Bài học Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài giúp các em hiểu được cuộc sống cơ cực, tối tăm của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách áp bức của thực dân và chúa đất thống trị, quá trình người dân các dân tộc thiểu số từng bước giác ngộ cách mạng và vùng lên tự giải phóng đời mình, đi theo tiếng gọi của Đảng. Thấy được những nét độc đáo trong nghệ thuật viết truyện của Tô Hoài. Thông qua video bài giảng cùng phần hướng dẫn soạn bài và phần bài học, DapAnHay chúc các em có thêm nhiều tiết học hấp dẫn và hiệu quả hơn tại lớp.
⇒ Cách giới thiệu nhân vật ấn tượng để dẫn dắt vào trình tìm hiểu số phận nhân vật.
⇒ Sống tăm tối, nhẫn nhục, đau khổ, tê liệt về tinh thần, buông xuôi theo số phận.
⇒ Là hành động tất yếu: Đó là con đường giải thoát duy nhất, cứu người cũng là tự cứu mình.
⇒ Tài năng của nhà văn trong miêu tả tâm lí nhân vật: Diễn biến tâm lí tinh tế được miêu tả từ nội tâm đến hành động.
⇒ Tinh thần phản kháng là cơ sở cho việc giác ngộ Cách mạng nhanh chóng sau này.
⇒ A Phủ có số phận tương đồng với Mị, hai nhân vật có những nét tính cách gần nhau nhưng vẫn có những nét riêng. Tuy nhiên tựu chung ở hai nhân vật ta thấy một số phận nô lệ của thần quyền và cường quyền hủ tục. Họ bị đàn áp và họ đã đứng dậy chống lại chế độ hủ tục đó thành công.
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài).
Năm 1952 trong chuyến đi thực tế 8 tháng về Tây Bắc, Tô Hoài đã sáng tác “Truyện Tây Bắc” phản ánh cuộc sống tủi nhục của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách áp bức bóc lột của thực dân – phong kiến và sự giác ngộ Cách mạng của họ. Để dễ dàng trả lời được hệ thống các câu hỏi trong SGK cũng như nắm được nội dung bài học, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Vợ chồng A Phủ.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Tô Hoài thành công với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” không chỉ nhờ vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Để nắm bắt được những chuyển biến tâm lí của các nhân vật cũng như việc phân tích được tác phẩm, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- Cảm nhận về hình ảnh nắm lá ngón trong Vợ chồng A Phủ
- Phân tích chất thơ trong truyện Vợ chồng A Phủ
- Phân tích ý nghĩa hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ
- Phân tích tâm trạng nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ
- Ý nghĩa tiếng sáo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
- Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân
- So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
- So sánh hai nhân vật A Phủ và Tnú
- Cảm nhận về hành động Mị chạy theo A Phủ và hành động thị chạy theo không Tràng về làm vợ
- Hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
- So sánh nhân vật Mị và người đàn bà làng chài
- Giá trị nhân đạo trong Chí Phèo và Vợ chồng A Phủ
- Diễn biến tâm trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
- Hình ảnh tiếng sáo đêm trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ
- Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
- Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
- Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
- Giá trị hiện thực và nhân đạo qua truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ
- Phân tích tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Mị chỉ biết làm những công việc mà quanh năm ngày tháng làm đi làm lại, làm không ngưng nghỉ: Con trâu con ngựa nó còn có lúc đứng gãi chân nhai cỏ chứ đàn bà nhà này thì làm không nghỉ tay. Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Câu trả lời của bạn
Bị bắt về nhà thống lí, Mị định tự tử. Mị tìm đến cái chết chính là cách phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể làm khác trong hoàn cảnh ấy. "Mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc". Mị trốn về nhà cầm theo một nắm lá ngón. Chính khát vọng được sống một con người đúng nghĩa khiến Mị không chấp nhận cuộc sống bị chà đạp, bị đối xử bất công như một con vật.
Câu trả lời của bạn
Đâu đó trong cõi sâu tâm hồn người đàn bà câm lặng vì cơ cực, khổ đau ấy vẫn tiềm tàng một cô Mị ngày xưa, một cô Mị trẻ đẹp như đoá hoa rừng đầy sức sống, một người con gái trẻ trung, giàu đức hiếu thảo. Ngày ấy, tâm hồn yêu đời của Mị được gửi vào tiếng sáo: "Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo".
Câu trả lời của bạn
Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động "lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu". Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.
Câu trả lời của bạn
Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại: "Mị còn phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm đến ngày trước". "Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi". Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình: "Nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết".
Câu trả lời của bạn
Cảnh sắc của Hồng Ngài trong những ngày xuân, rượu và tiếng sáo gọi bạn tình là những chất xúc tác, tác động đến sự hồi sinh của Mị.
Câu trả lời của bạn
Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người của nhà thống lí, A Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van, xin tha đến nửa lời. Anh rất cứng đầu, mạnh bạo và không chịu khuất phục. Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công cho nhà thống lí.
Câu trả lời của bạn
Khi "Mị lé mắt trông sang... một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại", giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại mình, nhận ra mình, xót xa cho mình và thương người đồng cảnh. Lòng thương người trắc ẩn và tình giai cấp đã khiến Mị có hành động mạnh bạo: cắt dây cởi trói cứu A Phủ.
Câu trả lời của bạn
Trước khi làm dâu nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái trẻ đẹp, hiền lành, đã có người yêu, thổi sáo rất giỏi, hiếu thảo với cha mẹ, chăm chỉ và có lòng tự.
Câu trả lời của bạn
Điểm giống nhau giữa nhân vật Mị và A Phủ:
- Yêu tự do: Mị chấp nhận làm lụng, lao động để trả nợ thay cho cha mẹ chứ không chịu trở thành con dâu gạt nợ cho nhà giàu. A Phủ cũng là người yêu tự do, khi bị bán xuống miền xuôi, A Phủ trốn lên miền ngược
- Sức phản kháng mãnh liệt.
Cảm nhận của anh chị về câu nói của mị: " A Phủ cho tôi đi với, ở đây thì chết mất".
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm:
– “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn thành công nhất và đặc sắc nhất trong tập “Truyện Tây Bắc” và cũng là một trong những truyện ngắn tiêu biểu trong thời kì chống Pháp của nhà văn Tô Hoài.
– Nhân vật trung tâm của truyện là nhân vật Mị. Nhân vật Mị được Tô Hoài miêu tả từ con người, cuộc sống đến khát vọng hạnh phúc trong phần thứ nhất của truyện (từ khi Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ cho đến khi trốn khỏi Hồng Ngài).
– Việc xây dựng nhân vật Mị là một thành công lớn đối với nhà văn Tô Hoài, nhân vật có chiều sâu tâm lý phức tạp đã được tác giả phát hiện và khắc hoạc thành công.
2. Cảm nhận chung về nhân vật.
3. Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật Mị qua hai đoạn văn:
a. Đoạn văn 1:
Nội dung:
– Từ lúc bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, Mị đã bị trình ma nhà thống lí thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Mị đã bị bóc lột sức lao động đến cùng cực, chịu khổ nhục triền miên. Những công việc như cõng nước, quay sợi,… cứ đeo bám Mị.
– Cuộc sống của Mị ở nhà thống lí Pá Tra là cuộc sống của kiếp ngựa trâu, thậm chí còn thua cả ngựa trâu.
– Mị bị biến thành công cụ lao động, nô lệ không công cho nhà Pá Tra.
– Mị bị giam hãm trong không gian chật hẹp và tù đọng, căn buồng Mị ở lúc nào cũng âm u, cửa sổ là một lỗ vuông bằng bàn tay, trong thời gian ngưng đọng như không dĩ vãng, không hiện tại và không tương lai, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
– Nhận xét: Cuộc sống của Mị ở nhà Pá Tra là cuộc sống cùng khổ về vật chất, bế tắc về tinh thần.
* Nghệ thuật:
– Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, giọng văn trầm lắng.
– Nghệ thuật xây dựng khắc họa hình tượng nhân vật độc đáo
– Ngôn ngữ và lời văn giàu tính tạo hình.
b. Đoạn văn 2:
* Nội dung:
Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:
+ Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) ùa vào tâm trí, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.
+ Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.
+ Mị uống rượu say lịm mặt rồi Mị trở lại căn buồng của mình.
+ Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do
+ Tinh thần phản kháng mạnh mẽ: lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối, nổi loạn muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.
+ Mị làm tất cả mọi thứ chuẩn bị đi chơi trước sự chứng kiến của A Sử, nhưng Mị không buồn quan tâm để ý đến hắn.
Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.
Nghệ thuật:
– Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, giọng văn trầm lắng.
– Nghệ thuật xây dựng khắc họa hình tượng nhân vật độc đáo.
– Ngôn ngữ và lời văn giàu tính tạo hình.
– Nghệ thuật miêu tả tâm lí và tính cách nhân vật.
– Chất thơ, chất trữ tình thấm đựơm, ngôn ngữ và lời văn giàu tính tạo hình.
4. Nhận xét về sự thay đổi:
– Đoạn văn 1: Mị hiện lên là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Mị cam chịu, chấp nhận kiếp sống ngựa trâu ở đó. Mị là nạn nhân tiêu biểu của ách áp bức của cường quyền và thần quyền ở miền núi phía Bắc. Mị bị tê liệt ý thức sống
– Đoạn văn 2: Mị đã thay đổi, ý thức sống, khát vọng sống trỗi dậy mạnh mẽ, đó là hệ quả tất yếu, có áp bức có đấu tranh.
+ Hành động “nổi loạn” của Mị cho thấy khát vọng sống trong Mị vẫn luôn âm ỉ, khi có cơ hội nó lại trỗi dậy mãnh liệt bất chấp ách áp bức của cường quyền và thần quyền.
+ Qua việc miêu tả những hành động, cử chỉ cũng như những diễn biến tâm lí hết sức tinh tế đã cho thấy ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy của nhà văn tô Hoài. Đồng thời cũng thể hiện niềm tin, tấm lòng nhân đạo của tác giả vào sức sống của người phụ nữ nông thôn miền núi.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
how to mị
Câu trả lời của bạn
ai mà biết được
Tóm tắt truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài?
Câu trả lời của bạn
Vợ chồng A phủ kể về đôi vợ chồng người H’ Mông ở vùng Tây Bắc. Mỵ là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo. Trai bản nhiều người mê và Mỵ đã có người yêu. Dù cha Mị nợ thống lí Pá Tra một món tiền lớn, chưa trả nổi, hằng năm phải trả lãi cả một nương ngô nhưng Mị kiên quyết không lấy A Sử - con trai thống lý Pá Tra - để xoá nợ. Nhưng một đêm xuân, Mị bị A Sử lừa, bắt về trình ma nhà nó. Tiếng gọi là làm vợ A Sử nhưng Mị bị đối xử thậm tệ.
Ban đầu, Mị định tự tử nhưng vì thương cha đành cam chịu sống trong đau khổ câm lặng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
Ngày Tết lại về, Mị lén uống rượu một mình. Không khí vui nhộn, nhất là tiếng sáo gọi bạn tình đã giúp Mị nhớ lại những ngày trước, khơi dậy ở Mị khát vọng tình yêu hạnh phúc. Mị vào buồng và định thay váy áo đi chơi thì bị A Sử bắt trói đứng vào cột nhà, bằng cả thúng dây đay, cả tóc Mị. Trong cơn chập chờn mê tỉnh, Mị vẫn thả hồn theo các cuộc chơi. Đến lúc thích chí vùng bước đi mới biết toàn thân bị trói chặt, đau buốt.
Cũng đêm đó, A Phủ, một thanh niên mồ côi nhưng khoẻ mạnh, can trường, đã đánh A Sử, vì bất bình trước trò xấc xược của hắn ta. A Phủ bị làng bắt về xử và trở thành người ở trong nhà Pá Tra để trừ nợ.
Một mùa đông giá rét, rừng đói, hổ báo từng đàn ra phá nương, bắt bò ngựa. A Phủ vì mải mê bẫy nhím nên đã để hổ bắt mất một con bò. A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói đứng vào một cây cột, suốt mấy ngày đêm - chờ khi nào A Sử bắn được hổ mới tha.
Lúc ấy, tuy Mị đã trở thành một con người hoàn toàn vô cảm nhưng khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A Phủ lặng lẽ rơi trên hai hóm má xám đen vì kiệt sức, tuyệt vọng, Mị động lòng thương người cùng cảnh ngộ. Sau một hồi suy nghĩ, Mỵ đã cắt dây trói cho A Phủ. Rồi, Mị vụt chạy theo anh ta.
Cả hai băng rừng sang Phiềng Sa, trở thành vợ chồng. Quân Pháp tràn tới, dân làng hoang mang lo sợ. A Châu, cán bộ Đảng đã tìm đến xây dựng phong trào và kết nghĩa anh em với A Phủ. A Phủ đã trở thành tiểu đội trưởng du kích, cùng với Mị và đồng đội tích cực tham gia chống Pháp và tay sai bảo vệ quê hương.
Vợ chồng A Phủ là câu chuyện kể về cuộc đời của cô gái trẻ xinh đẹp tên là Mị, sinh ra trong một gia đình nghèo ở làng Hồng Ngài. Mị bị A Sử trong làng bắt cóc về làm vợ để gạt nợ nhà thống Lí Pá Tra. Cuộc đời Mị lại tiếp tục những chuỗi ngày nghèo khổ và cơ cực hơn gấp ngàn lần, hàng ngày cô phải lao động quần quật không kể trời nắng hay mưa, vất vả hơn cả con trâu, con ngựa.
Mùa xuân, mùa của ngày hội đến, Mị uống rượu, tiếng sáo gọi bạn tình làm Mị muốn đi chơi, muốn được ra ngoài, nhưng A sử không cho, trói chặt Mị ở trong buồng. A Sử bị đánh vì gây sự với đám trai làng, lúc đó, Mị mới được cởi trói để đi lấy thuốc, xoa dầu cho chồng. Cũng đêm đó, A Phủ một chàng trai khỏe mạnh, giỏi lao động nhưng vì nghèo và mồ côi, do đánh A Sử nên A Phủ đã bị phạt vạ phải làm ở đợ cho nhà thống lý để trừ nợ. Mùa đông gió rét kéo đến, rừng đói, hổ báo kéo đến phá nương, phá rẩy, ăn thịt trâu bò. Một lần A Phủ để hổ ăn mất một con bò, nên đã bị trói đứng, bỏ đói mấy đêm liền, chờ khi A Sử bắn được hổ mới tha cho. Một đêm, Mị trở dậy thổi lửa để sưởi ấm, thì bắt gặp hai dòng nước mắt trên gò má A Phủ. Mị đồng cảm với cảnh ngộ của A Phủ, Mị thương thay cho cả thân phận mình. Mị đã cắt đứt dây trói và cùng bỏ trốn khỏi nhà Thống Lý Pá Tra. Cả hai chạy trốn trong đêm, băng qua những cánh rừng để đến Phiềng Sa, họ thành vợ thành chồng xây dựng một cuộc sống mới. A Phủ đến với cách mạng,họ theo cán bộ A Châu và A Phủ trở thành đội trưởng du kích. Họ cầm súng đánh đuổi giặc thù bảo vệ gìn giữ bản làng.
Truyện kể về cuộc đời của vợ chồng A Phủ. Mị là cô gái trẻ đẹp, nhà nghèo, sống ở Hồng Ngài. Cô bị bắt cóc về làm vợ A Sử, làm con dâu gạt nợ nhà thống Lí Pá Tra. Cô phải lao động quần quật, sống không khác gì con trâu, con ngựa. Khi mùa xuân đến, cô cũng muốn đi chơi liền bị A Sử trói đứng trong buồng. Chỉ đến khi A Sử bị đánh, cô mới được cởi trói để đi lấy lá thuốc, xoa dầu cho chồng.
A Phủ là một chàng trai nghèo, mô côi, khỏe mạnh, gan góc, giỏi lao động. Vì đánh A Sử đến phá rối cuộc chơi nên bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ, phải vay vốn thống lí để nộp phạt, rồi trở thành người ở đợ trừ nợ trong nhà thống lí. Một lần để hổ ăn mất một con bò, A Phủ bị trói đứng, bị bỏ đói suốt mấy ngày đêm. Một đêm, khi trở dậy thổi lửa để sưởi, Mị bắt gặp dòng nước mắt chảy trên gò má đen sạm của A Phủ. Mị nghĩ về thân phận mình, đồng cảm về cảnh ngộ của A Phủ. Cô đã cắt dây trói giải thoát cho A Phủ và bỏ trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra.
Hai người đến Phiềng Sa, thành vợ thành chồng, tạo dựng một cuộc sống mới. A Phủ được sự giác ngộ của cán bộ cách mạng A Châu trở thành tiểu đội trưởng du kích. Họ cùng mọi người cầm súng để gìn giữ bản làng.
Câu trả lời của bạn
Mình gửi cậu dàn bào theo diễn biến hành động của câu chuyện:
https://toploigiai.vn/soan-van-12-vo-chong-a-phu
- Trước khi bị bắt về làm dâu gạt nợ, thân phận Mị được tái hiện thông qua những chi tiết như:
+ Thứ nhất, Mị là cô gái trẻ trung, tràn đầy sức sống và vô cùng xinh đẹp. Mị lại có tài thổi sáo khiến bao chàng trai mê đắm, tình nguyện đi theo tiếng sáo của Mị.
+ Mị vô cùng hiếu thảo với cha mẹ. Dù còn trẻ tuổi và lại là một người con gái chân yếu tay mềm nhưng vẫn tình nguyện, đầy kiên quyết khi khẳng định với cha, rằng mình sẽ cày nương, cuốc rãy, dùng chính sức lao động của mình để trả nợ cho nhà thống lí Pá Tra.
=> Một người con gái vừa đẹp người lại vừa đẹp nết như thế theo lẽ thông thường đáng được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, thế nhưng, đúng như đại thi hào Nguyễn Du từng viết: “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”. Dường như vẻ đẹp của Mị cũng báo trước cho một tương lai không mấy phẳng lặng. Cuộc đời của Mị bước sang một trang mới, đen tối hơn, cay đắng hơn kể từ khi bị A Sử bắt về làm vợ vào đêm tình mùa xuân.
- Kể từ khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, Mị phải sống cuộc sống vô cùng cực khổ, tủi nhục:
+ Hằng ngày, Mị phải làm việc chẳng lúc nào ngơi tay, mặt lúc nào cũng lầm lũi cúi xuống đất mà làm, không thể ngẩng mặt lên mà nhìn mặt trời. Đã có lúc Mị thấy mình khổ hơn con trâu, con ngựa bởi vì trâu hay ngựa thì làm cũng có lúc nghỉ, cũng có lúc thảnh thơi mà đứng gãi chân nhai cỏ, chứ còn Mị làm quanh năm suốt tháng chẳng nghỉ ngơi.
+ Không chỉ phải làm việc cực nhọc, Mị còn không được tôn trọng như một con người. Mị sống lầm lũi trong nhà thống lí Pá Tra như bao người đàn bà khác, lầm lũi trong xó cửa như con rùa người ta nuôi góc nhà vậy. Căn buồng của Mị chỉ có một lỗ cửa sổ bé bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy nhờ nhờ, trăng trắng không biết là trăng hay là nắng, ngày hay là đêm.
+ Mị không được sống như một người vợ của A Sử, không được làm đẹp, đi chơi trong những ngày xuân tươi đẹp, không được uống rượu vào mỗi dịp tết như bao người khác,…
+ Không chỉ vậy, Mị còn bị A Sử đánh đập vô cùng dã man, tàn bạo.
=> Chính vì những sự chèn ép, áp bức của nhiều tầng thống trị như thế đã biến một cô Mị tràn đầy sức sống trở thành một cái bóng không hồn, một con người sống lầm lũi không biết đến tương lai. Mị đã không còn khóc, không còn thấy khổ bởi ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi.
- Thế rồi tâm trạng Mị lại một lần nữa bước sang bước phát triển mới vào một đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A Phủ.
+ Vào đêm tình mùa xuân, tâm trạng Mị được đặc tả theo sự phát triển của tiếng sáo. Tiếng sáo từ xa lại gần, Mị từ mơ thành tỉnh, vùng bước đứng dậy.
Khi tiếng sáo còn xa xăm ngoài đầu núi, Mị thiết tha bổi hổi, ngồi nhẩm lại bài hát của người thổi sáo.
Khi tiếng sáo tiến gần hơn đến đầu làng, Mị bỗng thèm uống rượu, Mị lén lấy hũ, cứ uống ừng ực từng bát. Rồi Mị say, Mị nhớ lại những ngày tháng tươi đẹp trước kia, nhớ về tuổi xuân và những mối tình ngây trẻ, những ngày tháng đã mãi mãi không trở về. Có cay đắng không cơ chứ, uống để quên đi thực tại mà dường như Mị càng uống càng tỉnh, càng nhớ về quá khứ tươi đẹp càng cay đắng cho thân phận bây giờ. Chính vì thế, trong đầu Mị đã nảy ra ý định phản kháng lại mạnh mẽ nhất đó chính là cái chết. Mị muốn chết ngay để không phải nhớ lại những ngày đã qua ấy nữa.
Thế rồi, khi tiếng sáo đã thâm nhập vào đến đầu Mị, nó làm Mị phản ứng lại thực tại bằng cách quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa để đi chơi. Mị muốn đi chơi. Mị vẫn còn trẻ. Mị không thể trôn vùi thanh xuân của mình trong căn phòng với bốn bức tường chật hẹp này được.
=> Sức sống theo tiếng sáo đã tìm đường trở lại với Mị. Nhưng đó là sự trở lại không mạnh mẽ và đầy e dè. Khi các thế lực cường quyền bạo ngược trở nên mạnh mẽ hơn, sức sống mới ấy trở nên yếu thế và dần bị đánh bại. Thế nhưng sức sống của Mị không hề bị vùi tắt hẳn. Tiếng sáo vẫn âm ỉ trong đầu Mị và chờ một ngày cùng Mị bùng lại dữ dội hơn. Ngày đó cuối cùng cũng đến trong đêm đông cứu A Phủ.
+ Trong đêm đông cứu A Phủ, diễn biến tâm trạng của Mị cũng có nhiều sự thay đổi.
Lúc đầu, nhìn thấy A Phủ, Mị hoàn toàn dửng dung, dường như nhìn thấy những con người bị đánh đập ở nhà thống lí Pá Tra này là điều quá bình thường.
Chỉ đến khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, âm thanh tiếng sáo đêm tình mùa xuân năm trước mới sống lại trong tâm trí Mị. Mị nhớ lại mình đã từng cay đắng như thế nào. Mị nghĩ rằng mình chịu khổ đau là điều đương nhiên, thế nhưng người kia vì lẽ nào mà cũng phải chịu cảnh cực khổ như thế. Từ thương mình Mị đã thấy thương người, từ tình cảm ấy Mị đã đi tới hành động cụ thể là cắt dây cứu A Phủ.
Sau khi tình cảm đã được giải tỏa, lí trí mới bắt đầu khiến Mị lo lắng. Nếu bố con thống lí Pá Tra phát hiện ra hành vi của Mị thì sẽ như thế nào? Chính vì lẽ đó, Mị đã quyết định chạy theo A Phủ, để đi tìm một cuộc sống mới.
1. Mở bài
Phụ nữ là đề tài quen thuộc trong nền văn học Việt Nam, nhất là những phụ nữ có số phận nhỏ bé, chịu nhiều đắng cay, tủi nhục. Đặc biệt trong giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX, đề tài này đã được thể hiện khá đặc sắc qua nhiều nhân vật. Nổi trội hơn cả là hiện tượng Mị trong “vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, nhân vật “vợ nhặt” trong tác phẩm cùng tên của Kim Lân. Mỗi nhân vật đều mang mỗi hoàn cảnh, số phận đáng thương nhưng ở họ vẫn toát lên những phẩm chất đáng quí của người phụ nữ Việt Nam. Những nhà văn này đã góp lên tiếng nói chung- tiếng nói nhân đạo đối với họ. Không những thể hiện sự quan tâm, thông cảm , đồng cảm với những số phận bất hạnh này mà những nhà văn còn trân trọng, ngợi ca những phẩm chất cao quý của người phụ nữ.
2. Thân bài
2.1. Số phận bất hạnh
a. Mị
Mị vốn là một cô gái dân tộc Mèo, con nhà nghèo. Nhưng tương lai tươi sáng, tuổi trẻ với biết bao hạnh phúc, và tình yêu đã không đến với cô gái nghèo khổ này. Mị mang bi kịch một cô gái với niềm khao khát tự do, hạnh phúc nhưng phải rơi vào nghịch cảnh trớ trêu, bị dồn vào bước đường cùng không lối thoát. Chỉ vì món nợ truyền kiếp - ngày trước bố mẹ Mị cưới nhau phải vay nhà thống lý Pá Tra và cho đến lúc già, mẹ cô chết, vẫn chưa trả được nợ nên Mị phải đem thân làm dâu trừ món nợ ấy.Kể từ khi làm dâu cho nhà thống lý,Mị phải sống những chuỗi ngày đau thương,tủi nhục tăm tối. Danh nghĩa là con dâu nhà quan, nhưng thực chất Mị là một thứ nô lệ không công. Dưới nhiều tầng áp bức của cường quyền, thần quyền và hủ tục phong kiến miền núi, Mị phải sống kiếp sống như một con vật, thậm chí không bằng con vật. Thật không ở đâu mạng sống, nhân cách con người lại bị rẻ rúng như vậy. Bị giam hãm đày đoạ trong cái địa ngục khủng khiếp của cả nhà thống lý, Mị đang chết dần, chết mòn với năm tháng. Thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Mị gần như tê liệt sức sống. Mị mất hết ý thức về thời gian, sự chuyển biến thời gian sớm hay tối đối với Mị chẳng có ý nghĩa gì nữa: không dĩ vãng, không hiện tại và không cả tương lai. “Ở lâu trong cái khổ Mị quen với nó rồi”, “cô ngày càng không nói, lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Cuộc đời Mị chỉ còn thu lại qua cái khung cửa sổ bằng bàn tay “mờ mờ, trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Mị hầu như mất hết ý thức về bản thân và những mong muốn đổi thay cho số phận của mình, thậm chí Mị cũng không có cả ý thức về cái chết nữa.
b. Người vợ nhặt
Thật vậy, dường như sự rẻ rúng, tủi nhục là hằng số chung cho tất cả những người phụ nữ phải sống trong cái xã hội cổ hủ lúc bấy giờ. Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Đây là một thiên truyện ngắn đặc sắc với những tình huống độc đáo, hấp dẫn, mang đầy tinh thần nhân đạo. Tác phẩm “ Vợ nhặt” được rút từ tập truyện ngắn “Con chó xấu xí”. Anh Tràng vừa xấu xí, nghèo túng lại là dân cư ngụ không có khả năng lấy vợ thế mà “nhặt” được vợ một cách dễ dàng, không cần phải cưới hỏi gì. Thật tủi nhục thay cho thân phận người “vợ nhặt” - vợ theo không, ngay cả cái tên thị cũng không có. Chỉ với bốn bát bánh đúc người đàn bà nghèo khổ chấp nhận theo người đàn ông chưa từng quen biết. Ngoại hình người vợ nhặt được phác hoạ bằng một vài đường nét thiếu nữ tính: “cái ngực lép nhô lên”, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “thị gầy sọp” trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt “hai con mắt trũng hoáy”. Những chi tiết đó không thể không khiến ta nghĩ đến một cơ thể thiếu sức sống, thậm chí như một bóng ma vật vờ. Cái đói, cái khổ không chỉ làm thay đổi đi vẻ bề ngoài của con người mà còn làm mất đi cái bản tính hiền hậu, dịu dàng đáng quí vốn có của người phụ nữ. Lần thứ hai gặp lại anh Tràng, thị “rách quá”, “quần áo tả tơi gầy xọp hẳn đi”. Khi được mời ăn, thị sà xuống “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, chẳng chuyện trò gì”. Cái đói đã đẩy lùi sĩ diện, nhân cách, và thị đã không băn khoăn theo Tràng về làm vợ chỉ với một ý nghĩ “cho khỏi đói” để sống cái đã. Xưa nay trong truyền thống đạo lí Việt Nam, chuyện tỏ tình vốn mang màu sắc tình tứ, duyên dáng, e lệ. Ấy thế mà giờ cũng chỉ trần trụi là câu chuyện lăn xả vào miếng ăn, để sau đó trở thành “vợ nhặt” của người đàn ông xa lạ kia. Thế mới biết cái đói ghê gớm như thế nào!
Kết: Như vậy, hình tượng người phụ nữ đã xuất hiện trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX đầy ấn tượng và đặc sắc. Đó là những số phận đáng thương, những cuộc đời nghiệt ngã và đầy bất hạnh. Nhưng không dừng lại ở việc khai thác những nỗi đau khổ, những bất công của xã hội, của cuộc sống đã đẩy cuộc đời họ vào những bế tắc cùng cực. Mà ở đấy, các nhà văn đã tô đậm lên tất cả đó là những vẻ đẹp phẩm chất thật đáng trọng- thứ ánh sáng đẹp đẽ của tâm hồn người phụ nữ.Bằng tình yêu cuộc sống, khát vọng được sống mãnh liệt và với những phẩm chất tốt đẹp vốn có của người phụ nữ họ đã vượt qua những rào cản, những bất công xã hội, vượt qua số phận bất hạnh để tìm đến hạnh phúc.
2.2. Phẩm chất tốt đẹp
a. Mị (tập trung vào sức sống tiềm tàng)
Mị vốn là một cô gái Mèo xinh đẹp, trẻ trung hồn nhiên và có tài thổi sáo cô “uốn chiếc lá trên môi , thổi lá cũng hay như thổi sáo có bao nhiêu người mê , ngày đêm thổi sáo đi theo Mị “. Đấy là dấu hiệu về một vẻ đẹp tâm hồn phong phú và lãng mạn, biểu hiện của một sức sống trẻ trung, rạo rực … Mị cũng đã từng đựơc yêu và cô cũng đã từng yêu. Điều quan trọng là nhà văn đã phát hiện ra rằng bên trong tâm hồn người con gái ấy vẫn còn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, chỉ chờ có dịp là bùng nổ mạnh mẽ . Và trong tác phẩm của mình nhà văn đã miêu tả thành công sự trỗi dậy sức sống tìm tàng đó bằng một quá trình phát triển tâm lí, hành động khá sâu sắc và hợp lý. Với tấm lòng nhân hậu đầy cảm thông, nhà văn vẫn nhận ra rằng khát vọng hạnh phúc trong Mị có thể bị vùi lấp, lãng quên đâu đó nhưng không thể bị tiêu tan . Trong tâm hồn trẻ trung sớm bị chai sần vì đoạ đày, đau khổ kia vẫn còn âm ĩ đâu đó một ngọn lửa ham sống và chắc chắn nó sẽ bùng cháy mạnh mẽ hơn khi gặp những điều kiện thuận lợi.Và điều ấy đã đến, đó là vào một đêm tình mùa xuân trong ngày Tết. Những yếu tố ngoại cảnh đó là những nhân tố cực kỳ quan trọng dẫn đến sự diễn biến tâm lý nhân vật nó đóng vai trò của nhân tố gợi hứng đánh thức kí ức và gợi lại kỉ niệm yêu đương bị lùi vấp bấy lâu trong tâm hồn lầm lũi thường ngày, trở thành tiếng gọi của sự sống mỗi lúc một rõ , một tha thiết. Thế là từ ngoại cảnh đã tác động đến cảm xúc , tâm trạng và cuối cùng là hành động . Năm đó Mị đã uống rượu “uống ừng ực từng bát” rồi say lịm người, cái say vừa gợi nhớ, vừa gây lãng quên . “lòng Mị đang nhớ về ngày trước tai Mị văng vẳng tiếng gọi bạn đầu làng”.Quá khứ dồn dập trở về rất sống động , rất rõ , thiết tha … nhưng quan trọng hơn là cái say đã mơ hồ nhớ rằng :Mị vẫn còn là một con người, Mị vẫn còn trẻ và cái quyền của một con người trong ngày tết. “Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng trở lại như những đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị muốn đi chơi, bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi tết huống chi , A sử với Mị không có lòng với nhau nhưng phải ở với nhau …”, dẫn Mị đến một hành động chưa từng thấy kể từ khi cô bước chân vào nhà thống lý Pá tra “cô quấn lạ tóc và với tay lấy váy mới , chuẩn bị đi chơi”. Vừa lúc A Sử về biết ý định của Mị ,hắn lấy dây trói nghiến cô vào cột nhà rồi bỏ đi chơi . Suốt cái đêm đen tối bị trói đứng cái cột giữa nhà thống lí đó Mị hết thiếp đi rồi chợt tỉnh dậy , nhưng hình như cả đêm ấy, tiếng sáo dìu dặt của đám bạn trai vẫn đưa tâm hồn Mị sống lại những ngày đẹp đẽ ở quê nhà , tiếng sáo vẫn đưa cô đi theo những cuộc chơi của đám trai làng . Tâm hồn cô vẫn sống với không khí của ngày hội xuân. Cô định bước đi nhưng tay chân đã bị trói chặt cứng, không tài nào cựa quậy được… Sau cái Tết ấy , những năm tháng nặng nề trong phân thận nô lệ tủi nhục của Mị tưởng lại cứ âm thầm lặng lẽ trôi đi….cho đến khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ bị bắt trói vì tội để mất trâu của nhà thống lí. Cái cảm giác ban đầu của Mị thật thản nhiên. Nhưng khi Mị lé mắt trông sang thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại...”thì Mị lại chợt bừng tỉnh “trông người lại nghĩ đến ta”. Hình ảnh ấy khiến Mị bỗng nhớ đến câu chuyện rùng rợn về những người đàn bà bị trói đứng cho đến chết trong nhà thống lí cũng trên cái cọc này và hồi ức đưa cô về với những lần chính mình bị đánh, bị trói trước đây... Ý thức đó đã thôi thúc Mị đứng dậy cắt dây trói cho A Phủ và bất giác chạy theo anh, cùng trốn khỏi Hông Ngài. Hành động bộc phát nhưng thật quyết liệt đó của Mị một phần là do sự thúc bách của tình thế khiến cô không thể làm khác, bởi cô hiểu rõ “ ở đây thì chết mất”. Nhưng mặt khác, đó cũng là quá trình tất yếu của một quá trình dồn nén, bức xúc cả về thể chất lẫn tinh thần đối với Mị. Đồng thời đó cũng vừa là biểu hiện, vừa là kết quả của một sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ đã được trỗi dậy trong con người Mị, kết thúc cả quãng đời đày ải, tối tăm của cô trong nhà thống lí để bắt đầu một cuộc đời mới. Đó chính là cái nhìn nhân đạo của Tô Hoài đối với những kiếp người bất hạnh, đau thương- một cái nhìn luôn hướng về ánh sáng, hướng về cái đẹp trong mỗi con người.
b. Người vợ nhặt (tập trung vào khát vọng sống)
Là một người đàn bà bị cái đói xô đẩy đến cảnh ngộ thật éo le và thương tâm, phải rơi vào tình huống trở thành “vợ nhặt” nhưng chị không mất đi vẻ chất phát, thuần hậu của người phụ nữ lao động .Bị hoàn cảnh xô đẩy, dồn nén đến chỗ có nguy cơ bị chết đói nên có lúc bên ngoài thành ra trâng tráo, trơ trẽn .Nhưng đó không phảỉ là bản chất vốn có của chị phải đến lúc cùng đường , bị rơi vào tình thế phải theo không một nguời đàn ông xa lạ thì bản chất con người thật của thị mới được bộc lộ rõ . Cả đến lúc đã gặp cụ Tứ và đã được chấp nhận, được cảm thông, thương yêu thì trong bóng tối của căn nhà, chị vẫn không khỏi e dè khép nép. Nhà văn dường như đã hiểu thấu đến tận cùng nỗi lòng của chị và thể hiện được một cách thật tinh tế những gì đang xảy ra trong lòng người đàn bà kể từ khi chị đặt bước trên con đường xa lạ về nhà chồng. Chắc là với, chị con đường âý dài dặt và xa lắm, bởi không biết cái gì đang chờ đợi chị, liệu chị có được đón nhận một cách đễ dàng ? Liệu cái hạnh phúc “thử liều nhắm mắt đưa chân “ này có cho chị được một chút ấm áp hay lại còn khốn nạn, cay đắng hơn ? Liệu cái anh chàng xa lạ có vẻ cũng dễ mến này có giúp chị thoát khỏi những cảnh chết đói hãi hùng trước mặt ? Bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến sự sốt ruột trong lòng chị đã phải bật lên thành tiếng , chị đã mấy lần sót ruột hỏi Tràng: “sao lâu thế” “sắp đến chưa” “vẫn chưa đến à?”rồi “nhà có ai không ?” …Chị hỏi vào tình cảnh phải theo không Tràng cũng chẳng qua chỉ là bất đắt dĩ cần tìm một nơi nương tựa qua ngày, hi vọng có thể may ra tránh được sự chết đói. Nên khi tận mắt chứng kiến gia cảnh của Tràng chỉ là một cái nhà vắng teo, trên mảnh vườn mọc lỗn nhổn những bụi cỏ dại thì chị không nén nỗi một tiếng thở dài. Hoá ra cái gia cảnh của anh mới ban chiều còn vỗ vỗ vào túi khoe: “rich bo cu hả” là thế này đây. Nhưng chị còn biết sao được nữa, chị cảm thấy thất vọng , buồn tủi, chua sót quá nên mặt cho Tràng lăng săn đôn đả, “thị nhép mép cười nhạt nhẽo […], hai tay ôm khư khư cái thúng mặt bần thần. “Tại sao đứng giữa căn nhà của mẹ con Tràng rồi mà người phụ nữ kia vẫn ôm khư khư cái thúng thế ?” Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con Tràng quá ư chật chội, chị phải biết để nó ở đâu ? Hay vì giờ đây cái thúng là tài sản duy nhất chị có nên chị không thể xa rời.
Không tìm được sự no đủ nhưng dẫu sao, chị cũng bớt được một nổi lo trong dạ khi biết nhà tràng chỉ có một mẹ già. Dĩ nhiên, chị hiểu đấy là đỡ phức tạp , khả năng bị xua đuổi hắt hủi bị giảm xuống mức thấp nhất , mà đấy chẳng phải là một nửa sự sống đó sao? Cho nên lúc ấy chỉ đã có thể “tủm tỉm cười” rồi lại đùa với Tràng “đà mỗi một mình tôi lại còn mấy u. Bé lắm đấy”. Và mặc dù vẫn còn rất buồn vì thất vọng chua chát,nhưng hầu như chị chẳng nói năng gì kể từ khi chứng kiến gia cảnh của mẹ con Tràng. Nhưng trước sự cảm thông , yêu thương đùm bọccủa những người xung quanh trong một mái ấm gia đình. Sáng hôm sau, chị đã săm sắn quét dọn cùng với mẹ chồng thu vén lại nhà cửa, vườn tược như một cô con dâu thực sự trong nhà. Và chính điều ấy đã đem đến cho chị những thay đổi đến nỗi chính Tràng cũng không khỏi ngạc nhiên “Tràng nôm thị hôm nay khác lắm. Rõ là người đàn bà hiền hậu đúng mực, không có vẻ gì chua chát như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh “
Đặc biệt là trong bửa ăn của một ngày mới, người nói đến “toàn chuyện vui chuyện sung sướng về sau này “ lại là bà cụ gần đất xa trời, con người nói đến đấu tranh “ phá kho thóc của Nhật chia cho người đói lại chính là chị người vợ nhặt – nhân vật duy nhất không có tên trong tác phẩm . Từng đoàn người “ những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê sộp[…]cờ đỏ bay phấp phới” do câu chuyện của chị gợi ra có ĩe cũng là một dụng ý nghệ thuật , nhằm khẳng định khát vọng và sức sống manh mẽ của những con người như chị.
Như vậy, một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, một niềm khao khát sống, niềm tin yêu và đức hi sinh cao cả đã phát họa nên bức chân dung về vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất của người phụ nữ trong nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX.
3. Kết bài
Người phụ nữ đã đến và để lại cho nền văn học Việt Nam bức tượng đài bất hủ của những con người không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh, luôn đi tìm, hướng tới những gì tốt đẹp, tươi sáng trong cuộc đời. Họ luôn là những mẫu hình lí tưởng về người phụ nữ Việt Nam thời kì đó, cho hôm nay và cả về sau.Họ luôn trường tồn trong tâm thức người đọc là “Những con người đáng thương nhưng đáng trọng.”
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *