Bài học Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài giúp các em hiểu được cuộc sống cơ cực, tối tăm của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách áp bức của thực dân và chúa đất thống trị, quá trình người dân các dân tộc thiểu số từng bước giác ngộ cách mạng và vùng lên tự giải phóng đời mình, đi theo tiếng gọi của Đảng. Thấy được những nét độc đáo trong nghệ thuật viết truyện của Tô Hoài. Thông qua video bài giảng cùng phần hướng dẫn soạn bài và phần bài học, DapAnHay chúc các em có thêm nhiều tiết học hấp dẫn và hiệu quả hơn tại lớp.
⇒ Cách giới thiệu nhân vật ấn tượng để dẫn dắt vào trình tìm hiểu số phận nhân vật.
⇒ Sống tăm tối, nhẫn nhục, đau khổ, tê liệt về tinh thần, buông xuôi theo số phận.
⇒ Là hành động tất yếu: Đó là con đường giải thoát duy nhất, cứu người cũng là tự cứu mình.
⇒ Tài năng của nhà văn trong miêu tả tâm lí nhân vật: Diễn biến tâm lí tinh tế được miêu tả từ nội tâm đến hành động.
⇒ Tinh thần phản kháng là cơ sở cho việc giác ngộ Cách mạng nhanh chóng sau này.
⇒ A Phủ có số phận tương đồng với Mị, hai nhân vật có những nét tính cách gần nhau nhưng vẫn có những nét riêng. Tuy nhiên tựu chung ở hai nhân vật ta thấy một số phận nô lệ của thần quyền và cường quyền hủ tục. Họ bị đàn áp và họ đã đứng dậy chống lại chế độ hủ tục đó thành công.
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài).
Năm 1952 trong chuyến đi thực tế 8 tháng về Tây Bắc, Tô Hoài đã sáng tác “Truyện Tây Bắc” phản ánh cuộc sống tủi nhục của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách áp bức bóc lột của thực dân – phong kiến và sự giác ngộ Cách mạng của họ. Để dễ dàng trả lời được hệ thống các câu hỏi trong SGK cũng như nắm được nội dung bài học, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Vợ chồng A Phủ.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Tô Hoài thành công với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” không chỉ nhờ vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Để nắm bắt được những chuyển biến tâm lí của các nhân vật cũng như việc phân tích được tác phẩm, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Cảm nhận về hình ảnh nắm lá ngón trong Vợ chồng A Phủ
- Phân tích chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ
- Phân tích ý nghĩa hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ
- Phân tích tâm trạng nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ
- Ý nghĩa tiếng sáo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
- Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân
- So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
- So sánh hai nhân vật A Phủ và Tnú
- Cảm nhận về hành động Mị chạy theo A Phủ và hành động thị chạy theo không Tràng về làm vợ
- Hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
- So sánh nhân vật Mị và người đàn bà làng chài
- Giá trị nhân đạo trong Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ
- Diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
- Hình ảnh tiếng sáo đêm trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ
- Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
- Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
- Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
- Giá trị hiện thực và nhân đạo qua truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ
- Phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Tóm lại, nếu ánh lửa đã từng là cứu cánh cho cuộc đời tối tăm của Mị trong nhà thống lí Pá Tra thì bóng tối trở thành “đồng lõa” cho hành động cứu người, cứu mình rất có ý nghĩa của nhân vật.
Câu trả lời của bạn
- Tâm trạng của Mị trước cảnh A Phủ bị trói:
+ Lúc đầu: Mị thản nhiên, lạnh lùng, vô cảm vì đã tê dại chai lì, quá đau khổ và quen với cảnh tàn bạo của nhà thống lí.
+ Về sau: giọt nước mắt cơ cực, bất lực, tuyệt vọng đã đánh thức nỗi đau lắng chìm trong Mị → Mị xúc động, đồng cảm + tình thương → hành động quyết liệt, liều lĩnh: cởi trói cho A Phủ và chạy - lúc ấy niềm khao khát sống bùng cháy trong Mị.
Câu trả lời của bạn
- Đây là kết quả tất yếu của một sức sống, một khát vọng sống tiềm tàng, âm ỉ bấy lâu nay, một quá trình bị đè nén, áp bức.
- Đây là chi tiết bản lề phân đôi tác phẩm, làm cho tác phẩm có kết cấu hợp lí, đánh dấu quá trình tự phất đến tự giác của Mị và A Phủ.
Câu trả lời của bạn
- Mị là một người có nhiều nét đẹp: giàu tình thương và có tinh thần phản kháng.
Câu trả lời của bạn
- Chàng trai miền núi nghèo, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống tự do giữa núi rừng.
- Là một mầm sống khoẻ mạnh, vượt qua được sự sàng lọc nghiệt ngã của tự nhiên.
- Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ trở thành chàng trai Mông khoẻ mạnh chạy nhanh như ngựa, biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo.
→ Niềm ao ước của nhiều cô gái trẻ.
Câu trả lời của bạn
- Tính cách gan góc được bộc lộ từ năm lên mười. Cá tính ấy được cuộc sống hoang dã nơi núi rừng cùng hoàn cảnh ở đợ, làm thuê nhiều cực nhọc, vất vả hun đúc để trở thành một chàng trai có tính cách mạnh mẽ, táo bạo:
- Dám đánh con quan (một thứ con trời) không quan tâm đến hậu quả. Động từ: chạy vụt ra, ném, lăng, xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đạp đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp,.. hành động nhanh gấp cho thấy sức mạnh và tính cách của A Phủ.
- Công việc ″đốt rừng, cày nương...chăn ngựa″, ″bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng″. Thân phận của một kẻ ở đợ trừ nợ nhưng A Phủ vẫn là một chàng trai tự do: mải mê bẫy nhím ⇒ tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên không bị tiêu diệt hẳn.
Câu trả lời của bạn
- Khi bị trói, nhai đứt hai vòng dây ⇒ vẫy vùng nhưng không thoát được = khóc, tuyệt vọng.
Câu trả lời của bạn
- Nhân vật Mị được khắc hoạ từ cái nhìn bên trong, nhằm giúp ta khám phá và phát hiện vẻ đẹp ở nhân vật tiềm lực sống của nội tâm.
Câu trả lời của bạn
- Nhân vật A Phủ được nhìn từ bên ngoài, tạo điểm nhấn về tính cách ở những hành động, giúp ta thấy rõ vẻ đẹp của A Phủ qua sự gan góc, táo bạo, mạnh mẽ.
Câu trả lời của bạn
- Phát hiện mới mẻ về nét là trong tập quán và phong tục (cướp vợ, trình ma, đánh nhau, xử kiện, ốp đồng, đêm tình mùa xuân, trói đứng...).
- Khả năng quan sát tìm tòi đã tạo dựng bối cảnh, tình huống, miêu tả thiên nhiên sống động, đầy chất thơ (cảnh mùa xuân về trên núi cao, lời ca và giai điệu tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân, cảnh uống rượu ngày tết,...).
Câu trả lời của bạn
- Giọng điệu trữ tình, hấp dẫn và lôi cuốn bằng sự từng trải tinh tế, bằng sự gia giảm đúng liều lượng phong vị và màu sắc dân tộc; ngôn ngữ giản dị, phong phú và đầy sáng tạo, mang đậm bản sắc riêng.
Câu trả lời của bạn
- Phản ánh chân thực bức tranh đời sống của người nông dân miền núi trước cách mạng tháng Tám bị áp bức, bóc lột.
- Bộ mặt tàn bạo của bọn phong kiến miền núi.
- Phản ánh chân thực những phong tục tập quán, hủ tục của người miền núi vùng Tây Bắc.
Câu trả lời của bạn
- Phát hiện, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống và tâm hồn của con người Tây Bắc.
- Tin tưởng vào khả năng cách mạng của người dân miền núi trong cuộc đấu tranh giành tự do, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến.
- Biểu lộ sự căm ghét đối với chế độ thực dân, phong kiến.
Câu trả lời của bạn
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại VN với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể.
Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc.
Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất- giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955.Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Vợ chồng A Phủ mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả:
“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng.
Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp. Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi, uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương. Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thanh hò hẹn của người yêu. Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí.
Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh nghĩa là con dâu, nhưng thực chất chính là tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”.
Song nhà văn còn khắc hoạ đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô.
Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống. Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha. Nhưng đến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ.
Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn. Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước… cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi.
Sức sống của Mị dường như mất đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia dang còn một con người. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu.
Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ.
Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người: “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.
Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ.
Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc âý, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi.
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi".
Rồi cái gì đến đã đến. A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi, bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được.
Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.
Nhưng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí.
Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”.
Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt :“Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ.
Thông qua phân tích nhân vật Mị, Ta thấy Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình.
Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết ”. Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ.
Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.
Nhà văn Tô Hoài đã phân tích nhân vật Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị.
Vợ chồng A Phủ qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách Mị đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời qua phân tích nhân vật Mị nó cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động.
Đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ. Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của Vợ chồng A Phủ .
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
“Vợ Nhặt” một trong những tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Những trang văn của ông thấm đượm được tính hiện thực những năm nạn đói 1945. Đặc biệt việc xây dựng chi tiết rất thành công của Kim lân giúp tác phẩm càng trở nên thu hút và gây ấn tượng với người đọc. Trong đó, bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới ở phần cuối tác phẩm gây nên nhiều suy nghĩ trong lòng độc giả.
Mặc dù chi tiết bữa cơm đón nàng dâu ngày đói ở cuối tác phẩm là một chi tiết nhỏ nhưng lại có sức ám ảnh và lay động người đọc. Thông thường, bữa cơm đón nàng dâu mới là một bữa ăn có vai trò quan trọng thể hiện sự gắn kết, đầm ấm giữa gia đình nhà chồng với thành viên mới trong gia đình. Thế nhưng, trong truyện ngắn “Vợ Nhặt” bữa ăn này lại hết sức đơn giản nếu không muốn nói là tuềnh toàng và thảm hại. “Giữa cái mẹt rách…muối ăn với cháo”. Ở đây, Kim Lân đã thể hiện tài năng ngôn ngữ của mình với đầy sức gợi hình và gợi tả. Bữa ăn chỉ được chuẩn bị qua loa, sơ sài. Nó nói lên sự nghèo đói của một gia đình ở tầng lớp dưới cùng của xã hội. Đồng thời, chính bữa cơm này cũng tái hiện lại chân thực cái đói cái nghèo những năm 1945. Họ đang cố gắng giành giật lại từng chút sự sống từ bàn tay của tử thần. Và điều cần nhất lúc này không đòi hỏi đến ăn ngon, đủ ăn mà chỉ cần có ăn để được sống. Do đó, xét trong tình cảnh hiện thực năm 1945 mặc dù bữa cơm có đơn sơ, tuềnh toàng và sơ sài bao nhiêu thì bữa cơm do bà cụ Tứ là một sự cố gắng trong hoàn cảnh giữa ranh giới của sự sống và cái chết. Đặc biệt, liêu cháo loãng nhanh chóng hết nên mẹ con cụ Tứ phải ăn cám. Đồ ăn vốn dĩ dành cho động vật, không phải cho con người.
Nhưng trái ngược với những thứ đơn sơ, với cái đói cái nghèo là không khí đầm ấm trong bữa ăn. “Cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Nhưng đến lúc phải ăn cám thì “một nỗi tủi hờn len vào tâm trí của mọi người”. Tuy nhiên, họ vẫn chấp nhận, cam chịu, nén những tủi nhục vào bên trong chứ không một lời ca thán. Cả cô con dâu kia, dường như cũng hiểu được tình cảnh trớ trêu để chấp nhận lấy chồng trong cái nghèo, cái đói bủa vây như vậy. Bao trùm không khí bữa ăn vẫn dào dạt tình người. Bà cụ Tứ chắt chiu từng chút niềm vui, cố gắng tạo ra không khí hòa hợp, vui vẻ. “bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện…toàn chuyện sung sướng về sau này”. Bà vừa là người thắp lửa và cũng là người truyền lửa. Thắp lên những niềm vui, lạc quan vào cuộc sống và truyền cho con cái những lạc quan ấy để các con hướng về tương lai. Đặc biệt là câu nói bông đùa của bà cụ Tứ “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Câu nói toát lên khí chất của một bà mẹ vừa hóm hỉnh, nhân hậu nhưng cũng đầy đắng cay trong câu nói để mong các con vui vẻ, xua tan đi không khí u ám chiếm lĩnh không gian ngôi nhà bà.
Có thể thấy rằng, chi tiết bữa ăn ngày cưới ở phần cuối tác phẩm vừa tô đậm giá trị hiện thực nạn đói năm 45. Để qua đây, người đọc có thể hình dung ra được những thảm cảnh của người lao động. Nạn đói đe dọa đến sự sống và bao trùm mọi ngóc ngách, ngôi nhà của những người lao động nghèo, cướp đi sinh mạng của biết bao con người khốn khó. Đồng thời chi tiết này cũng có tác dụng tô đậm thêm giá trị nhân đạo của tác giả. Kim Lân thể hiện một nỗi cảm thương sâu sắc cho người nông dân lao động đồng thời cũng ca ngợi sức mạnh cũng như khí chất của con người lao động thời kỳ bấy giờ. Dù hoàn cảnh có khó khăn đến đâu, họ vẫn sống và đối xử với nhau bằng hơi ấm của tình người. Và bằng việc sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng tác giả đã gây ấn tượng mạnh vào tâm trí của người đọc.
Dàn ý cho bạn nào cần nè:
I. Mở bài:
Giới thiệu về chi tiết bữa cơm gia đình: Một trong số những chi tiết ấn tượng, ý nghĩa nhất của truyện ngắn Vợ nhặt là chi tiết về mâm cơm ngày đói với sự xuất hiện của món cháo Cám.
II. Thân bài:
=>Trong nạn đói, cháo cám món ăn vốn không dành cho con người cũng trở thành món ăn, món quà đặc biệt. Làm nổi bật sức sống mạnh mẽ bên trong những con người nghèo khổ.
III. Kết bài:
Qua chi tiết mâm cơm ngày đói, đặc biệt qua hình ảnh nồi cháo cám đã thể hiện sự trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với khát khao sống chính đáng ở những người nông dân nghèo.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là tác phẩm đặc sắc trong tập truyện Tây Bắc (1953) đó là kết quả của chuyến đi tham dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài mà tác giả đã "cùng ăn, cùng ở, cùng làm" với đồng bào dân tộc Tây Bắc trong suốt 8 tháng của năm 1952. Tác giả đã thổ lộ "Đất nước và con người Tây Bắc đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ quên".
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *