Bài học Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài giúp các em hiểu được cuộc sống cơ cực, tối tăm của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách áp bức của thực dân và chúa đất thống trị, quá trình người dân các dân tộc thiểu số từng bước giác ngộ cách mạng và vùng lên tự giải phóng đời mình, đi theo tiếng gọi của Đảng. Thấy được những nét độc đáo trong nghệ thuật viết truyện của Tô Hoài. Thông qua video bài giảng cùng phần hướng dẫn soạn bài và phần bài học, DapAnHay chúc các em có thêm nhiều tiết học hấp dẫn và hiệu quả hơn tại lớp.
⇒ Cách giới thiệu nhân vật ấn tượng để dẫn dắt vào trình tìm hiểu số phận nhân vật.
⇒ Sống tăm tối, nhẫn nhục, đau khổ, tê liệt về tinh thần, buông xuôi theo số phận.
⇒ Là hành động tất yếu: Đó là con đường giải thoát duy nhất, cứu người cũng là tự cứu mình.
⇒ Tài năng của nhà văn trong miêu tả tâm lí nhân vật: Diễn biến tâm lí tinh tế được miêu tả từ nội tâm đến hành động.
⇒ Tinh thần phản kháng là cơ sở cho việc giác ngộ Cách mạng nhanh chóng sau này.
⇒ A Phủ có số phận tương đồng với Mị, hai nhân vật có những nét tính cách gần nhau nhưng vẫn có những nét riêng. Tuy nhiên tựu chung ở hai nhân vật ta thấy một số phận nô lệ của thần quyền và cường quyền hủ tục. Họ bị đàn áp và họ đã đứng dậy chống lại chế độ hủ tục đó thành công.
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài).
Năm 1952 trong chuyến đi thực tế 8 tháng về Tây Bắc, Tô Hoài đã sáng tác “Truyện Tây Bắc” phản ánh cuộc sống tủi nhục của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách áp bức bóc lột của thực dân – phong kiến và sự giác ngộ Cách mạng của họ. Để dễ dàng trả lời được hệ thống các câu hỏi trong SGK cũng như nắm được nội dung bài học, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Vợ chồng A Phủ.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Tô Hoài thành công với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” không chỉ nhờ vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Để nắm bắt được những chuyển biến tâm lí của các nhân vật cũng như việc phân tích được tác phẩm, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Cảm nhận về hình ảnh nắm lá ngón trong Vợ chồng A Phủ
- Phân tích chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ
- Phân tích ý nghĩa hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ
- Phân tích tâm trạng nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ
- Ý nghĩa tiếng sáo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
- Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân
- So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
- So sánh hai nhân vật A Phủ và Tnú
- Cảm nhận về hành động Mị chạy theo A Phủ và hành động thị chạy theo không Tràng về làm vợ
- Hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
- So sánh nhân vật Mị và người đàn bà làng chài
- Giá trị nhân đạo trong Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ
- Diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
- Hình ảnh tiếng sáo đêm trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ
- Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
- Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
- Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
- Giá trị hiện thực và nhân đạo qua truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ
- Phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Trong nền văn học hiện thực Việt Nam, sự xuất hiện của một loạt các cây bút tài năng như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,... đã phản ánh một cách rất chân thực số phận bi kịch của người nông dân, trí thức nghèo trong xã hội cũ, cùng với những bất công, sự tàn ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đẩy con người ta vào đến bước đường cùng. Trong đó với Chí Phèo của Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, ta đều nhận thấy nội dung chính xuyên suốt tác phẩm ấy là sự thức tỉnh, trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật chính. Tuy nhiên với bối cảnh ra đời và hướng đi khác nhau trong phong cách viết của mỗi tác giả thể nên sự thức tỉnh của các nhân vật và cái kết của họ cũng phát triển theo những lối đi riêng, một bên là bi kịch, một bên lại là con đường rực sáng đầy hy vọng.
Trước hết nói về quá trình thức tỉnh của Mị trong Vợ chồng A Phủ, Mị là một cô gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, chăm chỉ làm lụng, lại có một tình yêu đẹp, những tưởng cô sẽ có một cuộc đời ấm êm bên người mình yêu, dù không sang giàu. Thế nhưng cái hủ tục của cường quyền và thần quyền phong kiến đã phá vỡ hết tất cả, món nợ truyền kiếp của người cha nghèo mà Mị phải gánh thay, đã đẩy Mị vào bước đường trở thành người con dâu gạt nợ. Bước vào làm dâu nhà giàu nhưng buộc phải sống một cuộc đời không khác gì trâu ngựa, trở thành một cỗ máy lao động biết nói. Mị đã từng đau khổ tuyệt vọng chỉ muốn ăn lá ngón để chết quách đi cho đỡ khổ, nhưng nghĩ đến cha già Mị lại không đành lòng chết, chỉ đành cắn răng chịu đựng. Mãi rồi "ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi". Cô trở nên trơ lì, không còn thiết tha gì đến cuộc sống, không còn biết thế nào là đau đớn, khổ sở, tâm hồn Mị trở nên nguội lạnh như tro tàn, cô thu mình vào một chiếc vỏ bọc cứng rắn bởi những nỗi đau quá sức chịu đựng khi mà chính bản thân Mị cũng ý thức được rằng "Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày". Không chỉ bị đày đọa về thể xác mà nỗi đau của Mị còn đến từ những hoạt cảnh tù túng trong tâm hồn, khi mà lúc nào người ta cũng thấy Mị buồn rười rượi, đầu cúi xuống, không thiết tha nói năng, tâm trí lúc nào cũng chỉ nghĩ đến việc đi làm. Căn buồng Mị ở chẳng khác nào một cái nhà tù khi chỉ có một cái lỗ vuông bé bằng bàn tay "lúc nào trông ra cũng thấy một màu trăng trắng không biết là sương hay là nắng", tối tăm chật hẹp, giam giữ cả tâm hồn và thể xác của Mị, mà có lúc Mị đã nghĩ rằng cả cuộc đời này mình sẽ sống và chết ở cái căn buồng nhỏ bé này. Ngẫm thật xót xa cho một kiếp người. Ngoài ra một nỗi đau khổ khác của Mị ấy là nỗi đau bị chia cắt tình duyên và việc phải chung sống cả đời với người mà mình căm ghét - A Sử, một kẻ độc ác, vũ phu, chỉ biết chơi bời, nó không coi Mị là vợ mà coi cô như một nô lệ trong nhà, mặc sức đối xử tàn bạo. Một cuộc đời như như vậy sao không khiến người ta trở nên tuyệt vọng, chai lì, lầm lũi như con rùa trong xó cửa cho được, nó có khác nào địa ngục trần gian, mà cái gian nhà giàu ấy chính là cái nhà tù chung thân được canh giữ bởi thần quyền và cường quyền, nó đã chà đạp, tàn phá tâm hồn và thể xác của những người đàn bà khốn khổ như Mị.
Sự thức tỉnh của Mị diễn ra một cách rất tự nhiên, khởi nguồn từ tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân, những tưởng tâm hồn Mị đã hoàn toàn chết lặng, thế mà giờ đây nghe tiếng sáo réo rắt, vui tươi, nó lại mạnh mẽ thức tỉnh, tựa như một mầm cây non được sau bao ngày nắng hạn gặp mưa rào bỗng trỗi dậy. Mị bỗng thấy yêu đời, Mị lẩm nhẩm hát theo tiếng sáo, Mị lặng lẽ nhớ về những ký ức vui vẻ ngày chưa về làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Rồi Mị uống rượu, uống ừng ực từng bát như muốn trút hết tất cả những nỗi muộn phiền đau đớn, cô nhớ lại mình đã từng thổi sáo, thổi lá rất hay, thế là Mị lại lấy lá thổi lên những điệu nhạc vui tươi, yêu đời. Lòng Mị từ đó bắt đầu thức dậy những khao khát được vui chơi được giao tiếp với mọi người, khao khát được hưởng niềm hạnh phúc tuổi thanh xuân "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết". Nói là làm Mị vào buồng mặc váy hoa, vấn lại tóc, thế nhưng A Sử về nó đã trói Mị lại, nó không cho Mị được đi chơi, cô tuy bị trói thế nhưng tâm hồn vẫn lơ lửng theo tiếng sáo ngoài đường. Mãi đến khuya khi vẩn vơ nghĩ về một người đàn bà trong nhà này đã từng bị trói cho đến chết, Mị mới giật mình sợ hãi "Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau từng mảnh thịt". Sự đau đớn, nỗi sợ hãi chính là những minh chứng rõ ràng nhất cho sức sống tiềm tàng của Mị, hóa ra Mị vẫn còn ham sống, ham cuộc đời này lắm, Mị không muốn chết ngay tại đây, ngay bây giờ, Mị vẫn còn khao khát những hạnh phúc thanh xuân, khao khát tự do mãnh liệt và chúng đang bùng cháy trong trái tim người đàn bà trẻ, chỉ là chưa biết phải làm thế nào để đạt được những ước vọng ấy. Đang trong lúc Mị bế tắc, thì sự xuất hiện tả tơi của A Phủ đã chỉ cho Mị một lối thoát đầy hy vọng, cảnh chàng trai tưởng chừng lả đi vì bị đói, bị rét, nhưng khi được Mị giải cứu đã dùng hết sức bình sinh để chạy, lăn xuống dưới sườn đồi, chứ quyết không chịu ở lại đợi chết, đã làm tâm hồn Mị vỡ ra một chân lý: Mị đã giải thoát được cho người khác, cớ sao lại không tự giải thoát cho bản thân mình được. Thế là Mị đã bất chấp liều mình chạy theo A Phủ, tự trả lại tự do cho bản thân, hướng về một cuộc đời mới, thoát khỏi cái nhà tù tàn ác, bế tắc ấy. Tất cả những biến đổi trong tâm lý của Mị, cũng như hành động táo bạo của cô đều bộc lộ những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý đó là sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sự phản kháng mạnh mẽ, khao khát tự do, hạnh phúc cháy bỏng trong tâm hồn. Tất cả đã trở thành động lực khiến Mị tự giải phóng, cứu vớt bản thân và cả A Phủ.
Còn đối với Chí Phèo, quá trình thức tỉnh của anh gặp nhiều gian truân và lắt léo hơn Mị rất nhiều, bản thân Chí cũng có một cuộc đời đầy bất hạnh, với những tấn bi kịch họa vô đơn chí tương tự Mị. Sống với thân phận mồ côi trôi nổi đến 20 tuổi với những ước vọng tươi đẹp thì lại bị tống vào tù chỉ vì sự lăng loàn của một người đàn bà và sự ghen tuông của một gã đàn ông bất lực sợ vợ. Bảy tám năm sau cái nhà tù thực dân ấy đã trả lại cho làng Vũ Đại một tên lưu manh với ngoại hình gớm ghiếc "trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!". Không chỉ tha hóa về nhân hình mà ở Chí Phèo còn là sự tha hóa về nhân phẩm khi hắn trở nên thích uống rượu và ăn thịt chó, quen việc rạch mặt ăn vạ, cùng với những tiếng chửi làng, chửi đời, chửi người ghê gớm. Trượt dài trong sự tha hóa, Chí Phèo vì bị những bi kịch cuộc đời đày đọa và cả sự ngu dốt cả tin mà dễ dàng lún sâu vào bước đường tội lỗi khi trở thành tay sai của Bá Kiến, thay hắn làm tất cả những việc đâm thuê chém mướn, đòi nợ thuê. Trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, con vật lạ trong mắt người đời, bán rẻ linh hồn để kiếm mấy đồng lẻ phục vụ cho những cơn say dài chưa một lần tỉnh trong suốt 15 năm trời. Sự thức tỉnh của Chí Phèo đã diễn ra tổng thể hai lần, lần đầu tiên ấy là nhờ Thị Nở, nhờ mối tình kỳ lạ với người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, lại thêm tính dở hơi. Thế nhưng thị đã cho hắn sự quan tâm, ấm áp của một người mẹ, một người đàn bà có tâm hồn đẹp bằng bát cháo hành bốc hơi nghi ngút. Chí Phèo bỗng nhận ra bản thân đã bước sang phía bên kia của cuộc đời, hắn đã già, cơ thể đã bắt đầu suy sụp, hắn không sợ chết nhưng lại sợ sống một cuộc đời cô đơn, lay lắt, Rồi hắn nhớ lại những ước mơ thuở đôi mươi, có một gia đình đầm ấm, chồng cày thuê vợ dệt vải, nuôi lợn, mua đất. Và hắn khao khát được làm những việc ấy với thị Nở, hắn muốn xây dựng gia đình với thị và thị sẽ là cây cầu đưa hắn về với thế giới loài người, để hắn hoàn lương và sống một cuộc đời mới. Thế nhưng thật đớn đau thay, Chí Phèo chỉ vừa mới thoát ra khỏi cơn say dài được mấy ngày, mới có được những niềm hy vọng niềm vui sống thì nó đã lập tức bị đạp đổ bởi định kiến gay gắt của xã hội qua lời của bà cô Thị Nở "Đàn ông đã chết hết hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ". Lời nói cay nghiệt ấy đã giáng một đòn chí mạng vào Chí Phèo, khiến hắn tỉnh mộng, ý thức thật rõ ràng về thân phận về cái số kiếp chất chồng đầy bi kịch và tội lỗi của mình, hắn đã không còn cơ hội quay trở về nữa rồi, hắn muốn lương thiện, nhưng ai cho hắn cái lương thiện quý giá ấy đây. Đồng thời Chí Phèo cũng nhận thức được kẻ thù của mình, kẻ đã gây ra cho hắn biết bao bi kịch chính là Bá Kiến. Hắn cũng lựa chọn cách giải thoát cho bản thân như Mị, để giữ lại những thiên lương tốt đẹp còn sót lại trong người hắn. Thế nhưng khác so với Mị, kết thúc của quá trình thức tỉnh của Chí Phèo đó là một bi kịch. Hắn giết chết Bá Kiến, đồng thời tự tử để kết thúc một đời đầy bất hạnh đau thương và đầy tội lỗi của mình. Đây có thể xem là cái kết hợp lý cho truyện ngắn, cũng phản ánh một cách gay gắt sự bất công của xã hội cũ đã mang đến cho con người biết bao bi kịch đau thương, khiến họ không còn đường lùi, buộc phải chọn cách thức tiêu cực nhất để giải thoát.
Chung quy lại, có thể thấy rõ ràng ở hai nhân vật Mị và Chí Phèo đều có những điểm chung ấy là những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý như tấm lòng ham sống, khao khát hạnh phúc, tình yêu mãnh liệt. Tuy nhiên nếu như bản thân Mị chọn cách chôn giấu, bao bọc tâm hồn của mình bằng lớp vỏ chai lì, khô cứng, không cảm xúc, thì Chí Phèo lại chọn cách phó mặc cho số phận, trượt dài theo con đường tội lỗi, chính vì thế đến tận cuối quá trình thức tỉnh, hai nhân vật có kết cục người tìm được tự do, hạnh phúc, người phải chịu bi kịch kết thúc cuộc đời, âu cũng là một hướng phát triển cốt truyện hợp lý và phù hợp với hoàn cảnh cũng như những tư tưởng mà hai tác giả muốn truyền tải cho người đọc.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Thể loại của văn bản Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn.
Câu trả lời của bạn
- Trong chuyến đi thực tế cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952.
- In trong tập Truyện Tây Bắc (1953) – được tặng giải nhất giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955.
Câu trả lời của bạn
- Vợ chồng A Phủ là câu chuyện về những người dân lao động vừng núi cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tối tăm đã vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do
- Truyện cũng nói lên ước mơ về một cuộc sống tự do, hạnh phúc của người dân.
Câu trả lời của bạn
- Ngôn ngữ giản dị, sinh động, hấp dẫn.
- Xây dựng nhân vật đặc sắc, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, tài tình.
- Giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình, vừa giàu chất thơ.
Câu trả lời của bạn
Phản ánh số phận đau thương và quá trình đến với con đường tự do, con đường cách mạng của các dân tộc ít người ở Tây Bắc.
Câu trả lời của bạn
Mị và A Phủ vốn là những người xa lạ, nhưng do một cảnh ngộ đặc biệt, họ đã đến với nhau và trở thành vợ chồng. Quá trình trở thành vợ chồng của họ là một sự vươn lên từ bóng tối đến ánh sáng. Ánh sáng của cách mạng đã giải thoát hai con người ra khỏi ách thống trị của thống lí Pá Tra.
Câu trả lời của bạn
- Câu chuyện mở đầu bằng hình ảnh của Mị, về quá khứ, những gì mà Mị đã phải trải qua. Khi Mị dần trở nên tuyệt vọng, A Phủ bỗng xuất hiện như một người cùng khổ. Hai số phận tưởng như song song mà nay lại giao nhau, bởi những khổ đau họ đã từng trải qua, bởi sức sống tiềm tàng ẩn giấu bên trong con người của họ. Họ cùng nhau chạy đi, cùng hướng đến cách mạng – ánh sáng nơi cuối con đường
⇒ Phơi bày những sự tàn bạo, bất nhân của giai cấp thống trị miền núi. Thể hiện được khát vọng sống, sống một cách đúng nghĩa, sống như một con người của những người lương thiện như Mị và A Phủ.
Câu trả lời của bạn
- Cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa và Lúc nào cũng vậy... cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. → Lúc nào cũng cúi đầu nhẫn nhục và luôn u buồn.
- Cách vào truyện gây ấn tượng nhờ tác giả đã tạo ra những đối nghịch:
+ Một cô gái lẻ loi, âm thầm gần như lẫn vào các vật vô tri trong khung cảnh đông đúc, tấp nập của gia đình thống lí Pá Tra.
+ Cô ấy là con dâu của một gia đình quyền thế, giàu có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng nhưng sao lúc nào cũng cúi mặt nhẫn nhục và mặt buồn rười rượi.
⇒ Sự xuất hiện của Mị được tác giả sử dụng thủ pháp tạo tình huống ″có vấn đề″ trong lối kể chuyện truyền thống, giúp tác giả mở lối người đọc cùng tham gia hành trình tìm hiểu những bí ẩn của số phận nhân vật.
Câu trả lời của bạn
- Mị là cô gái xinh đẹp, yêu đời, chăm chỉ, tự trọng, hiếu thảo, có tài thổi sáo hay, có một tình yêu đẹp đáng được hưởng hạnh phúc.
- Có khát vọng sống mãnh liệt: khao khát hạnh phúc do mình lựa chọn, từ chối làm dâu nhà giàu.
⇒ Lẽ ra Mị phải được hạnh phúc. Nhưng không ngờ đó chính là nguyên nhân dẫn cô đến những bi kịch đau khổ: phải trả món nợ truyền kiếp cho gia đình, trở thành con dâu gạt nợ. Từ đấy bông hoa của núi rừng bị nhấn chìm trong kiếp sống khốn khổ.
Câu trả lời của bạn
* Thể xác:
- Công việc, làm việc cả ngày lẫn đêm, khổ hơn trâu ngựa (so sánh).
- Thái độ: cúi mặt, nghĩ ngợi, nhớ đi nhớ lại những công việc như nhau, suốt năm suốt đời cũng thế → làm theo quán tính, thói quen bào mòn ý thức của Mị, biến Mị trở thành cái xác không hồn.
- Mị bị đánh đập hành hạ.
*Tinh thần: Mị là nạn nhân của chế độ:
- Cường quyền: cha con thống lí Pá Tra bắt Mị về làm con dâu gạt nợ, không cần biết đến khát khao của Mị.
- Nam quyền: chưa bao giờ được hưởng hạnh phúc lứa đôi, chỉ là vật sử dụng.
- Thần quyền: tục lệ cúng trình ma làm Mị không dám trốn.
* Cuộc sống:
- Không gian: Căn buồng Mị là một ẩn dụ độc đáo, gây ám ảnh ngột ngạt, bức bối về nhà tù rùng rợn, địa ngục chốn trần gian - giam hãm tâm hồn và cuộc đời của Mị.
- Thời gian: không biết mùa nào đã về, con chim nào bay qua cửa sổ, không phân biệt được thời gian giữa sáng và chiều.
→ Không có ý niệm về không gian và thời gian, nghĩa là Mị không có ý niệm về sự tồn tại của mình nữa.
- Mối quan hệ: không người tri âm tri kỉ, chỉ ra vào lặng lẽ trong những đêm dài và buồn, làm bạn với ngọn lửa.
* Thái độ của Mị:
- Ban đầu: phản kháng quyết liệt, định ăn lá ngón tự tử.
- Sau đó: bố chết, món nợ và lòng hiếu thảo không ràng buộc nhưng Mị không nghĩ đến cái chết vì Mị quen khổ rồi → sự áp bức quá lâu đã làm tê liệt tinh thần phản kháng.
⇒ Những đau khổ và cực nhọc đã cướp đi tuổi thanh xuân của Mị và biến Mị thành con người nhẫn nhục - tiêu biểu cho số phận người phụ nữ nghèo dưới ách thống trị của phong kiến miền núi.
Câu trả lời của bạn
* Lần thứ nhất:
- Hoàn cảnh: Mị bị bắt về làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra. Mị trốn về nhà, quỳ lạy bố, chào bố lần cuối. Nhưng rồi, Mị không đành lòng. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng, Mị vẫn giấu trong áo.
- Ý nghĩa của phản ứng:
+ Mị muốn tự kết liễu đời mình khi không thể thoát khỏi những xiềng gông vô hình của nhà thống lí.
+ Là một sự phản kháng của ý thức, biểu hiện một khát khao tự do và hạnh phúc cháy bỏng của tuổi trẻ trong con người Mị.
→ Mị không đành lòng chết: Ý muốn của bản thân đã không thắng được những ràng buộc về bổn phận của chữ hiếu.
* Lần thứ hai:
- Hoàn cảnh: Mị quen khổ rồi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa. Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. → Mị âm thầm cam chịu kiếp sống người – vật trong nhà thống lí.
- Ý nghĩa của phản ứng: Sức phản kháng trong con người Mị đã bị đè nén đến mức tê liệt. → tâm hồn cô như đã chết.
* Lần thứ ba:
- Hoàn cảnh: Xuất hiện trong đêm tình mùa xuân, khi nghe tiếng sáo thiết tha bổi hổi, Mị nhận thức hoàn cảnh thực tại.
- Ý nghĩa của phản ứng: Tô đậm bi kịch đau khổ và tín hiệu cho thấy Mị ý thức về thân phận chưa bao giờ bị dập tắt hoàn toàn.
⇒ Phản ứng muốn ăn lá ngón cho thấy sự phản kháng, tâm hồn giàu khát khao và sức sống mạnh mẽ tiềm tàng trong con người Mị. Nó không vĩnh viễn tan biến mà chỉ tạm thời chìm khuất, chỉ chờ cơ hội là bùng lên mãnh liệt. Phản ánh khắc sâu sự cam chịu của nhân vật.
Câu trả lời của bạn
- Vẻ đẹp của mùa xuân và tiếng sáo – âm thanh của sự thức tỉnh, đã từng bước làm hồi sinh tâm hồn Mị: Tiếng sáo → Mị ⇒ Tiếng sáo từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, lúc đầu chỉ là tiếng gọi của cuộc đời, sau đó là tiếng gọi của chính khát khao trong Mị. Tiếng so mỗi lúc một thiết tha hơn: ban đầu là gọi bạn, sau đó là gọi bạn yêu.
- Không khí sinh động, náo nức của mùa xuân, cùng với tiếng sáo Mị đã từng bước thức tỉnh ý thức làm người, Mị nhẩm lời bài hát.
+ Lén uống rượu: như để đạp đổ, phá vở, giải toả một cái gì trầm uất bấy lâu trong lòng → tín hiệu bắt đầu thoát khỏi ranh giới của sự cam chịu → kí ức trở về, chất người đích thực cũng trở về với Mị.
+ Mị thấy mình còn trẻ → ý thức rõ rệt về bản thân, có khả năng sống hạnh phúc và trở lại làm người.
+ Khao khát muốn đi chơi trong đêm tình và muốn ăn lá ngón tự tử → khao khát sống hồi sinh.
+ Mị xắn mở bỏ vào đĩa đèn cho buồng sáng lên, chuẩn bị đi chơi với kí ức tươi đẹp của thời thanh xuân → Mị hành động thật khỏe khoắn chứ không lầm lũi, âm thầm nữa.
Câu trả lời của bạn
- Tiếng sáo xuất hiện:
+ Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.
+ Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng.
+ Trong đầu Mị vẫn rập rờn tiếng sáo.
+ Mị vẫn nghe tiếng sao đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi.
- Ý nghĩa:
+ Tiếng sáo biểu hiện cho vẻ đẹp của phong tục, nét đẹp văn hóa người dân miền núi.
+ Là biểu tượng cho tiếng gọi cuộc sống, tình yêu; nó đã lay động, khơi gợi lòng yêu đời, yêu cuộc sống tự do trong Mị.
+ Có quan hệ mật thiết với quá trình diễn biến tâm lí của Mị, là động lực thúc đẩy Mị đi đến hành động chuẩn bị đi chơi xuân
+ Thể hiện tư tưởng, giá trị nhân đạo của tác phẩm: sức sống con người cho dù bị giẫm đạp, trói buộc nhưng vẫn luôn âm ỉ chờ cơ hội bùng lên.
Câu trả lời của bạn
- Lần 1: Mị khóc trong lúc mới về ở nhà thống lí do bị A Sử bắt về → Tiếng khóc tự nhiên: Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc → Tiếng khóc tủi thân cho thân phận mình, báo hiệu cho một cuộc đời đầy thống khổ.
- Lần 2: Tiếng khóc xuất hiện khi Mị trốn về nhà cha đẻ: Một hôm, Mị trốn về nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy bố, Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở → Tiếng khóc dồn nén quá lâu bộc lộ sự uất ức của Mị.
- Lần 3: Tiếng khóc khi Mị chuẩn bị ăn lá ngón → Tiếng khóc tuyệt vọng:
Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị không đành lòng chết vì lo cho không ai trả nợ cho cha. → Tiếng khóc xen lẫn tình thương, sự hiếu thảo của Mị với cha mình.
- Lần 4: Tiếng khóc của Mị sau khi nghe tiếng sáo: Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra → khóc buồn, gợi nhớ quá khứ khi còn trẻ → Mị muốn đi chơi → Cái lồng nhà Pá Tra kìm hãm Mị. → Tiếng khóc gợi nỗi nhớ da diết trong lòng Mị.
- Lần 5: Mị khóc khi bị A Sử trói → Tiếng khóc uất ức: Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi. Cả đêm Mị phải trói đứng như thế.
→ Thể hiện sự xót xa, chua xót cho thân phận mình khi mọi người đi chơi thì mình lại bị trói. → Tiếng khóc làm bước đạp cho hành động sau này: Mị cởi trói cứu A Phủ.
⇒ Tiếng khóc của Mị là nỗi đau, sự uất ức cho số phận khốn khổ, phải chịu bao tủi nhục khi sống trong nhà thống lí Pá Tra.
Câu trả lời của bạn
- Mùa xuân về trên bản cao: Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét tất dữ dội.
- Tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân:
+ Lúc uống rượu đón xuân: Mị lén lấy hủ rượu, cứ uống ực từng bát.
+ Khi nghe tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân đánh thức trong Mị một sức sống tiềm ẩn.
+ Rượu tan, trong cơn say thoát khỏi cuộc đời lầm lũi để vươn tới những ý nghĩ đẹp: Nhớ lại những kỉ niệm ngọt ngào của quá khứ, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước,...
+ Mị có ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thực: ăn lá ngón để tự vẫn.
→ Ý thức về số phận tủi nhục của mình.
- Mị thắp đèn như thắp lên ánh sáng chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối. Mị chuẩn bị đi chơi nhưng bị A Sử trói lại. Tuy bị trói nhưng Mị vẫn tưởng tượng và hành động như một người tự do, Mị vùng bước đi.
⇒ Chính không khí mùa xuân của Hồng Ngài năm ấy đã làm trỗi dậy sức sống ở con người Mị.
Câu trả lời của bạn
- Tiếng khóc của Mị sau khi nghe tiếng sáo: Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.
→ Khóc buồn, gợi nhớ quá khứ khi còn trẻ. Đó là khoảng thời gian tươi đẹp nhất của cuộc đời cô, khi cô còn được tự do và được là chính mình.
→ Mị muốn đi chơi, giải thoát bản thân khỏi những ngày tháng vô vọng. Thế nhưng cái lồng nhà Pá Tra kìm hãm Mị bao lâu nay và khiến Mị không thể thoát ra.
→ Nàng nhận thức được hoàn cảnh thực tại của bản thân. Tiếng khóc gợi nỗi nhớ da diết trong lòng Mị cũng là sự bất lực của một số phận nhỏ bé.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *