Qua bài học giúp các em hiểu được khái niệm ca dao, dân ca. Đồng thời nắm được nội dung, ý nghĩa, nghệ thuật tiêu biểu của ca dao, dân ca qua những bài ca thuộc chủ đề tình cảm gia đình.
Phân biệt | Ca dao | Dân ca |
Khái niệm | Lời thơ của dân ca và những bài thơ dân gian mang phong cách nghệ thuật chung với lời thơ dân ca | Những sáng tác dân gian kết hợp giữa lời và nhạc |
Ví dụ "TRỐNG CƠM" | "Trống cơm khéo vỗ nên vông Một bầy con sít lội sông đi tìm Thương ai con mắt lim dim Một bầy con nhện đi tìm giăng tơ" | "Tình bằng có cái trống cơm, khen ai khéo vỗ ấy mấy vông nên vông. Một bầy tang tình con sít, ấy mấy lội, lội sông, ấy mấy đi tìm. Em nhớ thương ai, đôi con mắt ấy mấy lim dim. Một bầy tang tình con nhện ới a, ấy mấy giăng tơ, gaiwng tơ ấy mấy đi tìm, em nhơ thương ai duyên nợ khách tang bồng". |
Đọc: Chú ý đọc diễn cảm, thể hiện cảm xúc.
Chú thích (SGK/35): Chú ý những từ khó
"Cù lao chín chữ" (Phân biệt với cù lao: bãi nổi trên sông)
"Nuộc lạt"
"Bác mẹ"
"Hai thân"
Bài 1
"Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao, biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi"
Bài 4
"Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ, một nhà tình thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy"
Phân tích | Bài 1 Tình cha nghĩa mẹ | Bài 4 Tình cảm anh em |
Nội dung | Lời của mẹ ru con, nói với con về công lao to lớn của cha mẹ đối với con cái và nhắc nhở phận làm con phải ghi nhớ công ơn sâu nặng đó | Nhắc nhở chúng ta anh em phải hòa thuận, phải biết đoàn kết, nương tựa vào nhau, thương yêu nhau để cha mẹ vui lòng. |
Nghệ thuật | Phép so sánh, đôi lập Thể thơ lục bát quen thuộc, dễ nhớ, âm điệu sâu lắng, tình cảm, đi vào lòng người. | Phép so sánh, điệp ngữ |
Bài tương tự | "Nuôi con mẹ héo vóc hình Cạn bầu sữa ngọt mà tình không vơi" "Lên non mới biết non cao Nuôi con mới biết công lao mẫu từ" "Ngày nào em bé cỏn con Bây giờ em đã lớn khôn thế này" "Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy Nghĩ sao cho bỏ những ngày ước ao" | "Anh em như thể tay chân Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần" "Khôn ngoan đối đáp người ngoài Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau" "Chị em như chuối nhiều tàu Tấm lành che tấm rách, đừng nói nhau nặng lời" |
Sử dụng biện pháp so sánh, ẩn dụ, đối xứng, tăng cấp ...
Đề bài 1: Sưu tầm một số bài ca dao, dân ca về tình yêu quê hương, đất nước và con người
Gợi ý làm bài
"Cần Thơ gạo trắng nước trong,
Ai đi đến đó lòng không muốn về".
"Cà Mau hãy đến mà coi,
Muỗi kêu như sáo thổi,
Đỉa lội lềnh tựa bánh canh".
"Cần Thơ là tỉnh,
Cao Lãnh là quê,
Anh đi lục tỉnh bốn bề,
Mải đi buôn bán chẳng về thăm em".
"Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No,
Anh có thương em, xin sắm một con đò,
Để em qua lại mua cò gởi thơ.
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền,
Anh có thương em, cho bạc cho tiền,
Đừng cho lúa gạo xóm giềng họ hay".
"Con trai trong Quảng ra thi,
Thấy con gái Huế chân đi không đành".
"Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy,
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa.
Viết thư thăm hết mọi nhà,
Trước thăm phụ mẫu sau là thăm em".
"Chỉ điều xe tám, đậu tư,
Anh đi Gia Định thư từ cho em".
"Chị Hươu đi chợ Đồng Nai
Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò".
"Chợ Sài Gòn cẩn đá
Chợ Rạch Giá cẩn xi măng
Giã em xứ sở vuông tròn
Anh về xứ sở không còn ra vô".
"Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mùng mười"
"Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ".
"Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ"
"Khen ai khéo họa dư đồ,
Trước sông Nhị Thủy, sau hồ Hoàn gươm"
"Lục tỉnh có hạt Ba Xuyên,
Bạc Liêu chữ đặt, bình yên dân rày.
Mậu Thìn vốn thiệt năm nay,
Một ngàn hai tám, tiếng rày nổi vang.
Phong Thạnh vốn thiệt tên làng,
Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung.
Anh em Mười Chức công khùng,
Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan"
"Lênh đênh ba mũi thuyền kề,
Thuyền ra Kẻ Chợ, thuyền về sông Dâu".
"Làng tôi có lũy tre xanh,
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng".
"Bên bờ vải nhãn hai hàng,
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng".
Đề bài 2: Em hãy giải thích câu ca dao sau (có liên hệ với cuộc sống thực của em). Phát biểu cảm nghĩ của em đối với công ơn của cha mẹ.
"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra".
Gợi ý làm bài
1. Mở bài
"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
2. Thân bài
a. Ý nghĩa câu ca dao
“Chim trời ai dễ đếm lông
Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày”
b. Làm thế nào để tròn chữ hiếu, tròn đạo con?
c. Phát biểu cảm nghĩ của em đối với công lao to lớn của cha mẹ
3. Kết bài
Tình cảm và cách cư xử của bản thân mỗi người đối với người thân trong gia đình là thước đo đầu tiên đánh giá tư cách đạo đức của mỗi người. Để hiểu sâu về văn bản này, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Ca dao, đan ca những câu hát về tình cảm gia đình.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Tình cảm gia đình được thể hiện vô cùng phong phú và đa dạng trong văn bản Ca dao, dân ca những câu hát về tình cảm gia đình. Để có thể phân tích đực cái hay, cái đẹp của từng bài ca dao, dân ca, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Cảm nhận về công ơn cha mẹ qua bài ca dao Công cha như núi ngất trời
- Phân tích bài ca dao Công cha như núi ngất trời
- Phân tích bài ca dao Ngó lên nuộc lạt mái nhà
- Phân tích bài ca dao Chiều chiều ra đứng ngõ sau
- Cảm nhận về bài ca dao Chiều chiều ra đứng ngõ sau
- Cảm nhận về bài ca dao Anh em nào phải người xa
- Phân tích bài ca dao Công cha như núi Thái Sơn
-- Mod Ngữ văn 7 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
tụ ngữ,ca dao dân ca là j
Câu trả lời của bạn
A
1. Ai ai cũng tưởng bậu hiền
Cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai
2. Ai đem con sáo sang song
Để cho con sáo sổ lồng bay cao
3. Ai đi bờ đắp một mình
Phất phơ chiếc áo giống hình phu quân
4. Ai đi đâu đấy hỡi ai
Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm
Ai đi muôn dặm non song
Để ai chứa chất sầu đong vời đầy
5. Ai đi sục sịch ngoài hàng dưa
Phải chăng chú thợ mộc với cái cưa cái bào
Ai đi sục sịch ngoài hàng rào
Phải chăng chú thợ mộc với cái bào cái cưa
6. Ai kêu là rạch, em gọi là song
Phù sa theo nước chảy mênh mông
Sông ơi, thấm mát đời con gái
Chẳng muốn lìa sông, chẳng muốn lấy chồng
7. Ai làm cho bướm lìa hoa
Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng
8. Ai làm Nam Bắc phân kỳ
Cho hai giòng lệ đầm đìa nhớ thương
9. Ai mà nói dối cùng ai
Thì trời giáng hạ cây khoai giữa đồng
Ai mà nói dối cùng chồng
Thì trời giáng hạ cây hồng bờ ao
10. Ai nhứt thì tôi đứng nhì
Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba
11. Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần
12. Ai ơi chơi lấy kẻo già
Măng mọc có lứa người ta có thì
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già sòng sọc nó thì theo sau
13. Ai ơi chớ nghĩ mình hèn
Nước kia dù đục lóng phèn cũng trong
14. Ai ơi chớ vội cười nhau
Cười người hôm trước hôm sau người cười
Ai ơi chớ vội cười nhau
Nhìn mình cho tỏ trước sau hãy cười
15. Ai ơi chẳng chóng thì chầy
Có công mài sắt, có ngày nên kim
16. Ai ơi đã quyết thì hành
Đã đốn thì vác cả cành lẫn cây
17. Ai ơi đã quyết thì hành
Đã đan thì lặn, tròn vành mới thôi
18. Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu
19. Ai ơi đừng lấy học trò
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm
Hay nằm thời có võng đào
Dài lưng thời có áo chào nhà vua
Hay ăn thời có gạo kho
Việc gì mà chẳng ăn no lại nằm
20. Ai ơi đừng lấy pháo binh
Nửa đêm nó bắn rung rinh cái giường
21. Ai ơi ở chí cho bền
Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai
22. Ai ơi chí ở cho bền
Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai
Dù ai nói Đông nói Tây,
Ta đây vẫn vững như cây giữa rừng
23. Ai phụ tôi có đất trời chứng giám
Phận tôi nghèo, tôi không dám phụ ai
Tưởng giếng sâu tôi nối sợi dây dài
Ai dè giếng cạn, tiếc hoài sợi dây
24. Ai về ai ở mặc ai
Áo dà ở lại, đến mai hãy về
25. Ai về ai ở mặc ai
Thiếp như sầu đượm thắp hoài năm canh
26. Ai về Bình Định mà coi
Đàn bà cũng biết múa roi, đi quyền
27. Ai về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
28. Ai về em gởi bức thơ
Hỏi người bạn cũ bây giờ nơi nao
Non kia ai đắp mà cao
Sông kia, biển nọ ai đào mà sâu
29. Ăn cây sung ngồi gốc cây sung
Lấy anh thì lấy, nằm chung không nằm
30. Ăn cháo, đá bát
31. Ăn một bát cháo, chạy ba quảng đồng
32. Ăn bữa giỗ, lỗ bữa cày
33. Ăn cá nhả xương, ăn đường nuốt chậm
34. Ăn cây nào, rào cây nấy
35. Ăn chưa no, lo chưa tới
36. Ăn cơm không rau như nhà giàu chết không nhạc
37. Ăn cơm có canh như tu hành có bạn
38. Ăn cơm mới, nói chuyện cũ
39. Ăn dầm, nằm dề
40. Ăn đi giỗ trước, lội nước theo sau
41. Ăn lắm thì hết miếng ngon
Nói lắm thì hết lời khôn hóa rồ
42. Ăn đong cho đáng ăn đong
Lấy chồng cho đáng hình dong con người
43. Ăn được, ngủ được là tiên
Không ăn không ngủ, mất tiền thêm lo
44. Ăn sao cho được mà mời
Thương sao cho được vợ người mà thương
45. Ăn tàn ăn mạt, ăn nát cửa nhà
Con gà nuốt trộng, cá bống nuốt tươi
46. Ăn thì ăn những miếng ngon,
Làm thì chọn việc cỏn con mà làm.
47. Ăn thì vùa, thua thì chạy
48. Ăn trái nhớ kẻ trồng cây
Uống nước nhớ người đào giếng
49. Ăn trông nồi, ngồi trông hướng
50. Ầu ơ... Anh về bán đất cây da
Để khuya em đắp gió Tây lạnh lung
51. Ầu ơ... Bồng bống bông bong
Lớn lên con phải cố học hành
Học là học đạo làm người
Con đừng lêu lổng kẻ cười người chê
52. Ầu ợ.. Cháu ơi cháu ngủ cho lâu
Mẹ cháu đi cấy đồng sâu chưa về
Bắt được con trắm con trê
Tròng cổ mang về bà cháu mình ăn
53. Ầu ơ... Chim quyên lẻ bạn, than thở một mình
Bây giờ mình lẻ bạn (ơ 1 mình, mình thở than
54. Ầu ơ... Em tôi khát sữa bú tay
Ai cho bú thép ngày rày mang ơn
55. Ầu ơ... Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá về đồng ăn cua
56. Ầu ơ... Má ơi đừng đánh con đau
Để con hát bội làm đào má coi
Ầu ơ... Mẹ ơi đừng đánh con đau
Để con bắt cá hái rau mẹ dung
Bắt cá, cá lội trên đàng
Hái rau rau héo, hỏi sao mẹ dùng hả con?...
57. Ầu ơ... Mười hai giờ kiểng đổ nhà thờ
Sao anh không học đặng nhờ tấm thân?
58. Ầu ơ... Quạ kêu nam đáo nữ phòng
Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương
Liệu bề đát được thì đương
Đừng gầy rồi bỏ thói thường cười chê
59. Ầu ơ... Ví dầu cá bống đánh đu
Tôm càng hát bội, cá thu cầm chầu
60. Ầu ơ... Ví dầu cá lóc nấu canh
Bỏ tiêu cho ngọt, bỏ hành cho thơm
61. Ầu ơ... Ví dầu tình bậu muốn thôi
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra
Bậu ra bậu lấy ông câu
Bậu câu cá bống chặt đầu kho tiêu
Kho tiêu kho ớt kho hành
Kho ba lượng thịt để dành mẹ ăn
62. Ầu ơ... Ví dầu ví dẫu ví dâu
Ví qua ví lại ví trâu vô chuồng
63. Anh buồn có chỗ thở than
Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya
64. Anh đánh thì em chịu đòn
Tánh em hoa nguyệt mười con chẳng chừa
65. Anh đã có vợ hay chưa?
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào
Mẹ già anh ở nơi nao
Để em tìm vào hầu hạ thay anh
66. Anh đâu phải mê bông quế mà bỏ phế cái bông lài
Quế thơm ban ngày, lài ngát ban đêm
67. Anh đi ba bữa anh về
Rừng sâu nước độc anh đừng ở lâu
68. Anh đi đường ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh
Nước non một gánh chung tình
Nhớ ai ai có nhớ mình hay chăng
69. Anh đi em một ngó chừng
Ngó sông sông rộng, ngó rừng rừng sâu
Anh đi em một ngó chừng
Ngó trăng trăng lặn, ngó rừng rừng sâu
70. Anh đi, em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ
Lầm than bao quản muối dưa
Anh đi, anh liệu chen đua với đời
71. Anh đi kiệu lộng ba bong
Bỏ em cấy lúa đồng không một mình
72. Anh gặp em hồi đứng bóng đang trưa
Trách trời sao vội tối, anh chưa phân cạn lời
73. Anh em bốn bể là nhà
Người dưng khác họ vẫn là anh em
74. Anh Hai, anh tính đi "mô" ?
Tôi đi chợ Tết, mua khô cá thiều
75. Anh hít cái bông bưởi, anh còn hửi cái bông cam
Anh thích nấm tràm, anh lại ham nấm mối
76. Anh lấy được em bỏ công ao ước
Em lấy được anh thoả dạ ước ao
77. Anh mau thức dậy học bài
Mong cho anh sớm thành tài
Trước làm đẹp mặt nở mày mẹ cha
Sau là không phụ tình ta bao ngày
78. Anh này rõ khéo làm ăn
Đi cày chẳng biết, chít khăn mượn người
79. Anh nói với em nhiều tiếng thâm trầm
Nằm đêm nghĩ lại nát bằm lá gan
80. Anh ơi, anh giận em chi
Anh muốn vợ bé, em thì lấy cho
81. Anh ơi anh ở lại nhà
Thôi đừng vui thú nguyệt hoa chơi bời
Còn tiền kẻ rước, người mời
Hết tiền, chẳng thấy một người nào ưa
82. Anh ơi đi lính cho Tây
Con dại cả bầy bỏ lại ai nuôi
83. Anh ơi em chẳng lấy đâu
Anh đừng cạo mặt, nhổ râu tốn tiền
84. Anh ơi nơm cá xong chưa
Xuồng em neo đợi chờ trưa anh về
85. Anh say rượu ngày mai sẽ tỉnh
Kẻ say tình, mãi không tỉnh đâu em
86. Anh ơi uống rượu thì say,
Bỏ ruộng ai cày, bỏ giống ai gieo
87. Anh thương em, thương quấn thương quit
Anh bồng ra gốc mít, anh bồng khít gốc chanh
Anh bồng quanh đám sậy, anh bồng bậy vô mui
Anh bồng lui sau lái, anh bồng ngoáy trước mũi
88. Anh thương em trầu hết lá lươn
Cau hết nửa vườn, cha với mẹ nào hay
Dầu mà cha mẹ có hay
Nhứt đánh nhì đày, hai lẽ mà thôi
Gươm vàng để đó em ôi
Chết thì chịu chết, lià đôi anh không lià
89. Anh tỷ như phận anh
Chẳng thà ở lều tranh
Như thầy Tăng, thầy Lộ
Cũng không ham mộ,
Như Vương Khải, Thạch Sùng
Đạo người giữ vẹn, bần cùng sá chi
90. Anh về bán ruộng cây da
Bán cặp trâu già, mới cưới đặng em
91. Anh về đếm hết sao trời
Em đây kết tóc ở đời với anh
92. Anh về đô thị hôm nao
Gió lay cây choại, lệ trào mi em
93. Anh về em chẳng dám đưa
Hai hàng nước mắt như mưa tháng mười
94. Anh về làm rể ăn cơm với cá
Em về làm dâu ăn rau má với rạm đồng
95. Anh với em mà tựa vai kề
Nay dù em có lạc Sở sang Tề
Thì em cũng nên gởi thơ về 1 lá đặng cho anh hay
96. Ao có bờ, sông có bến
97. Ao sâu thì lắm ốc nhồi,
Chồng mình lịch sự nửa người nửa ta
Ghen lắm thì đứt ruột ra,
Chồng mình sẽ tới tay ta phen này
98. Áo dài, chớ tưởng là sang,
Bởi không áo ngắn, mới mang áo dài
99. Áo mặc sao qua khỏi đầu
100. Áo anh đứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu
B
1. Ba cô đội gạo lên chùa
một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
sư về sư ốm tương tư
ốm lăn ốm lóc nên sư trọc đầu
ai làm cho dạ sư sầu
cho ruột sư héo như bầu đứt dây
2. Ba đồng một mớ đàn ông
Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha
Ba trăm một mụ đàn bà
Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi
3. Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra
4. Ba năm ở với người đần
Chẳng bằng một lúc ghé gần người khôn
5. Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm tối dồn việc quan
6. Ba tiền một khúc cá buôi
Cũng mua cho được mà nuôi mẹ già
7. Ba trăng là mấy mươi hôm,
Mai Nam nắng trước, chiều Nồm quạnh sau
Chàng ơi đừng phụ khó tham giàu
Khi lành tôn trượng, khi đau phụ phàng
8. Bà già đeo bị hạt tiêu
Sống bao nhiêu tuổi nhiều điều đắng cay
9. Bạc sao bạc chẳng vừa thôi
Để cho nước chảy hoa trôi lỡ làng
10. Bà con khó xin đừng bỏ
Kẻ lạ dầu sang cũng chớ đua
11. Bà già đã tám mươi tư
Ngồi trong cửa sổ gởi thư lấy chồng
12. Bà già đi chợ Cầu Bông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?
Xem rằng ông mới bói rằng:
Lợi thì có lợi, nhưng răng chẳng còn
13. Bạc Liêu nước chảy lờ đờ
Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu
14. Bắc thang lên hái hoa vàng
Vì ai cho thiếp biết chàng từ đây
15. Bạn bè là nghĩa tương tri
Sao cho sau trước vẹn bề mới nên
16. Bạn nghèo thuở trước chớ quên
Vợ cùng kham khổ, chẳng nên phụ tình
17. Bàn tay còn có ngón dài, ngón vắn,
Con một nhà đứa trắng đứa đen,
Hễ ăn vóc học quen,
Dẫu họ chê mình vụng, tập rèn cũng phải hay
18. Bạn vàng lại gặp bạn vàng
Long Lân Quy Phụng một đoàn tứ linh
19. Bánh cả mâm, sao em kêu rằng bánh ít?
Trầu cả chợ, sao em gọi là trầu không?
Trai nam nhi không đối đặng
Gái má hồng xin thử đối xem!
20. Bao giờ cho đặng thảnh thơi,
Tay têm thuốc cống, miệng mời lang quân
21. Bao giờ cho đến tháng Mười
Thổi nồi cơm nếp vừa cười vừa ăn
22. Bao giờ cho đến tháng Năm
Thổi nồi cơm nếp vừa nằm vừa ăn
23. Bao giờ mưa thuận gió hòa
Thay lông đổi cánh lại ra phượng hoàng
24. Bao giờ cạn rạch Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền
25. Bao giờ chạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình
Bao giờ cây cải làm đình
Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta
26. Bao giờ cho chuối có cành
Cho sung có nụ, cho hành có hoa
Bao giờ trích đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước, thì ta lấy mình
27. Bao giờ cho khỉ đeo hoa
Cho voi đánh sáp, cho gà nhuộm răng
28. Bao giờ nước ngọt đường cay
Gánh vừa lon gạo thì thằng Tây ở tù
29. Bao giờ sen mọc Biển Đông
Cha con nhà Nguyễn bế bồng nhau đi
30. Bao phen lên ngựa ra về
Cầm cương níu lại xin đề câu thơ
Câu thơ ba bốn câu thơ
Câu đợi, câu chờ, câu nhớ, câu mong
31. Bao phen quạ nói với diều
Sau nhà cô Huệ có nhiều gà con
32. Bậu chê qua ở rẫy ăn còng
Bậu về ở chợ ăn ròng mắm nêm
33. Bây giờ gặp phải hội này
Khi trời hạn hán, khi hay mưa dầm
Khi trời gió bão ầm ầm,
Đồng tiền lúa thóc, mười phần được ba
34. Bấy lâu nay em ở ven rừng,
Chim kêu, vượn hú, em nửa mừng nửa lo
35. Bé nhưng mà bé hạt tiêu
Bé cay bé đắng bé xiêu lòng người
36. Bên sông thanh vắng một mình
Có ông ngư phủ biết tình mà thôi
37. Biên Hòa có bưởi Thanh Trà
Thủ Đức nem nướng, điện Bà Tây Ninh
38. Bớ chiếc ghe sau chèo mau em đợi,
Cho khỏi khúc sông này bờ bụi tối tăm
39. Bóng trăng anh tưởng bóng đèn
Bóng cây anh ngỡ bóng thuyền em sang
40. Bông chi thơm lạ thơm lung
Thơm cây, thơm lá, người trồng cũng thơm
41. Bữa ăn có cá cùng canh
Anh chưa mát dạ bằng anh thấy nàng
42. Buồn chẳng muốn nói, gọi chẳng muốn trông
Tưởng sự lấy chồng, tỉnh như con sáo
43. Buồn tình cha chả buồn tình
Không ai nói chuyện với mình cho vui
44. Bảy với ba tính ra một chục
Còm tam tứ lục tính lại cửu chương
Liệu bề đát được thì thương
Đừng gầy rồi bỏ, thế thường cười chê
45. Bắp non mà nướng lửa lò
Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm
46. Bắt con ngựa ngựa ô, ngựa ô tra khớp
Lục lạc đồng đen, em mang hài tốt
Ngấy ngây muôn dặm đường dài
Cá rô róc rách ruộng cày
Ai ghẹo gì mày hỡi cá rô con?
47. Bắc thang lên hỏi ông trời
Bỏ tiền cho gái có đòi được chăng!
48. Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thời đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào!
49. Bây giờ tui biết phận tui
Chỉ là cơm nguội phòng khi đói long
50. Bấy lâu vắng mặt khát khao
Bây giờ thấy mặt muốn cào mặt ra
51. Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn
52. Bậu buồn, qua dễ chẳng buồn
Cá dưới sông biếng lội, chim trên nguồn biếng bay
53. Bên kia sông, ai lập kiểng chùa Tân Thiện
Bên này sông, qua lập cái huyện Hà Đông
Cái huyện Hà Đông để cho ông Bao Công xử kiện
Cái chuà Tân Thiện nhiều kẻ tu hành
Chim kêu dưới suối trên cành
Qua không bỏ bậu, sao bậu đành bỏ quả
54. Bên này sông em bắc cây cầu mười tấm ván
Bên kia sông em lập cái quán mười hai từng
Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng đợi anh
55. Bến em có gốc dừa tơ
Đêm trăng em đứng em chờ đợi ai
56. Biết bao gái đẹp như hoa
Vỡ trâm, gãy xuyến, chìm thoa, rơi vàng
57. Bồ câu bồ các
Tha rác lên cây
Gió đánh lung lay
Là vua Cao Tổ
Những người mặt rỗ
Là ông Tiêu Hà
Nước chảy đường qua
Là dượng Tào Tháo
Đánh bạc cầm áo
Là anh Trần Bình
58. Biết nhau từ thuở buông thừng
Trăm chắp nghìn nối, xin đừng quên nhau
59. Biết thì thưa thốt
Không biết thì dựa cột mà nghe
60. Biển sâu, con cá lớn vẫy vùng
Trời cao muôn trượng, cánh chim hồng bay cao
61. Biển trời đua sắc vẫy vùng
Nữ nhi sánh với anh hùng được nao!
62. Biểu về nói với ông câu
Cá ăn thì giựt, để lâu hết mồi
63. Bì phấn với vôi
Bì con ông lái với tôi chân sào
64. Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời, chèo chống mỏi mê
65. Bông sứ cùng với bông lài
Tui quyết bẻ hết, khỏi ai cằn nhằn
66. Bốn ông mà ngồi một bàn
Cùng uống một chén, cùng than một lời
67. Bờ sông lại lở xuống song
Đàn bà mà lấy đàn ông, thiệt gì
68. Bởi anh đành đoạn
Đốn ngọn cây bần
Không cho ghe cá đậu gần ghe tôm
Thương anh em phải sớm hôm
69. Bởi anh trăm việc canh nông
Cho nên mới có bồ trong bịch ngoài
70. Buồn ngủ lại gặp chiếu manh
Hay ăn, làm biếng gặp anh đứng đường
71. Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai
72. Buồn về một nỗi tháng giêng
Con chim, cái cú, nằm nghiêng thở dài
Buồn về một nỗi tháng hai
Đêm ngắn, ngày dài, thua thiệt người ta
Buồn về một nỗi tháng ba
Mưa rầu, nắng lửa, người ta lừ đừ
Buồn về một nỗi tháng tư
Con mắt lừ đừ cơm chẳng muốn ăn
Buồn về một nỗi tháng năm
Chửa đặt mình nằm gà gáy, chim kêu
73. Buổi chợ đông con cá đồng anh chê lạt
Buổi chợ tan rồi con tép bạc anh cũng khen ngon
74. Bùn xa bèo, bùn khô bèo héo
Lựu xa đào, lựu xéo đào xiên
Vàng cầm trên tay rớt xuống không phiền
Chỉ phiền một nỗi nợ với duyên không tròn
75. Bươm bướm mà đậu cành bong
Đã dê con chị, lại bồng con em
76. Bước lên xe kiếng đi viếng mả chồng
Mả chưa cỏ mọc trong lòng đậu thai
77. Bước sang canh một anh thắp ngọn đèn vàng
Chờ con bạn ngọc thở than đôi lời
Canh hai vật đổi sao dời
Tính sao nàng tính trọn đời thủy chung
Canh ba cờ phất trống rung
Mặc ai ai thẳng ai dùn mặc ai
Canh tư hạc đậu cành mai
Sương sa lác đác khói bay mịt mờ
Canh chầy tơ tưởng tưởng tơ
Chiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu không
78. Bước vô trường án, vỗ ván cái rầm
Bủa xua ông Tham biện, bạc tiền ông để đâu
79. Bước xuống ruộng sâu, em mảng sầu tấc dạ
Tay em ôm bó mạ, luỵ ứa hai hàng
Ai làm lỡ chuyến đò ngang
Cho loan với phượng đôi hàng biệt ly
80. Bực mình chẳng muốn nói ra
Muốn đi ăn giỗ chẳng ma nào mời
C
1 . Canh khuya thắp chút dầu dư
Tim loan cháy lụn thiếp sầu tư một mình
2. Cau già dao bén thì ngon
Người già trang điểm phấn son cũng già
3. Cá bống còn ở trong hang
Lá rau tập tàng còn ở ruộng dâu
Ta về, ta sắm cần câu
Câu lấy cá bống, nấu rau tập tang
4. Cá kèo mà gặp mắm tươi
Như nơi đất khách gặp người cố tri
5. Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư
6. Cá nục nấu với dưa hồng
Lơ mơ có kẻ mất chồng như chơi
7. Cá tươi xem lấy đôi mang
Người khôn xem lấy đôi hàng tóc mai
Tóc mai sợi vắn sợi dài
Có đâu mặt rỗ đá mài không trơn
8. Cách sông mới phải luỵ thuyền
Còn như đường liền ai phải luỵ ai
9. Cái cò lặn lội bờ song
Muốn lấy vợ đẹp, nhưng không có tiền
10. Cái cò mày đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào, ông hãy sáo măng
Có sáo, thì sáo nước trong
Đừng sáo nước đục, đau lòng cò con
11. Cái kiến mày kiện củ khoai
Chê em tao khó, lấy ai cho giàu
Nhà tao chín đụn, mười trâu
Lại thêm ao cá bắc cầu rửa chân
Cầu này là cầu ái ân
Một trăm con gái rửa chân cầu này
Có rửa thì rửa chân tay
Chớ rửa chân mày, chết cá ao anh
12. Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền
Anh thương em cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo, xóm giềng họ hay!
13. Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No
Anh có thương em, xin sắm một con đò
Để em qua lại mua cò gởi thơ
14. Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chưa về
15. Cái ngủ mày ngủ cho say
Mẹ mày vất vả chân tay suốt ngày
16. Cái răng cái tóc là góc con người
17. Cát bay vàng lại ra vàng
Những người quân tử dạ càng đinh ninh
Đinh ninh ta để dạ này
Có công mài sắt, có ngày nên kim
18. Cà Mau hãy đến mà coi
Muỗi kêu như sáo thổi
Đỉa lội lềnh như bánh canh
19. Càng già càng dẻo càng dai
Càng gãy chân chõng, càng sai chân giường
20. Cầm tay em như ăn bì nem gỏi cuốn
Dựa lưng nàng như uống chén rượu ngon
21. Cầm vàng mà lội qua song
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng
22. Cần Thơ là tỉnh
Cao Lãnh là quê
Anh đi lục tỉnh bốn bề
Mảng lo buôn bán không về thăm em
23. Cậu cai nón dấu lông gà
Cổ tay đeo nhẫn gọi là cậu cai
Ba năm được một chuyến sai
Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê
Cậu cai buông áo em ra
Ðể em đi bán kẻo mà chợ trưa
24. Cây cao bóng mát không ngồi
Ra ngồi chỗ nắng trách trời không mây
25. Cây da Chợ Đũi nay nó trụi lủi, trốc gốc, mất tàn
Tình xưa còn đó, ngỡ ngàng nan phân!
26. Cây khô không dễ mọc chồi
Mẹ già không thể sống đời với con
27. Cây không trồng nên lòng không tiếc
Con không đẻ nên mẹ ghẻ không thương
28. Cây trên rừng hoá kiểng
Cá dưới biển hoá long
Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong
Anh đi lục tỉnh giáp vòng
Đến đây trời khiến đem lòng thương em
29. Cây vông đồng không không trồng mà mọc
Con gái xóm này chẳng chọc mà theo
30. Cây xanh lá đỏ hoa vàng
Hạt đen rễ trắng đố chàng là chi
(đố là gì? Cây rau sam)
31. Cây xanh thời lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con
Mừng cây rồi lại mừng cành
Cây đức lắm chồi, người đức lắm con
Ba vuông sánh với bảy tròn
Đời cha vinh hiển đời con sang giàu
32. Cậu cai buông áo em ra
Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa
Chợ trưa dưa nó héo đi
Lấy chi nuôi mẹ, lấy gì nuôi em?
33. Cha mẹ anh có đánh quằn đánh quại
Bắt anh ra treo tại nhành dương
Biểu từ ai, anh từ đặng
Chớ biểu anh từ người thương, anh không từ
34. Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày
35. Chanh chua thì khế cũng chua
Chanh bán có muà, khế bán quanh năm
36. Cháu ơi cháu ngủ cho ngon
Của dì, dì giữ ai bòn mặc ai
37. Chàng ôi, giận thiếp mà chi
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói long
38. Chàng về để áo lại đây
Để khuya em đắp gió khuya lạnh lung
39. Chàng về để áo lại đây
Phòng khi em nhớ cầm tay đỡ buồn
40. Chặt không đứt, bứt không rời
Phơi không khô, chụm không cháy
(Đố là con gì? Con sam)
41. Chẳng tham ruộng cả, ao tiền
Chỉ tham cái bút, cái nghiên anh đồ
42. Chân đi ba bước lại dừng
Tuổi em còn bé chưa từng đi buôn
Đi buôn cho đáng đi buôn
Đi buôn cau héo có buồn hay không
43. Chén tình là chén say sưa
Nón tình anh đội nắng mưa trên đầu
44. Chẻ tre bện sáo cho dầy
Chận ngang sông Mỹ có ngày gặp em
45. Chê đắng chê hôi
Đã chê xôi không dẻo
Lại chê kẹo không ngọ
46. Chê đây, lấy đấy sao đành
Em chê cam sành , lấy phải quít hôi
Quít hôi bán một đồng mười
Cam ba đồng một, quít ngồi trơ trơ
47. Chết trước được mồ, được mả
Chết sau nằm ngả, nằm nghiêng
48. Chiếc khăn cô đội trên đầu
Gió xuân đưa đẩy rơi vào tay tôi
Bâng khuâng tôi chẳng muốn rời
Trao cô thì tiếc, giữ thời không yên
49. Chiếu bông mà trải góc đền
Muốn vô làm bé biết có bền hay không?
50. Chiều chiều, buồn miệng nhai trầu
Nhớ người quân tử bên cầu ngẩn ngơ
51. Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau
52. Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người áo trắng khăn điều vắt vai
53. Chiều chiều, ông chánh về Tây
Cô ba ở lại lấy thầy Thông Ngôn
Thông ngôn, ký lục bạc chục không màng
Lấy chồng thợ bạc đeo vàng đỏ tay
54. Chiều chiều ông Lã Đông Tân
Vai mang bầu rượu, tay cầm chiếc nem
55. Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
56. Chiều chiều tui buồn tui ra sông cái, tự ải cho rồi
Sống làm chi mà chia ly thục nữ
Thác cho rồi đặng chữ thuỷ chung
57. Chiều chiều vịt lội cò bay
Ông voi bẻ mía chạy n_ vô rừng
Vô rừng bứt một sợi mây
Đem về thắt gióng cho nàng đi buôn
58. Chim chìa vôi bay ngang đám thuốc
Cá bãi trầu lội tuốt mương cau
59. Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe
60. Chim khôn mắc phải lưới hồng
Hễ ai gỡ được, đền công bạc vàng
Anh rằng anh chẳng lấy vàng
Hễ anh gỡ được, thì nàng lấy anh
61. Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi
62. Chim quyên xuống đất ăn trùng
Anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than
Chim quyên xuống đất cũng quyên
Anh hùng lỡ vận vẫn còn duyên anh hùng
63. Chim trời ai dễ đếm long
Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày
64. Chim xa cành còn thương nhớ cội
Người xa người tội lắm người ơi!
Chẳng thà không gặp thì thôi
Gặp rồi mỗi đứa một nơi sao đành
65. Chính chuyên chết cũng ra ma
Lẳng lơ chết cũng đem ra ngoài đồng
66. Chì khoe chì nặng hơn đồng
Sao chì chẳng đúc nên cồng, nên chuông
67. Chị kia bới tóc đuôi gà
Nắm đuôi chị lại hỏi nhà chị đâủ
Nhà tui ở dưới đám dâu
Ở trên đám đậu đầu cầu ngó qua
68. Chị lấy chồng em gặm giò heo
Giò heo chị để chị treo
Em lấy giò mèo em gặm em chơi
69. Chỉ đâu mà buộc ngang trời
Thuốc đâu mà chữa con người lẳng lơ
70. Chỉ đâu mà buộc ngang trời
Tay đâu mà bụm miệng người thế gian
71. Cho em trở lại đường xưa
Để em tìm lại gốc dừa cạnh ao
Lời anh âu yếm chiều nào
Thoảng vang trong gió rì rào chớm thu
72. Chồng chài, vợ lưới con câu
Thằng rể đóng đáy, con dâu đi nò
73. Chồng chung chồng chạ
Ai khéo hầu hạ thì được chồng riêng
74. Chồng già vợ trẻ là duyên
Vợ già, chồng trẻ là tiên ba đời
75. Chồng già vợ trẻ là tiên
Vợ già, chồng trẻ là duyên trên đời
76. Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười chúm chím: Thưa anh giận gì
Thưa anh, anh giận em chi
Muốn lấy vợ bé em thì lấy cho
77. Chồng thấp mà lấy vợ cao
Nồi tròn, vung méo úp sao cho vừa
78. Chồng thấp mà vợ lại cao
Như đôi đũa lệch biết sao so bằng
79. Chơi hoa cho biết mùi hoa
Cầm cân cho biết cân già, cân non
80. Chuối non giú ép chát ngầm
Trai tơ đòi vợ khóc thầm thâu đêm
81. Chuột kêu chút chít trong rương
Em đi co kheó đụng giường mẹ hay
82. Chuyện đời chẳng ít thì nhiều
Không dưng, ai dễ đặt điều cho ai
83. Chuyện người mặc kệ người lo
Hơi đâu đáy nước, mình mò bóng trăng
84. Chừng nào đá nổi rong chìm
Muối chua chanh mặn anh tìm được em
85. Chữ trinh đáng giá ngàn vàng
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm
Còn như yêu vụng nhớ thầm
Họp chợ trên bụng hàng trăm sá gì
86. Con ai đem bỏ chùa này
A di đà Phật, con thầy thầy nuôi
87. Con cá buôi quạt đuôi ra biển Bắc
Bơi dọc lội ngang không chắc trở về
88. Con cá đối nằm trên cối đá
Chim đa đa đậu nhánh đa đa
Chồng gần không lấy, bậu lấy chồng xa
Mai sau cha yếu mẹ già
Chén cơm đôi đũa, bộ kỷ trà ai dưng?
89. Con cá mày ở dưới ao
Tao tát nước vào mày sống được chăng
90. Con cá trong lờ đỏ hoe con mắt
Con cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô
91. Con chim chích choè
Nó đậu cành chanh
Tôi ném hòn sành
Nó quay lông lốc
Tôi làm một chốc
Được ba mâm đầy
Ông thầy ăn một
Bà cốt ăn hai
Cái thủ, cái tai
Tôi đem biếu chúa
Chúa hỏi chim gì
Con chim chích chòe...
92. Con chim mày ở trên cây
Tao đứng dưới gốc mày bay đường nào
93. Con chim nho nhỏ
Đỏ mỏ xanh long
Đỏ mồng xanh kiếng
Nó kêu xao xuyến
Nhiều tiếng lạ lung
Kêu sao cho quân tử nghe cùng
Phải duyên thì kết, phải lòng thì thương
94. Con có cha mẹ đẻ
Không ai ở lỗ nẻ chui lên
95. Con cóc là cậu ông trời
Hễ ai đánh nó thì trời đánh cho
Con cóc là cậu thầy nho
Hễ ai đánh chết trời cho quan tiền
96. Con công hay múa
Nó múa làm sao
Nó rụt cổ vào
Nó xoè cánh ra
Nó đậu cành đa
Nó kêu ríu rít
Nó đậu cành mít
Nó kêu vịt chè
Nó đậu cành tre
Nó kêu bè rau muống
Nó đậu dưới ruộng
Nó kêu tầm vông
Con công hay múa
97. Con đỉa đeo bà
Con gà cục tác
Mỏ nhác cầm chèo
Con mèo cầm lái
Con rái chạy buồm
Con tôm tát nước...
98. Con gái giống cha giàu ba họ
Con trai giống mẹ khó ba đời
99. Con gái mà gả chồng xa
Một là mất giỗ hai là mất con
Con gái mà gả chồng gần
Có chén canh cần nó cũng đem cho
100. Con gái ông Bang che dù che lọng
Con gái bà bống thổi lửa tắt đèn
101. Con hơn cha là nhà có phúc
102. Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà
103. Con không cha như nhà không nóc
Con không mẹ con khóc tối ngày
104. Con không chê cha mẹ khó
Chó không chê chủ nhà nghèo
105. Con kiến mày ở trong nhà
Tao đóng cửa lại mày ra đường nào?
106. Con lên ba cả nhà học nói
107. Con mèo mà trèo cây cau
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà
Chú chuột đi chợ đường xa
Mua mắm, mua muối giỗ cha con mèo
108. Con mèo con chuột có long
Cây tre có mắt, nồi đồng có quai
109. Con nhà lính, tính nhà quan
110. Con nhà tông, chẳng giống lông cũng giống cánh
111. Con quốc kêu réo rắt trên ngàn
Gà rừng táo tác gọi con tha mồi
Lạnh lùng thay láng giềng ôi
Láng giềng lạnh ít, sao tôi lạnh nhiều
112. Con người có tổ có tong
Như cây có cội, như sông có nguồn
113. Con ơi học lấy nghề cha
Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm
114. Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan
115. Con sâu làm rầu nồi canh
Một người làm xấu, nhơ danh cả nhà
116. Con sông bên lở, bên bồi
Bên lở thì đục, bên bồi thì trong
Sông kia nước chảy đôi dòng
Biết rằng bên đục, bên trong bên nào!
117. Con út con ít như mít chín cây
Gái cũng như trai, ai ai cũng chuộng
118. Con vua thì được làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa
119. Có cây mới có dây leo
Có cột có kèo, mới có đòn tay
120. Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây¨
121. Có chồng mà chẳng có con
Khác gì hoa nở trên non một mình
122. Có chum cá mới ở đià
Có em anh mới sớm khuya chốn này
123. Có con mà gả chồng gần
Nửa đêm đốt đuốc đem phần cho cha
Có con mà gả chồng xa
Ba phần ruộng trẻo chẳng ma nào cày
124. Có công mài sắt có ngày nên kim
125. Có của thì có mẹ nàng
Có bạc có vàng thì có kẻ ưa
Chị là con gái nhà giầu
Ăn mặc tốt đẹp vào chầu tòa sen
Em là con gái nhà hèn
Ăn mặc rách rưới mon men ngoài hè
126. Có đâu sen, ấu một bồn?
Có đâu chanh, khế sánh phần lựu lể
127. Có đỏ mà chẳng có thơm
Như hoa dâm bụt nên cơm cháo gì!
128. Có gió giông hung mới biết tùng bá cứng
Nhờ ngọn lửa hồng mới rõ thức vàng cao
Thuyền quyên sánh với anh hào
Vốn không thả lý, gieo đào như ai!
129. Có làm mới có ăn
Ngồi không ai dễ đem phần tới cho
130. Có lòng xin tạ ơn long
Xin đừng đi lại mà chồng em ghen
131. Có phước đẻ con biết lội
Có tội đẻ con hay trèo
Có phước lấy được vợ già
Sạch cửa sạch nhà, lại ngọt canh cơm
Vô phước, lấy phải trẻ ranh
Nó ăn, nó phá tan tành nó đi
132. Có thằng chồng ghiền như ông tiên nho nhỏ
Ngó vô nhà đèn đỏ đèn xanh
Có thằng chồng say như trong chay ngoài hội
Ngó vô nhà như hội tầm vu
133. Có yêu thời nói rằng yêu
Chẳng yêu, thì nói một điều cho xong
Làm chi dở đục, dở trong
Lờ đờ như nước cho lòng chẳng an
134. Còn ăn còn ngủ còn gân
Không ăn không ngủ có mần được chi
135. Còn cha gót đỏ như son
Đến khi cha thác, gót con đen xì
136. Còn duyên kén những trai tơ
Hết duyên ông lão cũng quơ làm chồng
137. Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên như ổ ong tàn ngày mưa
138. Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình
139. Còn đêm nay nữa mai đi
Lạng vàng không tiếc, tiếc chi ngồi kề
Còn đêm nay nữa, mai về
Lạng vàng không tiếc, tiếc kề má son
140. Còn trời còn nước còn non
Còn cô bán rượu, anh còn say sưa
141. Cỏ mọc bờ giếng cheo leo
Lâm chung có bậu, hiểm nghèo có qua
142. Cõng rắn cắn gà nhà
Rước voi dày mả tổ
143. Cô ấy mà lấy anh này
Chẳng phải đi cấy đi cày nữa đâu
Ngồi trong cửa sổ têm trầu
Có hai con nhỏ đứng hầu hai bên
144. Cô kia má đỏ hồng hồng
Cô chưa lấy chồng, còn chờ đợi ai
Buồng không lần lữa hôm mai
Đầu xanh mấy chốc, da mồi tóc sương
145. Công anh chẻ nứa đan bồ
Con chị đi mất, anh vồ con em
Công anh rọc lá gói nem
Con chị đi mất, con em trốn chồng
146. Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
147. Cổ tay em trắng lại tròn
Để cho ai gối nó mòn một bên
148. Công anh làm rể có tài
một mình ăn hết mười hai vại cà
giếng đâu thì dắt anh ra
kẻo mà anh chết theo cà nhà em
149. Cơm kể ngày, cày kể buổi
150. Cơm khô là cơm chảo
Cơm nhão là cơm hà tiện
151. Cờ bạc là bác thằng bần
Cửa nhà bán hết, tra chân vào cùm
152. Cu kêu ba tiếng cu kêu
Kêu mau đến Tết, dựng nêu ăn chè
153. Cu kêu từng cặp trên cây
Tào khương nghĩa nặng, sao mầy bỏ tao
154. Cúc mọc dưới sông anh kêu là cúc thủy
Sàigòn xa, chợ Mỹ cũng xa
Gởi thơ thăm hết nội nhà
Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em
155. Cùng nhau tớ trước thầy sau
Chim kêu vượn hú thêm đau đớn long
156. Của chua ai nấy cũng them
Em cho chị mượn chồng em vài ngày
Chồng em đâu phải trâu cày
Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm
157. Của làm ra để trên gác
Của cờ bạc để ngoài sân
Của phù vân để ngoài ngõ
158. Của mình mình giữ bo bo
Của người thì thả cho bò ăn no
159. Của một đồng, công một lượng
Công thì thưởng, tội thì trừng
Đặng không mừng, mất không lo
Ăn chưa no, lo chưa tới
Ăn cơm mới, nói chuyện cũ
Cha mẹ cú, đẻ con tiên
Cha mẹ hiền, sinh con thảo
160. Cũ người thì lại mới ta
Người chê rách rưới, ta là gấm nhung
161. Cũng trũng, cũng gò, cũng rẫy, đồng
Một bề biển lớn, ba bề song
Bèo theo nước cuốn qua Vàm Láng
Nắng mở đường lên họp Chợ Giồng
Thế sự nếu dồn cơn nước nổi
Tình quê xin thắp bóng đèn chong
Ruộng biền, muối mặn đời thanh đạm
Dấu giữa phù hoa, há lạt long
162. Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng khi về bủng beo
163. Cao su đi dễ khó về
Trai đi mất vợ gái về thêm con
164. Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng hành
165. Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm
Ai thương ai cảm ai nhớ ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên song
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non
166. Cười người chớ vội cười lâu
Cười người hôm trước hôm sau người cười
VẦN D
Dao cau rọc lá trầu vàng
Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa
Day qua bên trái gặp bảy mũi dùi
Day qua bên mặt gặp mười mũi giáo
Dạy con từ thuở còn thơ
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về
Dã tràng xe cát biển đông
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì
Dầu bông quế, dầu bông hường
Hải đường, thơm thiệt là thơm
Tóc em như lông con chó xồm
Xức dầu thì xức, ai thèm dòm, bớ em Hai
Dầu bông sứ, dầu bông ngâu
Xức tóc con Thị Mầu
Nó đứng đầu cầu
Nắng dãi mưa dầu, hôi hãy còn hôi
Dầu cù là hiệu Ông Tiên
Xức vô chót mũi, nổi điên tức thời
Dốc một lòng lấy chồng hay chữ
Để ra vào kinh sử lắng nghe
Duyên phải duyên kim cải
Ngãi phải ngãi giao hoà
Rồi mai mốt đây con bạn nói dià nhà
Cho qua nhắn kỉnh thăm cô bác với ông bà đặng bình an
Dù ai cho bạc cho vàng
Chẳng bằng trông thấy mặt chàng hôm nay
Dù ai nói ngã nói nghiêng
Thì ta cũng vững như kiềng ba chân
VẦN Đ
Đánh bạc quen tay
Ngủ ngày quen mắt
Ăn vặt quen mồm
Đánh chết, mà nết không chừa
Đến mai ăn chợ, bánh dừa lại ăn
Đàn bà nói có là không
Nói yêu là ghét, nói buồn là vui
Đàn bà tốt tóc thì sang
Đàn ông tốt tóc thì mang nặng đầu
Đàn đâu mà gảy tai trâu
Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi
Đàn kêu tích tịch tình tang
Ai đem công chúa lên thang mà về
Đàn ông đi biển có đôi
Đàn bà đi biển mồ côi một mình
Đàn ông không râu vô nghì
Đàn bà không vú lấy gì nuôi con
Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ
Đèn cầu tàu ngọn lu ngọn tỏ
Anh trông không rõ, anh ngỡ đèn màu
Rút gươm đâm họng máu trào
Để em ở lại, em kiếm thằng nào hơn anh
Đèn nhà lầu hết dầu đèn tắt
Lửa nhà máy hết cháy thành than
Nhang chùa Ông hết mạt nhang tàn
Kể từ khi em biết được chàng
Đêm về em lăn lộn như con chim phượng hoàng bị tên
Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc
Xứ nào dốc bằng xứ Nam Vang
Một tiếng anh than ba bốn đôi vàng em không tiếc
Anh lấy đặng em rồi anh trốn biệt lánh thân
Đèn nào sáng bằng đèn Sa Đéc
Gái nào đẹp bằng gái Nha Mân
Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần
THương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run
Đèn treo ngang quán
Tỏ rạng bờ kinh
Em có thương anh thì ăn nói cho thiệt tình
Đừng để cho anh lên xuống một mình bơ vơ
Đêm khuya nguyệt lặn sao tàn
Đồng hồ điểm nhặt nhớ chàng không quên
Đêm khuya ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai
Đêm khuya thắp chút dầu dư
Tim loan cháy lụn, sầu tư một mình
Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng?
Đêm khuya trăng dọi lầu son
Vào ra thương bạn, héo hon ruột vàng
Bển qua đây đàng đã xa đàng
Dầu tui có lâm nguy thất thế
Hỏi con bạn vàng nó cứu không?
Chiều rồi kẻ Bắc, người Đông
Trách lòng người nghĩa, nói không thiệt lời
Đêm nằm tàu chuối có đôi
Hơn nằm chiếu tốt lẻ loi một mình
Đêm qua, đêm lạnh, đêm lùng
Đêm đắp áo ngắn, đêm chung áo dài
Bây giờ chàng đã nghe ai
Aó ngắn chẳng đắp, aó dài không chung
Bây giờ sự đã nhạt nhùn
Giấm thanh đổ biển mấy thùng cho chua
Cá lên mặt nước, cá khô
Vì anh, em phải giang hồ tiếng tăm
Đêm qua nguyệt lặn về Tây
Sự tình kẻ ấy, người đây còn dài
Trúc với mai, mai về trúc nhớ
Trúc trở về, mai nhớ trúc không
Bây giờ kẻ Bắc, người Đông
Kể sao cho xiết tấm lòng tương tư
Đêm thanh cảnh vắng
Thức trắng năm canh
Một duyên, hai nợ, ba tình
Đường kia,nỗi nọ, phận mình ra sao
Đến đây đất nước lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng lo
Đến ta mới biết của ta
Trăm nghìn năm trước biết là của ai
Đề huề chồng vợ
Như bí rợ nấu kiểm với khoai lang
Như tép rang ăn cặp với canh khoai mỡ
Đi chùa lạy Phật cầu chồng
Hộ pháp liền bảo đờn ông hết rồi
Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam
Đi đâu mà vội mà vàng
Mà vấp phải đá mà quàng phải dây
Thủng thỉnh như chúng anh đây
Thì đá nào vấp, thì dây nào quàng
Đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn
Đi qua nhà nhỏ
Thấy đôi liễn đỏ có bốn chữ vàng
Thạnh suy anh chưa biết chớ thấy nàng anh vội thương
Đó đây trước lạ sau quen
Chẳng gần, qua lại đôi phen cũng gần
Đói lòng ăn đọt chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng
Đói lòng ăn nửa trái sim
Uống lưng bát nước đi tìm người thương
Đói lòng nuốt trái khổ qua
Nuốt vô sợ đắng, nhả ra con bạn cười
Đôi ta chẳng được sum vầy
Khác nào cánh nhạn lạc bầy kêu sương
Vì sương nên núi bạc đầu
Cành lay bởi gió hoa sầu vì mưa
Đôi ta đã trót lời thề
Con dao lá trúc đã kề tóc mai
Dặn rằng: Ai chớ quên ai!
Đôi ta như loan với phượng
Nỡ lòng nào để phượng lià cây
Muốn cho có đó, có đây
Ai làm nên nỗi nước này chàng ôi
Thà rằng chẳng biết thì thôi
Biết rồi gối chiếc lẻ loi thêm phiền
Đôi ta như thể con tằm
Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong
Đôi ta như thể con ong
Con quấn con quít, con trong con ngoài
Đôi ta như thể con bài
Chồng đánh vợ kết chẳng sai con nào
Đố ai biết luá mấy cây
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng
Đố ai quét sạch lá rừng
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây
Rung cây, rung cỗi, rung cành
Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng
Đố ai lặn xuống vực sâu
Ru con không hát, em chừa nguyệt hoa
Đố anh con rít mấy chưn
Cầu Ô mấy nhịp, chợ Đinh mấy người
Mấy người bán áo con trai
Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim
Đốt than nướng cá cho vàng
Lấy tiềng mua rượu cho chàng uống chơi
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh
Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm
Muốn ăn bôn súng mắm kho
Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm
Đồng tiền Vạn lịch
Thích bốn chữ vàng
Anh tiếc công anh gắn bó với cô nàng bấy lâu
Bây giờ cô lấy chồng đâủ
Để anh giúp đỡ trăm cau nghìn vàng
Đổ lửa than nên vàng lộn trấu
Anh mảng thương thầm chưa thấu dạ em
Đổng Kim Lân hồi còn nhỏ, đi bán giỏ nuôi mẹ
Anh gặp em đây không cửa không nhà
Muốn vô gá nghĩa, biết là đặng chăng?
Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Lúa rụng đầy đồng, gà chẳng cần ăn
Đờn cò lên trục kêu vang
Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng
Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng
Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương
Chiều nay qua phản bạn hồi hương
Nghe bậu ở lại vầy vươn nơi nào
Ghe tui tới chỗ cắm sào
Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông
Đu đủ tiá, bạc hà cũng tiá
Ngọn lang dâm, ngọn mía cũng dâm
Anh thấy em tốt mã anh lầm
Bây giờ anh biết rõ, vàng cầm anh cũng buông
Đưa nhau đổ chén rượu hồng
Mai sau em có theo chồng đất xa
Qua đò gõ nhịp chèo ca
Nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say
Đường trơn trợt gượng đi kẻo té
Áo còn nguyên ai nỡ xé vá quàng
Hồi sớm mai, gặp em sao anh không hỏi
Hay dạ của chàng nay đã hết thương?
Đứt tay một chút còn đau
Huống chi nhân nghĩa, lià sao cho đành
là những j nhân gian để lại
Tục ngữ là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ truyền đạt, thường gieo vần lưng.
Câu trả lời của bạn
Trong nền văn học dân gian Việt Nam, các tác phẩm ca dao dân ca là một trong những thể loại độc đáo, thể hiện bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc ta. Đã từ bao đời nay ca dao dân ca luôn gắn liền với đời sống thực tiễn của nhân dân lao động, thể hiện rõ nét những vẻ đẹp trong đời sống tinh thần, đời sống lao động của nhân dân. Và đặc biệt hơn cả, dù chỉ là những câu hát, câu nói truyền miệng nhưng nó lại mang theo mình những giá trị nhân văn, đạo đức sâu sắc, góp phần giáo dục, răn dạy con người về cách đối nhân xử thế trong cuộc sống. Đặc biệt khi là nói về tình cảm gia đình có rất nhiều bài ca dao hay, ví như một bài ca dao nói về ơn nghĩa cha mẹ: "Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông Núi cao biển rộng mênh mông Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi" Với thể lục bát quen thuộc bài ca dao trên mang âm điệu nhẹ nhàng, trầm bổng tựa như lời ru ngọt ngào của người mẹ trẻ, người mẹ thủ thỉ với đứa con những lời thật ngọt ngào, đó chính là câu ca dao xưa thật là xưa, là lời cha ông bao đời truyền lại. Mẹ nhẹ nhàng ru con vào giấc ngủ, cũng nâng bước chân con chập chững vào đời bằng những bài học đạo đức thật sâu sắc và ý nghĩa. Thứ đầu tiên mẹ dạy con chẳng phải là những vần ê, a mà là đạo lý làm người, nghe thật kỳ lạ phải không, thế nhưng ai bảo con không hiểu, con vốn đã học từ trong bụng mẹ rồi ấy. Trong lời mẹ hát, con biết được rằng cha yêu thương con cũng chẳng kém gì mẹ, "Công cha như núi ngất trời", mẹ sinh con ra, cha ngày vất vả cực nhọc lao động để nuôi con khôn lớn, một đời dài như vậy cha dành phân nửa cho con, tình cảm ấy dẫu có là núi cao cũng chưa hẳn sánh bằng. Cũng như cha, mẹ mang nặng đẻ đau con chín tháng mười ngày, sinh con ra trong khó nhọc, chăm bẵm con từng ngày, có lẽ trên đời này chẳng còn một ai thương con hơn mẹ nữa. Sự hy sinh, tấm lòng cao cả của mẹ chắc phải lấy "nước ngoài biển Đông" mới có thể đong đếm hết được. "Cù lao chín chữ" tức là nói về công lao của cha mẹ trong việc nuôi dưỡng con cái thành người, vất vả khốn khổ nhiều bề nhiều bận. Người ta ví trồng người cũng như trồng cây vậy, nhưng nếu như trồng một cái cây chỉ cần chú ý "Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống", thì nuôi con còn vất vả cực nhọc hơn gấp bội, bởi đó là một quá trình dài đằng đẵng có khi là đi hết cả cuộc đời, lòng cha mẹ vẫn không thôi bận tâm về con cái. Nếu để liệt kê "cù lao chín chữ", thì nuôi con bắt đầu bằng chữ sinh, sau là chữ cúc, nghĩa là dạy con tập đi, tập đứng, rồi phủ, vuốt ve, làm cho con cảm nhận được tình yêu thương của cha mẹ, lại súc là cho con bú nguồn sữa ngọt ngào, cho con ăn những thứ tốt nhất. Sau đó là trưởng, nuôi lớn con, rồi lại dục, dạy dỗ cho con nên người, trong suốt quá trình bậc cha mẹ lúc nào cũng phải cố, đoái hoài, trông nom kỹ lưỡng, sợ con có bề gì. Con đã có suy nghĩ, nhận thức lại vẫn phải phục, theo dõi tính tình, để uốn nắn cho kịp, rồi vẫn phải phúc, che chở, đỡ đần khi con có chuyện. Nói tóm lại rằng phận làm cha mẹ, đặc biệt là trong văn hóa phương Đông, dường như đó là nỗi vất vả cả đời, nhưng cũng là hạnh phúc cả đời của bậc làm cha làm mẹ, đối với cha mẹ con cái là món quà, là điều tuyệt vời nhất thế gian, trong mắt họ con cái luôn bé bỏng, cần được chở che, chăm sóc. Thế nên tình cha, tình mẹ vốn bao la biển trời, phận là con cái, lớn lên dưới vòng tay yêu thương của cha mẹ, dẫu gia cảnh bần hàn hay sung túc thì mỗi một con người vẫn phải ghi lòng tạc dạ công ơn sinh dưỡng của cha mẹ. Phận làm con phải đặt chữ hiếu làm đầu, phải hết sức tôn kính, yêu thương cha mẹ của mình, đừng dại dột làm kẻ bất hiếu, đó là những gì mà bài ca dao muốn truyền đạt cho chúng ta. Bài ca dao tuy chỉ vỏn vẹn 4 câu, nhưng chứa đựng những nội dung vô cùng sâu sắc về tình cảm gia đình, răn dạy mỗi con người cần phải ghi nhớ công ơn cha mẹ, đặt chữ hiếu lên hàng đầu. Bài ca dao sử dụng thể lục bát truyền thống, âm điệu nhẹ nhàng như lời ru của mẹ, dùng các so sánh liên tưởng đặc sắc, có tầm vóc to lớn nhằm đề cao công ơn của cha mẹ. Cùng với Phân tích một bài ca dao dân ca những câu hát về tình cảm gia đình, các em có thể tìm đọc: Soạn bài Ca dao dân ca những câu hát về tình cảm gia đình hay bài Chứng minh rằng Ca dao là tiếng nói của tình cảm gia đình,Giải thích câu ca dao Nhiễu điều phủ lấy giá gương.
Trong nền văn học dân gian Việt Nam, các tác phẩm ca dao dân ca là một trong những thể loại độc đáo, thể hiện bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc ta. Đã từ bao đời nay ca dao dân ca luôn gắn liền với đời sống thực tiễn của nhân dân lao động, thể hiện rõ nét những vẻ đẹp trong đời sống tinh thần, đời sống lao động của nhân dân. Và đặc biệt hơn cả, dù chỉ là những câu hát, câu nói truyền miệng nhưng nó lại mang theo mình những giá trị nhân văn, đạo đức sâu sắc, góp phần giáo dục, răn dạy con người về cách đối nhân xử thế trong cuộc sống. Đặc biệt khi là nói về tình cảm gia đình có rất nhiều bài ca dao hay, ví như một bài ca dao nói về ơn nghĩa cha mẹ:
"Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi"
Với thể lục bát quen thuộc bài ca dao trên mang âm điệu nhẹ nhàng, trầm bổng tựa như lời ru ngọt ngào của người mẹ trẻ, người mẹ thủ thỉ với đứa con những lời thật ngọt ngào, đó chính là câu ca dao xưa thật là xưa, là lời cha ông bao đời truyền lại. Mẹ nhẹ nhàng ru con vào giấc ngủ, cũng nâng bước chân con chập chững vào đời bằng những bài học đạo đức thật sâu sắc và ý nghĩa. Thứ đầu tiên mẹ dạy con chẳng phải là những vần ê, a mà là đạo lý làm người, nghe thật kỳ lạ phải không, thế nhưng ai bảo con không hiểu, con vốn đã học từ trong bụng mẹ rồi ấy.
Trong lời mẹ hát, con biết được rằng cha yêu thương con cũng chẳng kém gì mẹ, "Công cha như núi ngất trời", mẹ sinh con ra, cha ngày vất vả cực nhọc lao động để nuôi con khôn lớn, một đời dài như vậy cha dành phân nửa cho con, tình cảm ấy dẫu có là núi cao cũng chưa hẳn sánh bằng. Cũng như cha, mẹ mang nặng đẻ đau con chín tháng mười ngày, sinh con ra trong khó nhọc, chăm bẵm con từng ngày, có lẽ trên đời này chẳng còn một ai thương con hơn mẹ nữa. Sự hy sinh, tấm lòng cao cả của mẹ chắc phải lấy "nước ngoài biển Đông" mới có thể đong đếm hết được. "Cù lao chín chữ" tức là nói về công lao của cha mẹ trong việc nuôi dưỡng con cái thành người, vất vả khốn khổ nhiều bề nhiều bận. Người ta ví trồng người cũng như trồng cây vậy, nhưng nếu như trồng một cái cây chỉ cần chú ý "Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống", thì nuôi con còn vất vả cực nhọc hơn gấp bội, bởi đó là một quá trình dài đằng đẵng có khi là đi hết cả cuộc đời, lòng cha mẹ vẫn không thôi bận tâm về con cái. Nếu để liệt kê "cù lao chín chữ", thì nuôi con bắt đầu bằng chữ sinh, sau là chữ cúc, nghĩa là dạy con tập đi, tập đứng, rồi phủ, vuốt ve, làm cho con cảm nhận được tình yêu thương của cha mẹ, lại súc là cho con bú nguồn sữa ngọt ngào, cho con ăn những thứ tốt nhất. Sau đó là trưởng, nuôi lớn con, rồi lại dục, dạy dỗ cho con nên người, trong suốt quá trình bậc cha mẹ lúc nào cũng phải cố, đoái hoài, trông nom kỹ lưỡng, sợ con có bề gì. Con đã có suy nghĩ, nhận thức lại vẫn phải phục, theo dõi tính tình, để uốn nắn cho kịp, rồi vẫn phải phúc, che chở, đỡ đần khi con có chuyện. Nói tóm lại rằng phận làm cha mẹ, đặc biệt là trong văn hóa phương Đông, dường như đó là nỗi vất vả cả đời, nhưng cũng là hạnh phúc cả đời của bậc làm cha làm mẹ, đối với cha mẹ con cái là món quà, là điều tuyệt vời nhất thế gian, trong mắt họ con cái luôn bé bỏng, cần được chở che, chăm sóc.
Thế nên tình cha, tình mẹ vốn bao la biển trời, phận là con cái, lớn lên dưới vòng tay yêu thương của cha mẹ, dẫu gia cảnh bần hàn hay sung túc thì mỗi một con người vẫn phải ghi lòng tạc dạ công ơn sinh dưỡng của cha mẹ. Phận làm con phải đặt chữ hiếu làm đầu, phải hết sức tôn kính, yêu thương cha mẹ của mình, đừng dại dột làm kẻ bất hiếu, đó là những gì mà bài ca dao muốn truyền đạt cho chúng ta.
Bài ca dao tuy chỉ vỏn vẹn 4 câu, nhưng chứa đựng những nội dung vô cùng sâu sắc về tình cảm gia đình, răn dạy mỗi con người cần phải ghi nhớ công ơn cha mẹ, đặt chữ hiếu lên hàng đầu. Bài ca dao sử dụng thể lục bát truyền thống, âm điệu nhẹ nhàng như lời ru của mẹ, dùng các so sánh liên tưởng đặc sắc, có tầm vóc to lớn nhằm đề cao công ơn của cha mẹ.
Cùng với Phân tích một bài ca dao dân ca những câu hát về tình cảm gia đình, các em có thể tìm đọc: Soạn bài Ca dao dân ca những câu hát về tình cảm gia đình hay bài Chứng minh rằng Ca dao là tiếng nói của tình cảm gia đình,Giải thích câu ca dao Nhiễu điều phủ lấy giá gương.
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng mỗi con người. Nó có vai trò to lớn trong việc xây dựng và phát triển xã hội. Gia đình là nơi giúp con người hình thành nhân cách. Vai trò của gia đình là vô cùng thiêng liêng và cao cả, không ai có thể phủ nhận được điều này. Gia đình là nơi chứa đựng những tình cảm thân thương và chân thành nhất của một đời người. Ở đó, ta nhận được tình yêu thương của ông bà, cha mẹ, của anh chị em và của những người thân yêu ruột thịt. Ngay từ khi sinh ra, ta đã được sống trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Mẹ dạy ta bi bô tập nói, cha dạy ta những bước chân chập chững đầu đời. Ta lớn lên bằng dòng sữa ngọt ngào của mẹ, trong sự che chở, bảo vệ của cha. Chẳng ở đâu trên thế gian này, ta nhận được tình yêu thương vô bờ bên như gia đình. Cha mẹ không ngại vất vả, gian nan để nuôi ta khôn lớn. Những người anh, người chị sẵn sàng sẻ chia mọi chuyện trong cuộc sống hằng ngày. Họ luôn dang rộng vòng tay để che chở, để giúp đỡ mỗi khi ta cần. Những tình cảm ấy đều xuất phát từ chính trái tim và tấm lòng của họ, không tính toán thiệt hơn, không mong được đền đáp. Gia đình là nơi cho ta những tình cảm chân thành và ấm áp nhất. Gia đình nuôi ta khôn lớn, giúp ta hình thành nhân cách. Sống trong một gia đình ấm êm, hạnh phúc, những đứa trẻ sẽ không ngừng phát triển cả về thể chất lẫn tâm hồn. Chúng sẽ có cái nhìn bao dung với mọi người xung quanh giống như sự bao dung mà chúng nhận được từ cha mẹ và những người thân trong gia đình. Sự ấm êm của gia đình là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn trong sáng của những đứa trẻ để chúng sống tốt hơn, nhân hậu hơn. Nếu sống trong một gia đình suốt ngày chỉ là cãi vã, tị nạnh nhau thì những đứa trẻ sẽ bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng. Chúng nhìn cuộc sống bằng ánh mắt sợ sệt và chán ghét mọi thứ. Những đứa tẻ có thể bị tự kỉ, trầm cảm khi cha mẹ chẳng hề quan tâm đến chúng. Rồi sau này, tương lai của những đứa trẻ ấy sẽ ra sao? Thật sự là một nỗi bất hạnh đầy xót xa. Vai trò của gia đình là trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc là là nơi mà ai cũng muốn được trở về. Những khi vui, khi buồn ta đều muốn sẻ chia với những người thân trong gia đình. Họ cười với niềm vui của ta và khi ta buồn họ rơi nước mắt. Những người thân luôn dành cho nhau tình cảm chân thành và tình yêu thương sâu sắc. Khi ta phạm sai lầm, xã hội trách móc ta, khi ta thất bại, xã hội cười nhạo ta. Chỉ có gia đình là nơi luôn dang rộng vòng tay cho ta dựa vào. Họ dành cho ta ánh mặt trìu mến, một vòng tay ấm áp, họ nhìn lỗi lầm của ta bằng cái nhìn bao dung, nhân hậu và sẵn sàng tha thứ nếu ta biết sửa sai. Gia đình luôn cho ta những lời khuyên bổ ích nhất. Khi mà xã hội cố gắng bon chen để dìm ta xuống thì gia đình luôn nâng đỡ và vẽ cho ta một con đường bằng phẳng hơn. Đặc biệt là khi ta trưởng thành, phải bận rộn với gánh nặng cơm áo gạo tiền ta mới cảm nhận được rõ ràng nhất vai trò to lớn của gia đình. Nhất là những khi ta mệt mỏi và áp lực với công việc, gai đình sẽ là lựa chọn đầu tiên mà ta muốn được trở về. Bởi vì khi ở trong vòng tay của bố mẹ, ta mãi chỉ là một đứa trẻ, chẳng cần phải lo lắng sự hơn thua trong cuộc sống. Gia đình là tế bào của xã hội, nó có vai trò to lớn trong việc xây dựng một xã hội văn mình, giàu đẹp. Một gia đình hạnh phúc sẽ đem đến cho xã hội những người con có văn hóa, có đạo đức. Một gia đình tan vỡ chỉ đem lại những cá nhân đầy sự oán than, lầm lỗi. Nó không hoàn toàn là đúng nhưng đa phần là như thế. Việc xây dựng một gia đình hạnh phúc cũng chính là xây dựng một xã hội tốt đẹp, văn minh. Gia đình có hạnh phúc thì những thành viên trong gia đình mới có động lực, có ý chí để vươn lên xây dựng và hoàn thiện ước mơ. Gia đình chắp cánh cho con người vững bước hơn trên con đường đi đến thành công. Chỉ khi họ không còn phải lo lắng hay bận lòng về những rắc rối trong gia đình thì họ mới có thê chuyên tâm để sống, để cống hiến cho xã hội. Gia đình có sức ảnh hưởng lớn lao đối với cá nhân từng người và toàn xã hội. Sự quan tâm, chăm sóc của gia đình giúp ta phát triển nhân cách thành một người tốt đẹp. Từ đó ta có cái nhìn bao dung, biết yêu thương tất cả mọi người. Mọi người quan tâm nhau, sẵn sàng giúp đỡ nhau và cùng nhau xây dựng một xã hội tiên tiến. Khi có tình yêu thương, con người sẽ không còn ganh ghét hay đố kị nhau, họ sẽ sống và đối xử với nhau một cách công bằng, lịch sự. Khi mà tất cả các gia đình đều hạnh phúc thì xã hội cũng sẽ hạnh phúc. Gia đình là nền tảng của xã hội, là tế bào để xây dựng nên xã hội, cho nên muốn một xã hội phát triển văn minh thì bản thân mỗi gia đình phải thật sự hạnh phúc. Chúng ta hãy biết trân trọng tình cảm gia đình và yêu thương, quan tâm đến những người xung quanh. Gia đình là tổ ấm không gì có thể thay thế được. Hãy làm tất cả những gì có thể để cho cha mẹ mãi nở nụ cười trên môi, khi đó ta sẽ cảm thấy cuộc sống này hạnh phúc và ấm áp biết nhường nào. Và vai trò của gia đình thật sư là quá cao cả và thiêng liêng.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
khổ thơ được chia thành mỗi 5,8 chữ 1 khổ từ 1-7
biểu cảm
Phát biểu cảm nghĩ về câu ca dao: Anh em như thể tay chân, Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.
Câu trả lời của bạn
Tình cảm gia đình là tình cảm thiêng liêng nhất trong đời sống con người. Vì thế trong kho tàng văn học dân gian đã có biết bao tiếng hát, lời ru, câu chuyện... khuyên nhủ mọi người hãy nâng niu tình cảm gia đình đầm ấm , thuận hòa. Một trong những lời khuyên được lưu truyền rộng rãi là:
Anh em như chân với tay
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.
Câu ca dao đã dùng hình ảnh so sánh cụ thể, gần gũi để lời khuyên dễ đi vào lòng người. Ai cũng biết tay, chân là những bộ phận trên cùng một cơ thể con người. Tuy mỗi bộ phận có chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng giữa chúng luôn có mỗi quan hệ khăng khít, bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Anh em trong gia đình cũng vậy. Tuy mỗi người là một cá nhân riêng biệt nhưng đều cùng cha mẹ sinh ra, cùng chơi, cùng học, cùng lớn lên dưới một mái nhà. Vì thế, quan hệ anh em là quan hệ gắn bó máu thịt với nhau.
Vậy anh em phải cư xử với nhau thế nào cho đúng? Người xưa khuyên nhủ: Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần. Anh em ruột thịt phải thương yêu, giúp đỡ nhau trên mỗi bước đường đời.
Rách, lành là hai hình ảnh tượng trưng cho hai hoàn cảnh sống khác nhau. Rách là cảnh sống khó khăn, khổ sở; còn lành là cảnh sống thuận lợi, sung túc. Hợp nghĩa lại, rách lành chỉ chung mọi cảnh ấm no hay nghèo đói. Khi đói khi no, lúc đủ lúc thiếu, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào thì anh em ruột thịt cũng phải thương yêu, hỗ trợ lẫn nhau, không so đo tính toán thiệt hơn. Hoàn cảnh sống có thể thay đổi nhưng tình nghĩa anh em lúc nào cũng phải thắm thiết, bền chặt. Nếu như tình cảm anh em là thứ tình cảm tự nhiên thì sự đùm bọc lẫn nhau cũng là việc làm tự nhiên, tất yếu.
Đùm bọc có nghĩa là giúp đỡ, che chở, chia sẻ cho nhau mọi nỗi buồn vui, mọi điều sướng khổ với tất cả tình cảm thương mến chân thành. Câu ca dao đưa ra một cách cư xử hợp tình hợp lí trong quan hệ anh em. Đây cũng là một chuẩn mực đạo đức để đánh giá phẩm chất con người.
Đùm bọc, đỡ đần còn là trách nhiệm mỗi người anh, người em trong gia đình. Trong dân gian vẫn lưu truyền câu chuyện về tình anh em thắm thiết qua Sự tích trầu cau. Hai anh em sinh đôi họ Cao mồ côi cha mẹ, dắt nhau đến học ở nhà thầy đồ họ Lưu. Thấy họ nhường nhau bát cháo duy nhất, cô con gái thầy đồ cảm động và tình nguyện làm vợ người anh. Thế rồi chỉ vì một sự hiểu lầm mà người em xâu hổ phải ra đi. Người anh ân hận bỏ nhà đi tìm em... Tình anh em sâu nặng đã khiến trời đất cảm động, biến anh thành cây cau, em thành hòn đá, mãi mãi bên nhau trong tục ăn trầu của người Việt. Bên cạnh việc ca ngời tình anh em thắm thiết trong truyện Trầu cau, nhân dân ta cũng lên án người anh tham lam độc ác trong truyện Cây khế và dành cho hắn kết cục bi thảm là phải bỏ xác dưới đáy biển sâu.
Bài học đạo đức từ câu ca dao trên thật sâu xa, thấm thía. Ngày nay, bài học đó vẫn giữ nguyên ý nghĩa giáo dục vì trong cuộc sống vẫn còn những cảnh tượng ngang trái, đau lòng, đi ngược lại đạo lí làm người.
Dàn ý Thương người như thể thương thân.
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài
2. Thân bài
⇒ Lời nhắn nhủ: Yêu thương, trân trọng người khác như yêu thương, trân trọng chính bản thân mình.
3. Kết bài
Cảm nghĩ về bài ca dao, dân ca về tình cảm gia đình.
Câu trả lời của bạn
Kho tàng văn học dân gian với những câu ca dao, dân ca chỉ các thể loại trữ tình, dân gian, kết hợp lời và nhạc, diễn tả đời sống của con người. Bài những câu hát về tình cảm gia đình trong sách văn lớp 7 là một trong những bài thuộc thể loại đó.
"Công cha như núi ngất trời
Nghĩ mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!"
Tình cảm của bài ca dao trêm là tình cảm của cha mẹ dành cho con, nhắc nhở con cái phải luôn hiếu thảo với cha mẹ - một truyền thống quý báu của dân tộc ta. Bài ca dao này còn sử dụng hình ảnh so sánh giữa "công cha" với "núi cao" và "nghĩa mẹ" với "biển rộng". Và chúng ta sẽ cảm nhận rõ được tình cảm ấy qua câu "Cù lao chín chữ" nói về chín chữ nêu cao công lao cha mẹ nuôi con vất vả trăm bề.
Người cha đóng vai trò trụ cột trong gia đình, là chỗ dựa đáng tin cậy cho vợ con. Còn người mẹ là người sinh thành và nuôi em khôn lớn. Mẹ luôn là người mẹ dịu dàng nhưng cũng rất nghiêm khắc. Mẹ luôn dõi theo từng bước đi, hành động, những suy nghĩ ngay ngô của em, cho em những lời khuyên bổ ích, hướng dẫn em đi trên con đường đúng đắn.
Hằng ngày, mẹ chẳng quản vất vả, nhọc nhằn, lo lắng cho các con từ bát cơm, tấm áo... Ngoài những thứ đó ra mẹ còn dạy dỗ, truyền đạt các kiến thức và kinh nghiệm sống mà mình đã đánh đổi bằng mồ hôi nước mắt, để em học được những bài học cần thiết khi bước vào đời.
Với âm điệu khoan thai, chậm rãi, thiết tha, sâu lắng... từng dòng thơ như đi sâu vào tâm trí người đọc, rót từng giọt vào tai người nghe. Bài thơ đã giúp em hiểu được rằng đạo làm con của mỗi con người là trách nhiệm, bổn phận vô cùng thiêng liêng, cao cả.Nếu một ngày nào đó chúng ta mất cha hoặc mẹ hoặc cả hai thì ngày đó chắc chắn là ngày buồn thảm nhất trong cuộc đời.
Giải thích nghĩa của các thành ngữ: Con rồng cháu tiên.
Câu trả lời của bạn
Người Việt Nam ai mà không biết câu thành ngữ về huyền thoại cội nguồn dân tộc "Con Rồng Cháu Tiên". Thế nhưng không ít tuổi trẻ sinh ra và lớn lên, trưởng thành ở xứ người, xa bối cảnh văn hoá và lịch sử dân tộc có thể sẽ không hiểu vì sao người Việt lại coi mình là hâụ duệ của Tiên Rồng. Xin được nói đôi điều về gốc gác Con Rồng - một vế của câu thành ngữ quen thuộc.Căn cứ vào tư liệu sử sách, có thể rút ra những điểm cần lưu ý: Sách Lĩnh Nam chích quái của Việt Nam thế kỷ 13 trong thiên truyện Hồng Bàng Thị, viết: "Dân sống ở rừng và chân núi xuống đánh cá thường bị Giao Long làm hại bèn nói với Lạc Long Quân.
Vua đáp giống Sơn Man và giống Thuỷ Quái khác hẳn nhau. Giống thuỷ tộc yêu kẻ giống mình, ghét kẻ khác mình nên mọi người phải xăm mình theo hình Long Quân...Sử sách Trung Hoa cổ đại và truyện quái lạ phía Nam núi Ngũ Lĩnh của Việt Nam đều ghi nhận tộc người Việt thời cổ sống giữa một vùng sông nước hoang vu có tục săm mình để chống lại sự bức hại của những loài thuỷ quái. Lạc Long Quân - ông vua huyền thoại trong huyền sử người Việt là biểu tượng của giống người hoá rồng. Ai cũng biết rằng hình tượng con rồng trong trường kỳ lịch sử phong kiến hàng nghìn năm biểu trưng cho quyền lực và sự tôn quý của Hoàng triều. Người ta thường nói mặt rồng để chỉ mặt vua, triều phục của nhà vua cũng thêu rồng và rồng chầu mặt nguyệt trở thành môtip trạm trổ trang trí cung điện, đền, đài. Thế nhưng trước đó hàng nghìn năm, vài nghìn năm, thời hồng hoang tiền sử, khi tộc người Việt còn săm mình hoá giao long dưới nước vừa để đồng hoá hoà nhập mình với thuỷ quái, vừa mong ước có dư sức mạnh thắng loài quỷ quái, thì hình tượng con rồng - loài rắn có vây có cánh có sức bay lượn vùng vẫy trên trời xanh trong trí tưởng tượng nguyên sơ của con người, có lẽ chỉ là sự tự tôn sức mạnh, tự tôn Lạc Long Quân - ông vua huyền thoại trong huyền sử của người Việt. Truyền thuyết Lạc Long Quân dưới nước lấy bà Âu Cơ trên núi đẻ ra một trăm trứng nở ra một trăm người con, như sách Thuỷ Kính Chú thế kỷ thứ 6 mô tả là "con cái họ đều săm hình rồng và mặc áo có đuôi". Vua rồng dưới nước lấy tiên trên núi cao. Con Rồng, Cháu Tiên từ đó mà có. Cũng cần nói thêm rằng, huyền thoại vợ chồng Lạc Long Quân - Âu Cơ đẻ ra một trăm cái trứng nở ra một trăm con nên hai chữ Hán Việt Đồng Bào - nghĩa cùng một bọc, trở nên quen thuộc trong ngôn ngữ Việt cho đến bây giờ. "Con Rồng Cháu Tiên" - câu thành ngữ nói lên niềm tự tôn dân tộc về vẻ đẹp kiêu hùng của huyền thoại sinh ra giống nòi người Việt, có căn nguyên như vậy.
Giải thích nghĩa của các thành ngữ: Ếch ngồi đáy giếng.
Câu trả lời của bạn
Số là, có một con ếch, do sự ngẫu nhiên nào đó, ngay từ khi sinh ra đã ở trong một cái giếng nọ. (Cũng có thể không phải do ngẫu nhiên mà còn là do sở thích của họ hàng nhà ếch nữa. Chả thế trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ Việt Nam có câu: Giếng đâu thì ếch đó). Sống cùng với ếch ở trong giếng chỉ có vài con nhái, cua, ốc nhỏ. Từ dưới đáy giếng nhìn lên ếch ta chỉ nhìn thấy khoảng trời bé bằng cái vung. Nó nghĩ: Tất cả vũ trụ chỉ có vậy, vì thế ếch tự coi mình là chúa tể. Hàng ngày, nó cất tiếng kêu ồm ộp làm vang động cả giếng khiến các con vật bé nhỏ kia hoảng sợ. Nó càng lấy làm oai.
Nhưng có một năm, có thể do thái độ xấc xược "coi trời bằng vung" của ếch thấu đến tai Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng nổi giận đùng đùng và quyết định phế truất "ngai vàng" nơi đáy giếng của ếch nên đã làm một trận mưa thật to. Nước trong giếng dềnh lên, tràn vào bờ, đưa ếch ta ra ngoài.
Quen thói cũ, ếch nhâng nháo nhìn lên trời, nó bỗng thấy cả một bầu trời rộng lớn hơn nhiều cái khoảng trời nó vẫn thấy. Ếch ta không tin và thấy bực bội vì điều đó. Để ra oai, nó cất tiếng kêu ồm ộp. Vị chúa tể hy vọng là sau tiếng kêu của mình mọi thứ đều phải trở lại như cũ. Nhưng bầu trời vẫn là bầu trời. Còn nó vì mãi nhìn lên trời chả thèm để ý đến xung quanh, nên đã bị một con trâu đi qua dẫm bẹp.
Từ cách nhìn thế giới bên ngoài chỉ thông qua miệng giếng của chú ếch nọ mà thành ngữ "Ếch ngồi đáy giếng" trước hết để chỉ "những người hiểu biết ít do điều kiện tiếp xúc hẹp". Sau nữa, lại từ thái độ nhâng nháo "coi trời bằng vung" của ếch mà thành ngữ này còn hàm ý nói về sự chủ quan, coi thường thực tế. Số phận của những người đó, nếu không giống như con ếch huênh hoang, hợm hĩnh nọ, thì chí ít, họ cũng phải trả bằng những thất bại chua xót khi tiếp xúc với thực tiễn phong phú và sinh động, mà khi hiểu ra thì sự đã rồi.
Giải thích nghĩa của các thành ngữ: Con cà con kê.
Câu trả lời của bạn
Trong giao tiếp hàng ngày chúng ta thường gặp một số người có thói quen nói dài, nói dai, nói hết chuyện này đến chuyện khác. Thói quen đó đã được dân gian đúc kết lại bằng một thành ngữ rất cô đọng: “Con cà con kê”.
Vì từ “con” mà từ trước đến nay vẫn có hai cách hiểu khác nhau về thành ngữ đó.
Nhiều người cho rằng “con cà con kê” là một thành ngữ có sự kết hợp của hai từ cùng có ý nghĩa trong tiếng Việt và tiếng Hán, đó là “cà” (trong tiếng Việt cổ “cà” nghĩa là “gà”) và “kê” (tiếng Hán có nghĩa là “gà”). Song nếu vậy thì nghĩa đen của thành ngữ này hiểu một cách nôm na sẽ là: dài dòng, luẩn quẩn và trùng lặp, “hết con gà lại quay lại con gà”? Mà như thế thì nghĩa đen này không phù hợp với nghĩa biểu trưng của thành ngữ theo cách dùng phổ biến hiện nay.
Lại có người giải thích theo một cách khác, rằng: “cà” và “kê” trong thành ngữ nêu trên không phải là “gà” mà là “cây cà” và “cây kê”. Cà gieo thành đám. Trăm nghìn cây con mọc lên. Kê gieo thành đám như mạ. Cây cà, cây kê đến tuổi trồng, người ta nhổ lên, bó thành từng bó nhỏ rồi đưa đi trồng. Công việc trồng cà, trồng kê tỉ mẩn, vào những ngày mưa, với việc tỉa ra từng cây một, rề rà. Từ đó, nghĩa đen của thành ngữ này là: dài dòng hết cây cà lại sang cây kê, không dứt. Cách giải thích này xem ra có cơ sở hơn là vì quả thật nó phù hợp với nghĩa biểu trưng của thành ngữ “con cà con kê” như cách dùng phổ biến hiện nay của mọi người.
Giải thích nghĩa của các thành ngữ: Đánh trống bỏ dùi.
Câu trả lời của bạn
"Thoạt nghe, tưởng chừng thành ngữ "đánh trống bỏ dùi" chẳng có vấn đề gì về mặt chữ nghĩa, vậy mà chính nó là một thành ngữ khá phức tạp, không đơn giản như nhiều người vẫn hiểu. Tất cả cũng tại một chữ "dùi" !
Thông thường, nhiều người diễn giải rằng "đánh trống bỏ dùi" là dùng dùi để đánh trống và đánh xong thì đem vất dùi đi. Từ đó mà suy ra nghĩa của thành ngữ. Có người còn suy ra là người đánh trống, khi xong công việc thì chỉ mang trống về, chỉ giữ gìn lấy trống mà vất dùi lại, chẳng tiếc gì thứ "rẻ tiền" đó nữa.
Trách ai tham trống bỏ dùi
(Ca dao)
Nhưng lại có một cách hiểu khác về chữ "dùi". "Dùi" là tên gọi những tiếng trống lẻ sau những hồi trống dài, liên tục. Như vậy, "dùi" còn mang ý nghĩa như "tiếng" do phép hoán dụ, dùng phương tiện hành động chỉ kết quả hành động. Trong thổ ngữ Nghệ Tỉnh, "dùi" và "tiếng" song song tồn tại bên nhau và có khả năng thay thế cho nhau: "ba hồi chín dùi = ba hồi chín tiếng". Đáng lưu ý là những "dùi" trống riêng lẻ này rất quan trọng vì chúng là tín hiệu góp phần phân biệt quy định các hiệu lệnh khác nhau của hồi trống "ba hồi chín dùi" có nội dung thông báo khác với hiệu lệnh "ba hồi ba dùi". Đánh trống mà bỏ (không đánh) những "dùi" lẻ này thì người nghe không thể biết đó là hiệu lệnh gì để đáp ứng yêu cầu kịp thời. Ấy vậy là làm việc không chu đáo và thiếu trách nhiệm.
Ca dao, dân ca là gì?
Câu trả lời của bạn
Câu ca dao “Ngó lên nuộc lạt mái nhà/ Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu” diễn tả điều gì?
Câu trả lời của bạn
Diễn tả được tình cảm yêu quý, kính trọng, nỗi nhớ của con cháu đối với ông bà
Câu trả lời của bạn
Giống: Đều là những thể loại văn học dân gian.
Khác:
- Ca dao là những sáng tác kết hợp lời và nhạc, diễn tả đời sống nội tâm của con người.
- Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, hình ảnh, thể hiện những kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt (tự nhiên, lao động sản xuất, xã hội)
Chúc học tốt!!!
#A.N
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài
2. Thân bài
3. Kết bài
Câu trả lời của bạn
Ca dao dân ca là cây đàn muôn điệu rung lên những tiếng tơ lòng của người dân đất Việt. Những câu ca đằm thắm, trữ tình mang chở cả điệu tâm hồn và chứa chan những tình cảm thiết tha, sâu năng, đặc biệt là tình cảm gia đình. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: “Ca dao dân ca đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc”. Những lời hát ấy đã đi sâu vào tiềm thức mỗi người qua tiếng ru của bà, của mẹ và nhắc nhở chúng ta về công ơn trời biển của mẹ cha:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Bài ca dao như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng mà tha thiết. Phép so sánh được sử dụng liên tiếp khiến hai câu thơ vừa cụ thể, vừa gợi hình, sinh động. Công cha và nghĩa mẹ được ví với những hình ảnh thiên nhiên vĩnh hằng: núi ngất trời, nước biển Đông. Ơn cha to lớn không thể đo đếm còn tình mẹ thương con sâu nặng, đong đầy. Những lời thơ gợi nhắc về công ơn sinh thành dưỡng dục bao la vô tận của mẹ cha. Công ơn ấy được cụ thể hóa bằng “chín chữ”: (em xem chú thích và viết 9 chữ vào đây). Đồng thời, tác giả dân gian khuyên răn kẻ làm con phải có bổn phận chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ để đền đáp công ơn ấy. Những lời ca dao thấm đượm nghĩa tình như ru hồn người vào thế giới của đạo lý, yêu thương. Không những nhắn nhủ con người về công ơn cha mẹ, ca dao dân ca còn thể hiện tình cảm nhớ thương quê mẹ của người con gái xa:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Câu ca mở ra một âm điệu trầm buồn sâu lắng với hai từ “chiều chiều”. Thời khắc ấy gợi cái tàn lụi của một ngày và cũng gợi cảm giác sum họp gia đình. Ấy là quãng thời gian của buồn, của nhớ và bâng khuâng. Những lời hát của người con gái lấy chồng xa hướng về quê mẹ như thấm đẫm nỗi buồn xa xót ấy. Hai từ “ngõ sau” gợi một không gian khuất nẻo – nơi người con gái có thể bày tỏ nỗi long. Cả thời gian và không gian ấy như đã nói lên tâm trạng con người đang mong nhớ thiết tha. Hai chữ “chiều chiều” mở đầu hô ứng với hai chữ “chín chiều” kết thúc bài ca dao tạo nên hiệu ứng lặp đi lặp lại một nỗi long xót xa, thấm thía của người con gái khi hướng về quê mẹ xa xôi. Bên cạnh tình cảm cha mẹ – con cái, ca dao còn là những lời nhắn nhủ cảm động về tình cảm ông bà và cháu con:
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
Nuộc lạt – một hình ảnh quen thuộc trên những mái nhà tranh của làng quê Việt Nam đã được đưa vào câu ca dao một cách rất tự nhiên, giản dị và gần gũi. Biện pháp so sánh bao nhiêu – bấy nhiêu đã thể hiện tình cảm nhớ thương, sự gắn bó bền chặt, ruột thịt của cháu con với ông bà. Âm điệu lời thơ tha thiết thể hiện sự kính trọng biết ơn! Và, có lẽ, những người thân, người lớn trong nhà đã khuyên bào con cháu giữ chặt tình anh em: Anh em nào phải người xa Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân Yêu nhau như thể tay chân Anh em hòa thuận hai thân vui vầy Một lần nữa lối ví von so sánh lại được sử dụng thành công trong hai câu ca dao. Tình cảm anh em gắn bó bền chặt không thể tách rời như tay với chân. Sự hòa thuận của an hem chính là niềm vui của cha mẹ gia đình. Bài ca dao là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu sắc về tình cảm ruột thịt, anh em.
Với âm điệu thiết tha, sâu lắng cùng lối ví von so sánh đặc trưng, những câu thơ lục bát đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc và thấm thía. Nhắc nhở nhẹ nhàng mà không khô khan, khuyên nhủ mà không giáo huấn, ca dao chính là tiếng lòng mang chở cả tư tưởng, triết lý đạo đức của nhân dân. Nó đã trở thành viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam.
Câu trả lời của bạn
Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: “Ca dao dân ca đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc”. Những lời hát ấy đã đi sâu vào tiềm thức mỗi người qua tiếng ru của bà, của mẹ và nhắc nhở chúng ta về công ơn trời biển của mẹ cha:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩ mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Bài ca dao như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng mà tha thiết. Phép so sánh được sử dụng liên tiếp khiến hai câu thơ vừa cụ thể, vừa gợi hình, sinh động. Công cha và nghĩa mẹ được ví với những hình ảnh thiên nhiên vĩnh hằng: núi ngất trời, nước biển Đông. Ơn cha to lớn không thể đo đếm còn tình mẹ thương con sâu nặng, đong đầy. Những lời thơ gợi nhắc về công ơn sinh thành dưỡng dục bao la vô tận của mẹ cha. Công ơn ấy được cụ thể hóa bằng “chín chữ”: (em xem chú thích và viết 9 chữ vào đây). Đồng thời, tác giả dân gian khuyên răn kẻ làm con phải có bổn phận chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ để đền đáp công ơn ấy. Những lời ca dao thấm đượm nghĩa tình như ru hồn người vào thế giới của đạo lý, yêu thương.
Không những nhắn nhủ con người về công ơn cha mẹ, ca dao dân ca còn thể hiện tình cảm nhớ thương quê mẹ của người con gái xa:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Câu ca mở ra một âm điệu trầm buồn sâu lắng với hai từ “chiều chiều”. Thời khắc ấy gợi cái tàn lụi của một ngày và cũng gợi cảm giác sum họp gia đình. Ấy là quãng thời gian của buồn, của nhớ và bâng khuâng. Những lời hát của người con gái lấy chồng xa hướng về quê mẹ như thấm đẫm nỗi buồn xa xót ấy. Hai từ “ngõ sau” gợi một không gian khuất nẻo – nơi người con gái có thể bày tỏ nỗi lòng. Cả thời gian và không gian ấy như đã nói lên tâm trạng con người đang mong nhớ thiết tha. Hai chữ “chiều chiều” mở đầu hô ứng với hai chữ “chín chiều” kết thúc bài ca dao tạo nên hiệu ứng lặp đi lặp lại một nỗi long xót xa, thấm thía của người con gái khi hướng về quê mẹ xa xôi.
Bên cạnh tình cảm cha mẹ – con cái, ca dao còn là những lời nhắn nhủ cảm động về tình cảm ông bà và cháu con:
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
Nuộc lạt – một hình ảnh quen thuộc trên những mái nhà tranh của làng quê Việt Nam đã được đưa vào câu ca dao một cách rất tự nhiên, giản dị và gần gũi. Biện pháp so sánh bao nhiêu – bấy nhiêu đã thể hiện tình cảm nhớ thương, sự gắn bó bền chặt, ruột thịt của cháu con với ông bà. Âm điệu lời thơ tha thiết thể hiện sự kính trọng biết ơn!
Và, có lẽ, những người thân, người lớn trong nhà đã khuyên bào con cháu giữ chặt tình anh em:
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy
Một lần nữa lối ví von so sánh lại được sử dụng thành công trong hai câu ca dao. Tình cảm anh em gắn bó bền chặt không thể tách rời như tay với chân. Sự hòa thuận của anh em chính là niềm vui của cha mẹ gia đình. Bài ca dao là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu sắc về tình cảm ruột thịt, anh em.
Với âm điệu thiết tha, sâu lắng cùng lối ví von so sánh đặc trưng, những câu thơ lục bát đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc và thấm thía.
Nhắc nhở nhẹ nhàng mà không khô khan, khuyên nhủ mà không giáo huấn, ca dao chính là tiếng lòng mang chở cả tư tưởng, triết lý đạo đức của nhân dân. Nó đã trở thành viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam.
Xem thêm tại: https://DapAnHay/chung-minh-ca-dao-la-tieng-noi-ve-tinh-cam-gia-dinh-dam-tham-thiet-tha-cua-con-nguoi-viet-nam-c34a10043.html#ixzz6INw7ogNH
Ca dao dân ca là cây đàn muôn điệu rung lên những tiếng tơ lòng của người dân đất Việt. Những câu ca đằm thắm, trữ tình mang chở cả điệu tâm hồn và chứa chan những tình cảm thiết tha, sâu nặng, đặc biệt là tình cảm gia đình. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng: “Ca dao dân ca đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc”. Những lời hát ấy đã đi sâu vào tiềm thức mỗi người qua tiếng ru của bà, của mẹ và nhắc nhở chúng ta về công ơn trời biển của mẹ cha:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩ mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Bài ca dao như một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng mà tha thiết. Phép so sánh được sử dụng liên tiếp khiến hai câu thơ vừa cụ thể, vừa gợi hình, sinh động. Công cha và nghĩa mẹ được ví với những hình ảnh thiên nhiên vĩnh hằng: núi ngất trời, nước biển Đông. Ơn cha to lớn không thể đo đếm còn tình mẹ thương con sâu nặng, đong đầy. Những lời thơ gợi nhắc về công ơn sinh thành dưỡng dục bao la vô tận của mẹ cha. Công ơn ấy được cụ thể hóa bằng “chín chữ”: (em xem chú thích và viết 9 chữ vào đây). Đồng thời, tác giả dân gian khuyên răn kẻ làm con phải có bổn phận chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ để đền đáp công ơn ấy. Những lời ca dao thấm đượm nghĩa tình như ru hồn người vào thế giới của đạo lý, yêu thương.
Không những nhắn nhủ con người về công ơn cha mẹ, ca dao dân ca còn thể hiện tình cảm nhớ thương quê mẹ của người con gái xa:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Câu ca mở ra một âm điệu trầm buồn sâu lắng với hai từ “chiều chiều”. Thời khắc ấy gợi cái tàn lụi của một ngày và cũng gợi cảm giác sum họp gia đình. Ấy là quãng thời gian của buồn, của nhớ và bâng khuâng. Những lời hát của người con gái lấy chồng xa hướng về quê mẹ như thấm đẫm nỗi buồn xa xót ấy. Hai từ “ngõ sau” gợi một không gian khuất nẻo – nơi người con gái có thể bày tỏ nỗi lòng. Cả thời gian và không gian ấy như đã nói lên tâm trạng con người đang mong nhớ thiết tha. Hai chữ “chiều chiều” mở đầu hô ứng với hai chữ “chín chiều” kết thúc bài ca dao tạo nên hiệu ứng lặp đi lặp lại một nỗi long xót xa, thấm thía của người con gái khi hướng về quê mẹ xa xôi.
Bên cạnh tình cảm cha mẹ – con cái, ca dao còn là những lời nhắn nhủ cảm động về tình cảm ông bà và cháu con:
“Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu”
Nuộc lạt – một hình ảnh quen thuộc trên những mái nhà tranh của làng quê Việt Nam đã được đưa vào câu ca dao một cách rất tự nhiên, giản dị và gần gũi. Biện pháp so sánh bao nhiêu – bấy nhiêu đã thể hiện tình cảm nhớ thương, sự gắn bó bền chặt, ruột thịt của cháu con với ông bà. Âm điệu lời thơ tha thiết thể hiện sự kính trọng biết ơn!
Và, có lẽ, những người thân, người lớn trong nhà đã khuyên bào con cháu giữ chặt tình anh em:
Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy
Một lần nữa lối ví von so sánh lại được sử dụng thành công trong hai câu ca dao. Tình cảm anh em gắn bó bền chặt không thể tách rời như tay với chân. Sự hòa thuận của anh em chính là niềm vui của cha mẹ gia đình. Bài ca dao là lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu sắc về tình cảm ruột thịt, anh em.
Với âm điệu thiết tha, sâu lắng cùng lối ví von so sánh đặc trưng, những câu thơ lục bát đã thể hiện tình cảm gia đình sâu sắc và thấm thía.
Nhắc nhở nhẹ nhàng mà không khô khan, khuyên nhủ mà không giáo huấn, ca dao chính là tiếng lòng mang chở cả tư tưởng, triết lý đạo đức của nhân dân. Nó đã trở thành viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *