Bài giảng Kiểm tra phần Văn giúp các em ôn lại kiến thức các bài văn đã học và nắm rõ được nội dung cũng như nghệ thuật của các bài văn đã học. Qua đó giúp các em chuẩn bị cho bài kiểm tra đạt kết quả cao.
Câu 1. Có thể chọn một trong các câu ca dao trong bài "Ca dao, dân ca những câu hát về tình cảm gia đình"
Câu 2. Có thể chọn bài thơ trữ tình "Sông núi nước Nam" thuộc phần văn học trung đại Việt Nam.
Câu 3.
Cử đầu vọng minh nguyệt.
Đê đầu tư cố hương
Dịch thơ
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
Toàn bộ bài thơ thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía tình quê hương của một người sống xa nhà trong đêm trăng thanh tĩnh, nhưng ở hai câu cuối thể hiện điều đó rõ nhất. Nội tâm của người ngắm cảnh được biểu hiện qua hai hành động đối lập ngẩng đầu và cúi đầu. Ngẩng đầu nhìn vầng trăng vằng vặc bao la mênh mông, ở trên cao, một mình trăng giữa cả một bầu trời quá rộng, trăng cô đơn lẻ loi. Dưới mặt đất đêm mênh mông chỉ mình người lữ thứ đang thức ngắm nhìn trăng. Trăng và người cùng cảnh ngộ, cùng tâm sự nỗi niềm nhưng trăng trên cao, người dưới thấp đối diện mà không được chia sẻ nỗi lòng, không chia sẻ được tâm sự đầy vơi.
Hành động cúi đầu như là một hệ quả tất yếu, Người lữ thứ nhớ về những người thân yêu ở quê nhà, nhớ mảnh đất quê hương gắn bó mà giờ mình đang phải xa cách nghìn trùng. Và cũng có thể nhớ về một đên trăng tương tự như thế được ở bên bạn bè để vừa làm thơ, uống rượu và ngắm trăng.
Trong đời người chắc chắn ai cũng có một lần xa quê, nhưng có ngắm vầng trăng sáng nơi đất khăchs quê người thì mới thấu hiểu tâm trạng người lữ thứ. Vào mỗi lần nhìn vầng trăng sáng, bài thơ cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của Lý Bạch lại trào dâng trong tâm hồn để rồi đến lượt mình ta lại: Đê đầu tư cố hương như thi Tiên hàng nghìn năm trước.
Câu 4. Xem lại bài thơ Cảnh khuya và Rằm tháng riêng
Câu 5. Em cảm nhận gì về tình cảm quê hương đất nước của tác giả qua việc hồi tưởng hình ảnh mùa xuân trên đất Bắc trong bài Mùa xuân của tôi.
Câu 6. Có thể chọn một trong các câu ca dao trong bài "Tục ngữ về thiên nhiên lao động sản xuất"
Xem lại bài tục ngữ về Thiên nhiên lao động sản xuất.
Câu 7.
Câu 8. Chứng minh ý kiến của Hoài Thanh: "Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có"
Văn chương là 1 vẻ đẹp, một sự tươi sáng và là phép màu của tự nhiên ban tặng cho cuộc sống của chúng ta. Văn chương đem lại cho bạn đọc nhung cảm xúc mới lạ như: lòng biết ơn, sự đồng cảm, đức tính hi sinh cao cả,... ngoài việc cho ta những tình cảm mới, văn chương còn luyện cho ta những tinh cảm ta sẵn có. Khi đọc văn bản "Cuộc chia tay của những con búp bê" chắc hẳn ai cũng sẽ đồng cảm xót xa cho 2 anh em Thành và Thủy khi bị xa nhau vì cuộc hôn nhân của bố mẹ bị đổ vỡ. Hoặc Khi đọc một mẩu truyện vui nào đó thì mọi người cũng sẽ có những phút giây thư giãn đầy bổ ích vì những tiếng cười và niềm vui mà trong truyện mang lại. Vậy chẳng phải những tác phẩm, những mẩu truyện là văn chương đã gâ cho ta những tình cảm ta không có sao? Rồi cũng cính cái phép màu mang tên văn chương ấy cũng đã tôi luyện, vun đắp những tình cảm mà ta sẵn có. "Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có", từ gây ở đây còn chỉ sự tiêu cực. Nếu chúng ta đọc những sách báo không phù hợp với lứa tuổi thì nó sẽ làm cho con người sa lầy vào những điều không tốt và phai mờ giá trị thật sự tốt đẹp của văn chương. Vì vậy chúng ta phải góp phần vào việc xây dựng hình ảnh văn chương ngày một tốt đẹp hơn.
Câu 9. Xem lại bài Sống chết mặc bay
Câu 10. Xem lại bài những trò lố hay Va - ren và Phan Bội Châu.
Câu 11.
Giải thích thành ngữ "Oan Thị Kính"
Thành ngữ là hiện tượng vô cùng độc đáo của tiếng Việt. Tuy ít chữ nhưng dưới cái vô hình thức ấy chứa đựng biết bao ý nghĩa sâu xa, thâm tuý. Từ lâu, trong dân gian đã lưu truyền câu thành ngữ "Oan Thị Kính" để nói về những nỗi oan ức cùng cực và không thể giãi bày. Cuộc đời Thị Kính là sự chồng chất của những nổi oan. Tiếng xấu hại chồng là nỗi oan đầu tiên, cũng là khởi đầu của cuộc đời đầy oan nghiệt.
Thiện Sỹ là chồng của Thị Kính. Một lần đọc sách mệt, chàng ngủ thiếp đi từ lúc nào. Thấy trên cằm chàng có sợi râu mọc ngược, nghĩ là điềm gở. Nhân lúc chồng đang ngủ, Thị Kính dùng dao cắt sợi râu đó đi. Giật mình thức giấc, chẳng hiểu thực hư ra sao, chàng lu loa rằng vợ dùng dao định giết mình. Thế là nàng mang tội tầy đình, bị chồng ruồng bỏ, xã hội lên án. Nỗi oan này, nàng không sao giãi bày được. Oan ức, đau khổ quá, nàng cắt tóc giả trai đi tu. Những tưởng nhờ nơi cửa Phật để cõi lòng được bằng an, và được yên phận với những tháng ngày còn lại, nhưng nào có được như thế. Với vai chú tiểu, Thị Kính đã làm say lòng Thị Mầu lẳng lơ. Bao lần tán tỉnh, nhưng Thị Mầu không sao làm siêu lòng "chú tiểu". Bỗng nhiên, Thị Mầu bụng mang dạ chửa, vu vạ cho "chú tiểu" ăn nằm với chị. Một lần nữa, Thị Kính mang tội, bị đuổi ra khỏi chùa. Suốt mấy năm ròng, Thị Kính bồng bế đứa con Thị Mầu đi xin từng giọt sữa và chịu bao tai tiếng nhục nhã. Cho đến khi nàng chết, sự thật mới sáng rõ. Dẫu rằng, nàng được về cõi Niết bàn, nhưng nỗi oan của nàng là một cái gì đó quá nặng nề với người đời.
"Oan Thị Kính" là thành ngữ được dùng để so sánh với những nỗi oan khuất cùng cực mà không giãy bày được.
Để ôn lại kiến thức các bài văn đã học, các em có thể tham khảo
bài soạn Kiểm tra phần văn lớp 7 học kì 2.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 7 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
1. Hãy giải thích tên gọi "quan phụ mẫu" và tên văn bản "Sống chết mặc bay". 2. Tại sao nói ca Huế là một thú vui tao nhã? 3. Trình bày cảnh đối lập và phép tăng cấp trong truyện "Sống chết mặc bay". Giúp với, tuần sau thi rr .-.
Câu trả lời của bạn
3. Trình bày cảnh đối lập và phép tăng cấp trong truyện "Sống chết mặc bay".
a) Phép đối lập ( tương phản )
- Giữa thiên nhiên và người dân :
+ Thiên nhiên hung dữ ( có thêm d/chứng : nc sông Nhị Hà lên quá to, khúc đê núng thế ... )
+ Người dân đuối dần, bất lực ( vất vả, lấm láp, gội gió tắm mưa, căng thẳng, lo lắng đến cực độ muôn dân lầm than ... )
- Giữa cảnh hộ đê và cảnh quan phủ và nha lại trong đình :
+ Cảnh hộ đê:
. Lúc 1 giờ đêm => sự nguy cấp of vc hộ đê
. Nơi khúc đê sắp vỡ dòng nc cuồn cuộn, hung dữ, đang ào ạt tấn công, mưa tầm tã trút xuống
. Không khí nhốn nháo, căng thẳng, xao xác gọi nhay hộ đê, náo động, lộn xộn, vất vả ...
-> Nxet : Cảnh LĐ cực nhọc, vất vả, căng thằng -> thái độ thương cảm, đồng cam cộng khổ của t.g
+ Cảnh quan phủ và nha lại trong đình
. Lúc 1 giờ đêm => ăn chơi thâu đêm suốt sáng
. Trong đình, nơi cao ráo, đèn thắp sáng trưng, kẻ hầu ng` hạ đi lại nhộn nhịp
. Ko khí tĩnh mịch, trang nghiêm; tên quan ngồi uy nghĩ chễm chện, .... ( bạn liệt kê nh~ d/chứng để làm rõ thái độ, uy thế, vô trách nhiệm, lòng lang dạ thú, vô cảm của tên quan phụ mẫu )
-> Nxet : Cảnh ăn chơi phè phỡn, xa hoa, vô trách nhiệm vs công việc, vs người dân của tên quan -> Thái độ căm phẫn, lên án của t/giả
b) Phép tăng cấp :
- Nc sông càng ngày càng dâng cao ( d/chứng cụ thể )
- Sự ham mê bài bạc, vô trách nhiệm của tên quan phụ mẫu
=> Hai thủ pháp tương phản + tăng cấp kết hợp, đan xen lẫn nhau làm rõ bộ mặt thật của tên quan phụ mẫu và khắc sâu thêm chủ đề, tư tưởng của truyện ngắn và qua đó, h/ảnh tên quan phụ mẫu cũng chính là hình ảnh điển hình tiêu biểu của bọn quan lại trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Câu trả lời của bạn
Phạm Duy Tốn là một cây bút viết truyện ngắn xuất sắc nhất của những năm đầu thế kỷ XX. Một trong số những tác phẩm ông để lại, Sống chết mặc bay là truyện ngắn tiêu biểu hơn cả, nó được coi như một trong những tác phẩm mở đầu cho khuynh hướng văn học hiện thực phê phán sau này. Trong Sống chết mặc bay, tác giả đã tái hiện khá sinh động bức tranh đối lập giữa đời sống khổ cực của nhân dân với cuộc sống phè phỡn xa hoa của lũ quan lại. Viết Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn đã mạnh mẽ tố cáo thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời. Mở đầu tác phẩm, tác giả đã xây dựng một tình huống độc đáo được đặt trong sự đối lập gay gắt. Một bên là tình cảnh vô cùng nguy khốn của dân chúng: "Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thẩm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất". Tính mạng "con dân" cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Quang cảnh hàng trăm ngàn con người đang ra sức chống chọi lại với cơn lũ thật khẩn trương, vất vả. "Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre", "người nào người nấy lướt thướt như chuột lột". Một bên là cảnh quan huyện "kẻ cha mẹ của dân" có trách nhiệm đốc thúc dân chúng bảo vệ đê thì lại đang chễm chệ trong đình "cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng chẳng việc gì". Ngoài kia con dân đang chân lấm tay bùn, đem thân hèn yếu để chống chọi lại với sức nước thì trong đình "đèn thắp sáng trưng", "nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn rịp". Dường như ngoài kia và trong này là cả hai thế giới khác biệt hoàn toàn. Nếu ngoài kia là thảm cảnh thì trong này là thú vui. Ngoài kia gấp gáp khẩn trương, trong này thong dong nhàn nhã. Cái náo loạn đặt bên cạnh cái yên ả. Trái với "con dân" đang "trăm lo ngàn sợ", quan phụ mẫu "uy nghi chễm chện ngồi" như không hề hay biết đến tình trạng thảm thương của dân chúng. Dựng lên hai cảnh đối lập gay gắt đó, tác giả vạch trần thói vô trách nhiệm của bọn quan lại đương thời. Trong tình cảnh ấy, vô trách nhiệm chính là một tội ác. Người đọc không thể tưởng tượng được trong tình thế nan nguy của tính mạng hàng ngàn người dân mà quan phụ mẫu vẫn điềm nhiên đánh bạc và hưởng lạc. Trong khi "sức người khó lòng địch nổi sức trời" thì bọn nha lại tay chân chỉ mải lo hầu bài quan. Bản chất vô nhân đạo, lối sống "sống chết mặc bay" của tên quan huyện đã lộ rõ. Mưa gió và sinh mạng hàng ngàn con người không được quan chú ý bằng một trăm hai mươi lá bài. Không khí trong đình vẫn tĩnh mịch y trang, chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi "điếu mày", tiếng "dạ", tiếng "bốc", "Bát sách! Ăn", "Thất văn... phỗng"... Thú vui bài bạc, ma lực đỏ đen đã làm bọn quan lại đánh mất lương tri, nhân tính. "Nước sông dầu nguy không bằng nước bài cao thấp", hình ảnh so sánh thể hiện sự táng tận lương tâm của lũ vô lại. Cuối cùng, đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai "đê vỡ rồi thời ông cách cổ *********". Đoạn, lại bình thản quay mặt hỏi thầy đề: "Thầy bốc quân gì thế?". Ván bài "ù to". Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy "nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết"... Với việc sử dụng triệt để thủ pháp tương phản đối lập và nghệ thuật xây dựng tình huống truyện gay gắt; với giọng văn khi thiết tha xúc động, khi cay độc, mỉa mai,... Phạm Duy Tốn đã trực tiếp bày tỏ thái độ cảm thông sâu sắc của mình trước thảm cảnh của dân chúng và lòng căm uất phẫn nộ bọn quan lại phong kiến.
Phạm Duy Tốn (1883 – 1924), nguyên quán làngPhượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây; sinh quán thôn Đông Thọ (nay là phố Hàng Dầu, Hà Nội),ông là một trong số ít người có thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại. Và một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là Sống chết mặc bay. Với hai bức tranh đời tương phản, tác giả đã phản ánh rõ nét toàn cảnh xã hội phong kiến thời xưa
Đối tượng miêu tả | Tăng cấp |
Cảnh thiên nhiên và nguy cơ vỡ đê | - Trời mưa tầm tã, nước sông Nhị Hà lên to quá, khúc đê làng X, thuộc phủ X, xem chừng núng thế… - Trên trời vẫn mưa tầm mưa tã trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên.. - Có tiếng ào ào như thác chảy xiết, rồi tiếng gà, chó, …kêu vang tứ phía. - Nước trang lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết… |
Sự vất vả, căng thẳng của người dân hộ đê | - Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ thì đội đất, kẻ vác tre.. - Tuy trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi, tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ, nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lử.. - Vừa lúc đó thì tiếng người kêu rầm rĩ, càng nghe càng lớn. - Kẻ sống không chỗ ẻ, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh trên mặt nước… |
Mức độ đam mê cờ bạc của quan phủ | - Ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa hết hội thì dầu trời long lở đất, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thây kệ. - …đê vỡ mặc đê, nước sông dù nguy, không bằng nước bài cao thấp. Đứng trên đê mà đốc kể cắm cừ, người đổ đất, lắm nỗi lầm than, sao bằng ngồi trong đình, đã săn kẻ bốc nọc, người chia bài, nhiều đường thú vị. - Mặc! Dân, chẳng dân thì chớ! Con bài ngon há nỡ bỏ hoài ru! Quan lớn ngài ăn, ngài đánh, .. - … Nghe ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. - Khi có người xông vào báo tin đê vỡ thì ngài đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng: "Ông cách cổ chúng mày, bỏ tù chúng mày". |
Nhận xét: có tác dụng làm bản chất “lòng lang dạ thú” bất nhân, thất đức, hống hách, bạo tàn của tên quan từng bước từng bước lộ ra dần và cuối cùng người đọc thấy được nguyên hình của hắn.
Em hãy giải thích tại ao tác giả Phạm Duy Tốn lại đặt tên chuyện là"Sống chết mặc bay".Em hãy giải thích qua nội dung chuyện.
Câu trả lời của bạn
Trong những tác phẩm của Phạm Duy Tốn, một trong số ít nhà văn có được thành tựu đầu tiên về thể loại truyện ngắn hiện đại Việt Nam, “Sống chết mặc bay” trở thành tác phẩm thành công nhất, đồng thời nó cũng là tác phẩm được ra đời đầu tiên của truyện ngắn hiện đại Việt Nam. “Sống chết mặc bay” là một nhan đề hay, không những thế nó còn là một nhan đề mới mẻ, độc đáo. Tại sao lại là “Sống chết mặc bay” mà không là bất cứ một nhan đề nào khác? Nhan đề bắt nguồn từ một câu tục ngữ nổi tiếng và rất quen thuộc của dân gian ta “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Câu tục ngữ như một lời phê phán, lên án trước thái độ của những kẻ chỉ biết vun vén, lo cho lợi riêng mình trong khi đó lại thản nhiên, lãnh đạm, thờ ơ thậm chí vô lương tâm trước tính mạng của những con người mà mình phải có trách nhiệm. Nhưng tại sao tác giả lại chỉ chọn phần đầu của câu tục ngữ mà không chọn cả câu? Có lẽ một phần là bởi vì nó gây lên sự hấp dẫn, kích thích người đọc và gây ấn tượng. Cũng một phần là bởi vì chỉ có phần đầu mới phù hợp với nội dung, cốt truyện. Tuy câu tục ngữ có ý nghĩa hợp với nội dung truyện nhưng không phải hoàn toàn đúng, hoàn toàn thích hợp, nhất là phần sau “tiền thầy bỏ túi” không phù hợp với nội dung của truyện. Phạm Duy Tốn không có ý định xây dựng hình ảnh một viên quan tham. Trong truyện, nhân vật trung tâm là lão quan phụ mẫu vô trách nhiệm, thờ ơ trước sinh mạnghàng trăm, hàng ngàn người dân lành vô tội, lão chỉ quan tâm đến sự hưởng thụ của bản thân mình mà thôi. Sự lựa chọn, cách đặt nhan đề của nhà văn Phạm Duy Tốn rất độc đáo và chính xác, nó tạo nên sự kỳ thú, hấp dẫn kích thích trí tò mò người đọc, người nghe. Nó còn nâng cao thêm giá trị tác phẩm, không những thế, từ nhan đề ấy người đọc có thể khái quát được những đặc điểm nổi bật tiêu biểu của nhân vật trung tâm – tên quan phụ mẫu mà không làm mất đi tính lôi cuốn của nhan đề. Tác phẩm “Sống chết mặc bay” đã được đánh giá rất cao về nghệ thuật cũng như về nội dung. Bằng cách xây dựng nhân vật qua nhiều hình thức ngôn ngữ như tả, kể và đặc biệt là đối thoại, tác giả đã đưa ta đến với cuộc sống vinh hoa phú quý của bọn cầm quyền độc ác mà cụ thể là cuộc sống của tên quan phụ mẫu có trách nhiệm hộ đê trong truyện: Một người quan uy nghi, chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên đứng khoanh tay trực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng và cơ man những vật dụng quý phái sang trọng khác. Cuộc sống ấy hoàn toàn trái ngược với cuộc sống lầm than, cơ cực của nhân dân. Sung sướng vậy thì việc gì phải quan tâm ai! “Sống chết mặc bay” cần gì lo nghĩ, cần gì bận tâm cứ hưởng lạc là được rồi. Nhan đề truyện ngắn đã tích cực góp phần khắc họa chủ đề và làm nổi bật tính cách nhân vật. Thông qua tên quan phủ, tác giả đã lên án thái độ vô trách nhiệm, vô lương tâm bè lũ quan lại cầm quyền đồng thời tỏ ra thương xót cho tính mạng người dân bị rẻ rúng, đó cũng chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm. “Sống chết mặc bay” là một nhan đề hay, đặc sắc, chính nó đã làm cho giá trị của tác phẩm được đề cao nhấn mạnh. Một lần nữa ta khẳng định sức hấp dẫn, lôi cuốn, thu hút của nhan đề “Sống chết mặc bay”.
Vì sao tác giả đặt tên truyện là ''Sống chết mặc bay''? Em hãy viết thành 1 đoạn văn giải thích.
Giúp mk với~
Câu trả lời của bạn
Sống chết mặc bay là nhan đề lấy trong câu tục ngữ:''Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi''. Nhan đề "Sống chết mặc bay" có dụng ý phê phán tên quan phủ dù trời mưa, đê có nguy cơ bị vỡ nhưng vẫn không thèm quan tâm mà còn ung dungn ngồi bên trong đình trên mặt đê để đánh tổ tôm. Khi thấy người đến báo cáo đê bị vỡ thì nhẫn tâm đuổi đi mà chẳng quan tâm gì. Phạm Duy Tốn đã viết truyện này để bày tỏ sự thương xót đối với cuộc sống lầm than, cực khổ của nhân dân. Đồng thời, tác phẩm có dụng ý phê phán sự thờ ơ, bỏ mặc dân, vô trách nhiệm của tên quan phủ phong kiến trước cảnh đê bị vỡ, người dân tuyệt vọng dưới cơn thinh nộ của trời....
Nhan đề bắ nguồn từ một câu tục ngữ nỗi tiếng và rất quen thuộc của dân gjan ta "Sống chết mặc bay,tiền thầy bỏ túi".Câu tục ngữ như một lời phê phán,lên án trước thái độ của những kẻ chỉ biết vun vén,lo cho lợi rjêng mình trong khj đó lại thản nhjên,lãnh đạm,thờ ơ thậm chí vô lương tâm trước tính mạng của những con người mà mình phải có trách nhjệm.Sự lựa chọn,cách đặt nhan đề của nhà văn Phạm Duy Tốn rất độc đáo và chính xác,nó tạo nên sự kỳ thú kích thích trí tò mò người đọc,người nghe.Từ nhan đề ấy người đọc có thể khái quát được những đặc điểm nổi bật tiêu biểu của nhân vật trung tâm-tên quan phụ mẫu mà ko làm mất đi tính lôi cuốn của nhan đề.Bằng cách xây dựng nhân vật qua nhjều hình thức ngôn ngữ như tả,kể và đặc biệt là đối thoại,tác giả đã đưa ta đến vs cuộc sống vjnh hoa phú quý của bọn cầm quyền độc ác mà cụ thể là cuộc sống của tên quan phụ mẫu có trách nhjệm hộ đê trong truyện.Một người quan uy nghj,chễm chệ ngồi.Tay trái dựa gối xếp,chân phải duỗi thẳng ra,để cho tên người nhà qùy ở dưới đất mà gãi.Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt lông chốc chốc sẽ phẩy...Cuộc sống ấy hoàn toàn trái ngược vs cuộc sống lầm than,cơ cực của nhân dân.Sung sướng vậy thì việc gì phải quan tâm ai."sống chết mặc bay"cần gì lo nghĩ,cần gì bận tâm cứ hưởng lạc được rồi.Nhan đề truyện ngắn đã tích cực góp phần khắc họa chử đề và làm nổi bật tính cách nhân vật.Thông qua tên quan phủ,tác gjả đã lên án thái độ vô trách nhjệm,vô lương tâm bè lũ quam lạj cầm quyền đồng thời tỏ ra thương xót cho tính mạng người dân bị rẻ túng,đó cũng chính là gjá trị nhân đạo của tác phẩm.
Nhận xét về dụng ý của tác giả khi xây dựng cảnh tương phản
Câu trả lời của bạn
Tác giả dựng lên hai cảnh tương phản như vậy nhăm mục đích so sánh, làm nổi bật sự đối lập và từ đó tạo nên một tình huống đầy kịch tính: Trong lúc nhân dân đang rơi vào một tình cảnh vô cùng bi đát thì bọn quan lại vẫn nghiễm nhiên sông một cuộc sống xa hoa, phù phiếm, vô trách nhiệm. Với sự thành công trong việc xây dựng hai hình ảnh đôi lập như trên, tác giả đã đạt được hai mục đích: Vừa lên án gay gắt tên quan phủ lòng lang dạ thú, vô trách nhiệm trước tính mạng và cuộc sống của người dân; vừa bày tỏ niềm xót thương trước “nghìn sầu muôn thảm” của nhân dân trong cảnh đê vỡ.
Nêu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm sống chết mặc bay
Câu trả lời của bạn
- Nội dung: Tác phẩm "Sống chết mặc bay" là một tác phẩm của nhà văn Phạm Huy Tốn. Đây là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Truyện lấy bối cảnh nông thôn Việt Nam đầu thế kỷ XX khi một khúc đê bên sông Nhị Hà đang bị mưa gió làm vỡ, nhưng trong đình thì tên quan phủ vẫn bỏ mặc người dân dưới cơn thịnh nộ của trời.
"Sống chết mặc bay" là một nhan đề hay, việc lấy nhan đề của tác phẩm đã thể hiện đúng với những gì mà nhân vật quan phủ trong tác phẩm đã thể hiện. "Sống chết mặc bay" quả thật là một nhan đề rất độc đáo.
Nhan đề Sống chết mặc bay đã có dụng ý phê phán tên quan phủ dù trời mưa, đê có nguy cơ bị vỡ nhưng vẫn không thèm quan tâm mà còn ung dung ngồi bên trong đình trên mặt đê để đánh tổ tôm. Trong khi dân phu phải gánh chịu sự thịnh nộ của trời, vừa phải giữ đê để nó không vỡ, ảnh hưởng đến đời sống của các hộ dân sống quanh. Khi thấy người đến báo cáo đê bị vỡ hắn nhẫn tâm đuổi đi mà chẳng quan tâm gì.
Phạm Duy Tốn đã viết truyện này để bày tỏ sự thương xót đối với cuộc sống lầm than, cực khổ của nhân dân. Đồng thời, tác phẩm có dụng ý phê phán sự thờ ơ, bỏ mặc dân, vô trách nhiệm của tên quan phủ phong kiến trước cảnh đê bị vỡ, người dân tuyệt vọng dưới cơn thinh nộ của trời.
- Nghệ thuật:
a. Giá trị hiện thực: Phản ánh sự đối lập hoàn toàn giữa cuộc sống của nhân dân với cuộc sống của bọn quan lại mà kẻ đứng đầu ở đây là tên quan phủ trước sinh mạng của người dân.
b. Giá trị nhân đạo: Thể hiện niềm cảm thương của tác giả trước cuộc sống lầm than cơ cực của người dân do thiên tai và thái độ vô trách nhiệm của bọn cầm quyền đưa đến.
c. Giá trị nghệ thuật: Vận dụng kết hợp hai nghệ thuật tương phản và tăng cấp thành công, miêu tả nhân vật sắc nét, sử dụng ngôn ngữ sinh động. Bằng lời văn, sinh động, bằng sự khéo léo trong việc vận dụng kết hợp hai phép tương phản và tăng cấp trong nghệ thuật. Sống chết mặc bay lên án gay gắt tên quan phủ "lòng lang dạ thú" và bày tỏ niềm cảm thương trước cảnh "nghìn sầu muôn thảm" của nhân dân do thiên tai và cũng do thái độ vô trách nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên.
Em có nhận xét gì về tên Quan phụ mẫu trong bài ''sống chết mặc bay''?
Câu trả lời của bạn
Tác phẩm lấy bối cảnh là mùa lũ về trên làng X. Giữa đêm đen nông dân cực nhọc chống chọi với mưa lũ để cứu đê: "Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thấm lâu rồi, không khéo thì vỡ mất". Tính mạng "con dân" cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. "Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre" người nào người nấy lướt thướt nhu chuột lột. Là quan huyện của dân, đáng ra, quan phải sát cánh bên dân cùng dân chống đỡ. Hay chí ít ra là phải họp bàn với các chức sắc để bàn cách đối phó. Nhưng không, khi tất cả dân đen đang hối hả lo cho khúc đê thì quan đang chễm chệ trong đình. "Cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng chẳng việc gì", trong đình "đèn thắp sáng trưng", "nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại nhộn nhịp". Giữa cảnh vui vẻ, hoan lạc ấy, quan huyện trở thành trung tâm với phong thái đường bệ, kẻ cả: Quan phụ mẫu uy nghi chễm chệ ngồi". “Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên đứng khoanh tay trực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng và cơ man những vật dụng quý phái sang trọng khác”. Quan như không hề hay biết đến tình trạng thảm thương của dân chúng. Sự vô trách nhiệm ấy khiến người đọc bất bình và không hiểu tại sao lại có kẻ vô tình đến vậy. Là một người thường vô tâm với cảnh ngộ bi đát của dân chúng đã không đành, huống chi, đây lại là bậc quan dân!
Bản chất vô nhân đạo, lối sống "sống chết mặc bay" của tên quan huyện đã dần lộ rõ. Mưa gió và sinh mạng hàng ngàn con người không được quan chú ý bằng một trăm hai mươi lá bài đen đỏ. Không khí trong đình vẫn tĩnh mịch y trang, chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi "điếu mày”, tiếng "dạ", tiếng "bốc", "Bát sách! Ăn", "Thất văn... phỗng"... Thú vui bài bạc, ma lực đỏ đen đã làm bọn quan lại đánh mất lương tri, nhân tính. "Nước sông dẫu nguy không bằng nước bài cao thấp", hình ảnh so sánh thể hiện sự táng tận hương tâm của lũ vô lại. Cuối cùng, đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai "đê vỡ rồi thời ông cách cổ chúng mày". Đoạn, lại bình thản quay mặt hỏi thầy đề: "Thầy bốc quan gì thế?". Ván bài "ù to". Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy "nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết"…
Đến đây, không còn là sự bất bình mà là nỗi căm ghét, oán hận đã trào dâng. Tên quan phụ mẫu quá là kẻ táng tận lương tâm, lòng lang dạ sói. Hắn tưởng như không còn chút tình người và tính người trong huyết quản.
Xây dựng hình ảnh nhân vật tên quan phụ mẫu, Phạm Duy Tốn muốn tố cáo lực lượng sai nha, chức sắc phong kiến với bản chất ích kỉ, tàn nhẫn đã không có chút trách nhiệm đối với cuộc sống của nhân dân. Bỏ nhân dân trong cảnh “sống chết mặc bay" điêu linh, khốn khổ. Chính điều đó đã làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo cho bông hoa đầu mùa của truyện ngắn hiện đại Việt Nam.
Tham khảo nhé bạn!!!
Với cách kết hơp tài tình giữa phép tương phản và tâng cấp, Phạm Duy Tốn đã thể hiện rõ thái độ vô trách nhiệm, bàn quan của tên quan phụ mẫu trong tác phẩm "Sống chết mặc bay" - một tên "lòng lang dạ sói". Hãy thử tưởng tượng mà xem, khi lũ con dân của mình đang "chân lấm tay bùng, trăm lo nghìn sợ, đêm thân yếu hèn mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ lấy tính mạng gia tài" thì quan phụ mẫu lại đang say sưa trong ván bài. Với hắn, có lẽ những ván bài đỏ đen còn quan trọng gấp vạn lần tính mạng con dân. Ôi thôi, liệu cái ván bài đó có đáng để hi sinh hơn mấy trăm mạng ngươi chứ! Thật là một tên vô lại! Mà ấy còn chưa hết, thậm chí khi "đứa con" của ngài chạy vào nói:"Bẩm...quan lớn...đê vỡ mất rồi!", hắn còn quát vào mặt, đe doạ: "....Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng , thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?..." rồi đuổi ra. Thật đúng là kẻ vô lương tâm, độc ác! Liệu cái xã hội có đầy rẫy nhưng kẻ như vậy sẽ ra sao đây! Phải nói rằng, tác phẩm "Sống chết mặc bay" quả là một tác phẩm tuyệt vời, vì đã phản ánh lên lòng dã tâm, sự tàn nhẫn của quan phụ mẫu hay có thể nói quan phụ mẫu là những con sâu mọt đục khoét và làm ô huế xã hội phong kiến.
noi ten tung lan dieu ca hue o cot ben trai voi dac diem noi bat cua no o cot ben phai cho phu hop
a) cheo can, bai thai, ho dua linh | 1)Nao nuc nong hau tinh nguoi |
b)Ho gia gao, ru em, gia voi, gia diep,bai choi, bai tiem, nang vung | 2)buon ba |
c)Ho lo, ho o, xay lua, ho nen | 3)Gan gui voi dan ca Nghe Tinh |
d)Nam ai,nam binh, qua phu, nam xuan, tuong tu khuc, hanh van | 4)Buon man mac, thuong cam, bi ai, vuong van |
e)Tu dai canh | 5)Khong vui, khong buon |
6)Reo rat, du duong |
Câu trả lời của bạn
2)-a)
1)-b)
3)-c)
4)-d)
5)-e)
tóm tắt văn bản "sống chết mặc bay" của Phạm Duy Tốn? Giải thích nhan đề của truyện? Viết một đoạn văn ngắn có sử dụng một số dấu câu em đã học ở lớp 7 và phép tu từ liệt kê để nêu cảm nhận của em về nhân vật Quan Phụ Mẫu trong văn bản trên.
Câu trả lời của bạn
Tóm tắt truyện Sống chết mặc bay:
Nửa đêm, ở làng X thuộc phủ X, nước sông Nhị Hà ngày 1 dâng cao khiến khúc đê có nguy cơ vỡ. Trong lúc người dân đang cố giũ đê thì Quan phụ mẫu – kẻ được cử đi để giúp đan hộ đê lại đi chơi tổ tôm với đám nha lại trong đình. Hắn ung dung chơi bài cùng với bao kẻ hầu người hạ ngồi bên cạnh, lại còn mang biết bao đồ đạc quí hiếm để đi hộ đê. Y mải miết chơi tổ tôm đến mức ko biết gì đến những tiếng kêu, tiếng tù và của dân phu và bao người dân ở ngoài đê. Ngay cả khi có người vào báo đê vỡ nhưng hắn lại mắng chửi rồi ung dung chơi bài tiếp. Cuối cùng, khi đê đã vỡ, người dân lâm vào cảnh muôn sầu nghìn thảm cũng là lúc quan phụ mẫu cười sung sướng, hả hê khi ù ván bài lớn.
**Tiêu đề "Sống chết mặc bay" :
- Sống chết mặc bay có ý nghãi là sự thờ ơ của con người đối với người khác gặp nạn, nhìn thấy cảnh khó khăn của người khác nhưng lại làm như ko biết gì.
=> Biểu hiện của một con ngừoi vô lương tâm, vô nhân đạo.
Và trong tác phẩm "Sống chết mặc bay", Nguyễn Duy Tốn đã đưa ra rất nhiều hình ảnh trái ngược nhau của người dân đang chống chọi với con lũ, với đê vỡ và bao nhiêu điều khó khăn, tỏng khhi đó quan phụ mẫu thì lại ngồi trong lều đánh bài, kẻ hầu ngừoi hạ, ấm áp, thờ ơ với mọi chuyện đang xảy ra.
"Sống chết mặc bay" nó như một lời nói vô lương tâm của bọn quan lại đối với nhưũng người dân nghèo khổ. Đồng thời, nó cũng thể hiện cho hành động của chúng.
Tàn nhận, vô lương tâm đến đáng sợ => chính tiêu đề ấy đã phần nào nói lên ý nghĩa nhân văn của tác phẩm.
Đây chỉ là tham khảo có gì bổ sung thêm nhé!
Chúc bn học tốt
-chuẩn bị 1 bài nói về môn thể thao yêu thích của em
-yêu cầu trong vòng 5 phút
Câu trả lời của bạn
Sở thích của tôi là bơi lội. Nó cũng là môn thể thao yêu thích của tôi kể từ khi tôi còn nhỏ. Tôi học bơi từ bố. Ông ấy là một người bơi giỏi.
Bơi lội có 4 kiểu chính. Đó là: bơi sải, bơi ếch, bơi ngửa và bơi bướm. Kiểu bơi tôi yêu thích là bơi ếch. Ở kiểu này, tay và chân hoạt động lần lượt. Đầu tiên là tay kéo, sau đó chân đá ra và cả cơ thể lướt đi về phía trước với tay và chân thẳng. Tôi cũng thích bơi bướm và tôi có thể bơi sải và bơi ngửa được, nhưng không giỏi lắm.
Tôi đến hồ bơi 4 hoặc 5 lần một tuần, và tuần nào cũng vậy. Tôi luyện tập rất nhiều để nâng cao kĩ năng bơi lội của mình. Tôi muốn đạt được những kết quả tốt. Tháng trước tôi tham gia một cuộc thi bơi thành phố với 25 người khác và tôi đã thắng giải nhất.
Bơi lội không chỉ là một hoạt động ngoài giờ mà nó còn có nhiều lợi ích cho sức khỏe con người. Nó giúp tôi giữ vóc dáng. Với bơi lội, tôi có thể đốt cháy 25% mỡ của cơ thể. Bên cạnh đó, tôi cũng có thể tránh khỏi bệnh hen suyễn nữa. Bơi lội còn giữ cho bạn an toàn khi ở dưới nước. Bơi lội thật thú vị và dễ chịu, nó là một lựa chọn tốt cho một sở thích.
có ai thi cuối kì II văn 7 chưa cho mk xin cái đề vs
Câu trả lời của bạn
Đề Cương Ôn Tập Ngữ Văn Kiểm Tra HKII
A. Văn
1. Văn bản "Sống chết mặc bay"
*Đề 1: Cho đoạn văn sau: sgk/t.74 (Từ Dân phu kể hàng trăm nghìn...thật là thảm.
a. Đoạn văn trên được trích trong văn bản nào? Tác giả là ai?
- Văn bản: Sống chết mặc bay
- Tác giả: Phạm Duy Tốn
b. Văn bản xác định ở câu a được viết theo thể loại nào?
- Truyện ngắn hiện đại.
c. Phần in đậm trong đoạn văn trên (Từ Dân phu kể hàng trăm... chuột lột.) sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Nêu tác dụng của biện pháp đó?
- Sử dụng biện pháp liệt kê.
- Tác dụng: Diễn tả mạnh mẽ cảnh người dân tích cực ra sức ngăn dòng nước lũ.
*Đề 2: Cho đoạn văn sau: sgk/t. 74+75 (Từ Ấy vậy mà...cự lại được với thế nước!).
a. Nêu tác phẩm, tác giả của đoạn văn trên.
- (Giống như trên)
b. Nêu nội dung của đoạn văn.
- Thiên tai, lũ lụt đang đe dọa cuộc sống của con người và sự lo lắng của tác giả trước nguy cơ vỡ đê.
c. Chỉ ra và nêu tác dụng của câu đặc biệt trong đoạn văn trên.
- Câu đặc biệt: Than ôi!
- Tác dụng: Bộc lộ cảm xúc.
2. Văn bản "Ca Huế trên sông Hương"
*Đề 3: Cho đoạn văn sau: sgk/t. 99 (Từ Từ ngữ địa phương... dân ca Nghệ Tĩnh).
a.Đoạn văn trên trích trong văn bản nào? Tác giả là ai?
- Văn bản: Ca Huế trên sông Hương.
- Tác giả: Hà Ánh Minh
b. Văn bản xác định ở câu a được viết theo thể loại nào?
- Bút kí
c. Phần in đậm trong đoạn văn trên (Từ Chèo cạn...nàng vung và Hò lơ...hò nện) sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Nêu tác dụng của biện pháp nghệ thuật đó?
- Biện pháp: liệt kê
- Tác dụng: Diễn tả sự độc đáo, phong phú, đa dạng của các thể loại dân ca ở xứ Huế.
*Đề 4: Cho đoạn văn sau: sgk/t.100 (Từ Đêm...dành cho vua chúa.)
a. Đoạn văn trên được trích trong văn bản nào? Tác giả là ai?
- Văn bản: Ca Huế trên sông Hương.
- Tác giả: Hà Ánh Minh
b. Nêu nội dung của đoạn văn.
- Cảm giác thích thú trước không gian thơ mộng và quyến rũ trên chiếc thuyền rồng chuẩn bị biểu diễn ca Huế.
c. Chỉ ra và nêu tác dụng của câu đặc biệt trong đoạn văn.
- Câu đặc biệt: Đêm.
- Tác dụng: Xác định thời gian.
B. Tiếng Việt
Bài 1: Chuyển đổi các câu chủ động sau thành câu bị động theo hai cách:
a) Trong giờ chào cờ, thầy Hiệu trưởng khen lớp em có cố gắng trong thành tích học tập.
b) Mẹ thưởng cho em một cây bút máy rất đẹp.
c) Người ta xây dựng nhà máy thủy điện ở đầu nguồn.
d) Trong tương lai, người ta có thể sẽ sử dụng năng lượng mặt trời cho mọi công việc.
e) Mẹ tôi đang chuẩn bị bữa sáng trong nhà bếp.
g) Mùa xuân, cây gạo gọi đến bao nhiêu là chim.
h) Chúng tôi quét sân sạch sẽ.
i) Thầy giáo phê bình thành tích học tập của em.
k) Người ta làm tất cả cánh cửa chùa bằng gỗ lim.
l) Tôi mới mua máy nghe nhạc cách đây không lâu.
Bài 2: Phân tích ngữ pháp và gọi tên các câu mở rộng thành phần sau:
a) Em học giỏi làm vui lòng ba mẹ.
b) Cây chanh này quả rất sai.
c) Quyển sách bạn tặng tôi rất hay.
d) Tôi hy vọng đội bóng lớp tôi sẽ chiến thắng.
e) Tôi đang đọc quyển sách Nam tặng.
g) Những bức ảnh tôi sưu tầm có thể phục vụ cho bài học.
h) Người đàn ông ấy làm mọi người khó chịu.
i) Quyển sách tôi mua bìa rất đẹp.
k) Chú khen cháu là người có gan to, thua mà không nản chí.
l) Ông lão cứ ngỡ mình còn chiêm bao.
C. Tập làm văn
*Đề 1: Chứng minh rằng sách là người bạn lớn của con người.
*Đề 2: Chứng minh học tập có tầm quan trọng rất lớn đối với sự thành đạt trong tương lai của mỗi con người.
*Đề 3: Chứng minh rằng bảo vệ môi trường là bảo vệ cuộc sống của chúng ta.
*Đề 4: Giải thích câu tục ngữ: Thương người như thể thương thân.
*Đề 5: Giải thích câu nói: Đi một ngày đàng học một sàng khôn.
Chúc bn kt hk2 tốt nha!
công cha nhu nui thai son
nghia me nhu nc trong nguon chay ra
mot long tho me kinh cha
cho tron chu hieu moi la dao con
cam nghi cua en ve tình ba me
Câu trả lời của bạn
Ca dao là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn con người từ thuở ấu thơ. Nhịp võng đưa và tiếng du hời qua những làn điệu ca dao đã đưa tâm hồn trẻ thơ đi cùng quê hương, đất nước, hướng về cội nguồn dân tộc. Một trong những câu ca dao đã khắc sâu vào kí ức tôi đó là:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Vẫn là thi pháp thường gặp trong ca dao, tác giả dùng cách so sánh ví von để tạo các hình ảnh song hành: Công cha được ví như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ sánh với nước trong nguồn. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả dân gian mượn hình ảnh núi Thái Sơn và nước trong nguồn vô tận để so sánh với công lao cha mẹ. Bởi lẽ cha mẹ sinh thành ra ta và nuôi dưỡng ta khôn lớn nên người. Công lao của cha mẹ thật lớn, nó sánh với núi cao biển thẳm. Núi Thái Sơn không chỉ hoành tráng về hình dạng, chiều cao mà là biểu tượng của sự bất diệt thiêng liêng. Núi gợi lên sự cứng cáp, hiên ngang chống đỡ chẳng khác nào người cha trong gia đình. Có việc gì khó thì cha sẵn sàng đưa vai gánh vác, cha lo toan mọi việc lớn trong gia đình, cha là người sẵn sàng che chở cho con trước những phong ba bão táp của cuộc đời, cha là chỗ dựa về vật chất lẫn tinh thần cho con. Những gánh nặng cuộc đời cha đảm đương nhận lấy, cha làm tất cả vì cuộc đời con. Ôi! Công lao của cha làm sao nói hết, nó tựa núi Thái Sơn vời vợi không đo được chiều cao. Công lao của cha bao la như vũ trụ, kì vĩ như ngọn núi ngất trời.
Song hành với công lao cha là nghĩa mẹ. Mẹ “mang nặng đẻ đau”, mẹ chắt chiu từng dòng sữa ngọt ngào để nuôi con khôn lớn. Mẹ lo cho con từng cái ăn, cái mặc, mang đến cho con từng giấc ngủ yên bình. Mẹ thầm lặng hi sinh vì con cái:
Chỗ ráo con nằm chỗ ướt mẹ lăn.
Có những bà mẹ phải tất tả giữa dòng đời xuôi ngược để lọ kiếm miếng ăn cho con mình:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Công lao của cha mẹ kể sao hết được, nó như nước trong nguồn luôn chảy mãi. Nghĩa mẹ thật bao la, nó vô tận như nước trong nguồn không bao giờ khô cạn. Nước nguồn là nước trong suốt, mát lành. Nhờ có nước nguồn mà ao, hồ, sông, suối được tồn tại. Nước nguồn thầm lặng chảy mãi trong tự nhiên, nó chẳng, khác nào nghĩa mẹ đối với cuộc đời con, mẹ luôn luôn lo lắng cho con. Bởi thế, nhà thơ Chế lan Viên đã viết:
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con.
Công cha và nghĩa mẹ như thế đấy! Bởi thế, chúng ta hãy sống cho xứng đáng với công lao của cha mẹ, sống cho trọn hiếu trọn đạo. Hiếu ở đây là hiếu nghĩa, hiếu thuận. Hiếu với cha mẹ, tổ tiên, cội nguồn, thuận hòa trong gia đình, dòng họ, kính trên nhường dưới. Thuận ở đây không những là đạo làm con, mà còn phải là đạo làm người, đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”..Những ai đi ngược đạo lí ấy thì sẽ là những con người sống không trọn đạo hiếu, bất nghĩa, bất nhân. Không hiếu với cha mẹ thì làm sao hiếu với dân, trung với nước? Làm sao trở thành những công dân tốt? Những người ấy sẽ làm cho cha mẹ họ đau buồn biết chừng nào. Bởi vậy, câu ca dao là lời răn dạy thâm thúy, nó nhắc nhở con người phải thấy được công lao to lớn của cha mẹ, nó nhẹ nhàng khuyên nhủ con người phải sống cho tròn đạo nghĩa.
Bài ca dao cho thấy tình cảm gia đình, tình cảm gắn liền với trách nhiệm của mỗi con người. Với âm điệu ngọt ngào, sâu lắng, lời ca dao êm ái nhẹ nhàng tựa lời dạy làm người của cha, nó tựa lời khuyên sống tròn đạo hiếu của mẹ. Ca dao đã mượn hình ảnh so sánh, ẩn dụ quen thuộc để bày tỏ tâm tình, nhắc nhở về công ơn sinh thành, về tình mẫu tử thiêng liêng, về tình cha con bất diệt. Câu ca dao tuy ngắn gọn nhưng nó là một bài học làm người mà ông cha ta đã để lại cho bao thế hệ sau.
Câu trả lời của bạn
Trả lời : Trong bài thơ cảnh vật buổi chiều hiện lên nửa thực, nửa ảo. Cả hai bức tranh ấy lúc ẩn lúc hiện tạo nên một quang cảnh rất nên thơ. Khói trắng mờ êm dịu bay nhẹ nhàng, khiến người ngắm cảnh cảm thấy chỗ tỏ, chỗ mờ, lúc có, lúc không. Hay chính lòng người đang lâng lâng, mơ mộng nên nhìn thấy làng xóm, khói sương êm ả, thanh bình như thế”. Phải chăng đó cũng chính là tâm trạng của con người, một tâm trạng man mác mơ hồ gợi lên một khung cảnh huyền ảo “nửa như có, nửa như không”.
- Hoa đó là hoa : Ừm... hoa tulip phải không ?
Đề : Tìm biện pháp tu từ có trong các câu và nêu giá trị của biện pháp tu từ đó :
A . Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ
Cục ... cục... tác ... cục tác .
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ
B. Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vui chú
Lác đác bên sông rợ mái nhà .
C . Chị em như chuối nhiều tàu
Lá lành đùm lá rách đừng nói nhau nặng lời .
Mong các bạn giải giúp mình bài này ! Thank you very much !!!!
Câu trả lời của bạn
Bà Huyện Thanh Quan là một nữ thi sĩ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX . Bà tuy sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm của bà đều có giá trị to lớn . Ai đã từng đọc thơ của bà đều không thể quên được vẻ dịu dàng , trang trọng với nỗi buồn kín đáo, ẩn trong từng câu chữ . Bài thơ “Qua Đèo Ngang” là một minh chứng tiêu biểu cho điều ấy
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá , lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời,non,nước
Một mảnh tình riêng , ta với ta
Với thể thơ thất ngôn bát cú cùng phong cách trang nhã , bài thơ Qua Đèo Ngang đã cho thấy cảnh tượng Đèo Ngang thoáng đãng mà heo hút , thấp thoáng sự sống của con người nhưng hoang sơ , đồng thời thể hiện nỗi tâm tư cô đơn lẻ lỏi khi nhớ về quê hương mình giữa chốn ‘‘đất khách quê người’’
Mở đầu bài thơ là khung cảnh hoang vu , tĩnh mịch của Đèo Ngang lúc chiều tàn :
Bước đến Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá , lá chen hoa
Với nghệ thuật điệp từ (chen) , cách gieo vần lưng , vần chân nhà thơ đã liệt kê cảnh Đèo Ngang có cỏ , có cây , đá , lá , hoa là ta đã nhận ra nỗi buồn xa vắng .
Câu thơ đầu đã xuất hiện cụm từ “bóng xế tà” , trời đã về chiều . Bà Huyện Thanh Quan vì lần đầu xa nhà , xa quê mà gặp phải cảnh vật bát ngát núi rừng lúc chiều tà , chỉ sót lại vài tia nắng vàng vọt , yếu ớt . Điệp từ (chen) cùng với cách gieo vần chân , vần lưng khiến cho ta như hình dung được khung cảnh Đèo Ngang không phải cỏ cây được tỉa tót , cây trồng phẳng từng hàng mà cây cỏ ở đây um tùm , rậm rạp , chen chúc đón những ánh nắng yếu ớt còn sót lại cuối ngày . Cảnh vật hoang sơ , vắng vẻ làm cho bà thêm ngỡ ngàng . Từ “tà” là khái niệm sắp tàn lụi , biến mất . Yếu tố thời góp phần làm tăng thêm nỗi buồn của câu thơ , nói lên tiếng lòng của bao người tha hương . Cảnh tuy mang đầy sức sống hoang dã của rừng núi nhưng vẫn hiu hắt , tiêu điều . Đó chính là bản thân cảnh vật hay do hồn người phả vào cảnh vật . Bởi nếu người buồn thì cảnh vật nào vui bao giờ , nỗi buồn của tác giả như lan tỏa thấm vào vạn vật . Và rồi trên đỉnh Đèo Ngang , nữ thi sĩ đã phóng tầm mắt về phía xa để tìm kiếm chút sự sống linh động : xa xa dưới núi thấp thoáng bóng dáng của con người
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Với hai câu thơ thực tác giả đã sử dụng cụm từ láy “lom khom” , “lác đác” . Câu thơ đã gợi cho ta hình dung trong bóng hoang hồn , hiện lên hình ảnh thưa thớt của những chú tiều phu đang đốn củi , mấy quán chợ liêu xiêu trong gió . Những từ láy tượng hình “lom khom , lác đác” được đảo lên đầu câu như nhấn mạnh thêm cảnh vật thưa thớt , vắng lắng . Con người hiện lên trên cái ngút ngàn mênh mông của thiên nhiên không làm cho cảnh vật thêm tươi vui , nhộn nhịp mà càng làm cho bức tranh thiên nhiên vắng lặng , quạnh hiu hơn . Từ vài , mấy là những lượng từ chỉ số ít như khắc sâu sự rời rạc , vắng vẻ nơi đây . Cảnh vật nơi đây thưa thớt , đượm buồn và cái hình ảnh ấn tượng về sự vắng vẻ , lát đác , thoáng vắng cứ thêm đậm , thấm sâu vào lòng người xa xứ
cho đoạn thơ sau
Trăng ơi. Từ đâu đến?
Hay từ một sân chơi?
Trăn bay như quả bóng
Đứa nào đá lên trời
Hãy tìm hiểu đề: kiểu bài, nội dung, hình thức
Tìm ý của bài thơ
Câu trả lời của bạn
Bài thơ được viết theo thể thơ 5 chữ, gồm có 6 khổ thơ. Câu "Trăng ơi… từ đâu đến?" được điệp lại 5 lần, đều đứng đầu khổ thơ (1-5). Trăng được ví với quả chín, mắt cá, quả bóng. Trăng được hóa thành: "lửng lơ lên", "không bao giờ chớp mi", "trăng bay", trăng "thương Cuội", "trăng soi chú bộ đội", "trăng đi khắp mọi miền". Không gian nghệ thuật được mở rộng trên một khung cảnh bao la: cánh rừng, biển xanh, sân chơi, từ lời ru của mẹ hiền, trên đường hành quân của chú bộ đội… trăng đến "khắp mọi miền" gần xa của đất nước.
Bài thơ mang vẻ đẹp hồn nhiên, ngộ nghĩnh như một bài đồng dao quen thuộc: "Ông giẳng, ông giăng – Xuống chơi với tôi – Có bầu có bạn – Có ván cơm xôi…".
Tác giả vừa hỏi vừa tự trả lời, so sánh, nhân hóa kết hợp với điệp từ, điệp cú tạo nên vần thơ đẹp, hình tượng đẹp, cảm xức ngạc nhiên, bâng khuâng. Ba khổ thơ đầu đầy thi vị. Hình tượng thơ cũng là vẻ đẹp của vầng trăng thu.
Từ một sân chơi, trăng tròn,"Trăng bay như quá bóng – Bạn nào đá lên trời" vẫn bản ghi là: "Đứa nào đá lên trời".
Cảm thụ của em về hình tượng vầng trăng trong bài thơ “Trăng ơi… từ đâu đến?” của Trần Đăng Khoa
Chủ đề: Văn cảm nghĩ TIN HAY by Cách tốt nhất để kiếm tiền ở việt nam Tất cả các ký sinh trùng sẽ ra khỏi cơ thể bạn sau một đêm Tống khứ giun sán sau một đêm nếu làm việc này vào ***** chiều!Bài thơ được viết theo thể thơ 5 chữ, gồm có 6 khổ thơ. Câu "Trăng ơi… từ đâu đến?" được điệp lại 5 lần, đều đứng đầu khổ thơ (1-5). Trăng được ví với quả chín, mắt cá, quả bóng. Trăng được hóa thành: "lửng lơ lên", "không bao giờ chớp mi", "trăng bay", trăng "thương Cuội", "trăng soi chú bộ đội", "trăng đi khắp mọi miền". Không gian nghệ thuật được mở rộng trên một khung cảnh bao la: cánh rừng, biển xanh, sân chơi, từ lời ru của mẹ hiền, trên đường hành quân của chú bộ đội… trăng đến "khắp mọi miền" gần xa của đất nước.
Bài thơ mang vẻ đẹp hồn nhiên, ngộ nghĩnh như một bài đồng dao quen thuộc: "Ông giẳng, ông giăng – Xuống chơi với tôi – Có bầu có bạn – Có ván cơm xôi…".
Tác giả vừa hỏi vừa tự trả lời, so sánh, nhân hóa kết hợp với điệp từ, điệp cú tạo nên vần thơ đẹp, hình tượng đẹp, cảm xức ngạc nhiên, bâng khuâng. Ba khổ thơ đầu đầy thi vị. Hình tượng thơ cũng là vẻ đẹp của vầng trăng thu.
Từ cánh đồng xa hiện lên, "Trăng hồng như quả chín – Lửng lơ lên mái nhà?". Ánh trăng hồng dịu ngọt.
Từ biển xanh mọc lên, "Trăng tròn như mắt cá – Không bao giờ chớp mi". Ánh trăng thu trong xanh.
Từ một sân chơi, trăng tròn,"Trăng bay như quá bóng – Bạn nào đá lên trời" vẫn bản ghi là: "Đứa nào đá lên trời".
Hình tượng nào cũng độc đáo, giàu trí tưởng tượng, có nhiều khám phá mới mẻ. Chất thơ, hồn thơ ở đây là sự ngộ nghĩnh, trong sáng, hồn nhiên
Ý tưởng sâu sắc, nhưng ngôn ngữ thơ chưa vươn tới tầm ý tưởng ấy. Điệp ngữ "hay từ" xuất hiện nhiều lần tạo nên bao bâng khuâng xúc động; em bé vừa trò chuyện với trăng vừa tự khám phá tâm hồn minh.
Bài thơ 'Trăng ơi… từ đâu đến?" là một bài thơ trăng đẹp. Tinh yêu trăng, tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất nước hội tụ qua những vần thơ nên thơ và thật thơ.
1 Tóm tắt chuyên ngắn "Sống chết mặc bay" Khoảng 10 dòng?
2 Tóm tắt chuyện ngắn " Những trò lố của Va-ren và Phan Bội Châu" khoảng 10 dòng
Câu trả lời của bạn
1. Tóm tắt truyện ngắn '' Sống chết mặc bay ''
Nửa đêm, ở làng X thuộc phủ X, nước sông Nhị Hà ngày 1 dâng cao khiến khúc đê có nguy cơ vỡ. Trong lúc người dân đang cố giũ đê thì Quan phụ mẫu – kẻ được cử đi để giúp đan hộ đê lại đi chơi tổ tôm với đám nha lại trong đình. Hắn ung dung chơi bài cùng với bao kẻ hầu người hạ ngồi bên cạnh, lại còn mang biết bao đồ đạc quí hiếm để đi hộ đê. Y mải miết chơi tổ tôm đến mức ko biết gì đến những tiếng kêu, tiếng tù và của dân phu và bao người dân ở ngoài đê. Ngay cả khi có người vào báo đê vỡ nhưng hắn lại mắng chửi rồi ung dung chơi bài tiếp. Cuối cùng, khi đê đã vỡ, người dân lâm vào cảnh muôn sầu nghìn thảm cũng là lúc quan phụ mẫu cười sung sướng, hả hê khi ù ván bài lớn.
2. Tóm tắt truyện ngắn '' Những trò lố hay là Va - ren và Phan Bội Châu ''
Va-ren là đảng viên Đảng xã hội Pháp nhưng đã phản bội lý tưởng lại sắp sang nhận chức toàn quyền Đông Dương . Lúc bấy giờ ở nước ta đang dấy lên phong trào đòi trả tự do cho Phan Bội Châu. Trước sức ép của công luận , Va-ren - Va-ren thì gian trá, lố bịch, đại diện cho thực dân Pháp phản động ở Đông Dương, hứa sẽ chăm sóc vụ việc ấy Nhưng thực chất đó chỉ là một lời hứa dối trá nhằm trấn an công luận, trấn an nhân dân Việt Nam đang đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu. Ra Hà Nội , hắn vào xà lim dụ dỗ Phan Bội Châu từ bỏ lý tưởng để hợp tác với Pháp . Suốt buổi gặp gỡ , Phan Bội Châu chỉ im lăng dửng dưng khinh bỉ sự đê hèn của Va-ren. Sự im lặng, dửng dưng của Phan Bội Châu thể hiện một thái độ khinh bỉ cực độ, đồng thời cũng cho thấy bản lĩnh kiên cường của nhà cách mạng trước kẻ thù, cho dù đó là Toàn quyền Đông Dương đi chăng nữa.
Điền vào chỗ chấm cho đúng:
1. Chớp đông nhay nháy ... gà gáy thì mưa.
2.Đêm tháng năm chưa nằm đã ...
3.An ... lạc nghiệp.
4.Cơm ... canh ngọt.
5. ... rụng về cội.
6.Áo gấm ... đêm.
7.Xa ... cách lòng.
8.Nghĩa vụ ... dân.
9.Vụng chèo khéo ...
10.Qụa ... thì ráo , ... tắm thì mưa
Câu trả lời của bạn
1. bỏ
2. Đêm tháng năm chưa nằm đã.......sáng....
3. An......cư..... lạc nghiệp .
4. Cơm......ngon canh ngọt
5. ..Lá... rụng về cội
6. Áo gấm .......đi... đêm
7.Xa .....mặt....... cách lòg .
8. nghĩa vụ ...công.......... dân
9 . Vụng chèo khéo ....lái....
10. Quạ ...tắm... thì ráo , sáo tắm thì mưa
^-^CHÚC BẠN HỌC TỐT ^-^
Viết đoạn văn nghị luận về Văn học khoảng 10-12 câu về 1 trong 3 đề sau:
- Ý nghĩa văn chương
- Sống chết mặc bay
- Ca Huế trên sông Hương
Trong đó có vận dụng kiến thức tiếng viêt
Cảm ơn các bạn❤
Câu trả lời của bạn
Văn nghệ là tiếng nói của tình cảm con người. Và văn chương-một bộ phận nhỏ của văn nghệ cũng góp phần làm nên cái tiếng nói chung ấy. Dù bạn là người khô khan, cộc cằn đến đâu thì liệu bạn có chắc rằng mình sẽ không rơi lệ khi chứng kiến cảnh chia tay giữa hai anh em Thành và Thuỷ trong "Cuộc chia tay của những con búp bê". Sự chia sẻ, tâm hồn rộng mở chính là quà tặng tinh thần đẹp nhất mà văn chương mang đến cho chúng ta. Bạn có chú ý đến từ "gây" trong đề bài. Từ "gây" ở đây gợi cho người đọc một sự lôi kéo, dường như đó là cái không tốt. Bởi cũng như cuộc sống muôn màu, văn học cũng được tạo nên từ nhiều mảnh ghép khác nhau; có những mảnh ghép làm cho nền văn học thêm đặc sắc, độc đáo nhưng cũng có những thành phần làm văn học trở nên u tối, đầy rẫy những xấu xa. Nói như thế, có nghĩa là, bên cạnh những tình cảm tích cực, văn học còn mang đến cho ta những mặt tiêu cực trogn suy nghĩ và lối sống mà tư tửong yêu đương tuổi học trò là một ví dụ chẳng hạn.
Văn học mang đến cho cuộc sống chúng ta nhiều thứ thật đấy. Nhưng tiếp nhận chúng thế nào, cảm nhận chúng ra sao lại là một vấn đề khác. Hãy để những tình cảm trong văn học mãi luôn là những tình cảm đẹp, thiêng liêng nhất...và còn gì đẹp hơn nếu bạn biến chúng thành tình cảm thật trong cuộc sống nhỉ ?
de thi
Câu trả lời của bạn
ĐỀ THI HỌC SINH GIỎI
Môn: Ngữ văn 7 ( ĐỀ 5)
Thời gian làm bài: 120 phút (không tính thời gian giao đề)
Câu 1 (5 điểm): Chỉ ra và phân tích giá trị nghệ thuật của phép tu từ đợc sử dụng trong khổ thơ sau:
“Trên đờng hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
“Cục... cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng tra
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ”
( Tiếng gà tra - Xuân Quỳnh, SGK Ngữ Văn 7, tập I)
Câu 2 (5 điểm): Cảm nghĩ của em về khổ thơ sau:
“Việt Nam, ôi Tổ quốc thơng yêu!
Trong khổ đau , ngời đẹp hơn nhiều,
Nh bà mẹ sớm chiều gánh nặng,
Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng”.
(“Chào xuân 67” – Tố Hữu)
Câu 3 (5.0 điểm): Tục ngữ có câu: “Thơng ngời nh thể thơng thân”, đó cũng chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Em hãy làm sáng tỏ vấn đề đó.
ĐÁP ÁN
Câu 1 (5 điểm):
Yêu cầu:
* Hình thức: Viết thành đoạn văn.
* Nội dung: Học sinh chỉ ra đợc các biện pháp nghệ thuật đợc sử dụng trong khổ thơ:
Cả khổ thơ là những rung cảm ban đầu của ngời lính trên đờng hành quân khi nghe tiếng gà tra.
- Dòng thứ t “Cục ... cục tác cục ta” với việc lặp âm và những dấu chấm lửng đã mô phỏng sát đúng tiếng gà làm cho chuyện kể nh đợc lồng vào một bức tranh nổi có tiếng gà vang vọng trong không gian.
- Lối dùng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, lấy thính giác (nghe) thay cho cảm giác (thấy) và điệp ngữ “nghe” lặp lại ba lần ở đầu dòng thơ có tác dụng đem lại ấn tợng nh tiếng gà ngng lại, làm xao động không gian và xao động lòng ngời.
- Trật tự đảo của kết cấu so sánh: Nghe xao động nắng tra (nổi bật nghĩa bóng) với Nghe nắng tra xao động (nổi bật nghĩa đen) xen vào những trật tự đảo của câu trớc và câu sau, làm cho âm điệu câu thơ thay đổi, tránh đợc sự nhàm chán và diễn tả đợc sự bồi hồi, xao xuyến của tâm hồn.
Câu 2 ( 5 điểm)
* Mở bài: Giới thiệu về khổ thơ và nêu cảm nhận chung của mình (0.25 điểm)
* Thân bài:
- Khổ thơ ca ngợi Tổ quốc Việt Nam thơng yêu, trải qua bao ma bom , bão đạn, bao thăng trầm vẫn bình thản ngẩng cao đầu, đẹp một cách lạ kỳ. (1 điểm)
- Càng qua thử thách, sức sống của dân tộc càng mãnh liệt, càng tỏ ngời vẻ đẹp (0.5 điểm)
- Hình ảnh so sánh (Tổ quốc – Bà mẹ), là hình ảnh gợi cảm, giản dị mà ý nghĩa, sâu sắc. Tổ quốc cũng nh là mẹ nhẫn nại, lam lũ, hy sinh, bao bọc cho các con mình, suốt đời vất vả mà vẫn bình thản ..... (1 điểm)
* Kết bài: (0.25 điểm) Cảm nghĩ chung về khổ thơ.
Câu 3 ( 10 điểm)
* Mở bài: (0.5 điểm)
Dẫn dắt giới thiệu đợc câu tục ngữ, truyền thống tơng thân tơng ái của dân tộc ta. Nêu ngắn gọn vấn đề nghị luận.
* Thân bài: Giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ, điều đó thể hiện trong truyền thống của ngời Việt Nam. Chứng minh làm sáng tỏ vấn đề.
- Câu tục ngữ nói đến truyền thống tơng thân, tơng ái, giúp đỡ, bao bọc, thơng yêu những con ngời xung quanh ta nh chính bản thân mình. (0.75 điểm).
- Truyền thống quý báu đó đợc biểu hiện qua hành động, việc làm của nhân dân ta từ xa đến nay ( nh giúp đỡ kẻ khó, những ngời sa cơ, lỡ vận, đồng bào bị thiên tai .....) (2 điểm):
+ Nêu lên các việc làm cụ thể
+ Liên hệ đến các câu tục ngữ khác.
- Chính truyền thống ấy đã tạo sự đoàn kết của mội ngời với nhau để vợt qua những khó khăn, thử thách, tạo thành sức mạnh cộng đồng, tạo nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc. (0.75 điểm)
- Câu tục ngữ chính là bài học làm ngời cho mỗi chúng ta. ngày nay chúng ta cần phát huy nhiều hơn nữa tinh thần tốt đẹp đó. (Liên hệ bản thân và mọi ngời xung quanh em) (0.5 điểm)
* Kết luận: (0.5 điểm)
Khẳng định vấn đề.
Nêu cảm nghĩ về tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan qua bài thơ Qua Đèo Ngang( ko chép mạng nha)
Câu trả lời của bạn
Qua đèo ngang là một tác phẩm nổi tiếng cuả bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ được viết khi bà lên đường đến huyện Phú Xuân đi qua đèo ngang là một địa danh phong cảnh hữu tình. Bài thơ là bức tranh ngụ tình sâu sắc của nhà thơ qua đó hé lộ cho chúng ta thấy được nỗi nhớ mong tha thiết của tác giả hiện lên rõ nét.
Mở đầu bài thơ là hai câu đề
“Bước tới đèo ngang bóng xế tà”
Câu thơ gợi lên thời điểm mà tác giả tới đèo ngang, khi đó thời gian đã vào xế tà tức là đã quá trưa trời đang chuyển sang buổi chiều và sắp tối. Đối với một vùng hoang sơ hẻo lánh thì thời điểm chiều tà cũng là thời điểm mọi người đã quay trở về nhà. Phải chăng chọn thời điểm như thế tác giả muốn nhấn mạnh cho người đọc cái xơ xác vắng vẻ nơi đây. Và từ đây tâm trạng tác giả bắt đầu hỗn loạn khi chứng kiến cảnh vật từ trên cao nhìn xuống.
“Cỏ cây chen là đá cheo hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Khung cảnh ấy thật gợi lên trong lòng người đọc những nỗi nhớ vấn vương rồi lan tỏa ra từng câu thơ khiến cho người đọc thấm đượm được phần nào nỗi nhớ thương của tác giả đối với quê hương. Trời đã chiều tối cảnh vật đã lụi tàn khiến cho tâm trạng của bà càng trở nên xốn xang vô cùng. Cái thời điểm ấy rất phù hợp với tâm trạng hiện giờ của bà. Đúng như trong những câu thơ cổ đã nói đến tâm trạng con người nhuốm màu sang cảnh vật.
Ở đây tâm trạng cô đơn hiu vắng hiu quạnh của tác giả đã nhuốm màu sang cảnh vật khiến cho cảnh vật giờ đây dường như trở nên tam thương hơn bao giờ hết. Ta phải công nhận là cảnh vật trong thơ được hiện lên khá là sinh động. Có cỏ cây có hoa lá nhưng lại là một cảnh tượng chen chúc nhau để tìm sự sống. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Phải chăng sự chặt chội của hoa lá phải chen chúc nhau để tồn tại cũng chính là tâm trạng của tác giả đang vô cùng hỗn loạn. Cảnh vật ấy hoang sơ hoang dại đến nao lòng. Tác giả đã sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Nó làm cho người đọc cảm thấy được sự hoang vắng của đèo ngang lúc chiều tà bóng xế mặc dù nơi đây có cảnh đẹp cỏ cây hoa đá, lá. Vì ở đây vắng vẻ quá nên thi sĩ đã phóng tầm mắt ra xa chút nữa như để tìm một hình ảnh nào đó để tâm trạng thi nhân phần nào bớt chút hiu quạnh. Và phía dưới chân đèo xuất hiện một hình ảnh.
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Điểm nhìn đã được nhà thơ thay đổi nhưng sao tác giả vẫn chỉ cảm thấy sự hiu quạnh càng lớn dần thêm. Bởi thế giới con người nơi đây chỉ có vài chú tiểu đang gánh nước hay củi về chùa. Đó là một hình ảnh bình thường thế nhưng chữ “lom khom” khiến hình ảnh thơ thêm phần nào đó vắng vẻ buồn tẻ thê lương. Đây là một nét vẽ ước lệ mà ta thường thấy trong thơ cổ “vài” nhưng lại rất thần tình tinh tế trong tả cảnh. Mấy nhà chợ bên kia cũng thưa thớt tiêu điều. Thường thì ta thấy nói đến chợ là nói đến một hình ảnh đông vui tấp nập nào người bán nào người mua rất náo nhiệt. Thế nhưng chợ trong thơ bà huyện thanh quan thì lại hoàn toàn khác, chợ vô cùng vắng vẻ không có người bán cũng chẳng người mua chỉ có vài chiếc nhà lác đác bên sông. Nhà thơ đang đi tìm một lối sống nhưng sự sống đó lại làm cảnh vật thêm éo le buồn bã hơn. Sự đối lập của hai câu thơ khiến cho cảnh trên sông càng trở nên thưa thớt xa vắng hơn. Các từ đếm càng thấy rõ sự vắng vẻ nơi đây. Trong sự hiu quạnh đó bỗng vang lên tiến kêu của loài chim quốc quốc, chim gia trong cảnh hoàng hôn đang buông xuống.
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Nghe tiếng chim rừng mà tác giả thấy nhớ nước, nghe tiếng chim gia gia tác giả thấy nhớ nhà. Dường như nỗi lòng ấy đã thấm sâu vào nỗi lòng nhà thơ da diết không thôi. Lữ khách là một nữ nhi nên nhớ nước nhớ nhà nhớ chồng nhớ con là một điều hiển nhiên không hề khó hiểu. Từ nhớ nước, thương nhà là nỗi niềm của con chim quốc, chim gia gia do tác giả cảm nhận được hay chính là nghệ thuật ẩn dụ để nói lên tâm sự từ trong sâu thẳm tâm hồn của nữ sĩ? Nghệ thuật chơi chữ quốc quốc gia gia phải chăng là Tổ quốc và gia đình của Bà Huyện Thanh Quan hồi đó? Từ thực tại của xã hội khiến cho nhà thơ suy nghĩ về nước non về gia đình.
“Dừng chân ngắm lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
Câu kết bài thơ dường như cũng chính là sự u hoài về quá khứ của tác giả. Bốn chữ “dừng chân ngắm lại” thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn xa xôi mênh mang, tác giả nhìn xa nhìn gần nhìn miên man nhìn trên xuống dưới nhưng nơi nào cũng cảm thấy sự hiu quạnh sự cô đơn và nỗi nhớ nhà càng dâng lên da diết. Cảm nhận đất trời cảnh vật để tâm trạng được giải tỏa nhưng cớ sao nhà thơ lại cảm thấy cô đơn thấy chỉ có một mình “một mảnh tình riêng ta với ta”. Tác giả đã lấy cái bao la của đất trời để nhằm nói lên cái nhỏ bé “một mảnh tình riêng” của tác giả cho thấy nỗi cô đơn của người lữ khách trên đường đi qua đèo ngang.
Bài thơ là bức tranh tả cảnh ngụ tình thường thấy trong thơ ca cổ. Qua đó tác phẩm cho chúng ta thấy được tâm trạng cô đơn hiu quạnh buồn tẻ của tác giả khi đi qua đèo ngang. Đó là khúc tâm tình của triệu là bìa thơ mãi mãi còn y nguyên trong tâm trí người đọc.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *