhất cho thế hệ trẻ, bằng trái tim tràn đầy tình yêu thanh niên, Bác đã ân cần khuyên nhủ, động viên mọi thế hệ hôm nay và mai sau có được phương pháp hành động và suy nghĩ đúng đắn để thành người có ích hơn cho xã hội, cuộc sống sẽ ấm lo hạnh phúc hơn.
I. Mở bài:
Trên hành trình đến chân trời tương lai của sự nghiệp, con người phải đương đầu với biết bao thử thách chông gai như cuộc đi đường thường ngày "Đi đường mới biết gian lao; Núi cao rồi lại núi cao trập trùng". Chúng ta muốn leo "lên đến tận cùng" để thu vào "tầm mắt muôn trùng nước non", nghĩa là muốn thu được thắng lợi vẻ vang đòi hỏi con người phải bền gan, vững chí, phải có lòng quyết tâm, kiên trì, tinh thần vượt khó. Nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ về phẩm chất tinh thần đặc biệt ấy, trong một lần nói chuyện với thanh niên, Bác Hồ đã ân cần khuyên bảo:
"Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chi ắt làm nên"
II. Thân bài.
1- Cái khó không phải là bản thân công việc, mà chính là ở lòng người.
Bằng kiểu câu khẳng định với hai vế điều kiện - kết quả, ngay ở hai câu thơ đầu, Hồ Chí Minh, "tinh hoa của dân tộc, khí phách của non sông" , đã nêu bật một chân lý hiển nhiên của thực tế cuộc đời. Trên thế gian này, "không có việc gì khó" - Việc khó là việc khi làm đòi hỏi nhiều công sức, tâm trí và nghị lực mới làm được. Tuy nhiên sự quyết định của thành bại không phải là ở bản thân công việc dễ hay "khó" , mà là ở chính tinh thần con người. Việc gì cũng có thể làm được miễn là có sự kiên trì, ý chí quyết tâm, nghĩa là "bền lòng" . Bền lòng ở đây là chỉ lòng kiên trì, không bao giờ nản chí, đầu hàng, không thay đổi lập trường mà phải đem hết tâm sức "mài vào đá vào sắt" "mài vào đêm vào ngày" , quyết tâm làm bằng được mới thôi, dù cho có gặp muôn vàn khó khăn, thử thách. Ông Nguyễn Bá Học trước đây cũng đã khẳng định điều đó bằng một câu nói rất chí lý: "Đường đi khó không phải vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Như vậy ở hai câu thơ đầu tiên, Bác Hồ đã đặc biệt đề cao vai trò của tinh thần, ý chí, sự kiên trì, vượt khó của con người trong khi thực hiện các công việc, đặc biệt là những công việc "khó".
2. Khi đã "bền lòng", "quyết chí" , thì dù công việc khó đến mấy cũng có thể hoàn thành, để làm nên "sự nghiệp lớn".
Nếu khi con người đã có được một tinh thần kiên trì, một ý chí, quyết tâm vượt khó thì dù công việc khó khăn, to lớn bằng trời, biển, chúng ta cũng có thể làm được và hoàn thành một cách tốt đẹp:
"Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên"
Ở hai câu này, Bác đã dùng thủ pháp cường điệu và hình ảnh tượng trưng "đào núi và lấp biển" để chỉ những công việc lớn lao dường như nằm ngoài sức lực và khả năng của con người. Nhưng dù là công việc "đào núi" và "lấp biển" khó khăn lớn lao đến đâu đi nữa, nếu con người "quyết chí" , bền bỉ dồn mọi sức lực, trí tuệ quyết làm bằng được, bất chấp mọi khó khăn chủ quan và khách quan "thắng không kiêu, bại không nản" thì cũng hoàn thành, cũng "ắt làm nên". Bác dùng chữ "ắt" càng tăng thêm tính chất khẳng định. "Ắt" theo từ điển tiếng Việt nghĩa là "chắc chắn" "nhất định sẽ" (Từ điển tiếng Việt trang 59)
3. Chứng minh bằng dẫn chứng thực tế
Lịch sử nhân loại và đất nước ta đã có biết bao câu chuyện, bao tấm gương nêu cao sức mạnh phi thường của lòng kiên trì, nghị lực và lòng quyết tâm của con người trong cuộc sống. Từ câu chuyện Ngu Công dời núi đến câu chuyện "Mài sắt nên kim" ; từ tấm gương anh hùng Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Bình Trọng...đến Võ Thị Sáu, Mạc Thị Bưởi, Lý Tự Trọng, Nguyễn Văn Trỗi....trong sự nghiệp cứu nước vẻ vang, tất cả họ đều đã vượt qua biết bao khó khăn thử thách tưởng chừng khó có thể vượt qua nổi bằng một sự "quyết chí" vượt bậc để hoàn thành nhiệm vụ, "làm nên" những chiến công chói lọi. Bác Hồ không chỉ răn dạy thanh niên về sự bền lòng, vững chí mà Người còn là một tấm gương sáng ngời về sự "kiên trì" "nhẫn nại" và "quyết chí" . Vào lúc vận mệnh Tổ quốc như ngàn cân treo đầu sợi tóc, Người đã nói một câu nói nổi tiếng như một lời hịch "Dù đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập". Lời hịch ấy thổi hồn và truyền sức mạnh ý chí cho toàn dân tộc để lập nên một "Điện Biên nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng". Vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, lớp lớp cháu con quyết chí mở đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên rừng Trường Sơn và trên biển Đông để "giành độc lập" , thống nhất Tổ Quốc. Và kết quả là ngày 30/04/1975 "Bác Hồ ơi! Toàn thắng đã về ta":
"Ôi, buổi trưa nay, tuyệt trần nắng đẹp
Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta
Chúng con đến, xanh ngời ánh thép
Thành phố tên Người lộng lẫy cờ hoa"
(Tố Hữu)
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, cuộc sống hoà bình hôm nay, noi theo tấm gương Bác Hồ, nối tiếp các đàn anh lớp trước, hàng ngày hàng giờ, thế hệ mới của chúng ta đã xuất hiện biết bao tấm gương đẹp về lòng kiên trì, chí lớn đã làm nên "sự nghiệp lớn". Đó là bác sĩ Nguyễn Tài Thu, người đã đưa nền y học châm cứu Việt Nam thành một thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Đó còn là vận động viên wushu Thuý Hiền, vận động viên nhảy cao Bùi Thị Nhung, vận động viên cử tạ Hoàng Anh Tuấn đã giành được Huy Chương Vàng thể thao Segame để cho lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc Việt Nam kiêu hãnh tung bay trên đấu trường Đông Nam Á. Và đây là tấm gương "kiên trì", "quyết chí", "bền lòng" , vượt qua số phận hiểm nghèo của mình để làm nên sự nghiệp phi thường như là "đào núi" và "lấp biển" vậy. Đấy là anh Bạch Đình Vinh được chương trình ti vi "Người đương thời" hết lời ca ngợi: vì một tai nạn giao thông, anh Vinh bị bại liệt toàn thân, bị chấn thương nặng nội tạng, khuôn mặt bị biến dạng và mất luôn cả tiếng nói. Thế nhưng với một ý chí, nghị lực phi thường, anh đã không gục ngã, mà đứng lên viết tiếp trang cổ tích của cuộc đời mình: sinh viên ba trường Đại học: Giao thông vận tải, Thương Mại, Khoa công nghệ thông tin - Đại học Bách Khoa Hà Nội.
4. Bình luận mở rộng
Lời dạy của Bác là một bài học vô cùng quý giá cho mỗi chúng ta về phương châm sống. Nó đã trở thành bí quyết quan trọng nhất giúp chúng ta thực hiện ước mơ hoài bão của bản thân. Lời dạy đó còn giúp ta có ý chí nghị lực để vượt qua những khó khăn lớn lao thường gặp, để quyết đạt cho được ước mơ của mình. Như thế cũng có nghĩa là lời dạy của Người còn đem lại cho ta lòng tự tin. Khi có được lòng tự tin, chúng ta sẽ có một sức mạnh tinh thần vô địch để làm nên tất cả.
Tuy nhiên, chúng ta nên phải hiểu lời khuyên của Bác một cách đúng đắn và thiết thực. Quyết tâm, ý chí của ta phải đi đôi với hành động, chứ không được quyết tâm suông mà có thể làm nên được sự nghiệp lớn. Và những ước mơ, khát vọng của ta phải phù hợp với điều kiện thực tế, hoàn cảnh chủ quan, khách quan, những tiền đề vật chất nhất định, nếu không chúng ta sẽ trở thành những người phiêu lưu mạo hiểm, những kẻ mơ mộng hão huyền. Hiểu như vậy, chúng ta càng thấm thía lời dạy của Bác Hồ vô cùng đúng đắn.
III. Kết luận
Tóm lại bốn câu thơ trên của Bác là một lời khuyên vô cùng quý báu. Bằng trí tuệ sắc sảo, Bác đã vạch ra chân lý, bằng trái tim tràn đầy tình yêu thanh niên, Bác đã ân cần khuyên nhủ, động viên mọi thế hệ hôm nay và mai sau có được phương pháp hành động và suy nghĩ đúng đắn nhằm chiếm lĩnh được những "đỉnh Ôlimpia" của cuộc đời và sự nghiệp.
chứng minh để làm nổi bật lối sống giản dị, thanh bạch của Bác Hồ(theo giàn ý sau)
MB: luận diểm lớn:khẳng định cuộc đời của Bác là 1 cuộc đời mẫu mực về sự giản dị
-từ sự giản dị-nhân dân việt nam +nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế gới gần gũi yêu mến con người việt nam
TB:-luận điểm nhỏ 1:lối sống
-luận điểm nhỏ 2:công việc
-luận điểm nhỏ 3:mối quan hệ với mọi người
-luận điểm nhỏ 4: lời nói, chữ viết
-đoạn kết về cuộc đời giản dị của Bác Hồ
KB:-khẳng định cuộc đời vĩ đại
-suy ngĩ + bài học của mình ừ Bác Hồ
GIÚP MÌNH VỚI (CHO 1 LIKE)
Câu trả lời của bạn
Là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người mang cách mạng đến bến bờ của thành công, đưa dân tộc đến thời đại tự do, hạnh phúc. Tuy là người đứng đầu của một đất nước nhưng cuộc sống thường ngày của Bác lại rất giản dị, dân giã, khác hẳn cuộc sống của một nguyên thủ quốc gia.
Bác Hồ là người có tầm vóc về tư tưởng, tầm vóc về trí tuệ, lại là người đứng đầu của một quốc gia. Những tưởng cuộc sống của Bác sẽ là ở những nơi đẹp nhất, an toàn nhất, việc sinh hoạt sẽ có những người hục vụ giúp đỡ. Nhưng không, Bác Hồ kính yêu của chúng ta lại có một lối sống vô cùng giản dị, dân giã đến mức không thể dân giã hơn được nữa.Nhìn vào cuộc sống của Bác sẽ không ai có thể tin nổi đó là cuộc sống của một vị lãnh đạo.Nếp sống giản dị, thanh bạch ấy của Bác càng làm cho những người dân Việt Nam thêm yêu và tự hào về người cha già dân tộc. Bạn bè quốc tế thì thừa nhận và càng thêm tôn trọng tài năng và con người của Bác.
Nơi ở của Bác là một căn nhà sàn nhỏ đơn sơ với phần mái được lợp bằng những tán lá khô. Căn phòng của Bác cũng rất nhỏ, chỉ đủ để kê một chiếc giường – nơi Bác nghỉ ngơi, một chiếc bàn làm việc nhỏ làm bằng mây và một chiếc ghế đơn. Sự đơn sơ của căn phòng khiến ta cảm thấy rất khó tin.
Quần áo Bác mặc trên người cũng không phải những bộ comple đắt tiền, những bộ quần âu phẳng phiu như những nguyên thủ quốc gia khác.Bác chọn cho mình bộ quần áo kaki màu ghi. Ngoài những chuyến thăm nguyên thủ của các nước khác Bác chọn những bộ quần áo đảm bảo nghi thức, sự tôn trọng với nước bạn thì trong cuộc sống hàng ngày, cả trong những đại hội Đảng, trong các cuộc họp quan trọng của đất nước thì Bác vẫn giữ nguyên phong cách ăn mặc giản dị của mình.
Tôi nhớ có một lần có người hỏi Bác rằng tại sao là một nguyên thủ hàng đầu của Việt Nam mà Bác lại ăn mặc giản dị như vậy thì Bác đã nói: vì dân mình còn nghèo….Dù có làm gì thì Bác cũng lấy dân làm đầu, đặt lợi ích của nhân dân lên chính bản thân mình.
Bác cũng chọn riêng cho mình đôi dép lốp. Đây là loại dép được làm từ săm và lốp của xe ô tô. hời kháng chiến vì điều kiện còn khó khăn nên những người lính đã sáng tạo ra loại dép này và được dùng rất phổ biến. Những người lính vì điều kiện chiến đấu ác liệt, sinh hoạt thiếu thốn nên dùng loại dép này ta có thể hiểu được.Nhưng Bác là một nguyên thủ quốc gia, dù Việt Nam lúc ấy còn rất nghèo so với các nước bạn, điều kiện của các nguyên thủ nước bạn cũng sẽ hơn nước ta.Song cũng không đến mức thiếu thốn đến mức để người đứng đầu của đất nước đi những đôi dép lốp cũ kĩ, lại khá cứng. Ta có thể thấy đây hoàn toàn là mong muốn của Bác, lối sống giản dị của Bác càng làm cho hình ảnh của Bác trong lòng người dân Việt Nam thêm tươi đẹp, thêm tự hào.
Lối sống giản dị, thanh bạch của Bác còn thể hiện ra ngay trong bữa ăn của Bác. Mỗi bữa ăn Bác chỉ dùng có ba món chính, đó là cơm trắng, cà pháo và một quả trứng. Những món ăn đều vô cùng thanh đạm và có thể dễ dàng kiếm được. Vào năm nạn đói nổ ra, người dân chết đói hàng loạt.Để ủng hộ phong trào cứu đói, Bác đã đi đầu gương mẫu ủng hộ mỗi bữa một nắm gạo của mình để cứu đói cho người dân.Tấm gương, lối sống của Bác thật khiến chúng ta tự hào, ngưỡng mộ.
Bác Hồ là vị cha già dân tộc, là người đã mang lại ánh sáng cho dân tộc Việt Nam. Nhưng, Bác không chỉ khiến người dân Việt Nam tự hào về tài năng, trí tuệ hơn người mà còn ở chính lối sống trong sạch, giản dị, thanh cao của Người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già của dân tộc Việt Nam. Bác Hồ là một con người tài năng, kiệt suất, vì vậy Bác đã được UNESSSCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Tuy nhiên, điều mà ta cần lưu ý ở đây là sự công nhận của UNESSCO đối với Hồ Chí Minh không chỉ ở khía cạnh tài năng, bản lĩnh phi thường của một vị lãnh tụ, mà đáng quý hơn nữa đó chính là con người, lối sống giản dị, thanh bạch của Người trong cuộc sống đời thường.
Trong lịch sử của nhân loại, ta thật khó có thể tìm kiếm hay bắt gặp bất cứ một vị lãnh tụ, một nguyên thủ quốc gia nào có lối sống giản dị, thanh bạch, gần gũi với tự nhiên như Bác Hồ vĩ đại của chúng ra. Sự giản dị của Bác Hồ thể hiện trước hết ở nơi ở của Bác. Thông thường, đối với một vị nguyên thủ quốc gia, nếu không ở nhà lầu thì cũng phải có xe đưa, xe đón. Nhưng không, Bác Hồ của chúng ta không như vậy, Bác không ở những tòa nhà cao tầng, không sống cuộc sống xa hoa như rất nhiều những vị lãnh tụ khác, nơi bác ở chỉ là một căn nhà sàn nhỏ. Ta có thể thấy nhà sàn là một loại nhà rất thông dụng của người dân Việt Nam, tuy nhiên, với Bác lại khác, lối sống giản dị của Bác thật khiến mọi người đều bất ngờ, cảm phục. Ngôi nhà sàn của Bác không chỉ nhỏ mà còn rất đơn sơ, vật dụng trong nhà ít ỏi đến mức ta thấy có gì đó thiếu thốn. Chỉ gồm một bàn làm việc, một chiếc ghế đơn, đây là những vật dụng mà Bác sử dụng khi giải quyết việc nước; và một chiếc giường, nơi Bác nghỉ ngơi.
Cuộc sống giản dị, thanh bạch của Bác còn được thể hiện ra trong chính hoạt động sinh hoạt hàng ngày của Bác. Bác trồng một hàng hoa râm bụt quanh ngôi nhà nhỏ của mình, vườn luôn được Bác làm sạch cỏ, mảnh ao trước nhà là nơi Bác nuôi những chú cá nhỏ. Nhìn vào cuộc sống sinh hoạt của Bác, ta khó có thể tin được đó là một vị lãnh tụ, của một nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu một nước. Không chỉ lối sống mà ngay cả trang phục hàng ngày của Bác cũng rất đỗi giản dị. Trang phục quen thuộc của Bác là một bộ quần áo kaki màu ghi, dù là giả quyết việc nước, dù là tham dự các cuộc họp quan trọng của quốc gia, hay khi Bác đi động viên dân quân kháng chiến thì Bác cũng chỉ trung thành với trang phục giản dị này. Lối sống giản dị của Bác thể hiện được một con người với nhân cách đẹp, lối sống đẹp. Dù là người đứng đầu, dù có thể có đầy đủ những thứ vật chất thông thường như các vị nguyên thủ quốc gia khác, nhưng Bác đã đều từ chối mà sống lối sống giản dị, thanh bạch như bất kì một người dân Việt Nam nào khác. Bác đi đôi dép cao su, hay còn gọi là dép lốp. Đây là loại dép được dùng phổ biến ở Việt Nam thời kháng chiến chống Mĩ, đặc biệt là các chiến sĩ làm nhiệm mụ bảo vệ đất nước nơi chiến trường bởi sự phổ biến, thông dụng, dễ tìm kiếm nguyên liệu và dễ dàng chế tạo. Hình ảnh Bác Hồ trong đôi dép lốp và bộ quần áo kaki màu ghi đã bạc màu khiến cho ta liên tưởng đến người cha già dân tộc. Người cha ấy sống giản dị, thanh bạch như những ẩn sĩ khi xưa, hình ảnh giản dị ấy, con người thanh bạch ấy hiện lên thật đáng quý.
Bữa ăn hàng ngày của Bác cũng rất đơn giản, chỉ gồm có rau luộc, cà muối, cá kho…Đây là những thức ăn rất dân giã, thông dụng của người dân Việt Nam. Bác không dùng những thứ “sơn hào hải vị”, những đồ ăn ngon mà Bác dùng bữa như bất kì người dân Việt Nam nào khác. Khẩu vị ăn thanh đạm của một con người thanh bạch thật khiến ta khâm phục, kính trọng. Không chỉ dùng những thứ đồ ăn giản dị nhất, dân giã nhất mà ngay cả cơm trắng Bác cũng tiết kiệm để dành cho những đồng bào bị đói ngoài kia. Còn nhớ, nạn đói năm 1945 đã làm hàng triệu đồng bào ta chết đói. Trong bối cảnh ấy, Bác Hồ đã thay mặt Đảng, thay mặt nhà nước phát động phong trào cứu đói cho đồng bào. Và Bác cũng chính là tấm gương đi đầu, tấm gương sáng nhất của phong trào ấy.
Bữa ăn của bác vốn đã ít ỏi, để ủng hộ phong trào cứu đói, mỗi ngày Bác ủng hộ một nắm gạo. Số lượng tưởng chừng nhưu ít nhưng nếu ta biết khẩu phần ăn của Bác hàng ngày cũng chỉ có một nắm gạo, quên góp rồi mỗi bữa Bác chỉ có thể ăn một bát cơm trắng. Hiểu nhưu thế ta mới càng thêm trân trọng nhân cách của con người vĩ đại ấy. Bác Hồ là người có tấm lòng yêu thương vô bờ bến với con người Việt Nam, Bác sống thân thiết, gần gũi với nhân dân, đồng bào như những người hàng xóm thân thiết, Bác phát kẹo cho các em thiếu nhi, tặng quà cho các cụ già, trò chuyện thân tình với mọi người. Vì vậy mà hình ảnh của Bác Hồ luôn gắn liền với hình ảnh của vị cha già dân tộc. Thể hiện sự cảm phục đối với Bác, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, lớn mà không làm ra vĩ đại, soi sáng mà không choáng ngợp”. Hay nhà thơ Tố Hữu cũng thể hiện sự xúc động trước những tình cảm, công lao của Bác với dân tộc mà viết:
“Bác ơi tim Bác mênh mông quá
Ôm cả non sông cả đất trời”
Như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh là một con người tài giỏi, có tài năng xuất chúng. Nhờ sự tài ba, kiệt suất ấy mà đã đưa dân tộc Việt Nam ra khỏi bóng đen của áp bức bóc lột. Bước đến ánh sáng của hòa bình, của tự do, độc lập. Tuy nhiên, điều đáng quý ở Bác không phải chỉ là một vị lãnh tụ vĩ đại, kiệt xuất mà còn bởi chính nhân cách cao đẹp, ở lối sống giản dị, thanh bạch của Người.
Có ý kiến cho rằng: "Thơ ca dân gian là tiếng tơ đàn muôn điệu của quần chúng nhân dân lao động". Bằng những kiến thức của mình về ca dao, dân ca trong chương trình Ngữ Văn 7(tập 1), em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Câu trả lời của bạn
Nhân dân Việt Nam vốn là những con người giàu tình cảm, từ xưa đến nay, họ đã biểu lộ những tình cảm tốt đẹp nhất của mình qua các bài ca dao, dân ca… Vì thế cho nên trong bài “Tổng kết văn học dân gian Việt Nam” có viết: “Thơ ca dân gian là tiếng nói trái tim của người lao động. Nó thể hiện sâu sắc những tình cảm tốt đẹp của nhân dân ta”. Đã là con người, ai cũng có những tình cảm, những tình cảm ấy có thể xấu hoặc tốt – Những con người Việt Nam, nhân dân Việt Nam hầu như có chung mọi tình cảm, những tình cảm cao quý. Họ quan hệ với nhau trong xã hội, trong cộng đồng, họ nảy sinh ra những tình cảm lớn, những tình cảm mà bất cứ một người nào cũng có: tình cảm cộng đồng. Nhân dân Việt Nam thương quý như anh em một nhà, tình thương ấy được biểu hiện rất tự nhiên, thực tế mà cũng sâu sắc vô cùng: “Bầu ơi thương lấy bí cùng Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” Hình ảnh của dây bầu, dây bí quấn quýt lây nhau sao mà thân mật đến thế, cách nói rất mộc mạc, dân dã nhưng chứa bao ý nghĩa. Những tình cảm cao thượng, sáng trong thì phải đến câu ca dao tuyệt vời sau: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Hình ảnh đẹp nói được một cách cụ thể lời khuyên răn chân tình và chí lý. Tình cảm cộng đồng còn thể hiện một cách giản dị trong các câu tục ngữ xa xưa: “Máu chảy ruột mền” “Môi hở răng lạnh” Họ gắn bó với nhau như môi với răng, như máu trong cơ thể, gắn bó với nhau như từng bộ phận trong gia đình con người. Tình cảm lớn được bộc lộ chân thành với đại gia đình Việt Nam ấm cúng. Mỗi người có một cuộc sống riêng tư của mình, họ có một gia đình riêng, một tổ ấm riêng. Trong đó, những tình cảm ngọt ngào, bình dị được trau chuốt, dưỡng nuôi rất nề nếp, tốt đẹp. Tình cảm nhỏ bé ấy lại rất đa dạng và phong phú vì thế nên các câu ca dao và tục ngữ, dân ca… đã phản ảnh khá phong phú, cách bày tỏ mộc mạc hơn, đơn giản hơn tình cảm cộng đồng. Ai cũng có một người mẹ, một người cha, người ta thường gọi là chữ hiếu, chữ đạo của con người trong đối xử, công lao các bậc sinh thành sâu nặng lắm: “Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Bài học răn dạy tốt đẹp của các câu ca dao đều bộc lộ tình cảm kính thương cha mẹ - Người mang nặng đẻ dau, chịu bao đau khổ để tạo nên hình dáng cho con mình. Tình cảm thương yêu, kính trọng ấy còn giữ mãi trong lòng mỗi người cho đến hết đời. Nhất là những người con gái đã trưởng thành, đi lấy chồng nơi xa, tạo lập được một mái ấm và trở thành người mẹ hiền của đứa con thơ nhưng lòng vẫn hướng về mẹ già. “Chiều chiều ra đứng ngõ sau Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Những câu ca dao thật trữ tình và buồn man mác. Một tình cảm ruột thịt, nhớ thương chồng chất, rất đáng quý. Trong văn học dân gian bên cạnh chữ hiếu còn có chữ nghĩa, chữ nghĩa với anh em, chị em. Tình nghĩa huynh đệ cũng đằm thắm lạ thường. Có câu ca dao ví von thật sinh động, trong sáng đầy trách nhiệm. “An hem như thể chân tay Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần” Có cả câu khuyên răn như ước ao, khẳng định: “Anh thuận em hòa là nhà có phúc” Đấy là tình cảm an hem, còn tình chị em cũng thân thiết vô cùng nhưng thân thiết nhẹ nhàng, cụ thể hơn: “Chị ngã em nâng” Cách nói giản dị nhưng ý tứ sâu sắc. Ngoài tình cảm gia đình yêu thương gắn bó, nhân dân Việt Nam vốn trọng nghĩa kim bằng, tình bằng hữu. Tình bạn bè thắm thiết keo sơn, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, yêu thương nhau như anh chị em một nhà. Tình cảm thắm thiết ấy dược diễn đạt khá sâu sắc: “Bạn bè là nghĩa tương tri Sao cho sau trước một bề mới nên”.
Ca dao dân ca là cây đàn muôn điệu rung lên những tiếng tơ lòng của người dân đất Việt. Những câu ca đằm thắm, trữ tình mang chở cả điệu tâm hồn và chứa chan những tình cảm thiết tha, sâu nặng, đặc biệt là tình cảm gia đình. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: “Ca dao dân ca đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc”. Những lời hát ấy đã đi sâu vào tiềm thức mỗi người qua tiếng ru của bà, của mẹ và nhắc nhở chúng ta về công ơn trời biển của mẹ cha:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩ mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Bài ca dao như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng mà tha thiết. Phép so sánh được sử dụng liên tiếp khiến hai câu thơ vừa cụ thể, vừa gợi hình, sinh động. Công cha và nghĩa mẹ được ví với những hình ảnh thiên nhiên vĩnh hằng: núi ngất trời, nước biển Đông. Ơn cha to lớn không thể đo đếm còn tình mẹ thương con sâu nặng, đong đầy. Những lời thơ gợi nhắc về công ơn sinh thành dưỡng dục bao la vô tận của mẹ cha. Công ơn ấy được cụ thể hóa bằng “chín chữ”: (em xem chú thích và viết 9 chữ vào đây). Đồng thời, tác giả dân gian khuyên răn kẻ làm con phải có bổn phận chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ để đền đáp công ơn ấy. Những lời ca dao thấm đượm nghĩa tình như ru hồn người vào thế giới của đạo lý, yêu thương.
Không những nhắn nhủ con người về công ơn cha mẹ, ca dao dân ca còn thể hiện tình cảm nhớ thương quê mẹ của người con gái xa:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Câu ca mở ra một âm điệu trầm buồn sâu lắng với hai từ “chiều chiều”. Thời khắc ấy gợi cái tàn lụi của một ngày và cũng gợi cảm giác sum họp gia đình. Ấy là quãng thời gian của buồn, của nhớ và bâng khuâng. Những lời hát của người con gái lấy chồng xa hướng về quê mẹ như thấm đẫm nỗi buồn xa xót ấy. Hai từ “ngõ sau” gợi một không gian khuất nẻo – nơi người con gái có thể bày tỏ nỗi lòng. Cả thời gian và không gian ấy như đã nói lên tâm trạng con người đang mong nhớ thiết tha. Hai chữ “chiều chiều” mở đầu hô ứng với hai chữ “chín chiều” kết thúc bài
Bên cạnh tình cảm cha mẹ – con cái, ca dao còn là những lời nhắn nhủ cảm động về tình cảm ông bà và cháu con:
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
Nuộc lạt – một hình ảnh quen thuộc trên những mái nhà tranh của làng quê Việt Nam đã được đưa vào câu ca dao một cách rất tự nhiên, giản dị và gần gũi. Biện pháp so sánh bao nhiêu – bấy nhiêu đã thể hiện tình cảm nhớ thương, sự gắn bó bền chặt, ruột thịt của cháu con với ông bà. Âm điệu lời thơ tha thiết thể hiện sự kính trọng biết ơn!
Và, có lẽ, những người thân, người lớn trong nhà đã khuyên bào con cháu giữ chặt tình anh em:
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy
Một lần nữa lối ví von so sánh lại được sử dụng thành công trong hai câu ca dao. Tình cảm anh em gắn bó bền chặt không thể tách rời như tay với chân. Sự hòa thuận của anh em chính là niềm vui của cha mẹ gia đình. Bài ca dao là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu sắc về tình cảm ruột thịt, anh em.
Với âm điệu thiết tha, sâu lắng cùng lối ví von so sánh đặc trưng, những câu thơ lục bát đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc và thấm thía.Nhắc nhở nhẹ nhàng mà không khô khan, khuyên nhủ mà không giáo huấn, ca dao chính là tiếng lòng mang chở cả tư tưởng, triết lý đạo đức của nhân dân. Nó đã trở thành viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam.
dao tạo nên hiệu ứng lặp đi lặp lại một nỗi lòng xót xa, thấm thía của người con gái khi hướng về quê mẹ xa xôi.
Bên cạnh tình cảm cha mẹ – con cái, ca dao còn là những lời nhắn nhủ cảm động về tình cảm ông bà và cháu con:
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
Nuộc lạt – một hình ảnh quen thuộc trên những mái nhà tranh của làng quê Việt Nam đã được đưa vào câu ca dao một cách rất tự nhiên, giản dị và gần gũi. Biện pháp so sánh bao nhiêu – bấy nhiêu đã thể hiện tình cảm nhớ thương, sự gắn bó bền chặt, ruột thịt của cháu con với ông bà. Âm điệu lời thơ tha thiết thể hiện sự kính trọng biết ơn!
Và, có lẽ, những người thân, người lớn trong nhà đã khuyên bào con cháu giữ chặt tình anh em:
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy
Một lần nữa lối ví von so sánh lại được sử dụng thành công trong hai câu ca dao. Tình cảm anh em gắn bó bền chặt không thể tách rời như tay với chân. Sự hòa thuận của anh em chính là niềm vui của cha mẹ gia đình. Bài ca dao là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu sắc về tình cảm ruột thịt, anh em.
Với âm điệu thiết tha, sâu lắng cùng lối ví von so sánh đặc trưng, những câu thơ lục bát đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc và thấm thía.
Nhắc nhở nhẹ nhàng mà không khô khan, khuyên nhủ mà không giáo huấn, ca dao chính là tiếng lòng mang chở cả tư tưởng, triết lý đạo đức của nhân dân. Nó đã trở thành viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam.
mk coppy trên mạng đó
Chúc bạn học tốt
giải thích câu tục ngữ bầu ơi thương lấy bí cùng
Câu trả lời của bạn
Trái bầu xanh, trái bí xanh, theo gió trong lành cất tiếng hát vui chung. Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn… Câu ca dao xưa đã thành bài hát ngân nga khắp nơi nơi như một lời nhắn nhủ những người dân nước Việt hãy giữ vững truyền thống thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong cuộc sống.
Bầu và bí là hai giống cây khác nhau nhưng thường được người nông dân trồng chung trên một rẻo đất ở bờ ao, góc vườn; thường leo chung trên một giàn. Vì thế bầu và bí trở nên gần gũi, thân thiết. Cùng chung một điều kiện sống, cùng chung số phận, cho nên bầu và bí đừng vì lí do nào đó mà xa rời nhau. Bầu chớ chê bí xấu hơn bầu, bí cũng chớ vì hoa bí thì vàng còn hoa bầu thì trắng, quả bí thì dài, quả bầu thì tròn để rồi ganh ghét, xa lánh nhau.
Vì sao vậy? Bầu và bi tuy hai giống khác nhau nhưng cùng chung một họ. Mưa thuận gió hoà, bầu bí chung hưởng. Gặp khi nắng hạn, bầu bi cùng chịu đựng. Nếu chẳng may gặp cơn gió bão, thân bí giập, quả bí rụng, có lẽ nào bầu một mình tươi tốt như xưa?
Câu ca dao mượn chuyện bầu bí để nói chuyện con người, chuyện cuộc đời. Ông cha ta đã cho con cháu một lời khuyên chân thành, kín đáo mà thiết tha, tế nhị.
Sống ở trên đời, không ai giống ai. Mỗi người có một nguồn gốc, hoàn cảnh, điều kiện sống riêng. Tuy vậy, mọi người vẫn có những chỗ giống nhau. Anh em ruột thịt có chung cha mẹ. Bạn bè cùng lứa chung trường, chung lớp, chung thầy cô, chung sách vở. Hàng xóm láng giềng chung đường đi lối lại. Dù có khác nhau về điều kiện làm ăn, về lứa tuổi, ngành nghề, nhưng tất cả đều chung quê hương, đất nước.
Những cảnh ngộ chung, những nét giống nhau đã làm nên mối quan hệ ràng buộc, gắn bó, là cơ sở để gần gũi, cảm thông, Và chính vì cái chung ấy mà mỗi người phải biết thương yêu đùm bọc, nhường nhịn sẻ chia để công việc chung được tốt đẹp, cảnh ngộ chung được cải thiện, hạnh phúc chung được giữ vững. Không ai có thể sống riêng lẻ, tách biệt vì tình thưong làm cho con người gắn bó với nhau hơn và cuộc sống của mỗi người sẽ tốt đẹp hơn.
Trong những thời kì nước ta bị ngoại bang xâm lược, nhân dân Việt Nam dẫu có người sang, kẻ hèn; người giàu, kẻ nghèo; người hạnh phúc, kẻ bất hạnh… nhưng tất cả đều chung nỗi khổ mất nước, nỗi nhục nô lệ, chung một mong ước độc lập, tự do. Chính vì vậy mà mọi người đã thương yêu, đoàn kết lại thành một khối để chống quận cướp nước. Đó là nhu cầu tình cảm tự nhiên và cũng là điều kiện sống còn trước những hiểm hoạ đe doạ vận mệnh của đất nước, dân tộc.
Dân tộc ta chủ yếu sống bằng nghề nông. Trong sản xuất, thời tiết và điều kiện tự nhiên ảnh hựởng rất nhiều đến kết quả thu hoạch. Nếu mọi người không chung sức đắp đê chống lụt, trồng rừng ngăn lũ thì khó có thể bảo vệ được mùa màng và thành quả lao động phải vất vả một nắng hai sương mới làm ra được. Trong điều kiện sống khắc nghiệt, nếu không biết nương tựa vào nhau thi làm sao tồn tại nổi? Mối quan hệ chặt chẽ đã làm cho tinh thương nảy nở và người Việt Nam đã coi đó là truyền thống quý báu tự bao đời.
Ca dao Việt Nam còn có câu:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước thì thương nhau cùng.
Cho dù cuộc sống ngày càng thay đổi, con người hiện đại chú ý nhiều đến quyền lợi cá nhân nhưng truyền thống đoàn kết và lòng nhân ái của dân tộc ta vẫn có giá trị trường tồn.
Từ xa xưa, ông cha ta đã đúc kết ra biết bao bài học hay và sâu sắc như bài học về lòng hiếu thảo, sự kiên trì, lòng dũng cảm,..và một trong số đó chính là tinh thần đoàn kết, sẻ chia. Có thể nói, dân tộc ta là một dân tộc giàu truyền thống thương thân, thương ái, lịch sử hàng nghìn năm qua đã chứng minh cho câu tục ngữ của thế hệ trước “Bầu ơi thương lấy bí cùng/Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Có lẽ, mỗi chúng ta, ai cũng đã từng nghe đến hai loại quả “bầu” và “bí” , đó là hai thứ khá quen thuộc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân Việt Nam. Cả hai loại quả này đều thuộc dạng cây leo, sống trên giàn. Ở đây, ‘chung một giàn” tức là chúng được người nông dân đem trồng chung trên một giàn cây. Vượt ra khỏi tầng nghĩa ấy, “bầu” và “bí” có thể hiểu là những con người với những hoàn cảnh khác nhau, đến từ những nơi khác nhau, không cùng chung nòi giống, dòng máu,..Hai câu ca dao ngắn gọn nhưng giống như một lời đề nghị tha thiết, chân thành của những người bạn gắn bó sâu sắc, “tuy rằng khác giống” tuy không cùng bản sắc nhưng “chung một giàn” tức là cùng sống trong một tập thể, một xã hội thì hãy “thương” lấy nhau hay chính là giúp đỡ, sẻ chia, đùm bọc nhau cùng vượt qua khó khăn, thử thách, cùng tận hưởng niềm vui, niềm hạnh phúc.
Khi ta sống trong một tập thể, một gia đình, một đất nước,..thì mọi con người trong tập thể ấy đều phải có cùng chí hướng, cùng lý tưởng để đặt lợi ích của tập thể lên hàng đầu. Muốn vậy thì bất cứ ai bên cạnh việc ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình thì cũng phải ý thức được một điều quan trọng không kém, đó chính là tinh thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ, sẻ chia lẫn nhau. Nó chính là chiếc chìa khóa để ta có thể vượt qua bất kỳ khó khăn, gian nan, thử thách nào. Có thể thấy rất rõ, mỗi khi Tổ Quốc lâm vào hoàn cảnh gian nan, tinh thần ấy lại sôi sục, cuộn trào lên mạnh mẽ. Trong thời chiến, nhân dân ta đã góp gạo, xây dựng chiến lũy , đồng lòng cùng chiến sĩ đánh giặc, bảo vệ đất nước. Ngày nay, trước mỗi hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, nhân dân ta lại cùng nhau tổ chức các chương trình, xây dựng quỹ từ thiện để giúp đỡ một phần hoàn cảnh những mảnh đời bất hạnh.
Một con người không thể tự mình vượt qua bao khó khăn, thử thách mà cuộc đời đặt ra, trong hoàn cảnh ấy, bất cứ ai cũng sẽ cần một bàn tay nắm lấy mình, cùng mình vượt qua. Khi ta nhận được sự giúp đỡ, sẻ chia, ta sẽ như có thêm sức mạnh để thực hiện được mục đích của mình, ta có thêm sự tự tin để thể hiện bản thân. Chắc hẳn, sẽ khó có ai mà quên được kỳ tích U23 Châu Á vừa qua, những chàng “dũng sĩ” đã đem lại niềm vui, làm dạng ranh dân tộc. Để làm nên kỳ tích ấy, bên cạnh sự quyết tâm, tin tưởng, dũng cảm chiến đấu hết mình, thì không thể không kể đến tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, vượt qua những giờ phút gian nan, khắc nghiệt để đi đến thành công. Sẽ chẳng có một ngôi sao nào tỏa sáng trên đất Thường Châu ngày ấy nếu không có những ngôi sao khác cùng nhau thắp lên, cùng nhau hỗ trợ cho ngôi sao ấy sáng rực rỡ. Đúng hư câu nói “Đoàn kết là sức mạnh”, mỗi một ngọn lửa sức mạnh nhỏ kết lại với nhau sẽ thành một ngọn đuốc rực cháy với sức mạnh phi thường, và chính lịch sử dân tộc từ xưa đến nay đã cho thấy điều đó.
Ngoài ra, hơn tất cả, cuộc sống này vẫn còn rất nhiều những hoàn cảnh khó khăn cần đến sự giúp đỡ, sẻ chia. Có những người sinh ra đã thiệt thòi, không được may mắn như những người khác, vậy nên, một tấm lòng, một tình yêu thương, một sự giúp đỡ sẽ là ngọn lửa để họ sưởi ấm, lấp đầy trái tim lạnh giá, thiếu thốn này. Hãy cho đi và ta sẽ nhận lại xứng đáng. Thế hệ chúng ta hôm nay, cần giữ gìn và phát huy tinh thần thương thân thương ái, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau bằng cách luôn mở lòng, sẵn sàng giúp đỡ người khác khi họ lâm vào hoàn cảnh khó khăn, tuy nhiên, cũng cần tỉnh táo để phân biệt được cái đúng cái sai, cái thật cái giả. Tránh ngông cuồng, cổ xúy cho những hiện tượng mà đi ngược lại với quy luật đất nước, không nên sống vô cảm, thờ ơ, ích kỷ. Những con người như vậy sẽ vĩnh viễn chẳng thể nào có được tình yêu thương, sự sẻ chia từ những người xung quanh.
Cây có một chiếc lá thì không thể gọi là cây, nhưng nhiều chiếc lá thì có thể sẽ thay đổi được kết quả. Dù những chiếc là gặp gỡ nhau có là lá lành hay lá rách, thì khi tụ chung lại, chúng vẫn cùng ở trên một chiếc cây, cùng mang lại màu xanh, mang lại sức sống cho cây. Vậy thì bạn sẽ chọn là chiếc lá duy nhất hay sẽ chọn là một chiếc lá bất kì trong vô vàn chiếc lá khác?
Bài làm
Các nhà nghiên cứu văn chương truyền khẩu đều cho rằng, tục ngữ là kho tàng trí tuệ, đúc kết kinh nghiệm sống của tổ tiên bao đời, còn ca dao chính là những khúc hát ru, câu hát trữ tình phong phú nhất của dân tộc. Con người có bao nhiêu hoàn cảnh sống là có bấy nhiêu hoặc hơn nữa là bài ca dao. Lao động mệt nhọc ư? Đã có những khúc hát hò dô, hát ví, hát đối... Công cha nghĩa mẹ? Không thiếu! Không thiếu trong biểu đạt tình cảm riêng tư và không thiếu trong cả tình thương của cộng đồng người khác màu da, chủng tộc trên cùng một vùng đất. Không lúc nào chúng ta không nghe điệp khúc:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Về nghĩa đen thì hai câu ca dao không có lấy một từ Hán Việt. Bầu, thương, bí, giốn, giàn là những từ gợi hình giữ nhiệm vụ chính cũng không xa lạ gì với người đọc. Bầu bí là hai loại thực vật khác nhau về cây, lá, trái nhưng cùng họ dây leo nên những người miền quê thường gọi là dây bầu, bây bí. Khác với dưa hấu, bí ngô... bò sát đất, bầu và bí cùng phát triển trên cái giàn làm bằng thân, cành cây tre, gồm những chiếc cột và những nức thang gác ngang tạo thành những ô vuông nhỏ. Dù đơn so hay vững chắc, thấp hay cao thì mặt giàn cũng phải cách mặt đất để khoảng trống cho trái bầu, trái bí treo lủng lẳng, đong đưa. Như vậy, dù gốc chúng có khác nhau nhưng xét cho cùng cả bầu lẫn bí kêu gọi thương yêu nhau cũng là lẽ thường tình.
Đứng lẻ loi, một mình thì bầu, bí là những phần tử mang tính hiển ngôn. Nhưng khi có động từ thương tham dự vào thì chúng còn mang đặc tính hàm ngôn. Bầu, bí trong câu ca dao tượng trưng cho các dân tộc cùng sống chung một giàn, chung một quê hương, tô quốc.
Tìm về cội nguồn dân tộc trong kho tàng truyện thần thoại, truyện cổ tích. Chúng ta càng hiểu rõ hơn nghĩa của hai câu ca dao trên. Cuộc tình của cha mẹ thuở ua tuy là khác giống nhưng đã nảy sinh trên vùng đất Lạc Việt. Lạc Long Quân nòi Rồng sống dưới biển, Âu Cơ thuộc dòng dõi Thần Nông sống ở trên núi, vì đem lòng thương yêu nhau nên đã cùng nhau chung sống. Hai người sinh ra trăm con, sau này chia năm mươi con theo cha xuống biển, năm mươi người con theo mẹ lên ngàn, chia nhau cai quản mỗi người một phương, cùng hứa hẹn lúc cần sự giúp đỡ thì tìm đến nhau.
Truyện cổ của người Bana cũng mang ý nghĩa tương tự. Người cha đã giận đứa con út vô tình nên đuổi anh ta ra khỏi nhà. Người anh vội vàng vào rừng báo cho vợ và em biết. Nàng vào rừng sau, núi cao tìm gặp chồng. Họ cùng phá nương rẫy xây dựng buôn làng để thành người Bana. Còn người anh vẫn ở cùng cha ở miền đồng bằng rồi trở thành người Kinh.
Qua hai truyện cổ tích trêm xem ra các dân tộc trên dải đất hình chữ S này không chỉ cùng giản mà cùng gốc, nhưng vì hoàn cảnh nên phải sống xa nhau và theo hình thể bên ngoài, phong cách sống cũng biến đổi dần theo công việc, theo phong thổ.
Giờ đây, trên vùng đất được xem như cái bao lơn trông ra Thái Bình Dương này tập hợp trên sáu mươi sắc dân: Tày, Dao, Nùng, Mường, Thái, K''Hor... làm phong phú thêm sắc thái của người dân Việt.
Phải công nhận rằng, tổ tiên ông cha ta đã sớm nhận ra tâm lí thường ngày của con người trong cuộc sống, đời sống riêng tư của mọi người, của gia đình, của các dòng họ nhiều lúc làm con người quên mất việc quan tâm đến cuộc sống của người khác. Con người chỉ biết vun vén, xây dựng hạnh phúc riêng nên quên mất hạnh phúc chung, quên mất tình thương đối với những người cùng chung đất nước đang lâm vào cảnh ngặt ngèo đói cơm thiếu áo bởi bạn binh đao, bởi thiên nhiên khắc nghiệt...
Quá khứ giúp chúng ta nhận ra rằng dân tộc chúng ta luôn bị nạn ngoại xâm đe dọa. Mỗi lần quân giặc tràn qua, người dân vùng biên giới lại chịu cảnh nhà tan cửa nát. Vì họ ở tuyến đầu nên phải cầm gươm súng chống lại giặc, chẳng có thì giờ để cầm cuốc cầm cày đi vào xí nghiệp... Nơi nào có bóng dánh của chiến tranh thì nơi ấy chịu cảnh tiêu điều, tang thương. Từ thuở Hùng Vương dựng nước đến nay đã bao lần người dân ở vùng biên giới phương Bắc lại lâm vào cảnh đói cơm, thiếu áo. Từ cậu bé làng Gióng cưỡi ngựa sắt xông ra trận chống lại giặc Ân, Hai Bà Trưng cất quân chống lại nhà Đông Hán, rồi Lê Hoàn, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Hồ Chí Minh... và ngay cả vào năm 1979 khi súng vừa im ở biên giới Tây Nam thì đạn lại nổ ở chân trời phía Bắc. Những làng mạc cận kề biên giới Camphuchia từ Quảng Tín đến Hà Tiên đã làm mồi cho ngọn lửa tàn bạo của bè lũ Pôn Pốt. Thành phố, làng mạc chạy dọc theo biên giới sau tỉnh miền Bắc bị đốt cháy, nghiền nát bở đại bác và xe tăng chẳng khác gì cảnh đổ nát tang thương của những năm tháng chống Minh, Nguyên, Thanh xâm lược.
Những lúc vận mệnh của đât nước lâm vào cảnh nguy khốn ấy thì lại xuất hiện bọn gian bán nước cầu vinh như Nguyễn Trãi dã tường trình trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo, hay cụ Phan Bội Châu đã nhận định:
Sống trong nước mỗi người mỗi khác
Vốn cùng nhau xung khắc bất hòa
Nhưng là ta lại hai ta
Cầu thân dị chúng mà xa đồng bào
Nhưng nếu số ít người phản bội ấy cũng không thể triệu triệu triệu đồng bào đồng thanh kêu gọi:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Tình thương đã tỏ ta thì mọi người đoàn kết lại, ngọn lửa căm hờn sôi sục tạo nên sức mạnh thiêu sạch quân thù!
Chúng ta cũng cần nhớ đất nước thân yêu ở vào vùng nhiệt đới, kéo dài gần hai ngàn cây số theo đường chim bay, địa thế thuận lợi giao thương nhưng luôn luôn bị đe dọa bởi các thiên tai. Truyện Sơn Tinh - Thủy Tinh luôn là bài học cảnh giác. Cả ba miền Bắc - Trung - Nam đều phải hứng chịu bão lụt, nhất là người miền Trung hứng chịu nhiều nhất, sau đó là Miền Bắc và Miền Nam. Miền Bắc có thuận lợi là có lưu vực sông Hồng đất đai màu mỡ, còn miền Nam có vùng châu thổ sông Cửu Long, có những cánh đồng sải cánh cò bay, cá tôm phong phú, vùng duyên hải vừa có đồng ruộng vừa phong phú hải sản thì cũng có những vùng:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Đất nghèo chất dinh dưỡng, bão lụt, hạn hán thường xuyên ập đến khiến đất ở đây trở nên mặn, nhiều phèn và phải chịu cuộc sống cay đắng. Người dân ở vùng đất này cày lên sỏi đá phải dốc hết sức lực nhưng cái đói vẫn đeo đẳng không chịu buông tha. Tổ tiên của chúng ta đã không quên đồng bào ở những vùng đất ấy. Mỗi lần thiên tai ập đến là mỗi lần có lời kêu gọi thiết tha vang lên:
Nhiều điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Mưa đá, gió lốc ở Cao Bắc Lạng, bão lụt từ Hà Tĩnh - Quảng Nam, nước ngập ở vùng Đồng Tháp, Hậu Giang và mới đây vùng Phú Yên mất trắng cây hoa màu vì thiên tai. Và lời kêu gọi vang lên nhắc nhở mọi người đừng quyên tinh thần tương trợ.
Bất cứ thời đại nào, người Việt dù sống ở nơi đâu, mỗi khi biết đồng bào gặp những hoàn cảnh khó khăn thì họ lại hát lên câu:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
có tự bao giờ.
giải thích câu tục ngữ "gần mực thì đen gần đèn thì dạng"
mọi người giúp mình đi mai mình phải thi rồi bạn nào giúp mình thì mình sẽ tích cho
Câu trả lời của bạn
Từ xưa, ông cha ta đã luôn đúc kết những lời khuyên răn từ những điều giản đơn trong cuộc sống, đó là kho tàng ca dao tục ngữ với ngụ ý khuyên dạy con cháu nên người trong đó có câu tục ngữ "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng". Đây là một câu dạy bảo của ông cha với hàm ý cho chúng ta biết tầm quan trọng của môi trường sống cũng như những người xung quanh đến nhân cách cũng như đạo đức của một con người.
Tục ngữ là một kho tàng vốn sống, kinh nghiệm sống vô cùng quý báu của thế hệ trước dành cho những lớp thế hệ sau. Từ những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống thường ngày, ông cha đã đúc kết ra những bài học sâu xa qua từng câu chữ. Với câu tục ngữ "Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng", cha ông đã mượn những vật dụng vô cùng thân thuộc với mỗi người để dạy ta một đạo lý, một bài học. "Mực" vốn là loại mực Tàu dùng để viết của những ông đồ ngày xưa, có màu đen tuyền, dùng để mài cùng nước lấy mực viết. "Đèn" là một vật dụng dùng để thắp sáng cho con người, soi tỏ mọi vật. "Gần mực thì đen" tức là nếu khi tiếp xúc, sử dụng mực mà không khéo, ta có thể bị vấy bẩn bởi mực, dễ bị lem nhem, xấu xí. "Gần đèn thì rạng" tức là nếu gần nơi có ánh sáng thì ta sẽ được soi tỏ bởi lớp ánh sáng ấy, dễ tỏa ra hào quang rực rỡ hơn người khác.
Mượn những hình ảnh dễ thấy, dễ hiểu, người xưa muốn khuyên răn con cháu một bài học về tầm quan trọng của môi trường sống khi nó ảnh hưởng tới nhân cách của một con người. Con người ta khi sống trong một môi trường lành mạnh, được giáo dục và dạy bảo những điều hay điều tốt thì nhất định cũng sẽ trở thành một người có nhân cách, có đạo đức tốt.Giống như đèn hay cách so sánh "Gần đèn thì rạng", nếu ta được sống trong một môi trường với những người có đạo đức tốt, giỏi giang, biết cách cư xử, lễ phép thì đó chính là ngọn "đèn" soi tỏ, giúp người đó hình thành nhân cách cũng như phẩm chất đạo đức tốt. "Đèn" là tượng trưng cho những điều tốt đẹp, điều hay lẽ phải trong cuộc sống. Còn "Mực" tức là những điều xấu, điều không tốt, không lành mạnh, "gần mực" tức là gần những cái xấu, dễ bị ảnh hưởng, bị vấy bẩn nếu "gần mực" mà không khéo léo, chắc chắn sẽ bị dính bẩn.
Qua những hình ảnh trên, hẳn mỗi người trong chúng ta cũng nhận ra lời khuyên mà ông cha ta muốn dành cho chúng ta qua câu tục ngữ trên. Rằng mỗi người phải biết tu dưỡng đạo đức, phải biết chọn những người bạn hiền để cùng tu tập đạo đức, nhân cách cũng như trí tuệ. Ngoài ra, ta cũng nên tạo ra những môi trường lành mạnh để mọi người có thể cùng nhau phát triển, soi sáng lẫn nhau, mỗi người đều là ngọn "đèn" để người khác được soi tỏ. Đừng sa đà vào những điều xấu xa sẽ bị "lấm bẩn" trở thành một vệt mực xấu xí, bao người xa lánh. Mỗi chúng ta cũng cần tôi rèn ý chí kiên cường trước mọi hoàn cảnh khó khăn, để dù trong hoàn cảnh khó khăn, ta vẫn biết vươn lên, biết tránh những điều xấu, bảo vệ được nhân cách đạo đức của mình.
Không phải ngày nay, mà từ xưa, câu nói của cha ông đã được bao đời kiểm nghiệm và thực hiện, Chúng ta biết đến một Trang Tử đạo cao, đức trọng, hiểu biết thâm sâu, nhưng lại không hề biết sau ông có một người mẹ hiền đã nuôi dạy ông nên người. Xưa kia, nhà Trang Tử vốn ở gần trường học, nhưng trường học đó lại có những đứa trẻ hay gây gổ, bắt nạt bạn bè, không chịu khó học hành. Lo sợ Trang Tử sẽ bị ảnh hưởng bởi những điều xấu xa, những vết "mực" từ bạn bè, bà đã chuyển nhà tới gần một trường học khác. Nhưng trường học này cũng không có những người bạn hiền, giỏi giang để Trang Tử có thể học hỏi, chính vì thế bà lại chuyển nhà. Đến lần thứ ba, bà đã tìm được một ngôi trường ưng ý để Trang Tử có thể học hành, tu dưỡng tại đó, và sau này là người được lưu danh muôn thuở, là kẻ học sâu hiểu rộng. Vậy ta mới thấy môi trường và bạn bè ảnh hưởng tới việc hình thành nhân cách cũng như đạo đức của một đứa trẻ đến mức nào!
Cũng như một Nguyễn Bỉnh Khiêm tài giỏi một đời không chịu đựng nổi chốn quan trường quỷ kế đã một mình cáo quan về ở ẩn tại rừng trúc
"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người tới chốn lao xao"
Ông lo sợ chốn quan trường ấy sẽ biến mình trở thành một kẻ đầy mưu mô, tham lam. Vậy nên môi trường không chỉ hình thành nhân cách mà còn ảnh hưởng vô cùng tới nhân cách một người. Phải luôn biết chọn cho mình con đường trong sáng, lành mạnh để giữ được nhân cách làm người.
Không chỉ với người xưa, mà lời khuyên cha ông ta "Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng" còn nguyên giá trị tới tận ngày nay. Trong một gia đình, nếu cha mẹ hòa thuận, yêu thương nhau, luôn giáo dục con cái phải biết lễ phép, học hỏi những điều tốt thì chắc chắn những đứa trẻ đó lớn lên sẽ là những người có phẩm cách tốt. Bởi vì cha mẹ chính là tấm gương, là ngọn "đèn" soi tỏ con đường con cái mình đi. Chính môi trường mà cha mẹ tạo dựng cũng như tính cách, sự giao tiếp, đối xử lẫn nhau của cha mẹ là kim chỉ cho mỗi đứa con của mình. Gia đình là một phần nhỏ của xã hội, gia đình tốt thì xã hội tốt. Tuy nhiên, không phải ai cũng là những người bạn tốt, những người thầy tốt mà ta đáng học hỏi, vậy nên phải biết chọn lấy người để chơi, để học tập cùng. "Học thầy không tày học bạn", hãy biết chọn những người có tư cách đạo đức tốt, ngay thẳng để cùng nhau học hỏi. Chỉnh bản thân ta cũng phải biết tu dưỡng học hỏi tốt để có thể trở thành một ngọn "đèn" soi tỏ cho người khác.
Trong xã hội, vẫn còn đâu đó những thành phần cá biệt, là "mực", là những điều xấu. Vậy nên mỗi con người cần chú ý tu tập, rèn luyện để có thể hướng những người khác trở thành một con người tốt, một ngọn "đèn" rạng chứ không phải một viên "mực" đen.
Từ câu tục ngữ trên, ta đã rút ra được bài học cho chính mình, phải biết học hỏi bạn bè, cũng như biết cách chọn lấy những người bạn tốt, những môi trường tốt để rèn luyện, tránh xa những cái xấu, cái không lành mạnh và phải luôn rèn luyện cho xứng đáng với lời dạy của cha ông ta.
Trong cuộc sống chắc mỗi người đều tìm cho mình những người bạn tốt để chơi và gắn bó đó là một truyền thống lâu bền của dân tộc ta, trong kho tàng những câu ca dao và tục ngữ Việt Nam đã nổi bật lên rất nhiều những đạo lý đó và tiêu biểu là câu gần mực thì đen gần đèn thì rạng.
Câu gần mực thì đen gần đèn thì rạng đã được xuất hiện trong cuộc sống của chúng ta từ rất nhiều năm và nó được lưu truyền một cách rất rộng rãi thể hiện một truyền thống cũng như kinh nghiệm sống mà ông cha ta đã để lại, nó giống như một kim chỉ nan soi đường và là bài học kinh nghiệm quý báu của mỗi con người, mỗi người chúng ta đều hiểu rằng câu tục ngữ gần mực thì đen gần đèn thì rạng có ý nghĩa rất sâu sắc, nghĩ đen của câu này nói về gần mực thì đen, bởi mực có màu đen vì vậy gần mực sẽ đen, gần đèn có ánh sáng thì rạng, nhưng đấy chỉ là ở khía cạnh nghĩ đen, còn nghĩa bóng, nghĩa sâu xa mà ông cha ta muốn nhắn nhủ đó là nên tìm những người bạn tốt để chơi bởi khi chúng ta chơi với những người bạn xấu hoặc không tốt thì dần chúng ta cũng sẽ trở thành những người như vậy.
Câu tục ngữ trên đã mang một ý nghĩa sâu rộng bởi khi sống trong cuộc sống này ông cha ta đã đúc kết được những kinh nghiệm sống của bản thân để từ đó đức kết nên câu tục ngữ này, khi sống trong một xã hội chúng ta nên tìm và chơi với những người có phẩm chất đạo đức tốt, không nên chơi với những người tệ nạn, nó sẽ làm cho chúng ta dần trở thành những con người xấu, cuộc sống trải qua bao nhiêu năm thì câu tục ngữ này vẫn đúng bởi lẽ đó là những bài học kinh nghiệm đường đời mà ông cha ta đã gắn bó và để lại cho nhân dân, mỗi con người chúng ta đều phải học hỏi và coi đó là vốn sống riêng của mình để có thể tìm những người bạn tốt để phấn đấu trở thành những con người có ích cho xã hội này, mỗi chúng ta đều phải gần những người thực sự có phẩm chất cao quý do đó chúng mới có thể trở thành những con người đức hạnh.
Câu tục ngữ này rất đúng bởi trong cuộc sống chúng ta gặp rất nhiều những trường hợp tương tự như vậy, ai chơi với những người xấu và không tốt thì họ cũng là con người như vậy, chơi lâu ngày thì bản chất của chúng ta cũng giống họ, nhưng ngược lại đối với những người luôn chọn cho mình những người bạn tốt để chơi họ sẽ trở thành người tốt và vô cùng đức độ, những điều đó đều có nguyên nhân và hệ quả của riêng nó, nó đem lại những điều rất tốt đẹp cho mỗi con người chúng ta, chính vì vậy mà mỗi chúng ta cũng đều cần có những phẩm chất tốt như vậy để có thể trở thành những con người có ích cho xã hội này. Gần mực thì đen cũng giống như gần những người xấu thì nhân cách và phẩm chất của chúng ta sẽ bị thay đổi theo họ, chơi với những người tệ nạn thì trước sau gì chúng ta cũng giống họ,trong cuộc sống chúng ta bắt gặp rất nhiều những hoàn cảnh như vậy, thường thì những người tệ nạn cờ bạc chơi với những người cờ bạc và rồi học vào con đường cùng, con đường tăm tối của xã hội, không ai coi trọng và còn bị người đời phê phán, đó là những điều cực kì không tốt.
Những người học tốt, có công danh sáng lạng thì chơi với những người sáng lạng, những người có đạo đức tốt sẽ chơi với những người có phẩm chất tốt, vậy tại sao mỗi chúng ta không chọn cho mình những người bạn thự sự tốt để chơi từ đó chúng cũng trở thành con người như họ, mỗi người đều cần phải có những chứng kiến riêng của mình vì vậy hãy coi trọng và phát triển họ cũng giống như phát triển chính bản thân mình, không ai có thể lựa chọn được nơi mình sinh ra nhưng chắc chắn họ có thể lựa chọn được nơi mình sẽ đứng và lựa chọn cho mình những người bạn cực kì tốt để chơi đó là một quy luật mà không thể nào có thể thay đổi được, nếu muốn trở thành con người như thế nào thì đều do chúng ta lựa chọn để trở thành những con người như thế, bởi lẽ không ai có thể chọn bạn cho mình ngoài mình ra.
Nhưng câu tục ngữ trên cũng có mặt sai bởi trong xã hội, cũng có những trường hợp họ tốt nhưng học có thể chơi với những người không tốt, nhưng tính kiên định của họ lớn vì vậy họ không bị sao nhãng và trở thành con người xấu kia, trường hợp này cũng có nhưng rất ít chính vì vậy mà nhân dân ta vẫn rất coi trọng câu tục ngữ mà ông cha ta đã để lại, đó là một truyền thống quý báu của dân tộc ta chúng ta chỉ có thể phát huy và giữ gìn nó chứ không thể thay đổi nó. Nhiều người không biết vận dụng câu tục ngữ này, cuối cùng đã trở thành những con người xấu và không tìm được con đường đi cho chính mình, kết quả họ chỉ là những con người có phẩm chất không tốt và rồi họ lâm vào những con đường tối tăm và không có nơi lương tựa, điều đó là hệ quả của việc gần mực thì đen. Cũng có những trường hợp người xấu chơi với những người tốt, học có thể thay đổi chính bản thân họ để trở thành những con người tốt kia, đó là một điều vô cùng cao quý và mỗi chúng ta có thể học hỏi và phát huy nó một cách tối đa, bởi lẽ trong cuộc sống này chúng ta cần học hỏi và phát triển nó theo một quy luật.
Có rất nhiều những trường hợp trong cuộc sống chúng ta cần phải học hỏi và rút kinh nghiệm từ đó, nó là vốn sống và những phẩm chất cao quý trong con người Việt Nam, mỗi con người đều có thể phát huy được chính bản năng của mình trong đó nó góp phần tạo nên cho chúng ta những nền tảng và kinh nghiệm sống quý giá mà ông cha ta đã để lại, kinh nghiệm sống đã được đúc kết ngắn gọn trong câu tục ngữ này, nhiệm vụ quan trọng của mỗi chúng ta là biết vận dụng và phát huy nó một cách tối đa và hiệu quả, mỗi người đều biết học tập và tu dưỡng đạo đức tốt để có thể trở thành những con người có ích cho xã hội này.
Trong cuộc sống cũng có rất nhiều những tấm gương sáng về tinh thần học hỏi câu tục ngữ của dân tộc tiêu biểu đó là những con người biết vươn lên trong cuộc sống học chơi với những người có ý chí tiến lên và rồi chính bản thân họ cũng có thể phát triển được những điều quý báu mà tiềm ẩn đã lâu trong con người của họ, mỗi người chúng ta đều có quyền được học hỏi và đó được coi như là bài học quý báu và cũng là những bài học đường đời và nó đem lại cho mỗi chúng ta những niềm tin tươi sáng vào một cuộc sống tốt đẹp, như trong cuốc sống này chúng ta thấy rất nhiều những tấm gương sáng về tinh thần biết học hỏi và vươn lên chính vì vậy họ cũng sẽ trở thành những con người đức độ và có ý chí vươn lên mạnh mẽ, học là những con người đại diện cho đèn mà những ai gần những ngọn đèn này cũng sẽ rạng sáng, đó là những điều mà ông cha ta muốn nhắn nhủ lại cho mỗi chúng ta.
Câu tục ngữ này là bài học quý báu cho dân tộc ta chúng ta cần phải biết giữ gìn và phát huy nó một cách tối đa để có thể trở thành những con người có ích cho xã hội này, mỗi người đều là những tấm gương sáng cho tinh thần phát triển cội nguồn và những bài học vô cùng quý giá cho dân tộc ta, mỗi chúng ta cần coi nó là kim chỉ nan để phát triển cuộc đời của mình một cách toàn diện và ngày càng mạnh mẽ.
viết một bài văn ngắn nói về lợi ích của lợi ích của đi bộ đối với sự khỏe
Câu trả lời của bạn
Ru-xô là một nhà văn vô cùng giản dị, quý trọng tự do và đâc biệt là rất yêu thiên nhiên. Chính vì thế, bài “Đi bộ ngao du” của ông đã làm cho người đọc hiểu được lợi ích của việc đi bộ bằng những cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ xác thực.
Thật vậy, đi bộ là một môn thể thao mang lại rất nhiều lợi ích cho con người. Khi đi bộ, ta hoàn toàn được tự do, tuỳ theo thích của mình, không hề bị lệ thuộc vào bất cứ ai, bất cứ cái gì. Điều chủ động nhất là ta thích đi đâu thì đi, dừng lúc nào thì dừng hay hoạt động nhiều ít thế nào là tuỳ ở ta. Không những thế, ta có thể quan sát khắp nơi, có thể ngắm những gì mà ta yêu thích: “Quay sang phải, sang trái, ta xem tất cả những gì ta thấy hay hay. Bất cứ đâu ta thích, ta lưu lại đấy, lúc nào chán, ta bỏ đi luôn. ” Chính bởi ta hoàn toàn không bị bất cứ thứ gì ràng buộc như con đường, phương tiện hay bất cứ ai.
Đối với Ru-xô, lợi ích quý giá nhất của việc đi bộ đó chính là được trau dồi vốn kiến thức về tất cả các lĩnh vực như nông nghiệp, địa lí, tự nhiên. Nếu ta là một người yêu nông nghiệp thì chắc hẳn sẽ phải tìm hiểu cách trồng trọt những sản vật mà nơi ta đi qua. Còn nếu ta là một người đam mê môn Địa lí thì điều tất yếu đó là ta nhất định sẽ tìm hiểu khí hậu của những nơi mà ta đi qua. Hay ta sưu tập những mẩu đá, hoa, quả, những thứ ta yêu thích thì chắc hẳn ta là một người có hứng thú với tự nhiên học. Thật không thể tin được nếu ta có cơ hội được đi bộ ngao du mà lại không xem xét những tài nguyên mà ta giẫm chân lên, bỏ qua những gì mà trái đất đang phô bày trước mắt một cách phong phú. Một điều chắc chắn là những người có vốn tri thức được trau dồi qua những chuyến ngao du sẽ có cái nhìn gần gũi, sâu rộng hơn về vạn vật xung quanh, hiểu sâu rộng hơn, tường tận hơn về thiên nhiên bao la rộng lớn.
Không những thế, đi bộ còn mang lại một lợi ích không kém phần quan trọng và qu giá cho những ai tham gia môn thể thao này đó chính là tăng cường sức khoẻ, tính khí trở nên hoà đồng, vui vẻ hơn. Và đi bộ cũng rất tốt cho những ai có những căn bệnh như tim, mạch, cao huyết áp,… Ngoài ra, đối với phái đẹp, đi bộ còn làm cho dáng vẻ cân đối, thon thả,. Đặc biệt, đi bộ còn giúp ta có cảm giác khoan khoái, hài lòng với tất cả, không còn thấy buồn bã, cáu kỉnh. Sau mỗi lần đi bộ, ta ăn cảm thấy ngon miệng hơn, ngủ ngon hơn và sâu giấc hơn. Bên cạnh đó, đi bộ không gây tốn kém lại rất dễ thực hiện, thế nên mọi lứa tuổi đều có thể dễ dàng tham gia môn thể thao này. Cũng chính vì vậy, mặc dù ngày nay có rất nhiều môn thể thao mới xuất hiện, hay và hấp dẫn nhưng đi bộ vẫn được mọi người lựa chọn và yêu thích nhất.
Đi bộ với những lợi ích kể trên thì không ai trong chúng ta có thể phủ nhận đi bộ rất có lợi đối với đời sống sức khoẻ , tinh thần của con người. Ru-xô quả là một thiên tài của nước Pháp, ông đã hiểu được cái lợi, cái tốt sẽ có được từ việc đi bộ cách đây hàng trăm năm. Qua bài “Đi bộ ngao du”, em đã hiểu được thêm rằng đi bộ là rất có ích đối với con người. Nó làm cho đời sống sức khoẻ cũng như đời sống tinh thần mỗi người được cải thiện. Do đó em nhất định sẽ cố gắng tham gia vào môn thể thao này để có được sức khoẻ tốt hơn, học tập tốt hơn.
Từ lâu các nhà khoa học dã biết được tác động hữu ích của việc đi bộ đối với sức khoẻ. Đi bộ làm giảm nguy cơ các loại bệnh tiểu đường , áp huyết cao, nhồi máu cơ tim, đột quỵ. Ngày nay, những thí nghiệm mới nhất lại cho thấy đi bộ còn mang lại lợi ích trong việc tăng cường hệ miễn dịch, cải thiện các chứng rối loạn sinh dục và gia tăng trí lực. Lối sống tĩnh tại và nhiều áp lực tâm lý của thời đại công nghiệp đã làm gia tăng nhanh tỷ lệ các loại bệnh liên quan đến hội chứng chuyển hoá như béo phì, xơ vữa động mạch, áp huyết cao, tiểu đường.Trong những nổ lực để ngăn chận tình trạng nầy, đi bộ là một biện pháp đơn giản, không tốn kém đã được nhiều nhà khoa học quan tâm. Trong một loạt bài viết về những ích lợi của sự đi bộ, bà Wendy Bumgardener, một nhà khoa học người Mỹ chuyên nghiên cứu về lãnh vực nầy, đã dùng một đề tài khá hay “Đi bộ hay là chết, hình thức vận động ở tuổi trung niên để ngăn chận nguy cơ tử vong.” Bà Bumgardner cho rằng đi bộ với bước đi từ trung bình đến nhanh, từ 30 đến 60 phút mỗi ngày đủ đốt cháy mỡ và gia tăng mức độ chuyển hoá sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ những bệnh tim mạch, ung thư vú, ung thư ruột già, tiểu đường và đột quỵ.
Đi bộ có lợi cho sức khỏe, đó là lời khuyên của các thầy thuốc, Nhưng khi hỏi: “như thế nào?”, mỗi người trả lời một khác.
Ngay trên báo chí cũng vậy, chỗ thì viết: phải đi nhanh mới có tác dụng giảm cân; chỗ viết: người béo phì không nên đi bộ nhanh... làm cho người đọc hoang mang, không biết thông tin nào đúng, thông tin nào sai.
Lợi ích của đi bộ: mọi hình thức vận động đều làm tăng sự lưu thông khí huyết. Đi bộ nói chung là một phương pháp tập luyện thích hợp với nhiều người (từ trẻ em đến cụ già, người ốm, người khỏe, người mang thai, người béo phì...). Mỗi người căn cứ vào sức khỏe và hiện trạng của mình mà chọn cách đi bộ cho phù hợp, sẽ có tác dụng:
- Tăng mật độ xương, chống loãng xương, kích thích tiết chất chống thoái hóa khớp.
- Tăng độ dẻo dai, rắn chắc của gân cốt, cơ bắp.
- Kích thích tiêu hóa giúp ăn ngon ngủ sâu; chống táo bón.
- Tăng cường chuyển hóa, chống bệnh mỡ máu cao, giảm cholesterone xấu, tăng cholesterone tốt.
- Tăng tuần hoàn máu, tăng dẻo dai thành mạch, điều hòa huyết áp, tăng chỉ số thông minh (IQ).
- Giảm nguy cơ các bệnh: tim mạch (cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, xuất huyết não, đột quỵ); *** tháo đường; chứng béo phì.
- Giảm stress.
- Chống suy giảm sinh dục (rối loạn cương, lãnh cảm nữ).
- Chống trầm cảm (do tăng tiết Dopamin và Serotonin).
- Tăng sức đề kháng, giảm cảm cúm, nhiễm trùng; giảm nguy cơ ung thư (vú, tử cung, tuyến tiền liệt, đại tràng); giảm đau nhức (cơ, xương).
- Chống lão hóa, chống teo não, chống suy giảm trí nhớ ở người cao tuổi.
- Chống thói quen lười vận động (nhất là thanh , thiếu niên hiện nay).
- Bổ sung vitamin D3 cho cơ thể (khi phơi nắng trên 10 phút cơ thể sẽ sản sinh 10.000 UI).
Tùy theo cách đi mà có các lợi ích cụ thể khác nhau. Ví dụ:
- Người mang thai 3 tháng cuối, nên đi bộ chậm, bước vừa phải không gắng sức, thời gian đi bộ mỗi ngày khoảng 30 phút (có thể chia làm 2 lần) sẽ có lợi cho cả mẹ và con (chống tăng cân nhiều, chống sản giật, *** tháo đường, táo bón, giúp dễ đẻ).
- Người béo phì muốn giảm cân, nên đi bộ chậm sẽ tránh được nguy cơ viêm khớp, chấn thương khớp, đốt nhiều mỡ thừa hơn. Thời gian đi bộ tối thiểu 30 phút/ngày.
- Trẻ em đi học (từ lớp 1 trở lên, nếu đoạn đường từ nhà đến trường dưới 2.000m) nên cho đi bộ. Ngày đầu, người lớn nên đi kèm để hướng dẫn cách đi (không nhanh quá, chậm quá, không được chạy nhảy). Tạo cho các em thói quen tự rèn luyện(không ỷ lại vào người lớn chở đi học). Làm cho khí huyết lưu thông, cơ bắp rắn chắc, khi học dễ tiếp thu hơn. Cơ thể được tiếp xúc với ánh nắng, tạo ra Vitamin D3 chống còi xương.
Khi đi bộ, người tập cần mang trang phục gọn gàng, mang giày đế bằng...
Các cách đi bộ:
- Đi bách bộ: người làm việc nhà, hoặc sinh hoạt trong nhà, người bị bệnh tim mạch (nên đi trong nhà); trẻ em đến trường.
- Đi vừa phải, chân bước tay vung ngang ngực (như bộ đội duyệt binh) cho người sức khỏe bình thường, hoặc bệnh nhẹ.
- Đi chậm (người: béo phì, mang thai 3 tháng cuối, ốm nặng mới hồi phục).
- Đi nhanh, sải chân dài, chân bước tay vung. Tốc độ 80 - 100 bước/phút. Năng lượng tiêu hao 270kcal/giờ. Nhu cầu oxy: 56 l/giờ (người khỏe dư cân).
- Leo cầu thang (người khỏe làm việc trong nhà nhiều tầng).
- Đi trong máy tập.
Môi trường đi bộ cần trong lành, không nắng gắt.
Thời khắc đi bộ ngoài trời:
- Buổi sáng: sau lúc mặt trời mọc 30 phút đến 10 giờ sáng
- Buổi chiều: 16 - 18 giờ (ngày trời râm có thể đi bộ từ 15 giờ).
(Đi bộ vào các thời điểm nói trên là tốt nhất, nhưng chỉ có thể thực hiện được với người đã nghỉ hưu, người làm nghề tự do, còn các đối tượng khác lại trùng với giờ làm việc buổi sáng).
Thời gian đi bộ : tối thiểu 30 phút, tối đa 60 phút.
Môi trường đi bộ cần trong lành, không nắng gắt.
Người đi bộ cần mang: trang phục gọn gàng, đi giày vải đế bằng, đeo kính râm, đội mũ lưỡi trai. Mùa rét: mặc quần áo đủ ấm, không bó sát người. Mùa nóng: mặc quần đùi, áo 3 lỗ. Không dùng kem chống nắng, không mặc áo chống nắng.
Những trường hợp không nên đi bộ tập luyện: đó là những người đang trong tình trạng hoặc có dấu hiệu: chóng mặt, khó thở, rối loạn tuần hoàn não nặng, thoát vị đĩa đệm, viêm khớp, thoái hóa khớp, lỏng khớp, viêm gót chân, bàn chân, viêm tắc động, tĩnh mạch, giãn tĩnh mạch chân, phù 2 chi dưới, đau cơ, teo cơ, mệt mỏi, hành kinh, thai đạp mạnh, hen suyễn, đau mắt, nhức đầu nặng...
Việc không nên làm khi đi bộ tập luyện:
- Không nói chuyện (hại sức khỏe, tổn chân khí).
- Không suy nghĩ lung tung, mà phải tập trung chú ý vào hơi thở và bước đi.
- Không dắt trẻ em hoặc dắt tay mgười khác.
- Không cầm thứ gì ở tay (nếu mang theo ô hoặc áo mưa, nước uống... thì cho vào túi có quai dài đeo trên vai).
Chứng minh rằng đến vs ca dao VN ta hiểu thêm về đời sống tình cảm phong phú và sâu sắc của người lao động xưa
Câu trả lời của bạn
Ca dao dân ca là cây đàn muôn điệu rung lên những tiếng tơ lòng của người dân đất Việt. Những câu ca đằm thắm, trữ tình mang chở cả điệu tâm hồn và chứa chan những tình cảm thiết tha, sâu năng, đặc biệt là tình cảm gia đình. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: “Ca dao dân ca đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc”.
Những lời hát ấy đã đi sâu vào tiềm thức mỗi người qua tiếng ru của bà, của mẹ và nhắc nhở chúng ta về công ơn trời biển của mẹ cha:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩ mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Bài ca dao như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng mà tha thiết. Phép so sánh được sử dụng liên tiếp khiến hai câu thơ vừa cụ thể, vừa gợi hình, sinh động. Công cha và nghĩa mẹ được ví với những hình ảnh thiên nhiên vĩnh hằng: núi ngất trời, nước biển Đông. Ơn cha to lớn không thể đo đếm còn tình mẹ thương con sâu nặng, đong đầy. Những lời thơ gợi nhắc về công ơn sinh thành dưỡng dục bao la vô tận của mẹ cha. Công ơn ấy được cụ thể hóa bằng “chin chữ”: (em xem chú thích và viết 9 chữ vào đây). Đồng thời, tác giả dân gian khuyên răn kẻ làm con phải có bổn phận chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ để đền đáp công ơn ấy. Những lời ca dao thấm đượm nghĩa tình như ru hồn người vào thế giới của đạo lý, yêu thương.
Không những nhắn nhủ con người về công ơn cha mẹ, ca dao dân ca còn thể hiện tình cảm nhớ thương quê mẹ của người con gái xa:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Câu ca mở ra một âm điệu trầm buồn sâu lắng với hai từ “chiều chiều”. Thời khắc ấy gợi cái tàn lụi của một ngày và cũng gợi cảm giác sum họp gia đình. Ấy là quãng thời gian của buồn, của nhớ và bâng khuâng. Những lời hát của người con gái lấy chồng xa hướng về quê mẹ như thấm đẫm nỗi buồn xa xót ấy. Hai từ “ngõ sau” gợi một không gian khuất nẻo – nơi người con gái có thể bày tỏ nỗi long. Cả thời gian và không gian ấy như đã nói lên tâm trạng con người đang mong nhớ thiết tha. Hai chữ “chiều chiều” mở đầu hô ứng với hai chữ “chin chiều” kết thúc bài ca dao tạo nên hiệu ứng lặp đi lặp lại một nỗi long xót xa, thấm thía của người con gái khi hướng về quê mẹ xa xôi.
Bên cạnh tình cảm cha mẹ – con cái, ca dao còn là những lời nhắn nhủ cảm động về tình cảm ông bà và cháu con:
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
Nuộc lạt – một hình ảnh quen thuộc trên những mái nhà tranh của làng quê Việ Nam đã được đưa vào câu ca dao một cách rất tự nhiên, giản dị và gần gũi. Biện pháp so sánh bao nhiêu – bấy nhiêu đã thể hiện tình cảm nhớ thương, sự gắn bó bền chặt, ruột thịt của cháu con với ông bà. Âm điệu lời thơ tha thiết thể hiện sự kính trọng biết ơn!
Và, có lẽ, những người thân, người lớn trong nhà đã khuyên bào con cháu giữ chặt tình anh em:
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy
Một lần nữa lối ví von so sánh lại được sử dụng thành công trong hai câu ca dao. Tình cảm anh em gắn bó bền chặt không thể tách rời như tay với chân. Sự hòa thuận của an hem chính là niềm vui của cha mẹ gia đình. Bài ca dao là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu sắc về tình cảm ruột thịt, anh em.
Với âm điệu thiết tha, sâu lắng cùng lối ví von so sánh đặc trưng, những câu thơ lục bát đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc và thấm thía.
Nhắc nhở nhẹ nhàng mà không khô khan, khuyên nhủ mà không giáo huấn, ca dao chính là tiếng lòng mang chở cả tư tưởng, triết lý đạo đức của nhân dân. Nó đã trở thành viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam.
Tham khảo nhé : ca dao là thể loại văn học dân gian rất gần gũi quen thuộc đối với mỗi con người việt nam. Ngay từ khi lọt lòng chúng ta đã được thưởng thức âm điệu ngọt ngào, sâu lắng qua lời ru của bà, của mẹ. Và trong những câu ca dao mộc mạc, ân tình ấy đã phản ánh rất rõ.
Ca dao nói nhiều tới tình yêu quê hương đất nước của người lao động việt nam ví dụ như:
"đường vô xứ nghệ quanh quanh
non xanh nước biếc như tranh họa đồ
ai vô xứ nghệ thì vô."
hay như:
"anh đi anh nhớ quê nhà
nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
nhớ ai dãi nắng dầm sương
nhớ ai tát nước bên đường hôm nao"
chỉ một vài nét phác họa đơn sơ mà đã hiện lên một bức tranh sinh động về "đường vô xứ nghệ". đó là con đường mềm mại uốn lượn theo thế núi hình sông, thơ mộng hiền hòa với "non xanh nước biếc". Vừa giới thiệu vẻ đẹp quê hương với niềm tự hào, kiêu hãnh lại vừa chào mời rất mộc mạc, chân tình. Tất cả toát lên tình yêu quê hương cũng như lòng mến khách của con người xứ nghệ. Có lẽ chính chính vì vậy khi đi xa thì tình quê đã biến thành nỗi nhớ khắc khoải. Ta hãy lắng nghe lời tâm tình của một chàng trai xa quê: "anh đi anh nhớ quê nhà/ nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương/ nhớ ai dãi nắng dầm sương/ nhớ ai tát nước bên đường hôm nao".
tình yêu là thứ tình cảm trong sáng, thiêng liêng mà bất kỳ chàng trai, cô gái nào đến tuổi chớm nở những rung động đều hướng tới. Có lẽ vì thế mà ai ai cũng đều mang trong mình hình mẫu lý tưởng về người yêu. Trong ca dao xưa, dân gian cũng đã vẽ nên cho mình một tiêu chuẩn riêng biệt:
một thương tóc bỏ đuôi gà/ hai thương ăn nói mặn mà có duyên/ ba thương má lúm đồng tiền/ bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua/ năm thương cổ yếm đeo bùa /sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng /bảy thương nết ở khôn ngoan/tám thương ăn nói lại càng thêm xinh /chín thương cô ở một mình/ mười thương con mắt có tình với ai
bài ca dao vẻn vẹn mười dòng, nhưng ở mỗi dòng thơ lại chứa đựng một con số theo trình tự tăng dần. Sự tăng cấp của con số đếm cũng dần khắc hoạ rõ nét những vẻ đẹp truyền thống của người con gái từ ngoại hình “tóc bỏ đuôi gà, răng nhánh hạt huyền, cổ yếm” đến tâm hồn như giọng nói, nết ở. Nó có giá trị như một sự tổng kết về sự hoàn mỹ của người phụ nữ việt nam.
ca dao than thân: Là lời than trách cho số phận bất công, không may mắn, lời tố cáo với những thế lực áp bức, bóc lột nhân dân lao động. đồng thời, than thân cũng là một hình thức tự ý thức cảnh ngộ, số phận của mình, và xét trên một khía cạnh nào đó, nó cũng là một hình thức phủ định, phản kháng lại hiện thực xã hội bất công. Phần nhiều các bài ca dao than thân là lời của người phụ nữ (mở đầu với môtíp quen thuộc là "thân em như"), các bài ca dao của những người đi ở đợ, những người có số phận hẩm hiu.... đáng chú ý là ở nhiều bài ca dao than thân, vẻ đẹp tâm hồn người lao động không chỉ thể hiện ở sự phủ định hiện thực bất công, mà còn thể hiện sự lạc quan, luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp phía trước (chớ than phận khó ai ơi - còn da lông mọc, còn chồi nảy cây)
- ca dao yêu thương tình nghĩa. đây là bộ phận ca dao chiếm số lượng phong phú nhất trong kho tàng ca dao. Các bài ca dao trong chủ đề này thể hiện muôn hình vạn trạng những cung bậc tình cảm của nhân dân lao động: Tình yêu lứa đôi (nhớ nhung, mong ước, hy vọng, đợi chờ....), tình cảm gia đình (nghĩa vợ chồng, tình cảm cha con, mẹ con, tình cảm giữa anh chị em, tình cảm với ông bà, tổ tiên....), tình cảm với cộng đồng xã hội.
ca dao hài hước, châm biếm. đây là bộ phận ca dao rất giàu tính chiến đấu, thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, lối sống lành mạnh, khỏe khoắn của nhân dân lao động. đồng thời, các bài ca dao cũng thể hiện tinh thần phê phán (và tự phê phán) với nhiều cấp độ khác nhau, hướng đến nhiều đối tượng trong đời sống xã hội.
- ca dao về chủ đề quê hương đất nước: Các địa danh, các thắng cảnh, các vùng miền cũng hiện diện trong ca dao. Các bài ca dao trong chủ đề này thể hiện sự gắn bó, yêu quý thiết tha của người dân lao động với quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình, và rộng ra, là niềm tự hào, tình yêu với quê hương đất nước.
tống kết: Ca dao thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người dân lao động: Thủy chung, giàu tình nghĩa, tình yêu thương, luôn lạc quan yêu đời, yêu quê hương tha thiết . Ca dao, dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn của nhân dân. Nó không chỉ là tiếng hát yêu thương, tình nghĩa trong các mối quan hệ gia đình con người với quan hệ đất nước mà nó còn là tiếng hát than thở về những cuộc đời, cảnh ngộ, khổ cực đắng cay.
Viết đoạn văn khoảng 11 câu chứng minh rằng: Bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng ta
Câu trả lời của bạn
rừng có vai trò quan trọng trong cuộc sống của chúng ta
Nhà thơ Lâm Thị Mĩ Dạ đã từng viết:
Con người không có tình yêu
Như trái đất này không có lá.
Vâng, tình yêu cần thiết cho con người như thế nào thì thiên nhiên cũng cần thiết cho con người như thế ấy. Chính vì vậy mà thật chính xác khi nói rằng “bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng ta”.
Thật vậy, những cánh rừng bát ngát xanh từ bao đời nay đã gắn bó với con người như một người bạn tốt. Rừng ví như một lá phổ khổng lồ để thanh lọc bầu không khí của con người. Nhịp thở đều đặn, kiên nhẫn của rừng cũng chính là nhịp thở khoẻ mạnh của mỗi thân thể cường tráng của chúng ta. Rừng còn là một bức bình phong vĩ đại, một vành đai vững trắc để tránh gió bão từ biển khơi cuồng nộ cuốn vào hòng phá tan cuộc sống của chúng ta. Cũng nhờ vành đai ấy mà đất đai không bị sạt lở, cuốn trôi ra biển. Cuộc sống con người chỉ thực sự yên bình khi ngoài kia, những cánh rừng được phủ xanh bát ngát, vẫn rì rào cùng gió ngàn muôn thuở. Chưa hết, rừng còn chứa đựng trong lòng nó biết bao tài nguyên quý giá. Bên cạnh nguồn cung cấp gỗ quý phục vụ xuất khẩu, sinh hoạt của con người. Rừng còn là nguồn dược liệu vô cùng quan trọng. Biết bào loài thực vật đã trở thành những bài thuốc có giá trị chữa bệnh cho con người. Rừng còn là xứ sở của những loài động vật phong phú, đa dạng, đóng góp biết bao lợi ích cho cuộc sống của chúng ta. Những mỏ khoáng sản mà con người tìm thấy từ sâu thẳm trong lòng đất cũng đã nói với chúng ta rằng: sự có mặt của rừng là một phần không thể thiếu trong sự sống và phát triển nhiều mặt của con người.
Còn nhớ, trong những năm chiến tranh ác liệt, rừng cũng đã không ngại dâng hiến sức vóc của mình để che chở cho con người và góp phần lập chiến công. “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Rừng cũng đã phải gánh chịu những mất mát, hi sinh, những tổn thất nặng nền như dân tộc chúng ta: những trận bôm rung trời chuyển đất, những đợt đại bác liên hồi và tàn bạo, nhất là chất độc màu da cam … đã làm bao cánh rừng cụt ngọn, cháy két, nham nhở vết thương. Nhưng, kì diệu thay, cũng như con người Việt Nam, rừng vẫn không chịu đầu hàng, kiêu hãnh vươn lên trong tư thế kiên cường, bất khuất. Những cánh rừng đi ra từ chiến tranh dần hồi sinh, mạnh mẽ, giàu sức sống hơn xưa. Rừng đã cùng chúng ta đánh giặc. Rừng lại tiếp tục cùng ta dựng xây một Việt Nam ngày càng lớn mạnh không ngừng.
Nhưng, tại sao vẫn nghe thấy tiếng kêu cứu khẩn thiết từ đại ngàn vọng lại ? Vâng, lại bắt đầu từ chính tham vọng của con người. Tất nhiên, không phải là tất cả nhưng dù chỉ một bộ phận nhỏ thôi cũng gây lên bao đau đớn cho người bạn của chúng ta. Chỉ vì lợi nhuận, một số kẻ không chiến thắng nổi lòng tham đã tàn phá sức vóc cường tráng của rừng. Nạn đốt rừng làm nương rẫy vẫn còn rất bừa bãi. Những loại thú quý hiếm ngày một khan hiếm dần. Và hậu quả thế nào, hẳn chúng ta đã thấm. Thiên tai xảy ra liên miên. Con người chứ không ai khác lại là nạn nhân của cơn cuồng nộ dữ dội từ thiên nhiên. Thiên nhiên nổi dậy, giận dữ, điên cuồng chính là sự trừng phạt cho hành động phản bội, thiếu ý thức dựng xây của chính con người ấy thôi… Không biết, những kẻ thiếu lương tri và trách nhiệm có một phút nào tự vấn lương tâm khi chứng kiến những trận cuồng phong của thiên nhiên ?
Rừng đang kêu cứu, những con người có lương tâm cũng đang kêu cứu. Cứu lấy rừng và cũng chính là cứu lấy cuộc sống của con người. Lời kêu cứu đang rất dòng dã, thúc giục. Mỗi người chúng ta hay cùng nhau góp sức bởi: bảo vệ rừng cũng chính là bảo vệ cuộc sống của chúng ta.
Rừng còn là kho dược liệu vô giá mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Các loại cấy quý hiếm có thể trị được các bệnh nan y thường có trong rừng sâu.Ngoài ra,từ những cảnh rừng già, rừng nguyên sinh ấy còn là nơi nuôi dưỡng của các loài vật quý phục vụ cho con người như hổ,báo, hươu,nai… và cả những động, thực vật nằm trong sách đỏ cũng chọn rừng làm nơi sinh sống. Nhưng quan trọng hơn hết, rừng chính là môi trường cho loài người, các quá trình quang hợp của cây xanh liên tục xảy ra, cây hút khí cacbonic và nhả ra khí Oxi, một thứ rất cần thiết cho cuộc sống. Đơn giản hơn, rừng chính là “ nhà máy lọc bụi tối tân nhất”. Rừng điều tiết khí hậu. Rừng là lá chắn vững chắc nhất, là rào cản đầu tiên trước mọi biến động thiên tai. Rừng cản lũ, lụt, rừng chống sa mạc hóa, rừng ngăn cát, rừng giữ đất giữ nước…
Rừng bị tàn phá sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hằng ngày. Diện tích rừng của nước ta ngày càng bị thu hẹp một cách đáng lo ngại, một phần bởi nạn “lâm tặc” phá rừng lấy gỗ quý, làm giàu bất chính, một phần bởi sự kém hiểu biết của người dân địa phương phá rừng lấy đất trồng trọt. Cũng cách làm thô sơ, lạc hậu như đốt rừng, làm nương rẫy, đốt ong lấy mật… chỉ sơ ý một chút là gây ra tổn hại khôn lường, hàng ngàn hécta rừng nguyên sinh bị cháy rụi, hàng ngàn động vật bị tiêu diệt, sự cân bằng sinh thái bị phá vỡ… thế mấy trăm năm nữa mới khôi phục lại được những cánh rừng như thế ?
ừng từ lâu đã được coi là “lá phổi xanh” của con người. Rừng có rất nhiều ưu điểm và lợi ích đối với chúng ta. Rừng mang đến lợi ích về mặt môi trường, sức khỏe. Bên cạnh đó, rừng còn mang lại giá trị về mặt kinh tế, xã hội. Như vậy, bảo vệ rừng chính là bảo vệ cuộc sống của chúng ta. Đặc biệt, với một quốc gia đặc biệt như Việt Nam, thì bảo vệ rừng rất quan trọng. Vì với 3/4 diện tích đất là đồi núi, rừng chính là một tài nguyên quan trọng và liên quan trực tiếp đến cuộc sống mỗi chúng ta.
Đầu tiên, về mặt môi trường, rừng là nơi bảo vệ cho không gian sống của con người. Rừng giúp thanh lọc và điều hòa không khí. Rừng tạo môi trường sống ít ô nhiễm. Sự quang hợp của cây xanh sẽ giúp thu khí Carbonic và thải ra khí Oxi. Hơn nữa, rừng còn là nơi điều hòa mạch nước ngầm. Rừng phòng hộ giúp làm giảm sự phá hoại và càn quét của thiên tai như bão, lũ… Đồng thời, rừng còn là nơi cư trú của nhiều loài động, thực vật… Rừng giúp bảo đảm cân bằng sinh thái. Ví dụ điển hình tại Việt Nam, khu vực miền Trung, với diện tích đồi núi ăn sát biển, thừơng xuyên xảy ra lũ quét. Rừng phòng hộ đầu nguồn chính là một trong những tấm chắn quan trọng để ngăn lũ càn quét xóm làng.
Tiếp theo, về mặt sức khỏe, có thể nói “rừng” là một trong những “biện pháp” phòng mọi loại bệnh tật và giúp tăng cường sức khỏe cho con người. Rừng là “lá phổi xanh” của chúng ta rừng giúp thanh lọc không khí, giảm bớt tình trạng ô nhiễm môi trường dẫn đến bệnh tật như ung thư… Rừng giúp hấp thu khí Carbonic và thải khí Oxi cho chúng ta, làm sạch môi trường. Đồng thời, rừng cũng có tác dụng diều hòa nhiệt độ môi trường, tạo môi trường trong lành cho khu vực mà bạn đang sống. Ngoài ra, cây xanh cũng là bảo vệ chúng ta khỏi những tia UV gây hại. Như vậy, rừng rất có lợi cho sức khỏe con người.
Kế đến, về mặt xã hội, rừng được coi là một trong những điểm mạnh về mặt an ninh quốc phòng. Rừng cung cấp không gian ẩn nắp cho bộ đội. Đồng thời, địa thế rừng hiểm trở cũng là một vũ khí lợi hại giúp ta chống lại giặc ngoại xâm. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, Mỹ, rừng đóng một vai trò quan trọng cho quân và dân ta. Rừng là lá chắn hành quân, và cũng là nơi cung cấp vũ khí cho quân ta.
Không dừng lại ở đó, rừng còn mang lại giá trị kinh tế lớn cho con người. Rừng là nguồn cung cấp gỗ, dược liệu, chim thú và các loại khoáng sản quý cho con người. Đây chính là nguồn nguyên liệu quý giá của nhiều ngành công nghiệp ở nước ta cũng như trên thế giới như công nghiệp sản xuất gỗ, công nghiệp luyện kim, công nghiệp may mặc… Có thể nói, rừng là nơi chứa đựng nguồn sống của con người.
Ngoài ra, rừng cũng mang lại giá trị du lịch cho chúng ta. Các loại hình du lịch sinh thái phát triển cũng đem đến giá trị về mặt kinh tế cho con người. Đặc biệt với những người dân địa phương, du lịch sinh thái sẽ giúp họ có thêm thu nhập. Tuy nhiên, cũng chính vì thực trạng sử dụng, khai thác rừng quá mức như hiện nay, chúng ta cũng đang chính tay mình hủy đi tất cả các nguồn lợi mà rừng mang đến. rừng vàng biển bạc hiện nay không còn nữa mà thay vào đó tình trạng rừng đang bị khai thác kiệt quệ, các rừng ven biển, rừng đầu nguồn bị khai thác triệt để, trong khi lượng cây trồng lại không được bao nhiêu, đấy là tình trạng chung của nước ta dẫn đến nhiều hiện tượng thiên nhiên như lũ lụt, xói mòn, hạn hán, ô nhiễm nguồn nước ngày càng trầm trọng hơn. Nếu không có biện pháp đúng đắn, hành động ngay bây giờ nhiều khu rừng sẽ bị xóa sổ khi đó tình trạng thiên tai khốc liệt, dịch bệnh sẽ đến ngày một nghiêm trọng hơn nữa.
Rừng đóng góp một vai trò cực kì quan trọng vào cuộc sống của con người. Rừng không chỉ đơn giản là hệ sinh thái, rừng còn là nguồn sống quý giá của con người. Do đó, chúng ta cần chung tay bảo vệ rừng để bảo vệ cuộc sống của chính chúng ta. Vì, nếu không bảo vệ rừng, hàng loạt những điều không tốt sẽ xuất hiện: ví dụ như ô nhiễm môi trường nặng hơn, khí hậu biến đổi, thiên tai thường xuyên, cạn kiệt nguồn nguyên liệu…
Để bảo vệ rừng, ngoài các chính sách bảo vệ rừng của chính quyền, mỗi người chúng ta cũng phải có ý thức bảo vệ như: không vướt rác bữa bãi, tuân thủ nghiêm ngặt các nội quy trong rừng, tố cáo các hành vi phá hoại rừng và đóng góp vào công cuộc khôi phục rừng của chính quyền địa phương. Cần phải có sự tuyên truyền giáo dục cho học sinh sinh viên và người dân hiểu hơn về tầm quan trọng của rừng, hệ sinh thái để chủ động hơn trong việc bảo vệ rừng, đó cũng chính là bảo vệ cuộc sống của chúng ta.
"Rừng vàng biển bạc" là câu tục ngữ mà cha ông ta dùng để ca ngợi sự giàu có của thiên nhiên. Rừng có vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của mỗi chúng ta. Bởi vậy bảo vệ rừng chính là chúng ta đang bảo vệ, giữ gìn lấy cuộc sống của mình.
Rừng ở đây được hiểu là một quần thể cây cối sinh sống, nảy nở trên một vùng đất rộng lớn, cao hơn so với đồng bằng. Rừng được trồng nhiều loại cây, có thể cây lấy gỗ hoặc cây che bóng mát. Ở Việt Nam, diện tích đồi núi chiếm 3⁄4 so với mặt bằng chung, vì vậy có thể nói nước ta rất đa dạng và phong phú về nguồn tài nguyên rừng.
Rừng vẫn được xem là nguồn tài nguyên thiên nhiên lưu trữ một lượng gỗ lớn của đất nước cũng như giúp ngăn ngừa các hiện tượng của tự nhiên như thiên tai, bão lũ, sạt lở đất, cát lấn.
Hằng ngày chúng ta hít vào khí O2 và thải ra khí CO2. Và nơi cung cấp khí O2 chính là cây xanh. Cây xanh giúp lọc khí bẩn, điều hòa môi trường, mang lại sự trong lành cho con người. Bởi vậy mới có câu nói "Rừng là lá phổi xanh của nhân loại". Đúng vậy khu rừng có màu xanh để điểu hòa, thanh lọc không khí độc hại, giúp đảm bảo sức khỏe của con người không bị suy giảm.
Rừng được tạo nên từ cây, hàng nghìn, hàng vạn cây mọc san sát nhau. Lượng khí O2 mà rừng cung cấp hằng năm nhiều khi chưa đủ cho loài người. Tuy nhiên khi rừng vẫn được bảo vệ thì cuộc sống con người vẫn được bảo vệ.
Thực trạng thiên tai hằng năm diễn ra ở nước ta rất nhiều như bão lũ, sạt lở đất, cát lấn. Nếu không có hệ thống rừng phòng hộ, rừng ngập mặn được chăm sóc hằng năm thì liệu rằng con số thiệt hại do thiên tai mang đến không dừng lại ở mức đã thống kê. Nhờ có rừng mà ngăn chặn được dòng nước lũ, ngăn chặn cát xâm chiếm đồng bằng. Có thể nói rừng chính là bùa hộ mệnh, giúp cho đời sống con người luôn được bình an.
Hằng năm, lượng gỗ mà rừng cung cấp không đếm hết. Sản lượng gỗ quý ngày càng gia tăng, giúp tạo ra nhiều sản phẩm mỹ nghệ, điêu khắc tinh xảo, tuyệt đẹp. Hơn hết rừng còn là nơi trú ngụ, sinh sống của các loài động vật hoang dã. Chúng xem rừng chính là ngôi nhà bình yên nhất,
Rừng có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống mỗi người nhưng hiện nay tình trạng rừng xuống cấp, cháy rừng, đốt rừng làm nương rẫy, phá rừng đang diễn ra ngày càng trầm trọng. Chính những hành động này đã dẫn đến việc rừng bị suy thoái. Có thể rất nhiều người không lường trước được hậu quả nặng nề khi phá rừng bừa bãi như vậy.
Trái đất đang ngày càng nóng lên, băng tan ra, cát tặc xâm lấn đã gây ra bao nhiêu bất an cho con người. Nếu như ý thức của người dân về bảo vệ rừng không được nâng cao thì chắc chắn sẽ còn nhiều thiệt hại lớn hơn nữa.
Vào mùa khô, tình trạng cháy rừng diễn ra tràn lan khiến cho tài nguyên gỗ bị mất đi rất nhiều, dẫn đến hiện tượng xói mòn đất, phủ xanh đồi trọc đang dần bị mất đi. Bởi vậy ý thức của mỗi người về bảo vệ rừng cần thiết phải được nâng cao. Đó cũng chính là trách nhiệm của chúng ta, để bảo vệ chính chúng ta.
Như vậy, bảo vệ rừng, xây dựng và phát rừng hiện nay đang là một bài toán cấp bách cho các cơ quan chức năng cũng như của người dân đang rất nan giải. Mỗi người cần thiết phải xây dựng cho mình ý thức bảo vệ rừng, cũng như là đang bảo vệ chính cuộc sống của mình
Bạn tham khảo và lấy ý, cắt ý từ bài này nhé, vì đoạn văn thì k dễ để nói hết các ý .
Rừng được ví như lá phổi xanh của con người. Chính vì vậy, bảo vệ rừng chính là bảo vệ cuộc sống của chúng ta.
Rừng là nơi cây xanh phát triển. Như ta đã biết, cây xanh khi quang hợp sẽ tiếp nhận khí các-bo-níc và thải ra khí ô-xi - rất cần thiết cho quá trình hô hấp của con người nói riêng và nhiều loài động vật trên thế giới nói chung.
Nhờ cây xanh mà bầu không khí trở nên trong lành, giảm thiểu những tác nhân gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn, ... góp phần phòng chống thiên tai, bão lũ vốn gây ra nhiều thiệt hại về người và của. Không những thế, rừng còn được trồng vì mục đích phát triển kinh tế. Rừng là nguồn cung cấp gỗ cho các nhà máy sản xuất đồ nội thất, làm giấy,... Rừng cũng là nơi cư trú của nhiều loại động vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng: hổ, khỉ, hươu, ... Nhờ có rừng, hệ sinh thái được cân bằng.
Tuy nhiên, dù vai trò quan trọng của rừng nhưng nạn khai thác rừng vẫn diễn ra từng ngày. Chỉ vì cái lợi trước mắt, họ bỏ qua những lợi ích lâu dài mà rừng đem lại. Rừng đầu nguồn bị chặt phá làm cho lũ lụt xảy ra triền miên, làm xói mòn đất đai, nhiều người mất của cải và thậm chí là thiệt mạng. Nhiều cây quý hiếm trong rừng bị chặt phá khiến cho nhiều loài động vật bị mất đi nơi trú ngụ của mình. Nạn đốt rừng làm nương rẫy cũng làm cho diện tích rừng suy giảm nghiêm trọng.
Để bảo vệ rừng, chúng ta cần có những hành động thiết thực ngay từ bây giờ. Cần tuyên truyền, nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ rừng. Những vùng thường hay xảy ra thiên tai, bão lũ cần trồng rừng đầu nguồn. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần tích cực trồng cây phủ xanh đồi trọc. Đối với nạn phá rừng, Nhà nước cần có những chính sách chặt chẽ cũng như biện pháp xử lí nghiêm minh nhằm răn đe mọi người.
Bảo vệ rừng không phải là vấn đề của riêng ai. Vì sức khỏe của bản thân, gia đình và xã hội, chúng ta hãy cùng chung tay góp sức bảo vệ rừng!
bạn tự cắt ý ra nhé
Rừng ở đây được hiểu là một quần thể cây cối sinh sống, nảy nở trên một vùng đất rộng lớn, cao hơn so với đồng bằng. Rừng được trồng nhiều loại cây, có thể cây lấy gỗ hoặc cây che bóng mát. Ở Việt Nam, diện tích đồi núi chiếm 3⁄4 so với mặt bằng chung, vì vậy có thể nói nước ta rất đa dạng và phong phú về nguồn tài nguyên rừng.
Rừng vẫn được xem là nguồn tài nguyên thiên nhiên lưu trữ một lượng gỗ lớn của đất nước cũng như giúp ngăn ngừa các hiện tượng của tự nhiên như thiên tai, bão lũ, sạt lở đất, cát lấn.
Hằng ngày chúng ta hít vào khí O2 và thải ra khí CO2. Và nơi cung cấp khí O2 chính là cây xanh. Cây xanh giúp lọc khí bẩn, điều hòa môi trường, mang lại sự trong lành cho con người. Bởi vậy mới có câu nói "Rừng là lá phổi xanh của nhân loại". Đúng vậy khu rừng có màu xanh để điểu hòa, thanh lọc không khí độc hại, giúp đảm bảo sức khỏe của con người không bị suy giảm.
Rừng được tạo nên từ cây, hàng nghìn, hàng vạn cây mọc san sát nhau. Lượng khí O2 mà rừng cung cấp hằng năm nhiều khi chưa đủ cho loài người. Tuy nhiên khi rừng vẫn được bảo vệ thì cuộc sống con người vẫn được bảo vệ.
Thực trạng thiên tai hằng năm diễn ra ở nước ta rất nhiều như bão lũ, sạt lở đất, cát lấn. Nếu không có hệ thống rừng phòng hộ, rừng ngập mặn được chăm sóc hằng năm thì liệu rằng con số thiệt hại do thiên tai mang đến không dừng lại ở mức đã thống kê. Nhờ có rừng mà ngăn chặn được dòng nước lũ, ngăn chặn cát xâm chiếm đồng bằng. Có thể nói rừng chính là bùa hộ mệnh, giúp cho đời sống con người luôn được bình an.
Hằng năm, lượng gỗ mà rừng cung cấp không đếm hết. Sản lượng gỗ quý ngày càng gia tăng, giúp tạo ra nhiều sản phẩm mỹ nghệ, điêu khắc tinh xảo, tuyệt đẹp. Hơn hết rừng còn là nơi trú ngụ, sinh sống của các loài động vật hoang dã. Chúng xem rừng chính là ngôi nhà bình yên nhất,
Rừng có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống mỗi người nhưng hiện nay tình trạng rừng xuống cấp, cháy rừng, đốt rừng làm nương rẫy, phá rừng đang diễn ra ngày càng trầm trọng. Chính những hành động này đã dẫn đến việc rừng bị suy thoái. Có thể rất nhiều người không lường trước được hậu quả nặng nề khi phá rừng bừa bãi như vậy.
Trái đất đang ngày càng nóng lên, băng tan ra, cát tặc xâm lấn đã gây ra bao nhiêu bất an cho con người. Nếu như ý thức của người dân về bảo vệ rừng không được nâng cao thì chắc chắn sẽ còn nhiều thiệt hại lớn hơn nữa.
Vào mùa khô, tình trạng cháy rừng diễn ra tràn lan khiến cho tài nguyên gỗ bị mất đi rất nhiều, dẫn đến hiện tượng xói mòn đất, phủ xanh đồi trọc đang dần bị mất đi. Bởi vậy ý thức của mỗi người về bảo vệ rừng cần thiết phải được nâng cao. Đó cũng chính là trách nhiệm của chúng ta, để bảo vệ chính chúng ta.
Như vậy, bảo vệ rừng, xây dựng và phát rừng hiện nay đang là một bài toán cấp bách cho các cơ quan chức năng cũng như của người dân đang rất nan giải. Mỗi người cần thiết phải xây dựng cho mình ý thức bảo vệ rừng, cũng như là đang bảo vệ chính cuộc sống của mình.
Bài Mẫu Số 4: Hãy Chứng Minh Rằng Bảo Vệ Rừng Bảo Vệ Cuộc Sống Của Chúng Ta
Từ xưa nhân dân ta thuờng đuợc rằng "rừng vàng biển bạc". bởi lẽ rừng là nguồn tài nguyên rất phong phú nó tiềm ẩn kho báu vô tận và lúc nào cũng sẳn sàng phục vụ cho đời sống con người. Chính vì rừng mang có lợi ít cho con người nên bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chúng ta
Cuộc sống hàng ngày của con người lại nhìn thấy được giá trị quí báu của rừng. Rừng đã cung cấp cho chúng ta các loại gỗ: gỗ tạp dùng làm vật dụng, làm củi đốt, gỗ quí thì làm vật liệu xây dựng đóng tủ bàn ghế, cung cấp nguyên liệu cho nền công nghiệp hiện đại. Rừng còn cung cấp thảo dược phục vụ cho y học.
Các loại cây quí hiếm có thể trị các bệnh nan y thường trong rừng sâu đuợc những thầy thuốc tìm nguyên cứu để chế biến theo phương pháp gia truyền. Ngoài ra những cánh rừng già, rừng nguyên sinh ấy còn là nơi sinh sống của các loài vật quí phục vụ lợi ít cho con người như báo, nai, hươu, voi, và nhiều loài chim quí lạ. Còn rừng bảo vệ đời sống con nguời, không còn rừng con người sẽ khổ bởi thiên tai lũ lụt. Không có rừng xanh thì làm sao bảo vệ môi trường sống con người cung cấp động vật quí hiếm và cảnh thiên nhiên đẹp nữa. Rừng sẽ giúp cho khí hậu được ôn hoà, trong không khí do khó toả nhà máy, xe cộ gây nên.
Đây là sự ưu đãi của thiên nhiên đối với loài người. Cả thế giới muốn có môi trường rừng tốt sạch và xanh. Cần thiết phải biết trồng cây gây rừng, đốn một cây cổ thụ phải biết chuẩn bị truớc loạt cây con. Chúng ta giữ mới màu xanh của rừng được xanh tươi mãi.
Quả thật, rừng vô cùng quí đối với đời sống con người. Yêu quý rừng, bảo vệ rừng là nhiệm vụ của tất cả mọi người chứ không phải của riêng ai. Ta đã biết cuộc sống của chúng ta. Cả một thế giới loài vật thật phong phú là nguồn tài sản vô giá của rừng dành cho con người.
Rừng là nơi cung cấp nhiều tài nguyên thiên thiên cho chúng ta.chẳng hạn như gỗ để làm đổ mỹ nghệ,vỏ cây để làm giấy,...Rừng còn chống lũ lụt,tạo nhiều khí ô xi cho chúng ta và lưu trữ vô số loài động vật quý hiếm.những điều đó đề có lợi cho chúng ta nên chúng ta hãy bảo vệ rừng khỏi những bọn lâm tặc phá rừng đốt rừng .nếu để cúng lộng hành thì bầu không khí toàn cầu sẽ ô nhiễm nặng nề và có một màu đen tối làm mất cảnh quan đo thị .sẽ làm mất đi nhiều tài nguyên thiên thiên quý giá.
Dàn ý:
I- MỞ BÀI
Thiên nhiên ưu đãi cho nước ta không chỉ biển bạc mà còn cả rừng vàng. Rừng mang lại cho con người chúng ta những nguồn lợi vô cùng to lớn về vật chất. Và hơn thế nữa, thực tế cho thấy rằng, cao hơn cả giá trị vật chất, rừng còn là chính cuộc sống của chúng ta.
II- THÂN BÀI
– Chứng minh bảo vệ rừng là bảo vệ những nguồn lợi kinh tế to lớn mà rừng đem lại cho con người
+ Rừng cho gỗ quý, dược liệu, thú, khoáng sản,…
+ Rừng thu hút khách du lịch sinh thái.
– Chứng minh rừng đã góp phần bảo vệ an ninh quốc phòng.
+ Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
+ Rừng đã cùng con người đánh giặc
+ Rừng là ngôi nhà chung của muôn loài thực vật, trong đó có những loài vô cùng quý hiếm. Ngôi nhà ấy không được bảo vệ, sẽ dẫn đến những hậu quả không nhỏ về mặt sinh thái. Sự phá phách của voi dữ Tánh Linh là một ví dụ.
+ Rừng là lá phổi xanh. Chỉ riêng hình ảnh lá phổi cũng đã nói lên sự quan trọng vô cùng của rừng với cuộc sống con người.
+ Rừng ngán nước lũ, chống xói mòn, điều hòa khí hậu. Hầu như mọi hiện tượng bất thường của khí hậu đều có nguồn gốc từ việc con người không bảo vệ rừng. Ở Việt Nam chúng ta, suốt từ Bắc chí Nam, lũ lụt, hạn hán xảy ra liên miên trong nhiều năm qua là bởi rừng đã bị con người khai thác, chặt phá không thương tiếc.
III- KỂT BÀI
– Khẳng định lại vai trò to lớn của rừng
– Khẳng định ý nghĩa của việc bảo vệ rừng
– Nêu trách nhiệm cụ thể: bảo vệ rừng tức là khai thác có kế hoạch; không chặt phá, đốt rừng bừa bãi; trồng rừng, khôi phục những khu rừng bị tàn phá.
Rừng được ví như lá phổi xanh của con người. Chính vì vậy, bảo vệ rừng chính là bảo vệ cuộc sống của chúng ta.
Rừng là nơi cây xanh phát triển. Như ta đã biết, cây xanh khi quang hợp sẽ tiếp nhận khí các-bo-níc và thải ra khí ô-xi – rất cần thiết cho quá trình hô hấp của con người nói riêng và nhiều loài động vật trên thế giới nói chung.
Nhờ cây xanh mà bầu không khí trở nên trong lành, giảm thiểu những tác nhân gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn, … góp phần phòng chống thiên tai, bão lũ vốn gây ra nhiều thiệt hại về người và của. Không những thế, rừng còn được trồng vì mục đích phát triển kinh tế. Rừng là nguồn cung cấp gỗ cho các nhà máy sản xuất đồ nội thất, làm giấy,… Rừng cũng là nơi cư trú của nhiều loại động vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng: hổ, khỉ, hươu, … Nhờ có rừng, hệ sinh thái được cân bằng.
Tuy nhiên, dù vai trò quan trọng của rừng nhưng nạn khai thác rừng vẫn diễn ra từng ngày. Chỉ vì cái lợi trước mắt, họ bỏ qua những lợi ích lâu dài mà rừng đem lại. Rừng đầu nguồn bị chặt phá làm cho lũ lụt xảy ra triền miên, làm xói mòn đất đai, nhiều người mất của cải và thậm chí là thiệt mạng. Nhiều cây quý hiếm trong rừng bị chặt phá khiến cho nhiều loài động vật bị mất đi nơi trú ngụ của mình. Nạn đốt rừng làm nương rẫy cũng làm cho diện tích rừng suy giảm nghiêm trọng.
Để bảo vệ rừng, chúng ta cần có những hành động thiết thực ngay từ bây giờ. Cần tuyên truyền, nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ rừng. Những vùng thường hay xảy ra thiên tai, bão lũ cần trồng rừng đầu nguồn. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần tích cực trồng cây phủ xanh đồi trọc. Đối với nạn phá rừng, Nhà nước cần có những chính sách chặt chẽ cũng như biện pháp xử lí nghiêm minh nhằm răn đe mọi người.
Bảo vệ rừng không phải là vấn đề của riêng ai. Vì sức khỏe của bản thân, gia đình và xã hội, chúng ta hãy cùng chung tay góp sức bảo vệ rừng!
BẠn tham khảo ở đây nha, chúc bạn học tốt
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *