Với bài giảng Đề văn nghị luận và việc lập ý cho bài văn nghị luận sẽ giúp các em biết tìm hiểu đề và cách lập ý cho bài văn nghị luận. Qua bài học này giúp các em nắm vững kiến thức về Đề văn nghị luận và việc lập ý cho bài văn nghị luận hơn giúp các em làm một bài văn nghị luận đạt kết quả cao và mang tính hấp dẫn, sâu sắc hơn.
Đọc các đề văn sau và trả lời câu hỏi.
(1) Lối sống giản dị của Bác Hồ.
(2) Tiếng Việt giàu đẹp.
(3) Thuốc đắng giã tật.
(4) Thất bại là mẹ thành công.
(5) Không thể sống thiếu tình bạn.
(6) Hãy biết quý thời gian.
(7) Chớ nên tự phụ.
(8) Không thầy đố mày làm nên và Học thầy không tày học bạn có mâu thuẫn với nhau không?
(9) Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.
(10) Ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau nên chăng?
(11) Thật thà là cha dại phải chăng?
Các đề văn nêu trên có thể xem là đề bài, đầu đề được không? Nếu dùng làm đề bài cho bài văn sắp viết có được không?
Căn cứ vào đâu để nhận ra các đề trên là đề văn nghị luận?
Tính chất của đề văn có ý nghĩa gì đối với việc làm văn?
Tìm hiểu đề văn "Chớ nên tự phụ"
Đề nêu lên vấn đề gì?
Đối tượng và phạm vi nghị luận ở đây là gì?
Khuynh hướng tư tưởng của đề là khẳng định hay phủ định?
Đề này đòi hỏi người viết phải làm gì?
b. Từ việc tìm hiếu đề trên, hãy cho biết: Trước một đề văn, muôn làm bài tốt, cần tìm hiểu điều gì trong đề?
Cho đề bài chớ nên tự phụ
Để biết cách tìm hiểu đề và cách lập ý cho bài văn nghị luận, các em có thể tham khảo thêm
bài soạn Đề văn nghị luận và việc lập ý cho bài văn nghị luận.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 7 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Lập ý cho bài văn nghị luận là xác lập luận điểm, cụ thể hóa luận điểm chính thành các luận điểm phụ, tìm luận cứ và cách lập luận cho bài văn.
Câu trả lời của bạn
a. Mở bài:
- Dẫn dắt vào vấn đề: Có người từng nói: "Người nào dám lãng phí một giờ đồng hồ nghĩa là chưa phát hiện giá trị của cuộc sống”. Thời gian là thứ có giá trị không thể nào đong đếm được.
b. Thân bài:
- Bàn luận, phân tích câu tục ngữ Thời gian là vàng bạc:
+ Thời gian là một thứ trừu tượng, trôi qua từng ngày, ta không cảm nhận thời gian một cách trực quan như nhìn hay chạm vào, ta cảm sự trôi chảy của thời gian qua sự thay đổi của sự vật tồn tại xung quanh mình.
+ Thời gian là thứ tiền bạc không thể mua được, một đi không trở lại, một khi đã qua đi không thể nào lấy lại được. Nếu để lỡ mất thời gian dù có hối tiếc cũng thể lấy lại được (“Nếu một người cho bạn thời gian của của mình, anh ta không thể cho bạn món quà nào quý giá hơn nữa”).
+ Thời gian giúp vạn vật vận động theo đúng quy luật, trình tự của nó (Con người, cây cối trưởng thành rồi chết đi, xã hội cũng thay đổi theo thời gian).
+ Thời gian giúp con người tích lũy được giá trị, không chỉ vật chất mà quan trọng hơn là tinh thần, nếu biết tận dụng tốt sẽ tích sẽ khiến giá trị bản thân tăng lên (trưởng thành hơn, hiểu biết hơn...).
+ Thời gian là vàng bạc vì nó giúp thay đổi suy nghĩ, tình cảm của con người: giúp xóa nhòa nỗi đau, hận thù, thậm chí làm phai nhạt tình cảm yêu thương, thay đổi tính tình của con người.
- Mở rộng vấn đề:
+ Quý trọng thời gian không có nghĩa là phải sống gấp gáp, chạy theo thời gian mà là biết trân trọng từng giây, sống hết mình, cống hiến hết mình cho cuộc đời.
+ Không chỉ dành thời gian ra để làm việc như một cỗ máy mà cũng cần cả thời gian nghỉ ngơi hợp lý, quan tâm yêu thương mọi người xung quanh có như vậy mới là tận dụng hết giá trị đích thực của thời gian.
+ Ngày nay vẫn còn một bộ phận giới trẻ chưa biết quý trọng giá trị của thời gian, để thời gian trôi đi vô nghĩa, không tích lũy được giá trị cho bản thân, Ví dụ: chỉ biết vui chơi, thay vì tận dụng thời gian để học lại sa vào trang mạng xã hội than thở học vất vả...
- Liên hệ bản thân:
+ Cần có thái độ phê phán những người không biết quý trọng thời gian.
+ Là một học sinh cần ý thức được giá trị quý báu của thời gian để tránh làm lãng phí thời gian của mình cũng như của những người xung quanh.
+ Biết cách lên kế hoạch, sắp xếp mọi việc sao cho sử dụng quỹ thời gian hiệu quả nhất: biết phân chia hợp lý giữa thời gian học tập và vui chơi giải trí...
+ Nhưng tránh hấp tấp nóng vội bởi mỗi việc cần được đầu tư một quỹ thời gian nhất định của nó thì có thể thành công, chỉ cần biết làm chủ thời gian, nỗ lực và kiên trì ắt sẽ thành công.
+ Sống hết mình từng giây từng phút để không hối hận khi thời gian qua đi, để cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn.
c. Kết bài:
- Khẳng định ý nghĩa câu tục ngữ Thời gian là vàng bạc.
- Mỗi người hãy trân trọng từng phút giây mình đang sống, bạn có thể trì hoãn nhưng thời gian thì không.
Câu trả lời của bạn
I/MB:
- Giới thiệu vấn đề: Thất bại là mẹ thành công
Trong cuộc sống mấy ai ko từng gặp thất bại. Có những người không thể tự đứng lên sau mỗi lần vấp ngã của chính bản thân mình. Để khuyên nhủ, động viên, nhắc nhở, tục ngữ có câu:"Thất bại là mẹ thành công"
II/TB:
1. Giải thích:
- Giải thích nghĩa đen của luận điểm:"Ngừơi mẹ"
- Giải thích nghĩa bóng của luận điểm:
* Trong cuộc đời ai ko từng vấp ngã, cho VD từ chính bản thân mình
* Thái độ của mỗi người khi vấp ngã: Có người bỏ cuộc như con chim sâu khi trúng tên thì sợ cây cung... Có người sau thất bại, người ta sẽ rút ra đựơc những kinh nghiệm quí báu để ko còn thất bại nữa. Cho VD.
2. Những tấm gương vượt qua thất bại của bản thân để thành công:
- Mạc Đĩnh Chi với ngọn đèn đom đóm
- Thần Siêu: Tấm gương luyện chữ của Nguyễn Văn Siêu
- Niutơn, Lui Paxtơ...
III/KB:
- Khẳng định tính đúng đắn của vấn đề
- Bài học cho bản thân: Vậy xin chớ lo sợ thất bại. Điều đáng sợ hơn là bạn không thể tự đứng dậy sau mỗi vấp ngã của chính mình...
DÀN Ý
a)MB:giới thiệu về vấn đề Thất bại là mẹ thành công
b)TB:1:giải thíchnghĩa đen của luận điểm "người mẹ"
Câu trả lời của bạn
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Có tài mà không có đức là người vô dụng...”. Cũng đồng quan điểm với lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh, ông cha ta có câu: “Tiên học lễ, hậu học văn”.
Có lẽ đây là câu tục ngữ mà khi bước chân vào bất kỳ ngôi trường nào, chúng ta cũng có thể bắt gặp. Trước hết, cần hiểu được “tiên học lễ, hậu học văn” có nghĩa là việc đầu tiên cần phải học các lễ nghĩa, rèn luyện đạo đức, tu dưỡng nhân cách của bản thân; sau đó mới học đến những kiến thức văn hóa, nâng cao vốn hiểu biết.
Ở vế câu thứ nhất, “tiên” có nghĩa là trước tiên, còn “lễ” là những lễ nghi hay hiểu đơn giản là cách cư xử của mỗi người trong cuộc sống. Con người sinh ra việc đầu tiên cần phải học chính là cách cư xử với những người xung quanh. Đến về câu thứ hai, “hậu” có nghĩa là sau, còn “văn” ý chỉ vốn kiến thức có được trong các môn học hay bên ngoài xã hội. Như vậy, câu tục ngữ muốn khuyên nhủ mỗi người việc cần học đầu tiên phải là học cách làm người có đạo đức, nhân cách tốt. Sau đó mới học đến những kiến thức văn hóa để có thể phát triển bản thân.
Quả thật, khi muốn đánh giá một con người, đôi khi chúng ta không nhìn vào những tấm giấy khen hay những tấm bằng tốt nghiệp. Mà chúng ta đánh giá họ thông qua những hành vi rất nhỏ trong cách giao tiếp, hành xử với những người xung quanh. Nếu “học văn” cung cấp kiến thức cho con người, thì học “lễ nghĩa” sẽ giúp rèn luyện đạo đức, phẩm chất tốt đẹp. Một người vừa có kiến thức sâu rộng, lại biết cách cư xử sẽ gây được thiện cảm tốt đẹp cho mọi người. Từ đó, con đường đến với thành công của họ sẽ nhanh chóng và dễ dàng hơn. Họ cũng nhận được nhiều tình yêu thương và cảm thấy hạnh phúc hơn.
Bởi nếu một người có kiến thức vô cùng uyên bác, được đất nước trọng dụng những sáng tạo cống hiến của mình. Nhưng người đó lại không biết cách đối nhân xử thế sao cho đúng giá trị đạo đức, không coi trọng những người lớn tuổi, những người sinh thành dưỡng dục ra mình thì những kiến thức tài giỏi mà anh ta học được cũng không có ý nghĩa gì hết. Một người có nhân cách tốt, thì mới là người được người ta kính trọng, yêu mến. Một con người dù tài giỏi nhưng không có đạo đức, không có nhân phẩm tốt thì dù có tài tới mấy cũng bị xã hội tẩy chay, bởi thói vô đạo đức của mình không được ai chấp nhận trong cộng đồng.
Không có gì cao đẹp hơn đạo đức và phẩm hạnh ở con người. Hãy không ngừng tu dưỡng đạo đức và văn hoá ứng xử cho bản thân. Đồng thời cũng không ngừng nỗ lực học tập tốt. Chính tri thức sẽ là nguồn sức mạnh giúp ta hoàn thiện bản thân. Có vậy ta mới trưởng thành và có ích cho xã hội.
Câu trả lời của bạn
Nhờ sự huy động kịp thời, sự vào cuộc quyết liệt, không một phút chần chừ của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng, đồng thuận, chung sức của nhân dân, việc thực hiện công tác phòng, chống dịch bệnh đã diễn ra ở quy mô chưa có tiền lệ và đạt được những kết quả thắng lợi bước đầu. Chiến thắng bước đầu này là chiến thắng của cả một quốc gia đoàn kết...
Các y, bác sỹ lan tỏa thông điệp cả nước chung tay quyết tâm chống dịch COVID-19.
Gần 4 tỷ người, tức 1/2 nhân loại không được bước ra khỏi đường vì một loại virus nhỏ bé, vô hình. Chưa bao giờ hai từ “Đoàn kết” lại được nhắc đến nhiều như vậy bởi những nhà lãnh đạo các quốc gia, tổ chức quốc tế trong bối cảnh “cơn sóng thần” COVID-19 khiến toàn cầu chao đảo. Virus SARS-CoV-2, mà giới khoa học ngậm ngùi: “chúng ta chỉ biết rất ít về nó”, các chính trị gia gọi đó là “kẻ thù vô hình”, đã đặt các quốc gia vào tình trạng khẩn cấp như thời chiến với những mối đe dọa về sức khỏe, tính mạng và gây nên khủng hoảng đời sống, kinh tế toàn cầu nghiêm trọng. Vì không nhìn thấy “kẻ thù” bằng mắt thường, vũ khí chiến đấu của con người lúc này chỉ có thể là sự sáng suốt, bình tĩnh, ý chí, nhận thức và tinh thần đoàn kết. Để có thêm thời gian trong cuộc chạy đua tốc độ với virus, để chiến đấu lâu dài, hạn chế tình trạng lây lan, giảm thiểu bệnh nhân và đưa cuộc sống trở lại bình thường sớm nhất có thể.
CHIẾN THẮNG BƯỚC ĐẦU CỦA MỘT QUỐC GIA ĐOÀN KẾT
Sau 3 tháng rung lắc, sang chấn, các quốc gia dù phản ứng nhanh hay chậm cũng đã vào cuộc để bảo vệ công dân của mình, giảm tốc độ lây nhiễm, chữa trị các ca bệnh Nhiều nước đóng cửa biên giới. Những cái bắt tay, ôm hôn đang phải ghìm giữ. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo này, chúng ta được thấy một Việt Nam tuyệt vời, quả cảm, phát huy sức mạnh tổng hợp với những phẩm chất, căn tính tốt đẹp ngàn đời là tinh thần đoàn kết, bao dung, sự chia sẻ và sống có nghĩa có tình.
Dalia Research là một công ty truyền thông có trụ sở tại Berlin (Đức) có khả năng xỷ lý 1 tỷ câu trả lời trên hơn 150 nước trong 1 tháng. Cuối tháng 3, công ty này đã đưa ra kết quả khảo sát quy mô từ khi COVID-19 bùng phát. Câu hỏi đặt ra là: “Người dân đánh giá phản ứng của Chính phủ nước mình với COVID-19 ra sao”? 32.631 người tại 45 quốc gia đã đưa ra ý kiến. 62% người Việt được Daila hỏi đã cho rằng Chính phủ Việt Nam đã hành động “đúng mức” (right amount). Việt Nam được đứng ở cuối bảng, nghĩa là chỉ số niềm tin này cao nhất thế giới trong bảng nghiên cứu. (Thái Lan đứng đầu bảng với 79% người Thái nghĩ rằng chính phủ Thái đã làm quá ít).
Theo điều tra của Viện Dư luận và Xã hội, Ban Tuyên giáo Trung ương với 21.277 lượt người tham gia trả lời, có 85% người dân hoàn toàn tin tưởng Việt Nam sẽ khống chế, dập tắt dịch COVID-19.
Niềm tin lúc này là một thứ tài sản vô cùng quý báu, bởi nó là nguồn lực và sức mạnh. Niềm tin cũng là minh chứng cho kết quả của sự đồng thuận xã hội, đoàn kết dân tộc, đồng lòng, chung sức trong cuộc chiến chống đại dịch.
Việt Nam không phải là quốc gia mạnh nhất thế giới nhưng trong cuộc chiến chống COVID-19, Việt Nam có được niềm tin cao nhất của nhân dân. Bởi vì, Việt Nam luôn đặt sức khỏe của người dân lên trên hết, sẵn sàng hy sinh lợi ích kinh tế trước mắt để bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân. Việt Nam biết mình, biết ta, biết sự phức tạp và nghiêm trọng của dịch bệnh nên không chủ quan. Mỗi bước đi đều căng mình trong thận trọng nhưng vô cùng quyết liệt. Khi thế giới ở nơi này, nơi khác còn chưa có sự chuẩn bị, còn chần chừ chọn lựa giữa bảo vệ sức khỏe và bài toán kinh tế, Việt Nam đã sẵn sàng hành động.
Điểm lại tình hình, ngày 29-1, khi bệnh viêm đường hô hấp cấp do virus corona chủng mới gây ra mới chỉ lây lan ở 18 quốc gia trên thế giới, Trung ương Đảng đã nhận định đây là dịch bệnh mới, nguy hiểm, lây lan nhanh và chưa có vắc xin và thuốc điều trị đặc hiệu nên diễn biến phức tạp, có khả năng lan rộng và bùng phát rất cao. Ban Bí thư đã ban hành công văn số 79-CV/TW gửi các tỉnh ủy, thành ủy, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương, các đảng ủy đơn vị sự nghiệp Trung ương về công tác phòng, chống dịch bệnh, yêu cầu phải coi đây là nhiệm vụ “trọng tâm, cấp bách” để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân khẩn trương thực hiện quyết liệt các biện pháp do Chính phủ và bộ, ngành đề ra. Bộ Chính trị kêu gọi toàn thể đồng bào, đồng chí và chiến sĩ cả nước hãy đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, vào cuộc mạnh mẽ hơn nữa.
Nhờ sự huy động kịp thời, sự vào cuộc quyết liệt, không một phút chần chừ của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng, đồng thuận, chung sức của nhân dân, việc thực hiện công tác phòng, chống dịch bệnh đã diễn ra ở quy mô chưa có tiền lệ và đạt được những kết quả thắng lợi bước đầu. Chúng ta đã kiểm soát tốt tình trạng lây nhiễm trong cộng đồng, triển khai đồng bộ các biện pháp phòng, chống dịch, ngăn chặn, cách ly triệt để, chăm sóc và điều trị tốt, phát hiện sớm và truyền thông hiệu quả, nâng cao tinh thần cảnh giác và sự ủng hộ mạnh mẽ của người dân. Thế giới bày tỏ ấn tượng trước những kết quả Việt Nam đã làm được. Người dân tin tưởng, ủng hộ, đồng lòng, chung sức với Đảng, Nhà nước trong việc xử lý cuộc khủng hoảng toàn cầu này.
Chiến thắng bước đầu này là chiến thắng của cả một quốc gia đoàn kết. Là chiến thắng từ các quyết sách đúng và dứt khoát của Đảng, Nhà nước và từ sự đồng lòng hưởng ứng, nỗ lực hợp tác của người dân.
Người dân thôn Hạ Lôi thường xuyên được kiểm tra đo thân nhiệt. (Ảnh: Minh Quyết/TTXVN)
CHUNG SỨC, ĐỒNG LÒNG: “CHỐNG DỊCH NHƯ CHỐNG GIẶC”
Ngay từ đầu, Việt Nam đã chọn thái độ ứng xử đúng với dịch bệnh là “chống dịch như chống giặc”. Nhờ đó, ta có được tâm thế chủ động, đánh giá đúng tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh mà không chủ quan, lơ là, cả ở hai phía: chính quyền và người dân.
Nhìn lại lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, đoàn kết luôn là truyền thống quý báu, nguồn sức mạnh, động lực quan trọng, nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Những thời điểm ra lời kêu gọi chính là những thời điểm cần huy động sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết thư “Kính cáo đồng bào” ngày 6-6-1941, kêu gọi toàn thể nhân dân đoàn kết để đánh đuổi Pháp, Nhật: “Chúng ta phải đoàn kết lại...” Việc cứu nước là việc chung của mọi người Việt Nam, ai cũng phải gánh một phần trách nhiệm: “Người có tiền, góp tiền, người có của, góp của, người có sức, góp sức, người có tài năng góp tài năng...”. Dân tộc Việt Nam giành được thắng lợi, phần nhiều dựa vào tinh thần đoàn kết một lòng ấy của nhân dân cả nước.
Trong trận chiến chống dịch COVID-19, với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, Đảng, Chính phủ Việt Nam đã sớm kêu gọi nhân dân quyết liệt, đoàn kết một lòng, tạo nên sức mạnh tập thể, cùng nhau đẩy lùi dịch bệnh. Từ đó, đã huy động được sức mạnh hưởng ứng, chung tay của mỗi người dân, mỗi cá nhân trong phòng, chống dịch. Mỗi người dân, các tầng lớp nhân dân, các giới tùy khả năng của mình, người có tiền góp tiền, người có hiện vật góp hiện vật, người có sức giúp sức, người có ý tưởng góp ý tưởng... Với truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc, thời gian qua, nhiều tổ chức, cá nhân đã tự nguyện vận động, ủng hộ một số địa phương, cơ sở, cá nhân và những trường hợp phải cách ly, điều trị. Nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước, đồng bào ta ở nước ngoài, với tình cảm sâu sắc và trách nhiệm của mình đã tích cực tham gia ủng hộ phòng, chống dịch COVID-19. Nhiều câu chuyện đẹp và cảm động đã được lan tỏa... Chúng ta càng thấy ý nghĩa sâu sắc và giá trị nhân văn lớn lao từ những quyết sách của Đảng và Chính phủ, từ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của các bộ, ngành chức năng và nhân dân… Trong khó khăn, thử thách, những phẩm chất tốt đẹp của người Việt càng tỏa sáng.
Những ca bệnh COVID-19 nặng nhất hiện đang được điều trị tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cơ sở 2 và đều có những tiến triển tích cực. Trong ảnh: Thực hiện lọc máu liên tục (CVVH) cho một ca bệnh nặng.
Dịch bệnh vẫn còn diễn biến phức tạp trên khắp toàn cầu. Đến cuối tháng 3, thế giới đã có 72 vạn người nhiễm bệnh, 3,5 vạn người tử vong ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, con số này vẫn tiếp tục tăng lên nhanh chóng. Nhận định tình hình dịch bệnh còn diễn biến phức tạp, khó lường, có thể còn gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng hơn nữa, ngày 30-3-2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ra Lời kêu gọi: “Toàn thể dân tộc Việt Nam ta hãy cùng chung sức, đồng lòng vượt qua mọi khó khăn, thách thức để chiến thắng đại dịch COVID-19”.
Lời hiệu triệu sâu sắc đã nhấn mạnh thông điệp về đoàn kết: “Toàn thể đồng bào, đồng chí và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài hãy đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt, hiệu quả những chủ trương của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng. Mỗi người dân là một chiến sĩ trên mặt trận phòng, chống dịch bệnh”.
“Toàn thể đồng bào, đồng chí và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài hãy đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt, hiệu quả những chủ trương của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng. Mỗi người dân là một chiến sĩ trên mặt trận phòng, chống dịch bệnh”.
MỖI NGƯỜI DÂN LÀ MỘT CHIẾN SĨ
Mỗi người dân lúc này là một chiến sĩ trên mọi mặt trận: thể lực, sức khỏe, tinh thần và công việc, trách nhiệm xã hội, ý thức xã hội... Chúng ta có những chiến sĩ áo xanh ngời sáng phẩm chất “bộ đội cụ Hồ”, chúng ta cũng có những y bác sỹ - chiến sĩ áo trắng đang căng mình ở tuyến đầu của trận chiến chống virus SARS-CoV-2... Chúng ta có những người dân bình dị mà cao quý với những nghĩa cử đẹp, hành vi đẹp, lời nói đẹp. Chúng ta chia sẻ cho nhau niềm yêu thương, sự cảm thông, nỗi lo lắng và tri thức, hiểu biết về dịch bệnh. Chúng ta ủng hộ, lan tỏa điều tốt và đấu tranh với những hành vi thiếu trung thực trong khai báo, thiếu trách nhiệm trong giao tế, tiếp xúc xã hội. Chúng ta lên án những kẻ tung tin giả, tin đồn, gây hoang mang và những kẻ đang ra sức lợi dụng tình hình dịch bệnh để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ. Chúng đang ngồi nhặt nhạnh, lắp ghép, tô vẽ những kịch bản tin tức giả mạo để hòng chia rẽ khối đoàn kết mà ta đang vun đắp. Chúng muốn Đảng ta suy yếu, Nhà nước ta suy yếu, đồng nghĩa với việc nhân dân ta mất đi niềm tin.
Cán bộ, chiến sĩ, nhân viên nhà ăn trong Trường quân sự (Bộ Tư lệnh Thủ đô) chuẩn bị các hộp xốp đựng suất cơm cho các công dân đang cách ly tại đây
Đoàn kết được nhắc đến nhiều lần, không phải là mỹ từ để hô khẩu hiệu, mà đoàn kết là thực tế hiển hiện sinh động và là yêu cầu gắt gao của thời cuộc. Đoàn kết là sức mạnh. Vậy sức mạnh đoàn kết từ đâu ra? Người Việt hiểu sức mạnh của mình từ đâu đến, bởi vì chúng ta có truyền thống, có lịch sử, có văn hóa và văn hiến làm điểm tựa, chúng ta có sự bền bỉ, kiên tâm vượt qua nghịch cảnh. Dân tộc Việt Nam đã trải qua chiến tranh, chiến thắng nhân tai, địch họa, thiên tai, dịch bệnh... Bài học của lịch sử để lại và di truyền trong máu chúng ta là tính cố kết cộng đồng được nâng lên thành đoàn kết. Mỗi khi gặp khó khăn thì truyền thống yêu nước, nhân nghĩa lại được lan tỏa, bồi đắp. Tất nhiên, trong thời đại ngày nay, đoàn kết phải được củng cố vững bền thêm ở những hình thái khác. Đó là ý thức công dân, là trách nhiệm xã hội, là kỷ luật, tự giác, là đồng lòng vì cái chung và cũng vì mối an nguy của riêng mỗi người. Mỗi người dân góp phần việc của mình, chia sẻ điều kiện của mình là đoàn kết. Rửa tay thường xuyên, tập thể dục, hạn chế đến nơi đông người, đeo khẩu trang, khai báo y tế trung thực, cập nhật thường xuyên thông tin, nhắc nhở người thân, gia đình biện pháp phòng dịch... là đoàn kết, là yêu nước.
Đoàn kết chính là cách thức mà quốc gia và công dân của mình liên kết với nhau để chung sức, chung lòng đẩy lùi dịch bệnh. Những chuẩn mực xã hội đang được thiết lập, sự tôn trọng dành cho những cá nhân biết tôn trọng quy tắc, kỷ luật và biết cách bảo vệ bản thân, cũng như bảo vệ cộng đồng. Nghịch lý thay nhưng lại rất hợp lý, những thuật ngữ được nhắc đến nhiều trong trận chiến này như “tự cách ly” (self-quarantine), “giãn cách xã hội” (social distancing), cô lập (isolation)... đang là biểu hiện quan trọng của đoàn kết xã hội. Chỉ “ai chỗ nào ở yên chỗ đấy” cũng có thể là biểu hiện của chung tay, của đoàn kết, của thái độ dũng cảm, biết hy sinh và hành động văn minh, kỷ luật, trách nhiệm. Lại nhớ chuyện, tháng 4 năm 1959, đến thăm các kỹ sư trẻ trường Đại học Nông Lâm Hà Nội, với chiếc đồng hồ quả quýt lấy ra từ túi áo, Bác Hồ nói, cái đồng hồ có nhiều bộ phận có chức năng làm việc riêng, nhưng đều có nhiệm vụ làm cho đồng hồ chạy và chỉ đúng giờ. Để tạo nên mối nối thật sự vững chắc thì mỗi người là một mắt xích phải thật sự đoàn kết, nỗ lực, cố gắng, phát huy khả năng, hỗ trợ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ.
“ĐOÀN KẾT Ở MỨC ĐỘ TOÀN CẦU LÀ THANG THUỐC GIẢI HỮU HIỆU”
Chiến thắng của quốc gia thuộc về cách thức mà mỗi quốc gia và công dân của mình liên kết với nhau để vượt qua đại nạn. Còn chiến thắng của nhân loại, của thế giới, phụ thuộc vào năng lực quản trị của từng quốc gia và khả năng đoàn kết, chia sẻ với nhau. Trong tuyên bố COVID -19 đã trở thành “đại dịch toàn cầu”, ngày 11-3, Tổng Thư ký Liên hợp quốc, ông Guterres khẩn thiết: “Việc Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tuyên bố đại dịch ngày hôm nay là một lời kêu gọi hành động gửi tới mọi người, mọi nơi trên thế giới. Tuyên bố cũng là lời kêu gọi trách nhiệm và sự đoàn kết, các quốc gia cần đoàn kết lại và mọi người dân trên thế giới cần đoàn kết lại”.
Học giả Yuval Harari, tác giả của những cuốn sách: “Lược sử loài người”, “Lược sử tương lai” và “21 bài học của thế kỷ 21” nhận định, “thang thuốc giải hữu hiệu cho bệnh dịch không phải là chia rẽ mà là đoàn kết”, và phải là “với tinh thần đoàn kết ở mức độ toàn cầu”. Sự đoàn kết này thể hiện ở việc chia sẻ những nguồn thông tin khoa học đáng tin cậy, công khai minh bạch các thông tin vào dịch bệnh. Yuval Harari cho rằng, để có được sự đoàn kết, cần phải có niềm tin mạnh mẽ và sự hợp tác quốc tế cao độ giữa các quốc gia. Sự vắng mặt của niềm tin và gắn kết toàn cầu sẽ khiến dịch bệnh tiếp tục lây lan. Mỗi mối nguy đều tồn tại cơ hội. Dịch bệnh lần này hy vọng sẽ là hồi chuông cảnh tỉnh cho nhân loại về sự nguy hiểm của chia rẽ toàn cầu.
Rõ ràng, đại dịch và khủng hoảng kinh tế là vấn đề của thế giới, của toàn thể nhân loại. Và với tầm mức đó, nó chỉ có thể được giải quyết hiệu quả nếu các quốc gia cùng hợp tác. Nhân loại đang chạy đua với virus để giành chiến thắng. Khi cuộc chiến này đi qua, chúng ta phải đối diện với những thảm họa tồi tệ về khủng hoảng kinh tế, tâm lý và nhiều điều khác nữa. Một thế giới bị tổn thương chỉ có thể hàn gắn và hồi phục bằng sự đoàn kết và chia sẻ.
Tinh thần quyết tâm cao của Việt Nam đã tạo nên sức mạnh kiên cường để chiến đấu và quyết chiến thắng đại dịch Covid-19.
Sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại phải đi cùng một nhịp. Trong Lời kêu gọi, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, trong tình hình hiện nay, sự đoàn kết và phối hợp hành động toàn cầu là cơ sở bảo đảm chắc chắn cho chiến thắng cuối cùng của thế giới trước đại dịch này. Trong điều kiện nguồn lực đất nước còn khiêm tốn, là một thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam cũng đã bày tỏ sự chia sẻ, cảm thông sâu sắc và đang hết sức nỗ lực, cố gắng, nỗ lực hợp tác thiết thực, phối hợp kịp thời với các nước, nhất là các nước bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19.
Cuộc chiến còn lâu dài và phức tạp. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước lưu ý: “Thời gian tới đây, chúng ta có thể sẽ còn phải đối mặt với khó khăn lớn hơn gấp nhiều lần, đòi hỏi sự nỗ lực nhiều hơn nữa, kiên quyết hơn nữa”. Để vượt qua và chiến thắng, chỉ có thể đoàn kết, đồng lòng, đồng thuận, mới có thể biến nguy thành cơ. Ta lại nhớ đến lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Chúng ta phải lấy đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà”./.
1/ Mở bài :
- Nêu tình trạng diễn biến.
- Khái niệm tổng quát về dịch bệnh.
2/ Thân bài :
- Nêu luận điểm cho thấy phòng chống dịch bệnh là rất quan trọng.
- Những cách cơ bản, vd : 5K, đeo khẩu trang,...
3/ Kết bài
- Nêu mong muốn, hi vọng.
Mh chỉ nêu cho bạn dàn ý thôi chỉ là KHÁI QUÁT.
DÀN Ý
a)MỞ BÀI: nêu tình tạng diễn biến của covid-19
khái quát về dịch bệnh
b)THÂN BÀI:người dan thực hiện thông điệp 5K như thế nào ?
chính quyền có những chính savhs gì đối với những người bị tác động bởi covid-19
những vùng dịch có nhưng biện pháp gì đối với người bị cách ly và người dân
c)KẾT BÀI:nêu cảm nhận của em về đợt dịch lần này có nhiều người bị nhiễm covid hơn lần trước có nhiều người ko (ko cần tả khái quát)
Câu trả lời của bạn
vì động vật sống trong rừng
mà dẫn chứng vs luận cứ là 1 nha
nghệ thuật của câu tục ngữ " Có chí thì nên " là gì?
Câu trả lời của bạn
lập dàn bài cho đề văn nghị luận " đi 1 đàng học 1 sàng khôn
Câu trả lời của bạn
hiện nay lớp em có một số bạn lơ là việc học tập em hãy viết 1 bài văn nghị luận khuyên các bạn đó
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Ví dụ thực tế (dẫn chứng) về tính tự phụ. Cần gấp đó mai kiểm tra rồi
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Lập ý cho đề sau : Nhân dân ta thường nhắc nhở nhau : 'Ăn quả nhớ kẻ trồng cây'. Chứng minh lời nhắc nhở đó là nét đẹp truyền thống đạo lí của dân tộc Việt Nam
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Nếu coi văn học dân gian là một kho báu, thì tục ngữ chính là những của báu nhỏ gọn nhưng vô cùng giá trị. Bởi tục ngữ chứa đựng sự khôn ngoan, kinh nghiệm sống của cha ông ta. Bàn về tầm quan trọng của việc học, người xưa để lại câu: "Có học mới nên khôn". Câu tục ngữ trên có ý nghĩa rất sâu sắc và đúng đắn, cho mọi người và mọi thời đại.
Vậy thế nào là "Có học mới nên khôn"? Từ bao đời nay, tận thuở bình minh của nhân loại, con người luôn không ngừng học tập. Học là hoạt động tiếp thu tri thức của trí óc con người. Người ta thực hiện hoạt động học dưới mái trường, do người thầy dẫn dắt để sự hiểu biết ngày càng nâng cao. Kiến thức và kinh nghiệm của người thầy giúp cho con đường học tập của chúng ta được dễ dàng hơn, rút ngắn thời gian và công sức của mỗi người. Chính vì vậy mới có câu tục ngữ "Không thầy đố mày làm nên". Tuy vậy, không phải ai cũng có điều kiện đến trường, đến lớp để học tập. Lúc đó, người ta vẫn có thể tiến lên bằng cách tự học qua sách vở, qua đời sống, với một quyết tâm thật cao.
Hoạt động học tập không chỉ bó hẹp trong không gian, thời gian nào, mà mở rộng ở mọi nơi, mọi lúc. Nếu có ý thức muốn mở mang trí óc, thu hoạch tri thức, thì con người luôn có thể học trong mọi hoàn cảnh. Còn từ "khôn" trong câu tục ngữ thì có thể hiểu là sự thông minh, sáng suốt, biết cách ứng xử, xử lý mọi tình huống trong đời sống vốn rất phức tạp. Người Việt Nam ta vốn chuộng sự khôn khéo, sự nhanh nhạy trong giao tiếp. Một người muốn có được sự "khôn" này thì tất yếu phải có tri thức, có hiểu biết sâu rộng và uyên thâm. Mà điều này chỉ có được khi ta ra sức "học" mà thôi. Đó chính là ý nghĩa câu tục ngữ, đã chỉ ra lợi ích và sự cần thiết của việc học tập đối với con người. Nhất là những người trẻ, đang bắt đầu bước vào cuộc đời thì học còn là sự khám phá cuộc sống, khám phá bản thân, tìm ra con đường đi đúng đắn cho mình.
Vì sao ông cha ta khẳng định "Có học mới nên khôn"? Trước tiên, học tập sẽ giúp ta bồi đắp tri thức. Nếu coi tri thức là vốn liếng để đầu tư của mỗi con người, thì học càng nhiều, ta càng giàu có hơn. Điều này có thể hiểu theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng: có tri thức thì mới có thể làm giàu cho mình và cho đất nước. Có tri thức thì trí tuệ trở nên phong phú, sâu sắc hơn... Rồi học kiến thức khoa học, ta hiểu về thế giới tự nhiên quanh mình. Còn học lịch sử, văn học..., ta hiểu thêm về xã hội loài người, hiểu về phong tục tập quán, cái nhìn của ta mở rộng không phải về chiều không gian, mà cả chiều thời gian nữa. Rồi khi học về đạo lý làm người, ta biết chân giá trị cuộc sống. Đó là lúc, ta biết sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống hạnh phúc cho mình và cho bao người thân yêu. Nói về vấn đề này, tục ngữ nước ta cũng có câu: "Có học mới hay, có cày mới giỏi". Học nên khôn là như thế đó.
Bác Hồ vĩ đại của chúng ta là tấm gương ngời sáng về tinh thần ham học hỏi. Từ nhỏ, người đã siêng năng học chữ Nho, chữ Quốc ngữ. Lớn lên, Người đi khắp năm châu để có thêm hiểu biết về con người, về xã hội, về cách mạng. Trên đường đi, Người còn chăm chỉ học các ngoại ngữ, bời Người quan niệm: "Biết thêm một ngoại ngữ giống như được sống thêm một cuộc đời". Sau này Người vẫn không ngừng học hỏi ở sách báo, ở nhân dân, dủ Người đã là một vị Chủ tịch nước. Chính vì thế, Bác đã trở thành một vĩ nhân của thế giới và của Việt Nam.
Như vậy, học tập là hoạt động vô cùng quan trọng của mỗi người chúng ta, đặc biệt là thế hệ trẻ, để được "nên khôn", nhằm trở thành những người chủ tốt của đất nước. Người trẻ cần xác định mục đích, động lực học tập đúng đắn. Học vì cái "khôn", vì tri thức, để hoàn thiện mình, chứ không hẳn vì "thành tích". Phương pháp học tập cũng cần khoa học, để chiếm lĩnh tri thức thật sự, không "học vẹt", "học tủ". Cần luôn năng động, sáng tạo trong việc học, nhất là khi chúng ta đang ở trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật 4.0.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *