Bài học giúp các em nắm được cách làm bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lý như: phân tích đề; lập dàn ý; nêu ý kiến đánh giá, nhận xét về vấn đề cần nghị luận; biết huy động kiến thức và những trải nghiệm của bản thân để phục vụ cho quá trinh viết bài; có ý thức tiếp thu những quan niệm đúng đắn và phê phán những quan niệm sai lầm.
a. Trước khi tìm hiểu đề phải thực hiện ba thao tác:
b. Tìm hiểu đề:
c. Lập dàn ý:
Đề: Anh (chị) nghĩ như thế nào về câu nói: "Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố" (Trích Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm).
a. Giải thích khái niệm của đề bài (câu nói):
b. Giải thích, chứng minh vấn đề:
c. Khẳng định, bàn bạc mở rộng vấn đề:
Đề: "Duy chỉ có gia đình, người ta mới tìm được chốn nương thân để chống lại tai ương của số phận" - Euripides. Anh (chị) nghĩ thế nào về câu nói trên?
a. Giải thích khái niệm của đề bài (câu nói)
b. Giải thích, chứng minh vấn đề
c. Khẳng định, bàn bạc mở rộng vấn đề
Để nắm được cách làm bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lý, các em có thể tham khảo bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Nghị luận về câu ca dao "Ta về ta tắm ao ta / Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn" - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
” Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”
Câu ca dao đã dùng hình ảnh gần gũi, dể hiểu như lời nói hằng ngày của người nông dân: Hãy về tắm ao nhà mình dù nước có trong hay vẫn đục hơn nơi khác. Qua hình ảnh thơ này tác giả dân gian muốn khuyên mọi người: Con người ai cũng có gia đình, xã hội, môi trường sống của mình; phải biết trân trọng môi trường sống của mình, dùng những cái vốn có của mình hơn là đi nhờ vả, sử dụng của người khác. Câu ca dao muốn dề cao ý thức độc lập, không phụ thuộc vào người khác. Những gì thuộc về quyền làm chủ của ta ta nên quý trọng và sử dụng nó.
Với nội dung trên, câu ca dao vừa có mặt đúng, vừa có mặt còn hạn chế. Trước tiên ta hãy bàn về mặt đúng của vấn đề. ” Ao ta” thuộc quyền sở hữu của ta, ta có thể tắm thoải mái, tự do không e dè khi phải tắm nhờ ao của người khác.
Trong cuộc sống cũng vậy, sử dụng những gì của mình vẫn thích hơn là đi mượn của người khác. Mặt khác nhà mình có ao thì mình tắm , xã hội mình có sản phẩm thì mình dùng; đi sử dụng của người khác trong khi mình cũng có thứ đó là hành động thiếu tôn trọng xã hội mình, coi thường chính bản thâm mình. Ấy là chưa kể đến việc almf cho “ao nhà” bẩn đi vì khônbg được sử dụng, tu sửa.
Trong hoàn cảnh mở cửa hiện nay, hàng ngoại ngập tràn, canh tranh với hàng nội , các cấp cũng đã nêu câu ca dao trên để động viên nhân dân dùng hàng nội. Theo em, đây là một chủ trương đúng đắn, vì ta dùng hàng của ta tức là ta trân trọng danh dự của chính ta, quý trọng sức lao động của bản thân. Nếu được tiêu thụ nhiều, hàng hóa sẽ được sản xuất nhiều và do đó ngày càng được cải tiến tốt hơn lên. Nhờ đó “ao nhà” ngầy càng sạch, nền kinh tế của nước nhà ngày càng phát triển.
Đối với những người con xa quê hương, xa tổ quốc, nội dung câu ca dao trên càng có ý nghĩa sâu sắc. Sống trên đất nước người, họ có thể có cuộc sống vật chất khá hơn trên quê hương mình. Nhưng nước người vẫn là “ao” của người khác. Làm sao họ có thể thích ứng hoàn toàn với phong tục tập quán, với cách sống, cách sinh hoạt của miền đất lạ. Làm sao họ có thể tìm được hồn quê hương dù là trong khoảnh khắc ở những con người xa lạ. “ Ta về ta tắm ao ta”, nhiều Việt kiều xa quê hương nhưng tâm hồn luôn hướng về tổ quốc. nhiều người đã trở về sống với mãnh đất thương yêu để tìm nguồn an ủi, sự cảm thông và sự gắn bó máu thịtnơi chôn nhau cát rốn. Rõ ràng câu ca dao đã là lời khuyên chân thành, lời chỉ bảo đúng đắn cho mỗi người Việt chúng ta.
Tuy nhiên nội dung của câu ca dao vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Như trên đã bàn, câu ca dao khuyên ta phải tắm ao ta, phải sử dụng những cái của ta và lời khuyên đó là đúng là hợp đạo lí. Nhưng câu ca dao lại nêu: “ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn” thì thật là chưa thỏa đáng . Nếu “ ao nhà” ta đục, xã hội ta trì trệ, lạc hậu thì làm sao có thể “vẫn hơn” được. Chẳng nhẽ ta cứ an phận tắm nước ao đục, cứ an phận ssống trong xã hội nghèo nàn, lạc hậu mãi hay sao?
Ta không nên bảo thủ, không nên bằng lòng với cuộc sống nghèo nàn lạc hậu, càng không nên coc tâm lí tự cao mù quáng cho rằng cái gì của mình cũng nhất , cái gì của ta thì hơn tất cả mọi người. Hiện nay trong xã hội không ít người còn quan niệm lạc hậu như vậy. Thậm chí có người còn cho rằng ta phải sống trong cái xã hội xủa ta với tất cả các hiện trạng “ trong” “ đục” vốn có của nó, vì sống như thế mới không lai căn, sống như thế mới là dân tộc.
Không phải phân tích nhiều ta cũng thấy quan niệm đó là bảo thủ , vô trách nhiệm đối với xã hội, đói với chính mình. Quan niệm đó sẽ làm xã hội trì trệ, cuộc sống nghèo nàn. Trở lại với cuộc vận động dùng hàng nôị hóa hiện nay. Nếu ta lại vận động nhân dân dùng hàng nội với khẩu hiệu: “ Dù tốt dù xấu cũng là hàng của ta”, vẫn hơn hàng ngoại thì cuộc vận động sẽ hoàn toàn thất bại, sẽ không lôi kéo được đông đảo quần chúng. Vì trong thời buổi hàng hóa tràn ngập thị trường. Không ai dại gì đi dùng hàng xấu, hàng đắt dù những thứ ấy là của ta đi chăng nữa. Rõ ràng quan niệm “ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn” Không còn phù hợp với thực tiễn với xã hội ngày nay, càng không phù hợp với đường lối mở cửa,đổi mới để phát triển không ngừng của chúng ta nữa.
Vậy chúng ta phải nhận thức vấn đề này như thế nào cho đúng, cho phù hợp? Chúng ta không chấp nhận quan niệm an phận” dù trong dù đục” vẫn cứ tắm ao nhà, không có nghĩa là tâ đồng tình với thái độ lẫn tránh, bỏ đi sống ở nơi khác khi quê nhà còn nghèo nàn lạc hậu. Nhận thức đúng đắn nhất hiện nay là phải tôn trọng, sử dụng cái của ta với thái độ “ Khơi trong gạn đục” Như một đồng chí lãnh đạo Đảng ta trước đây đã nói:
“Ta về ta tắm ao ta
Khơi trong gạn đục ao nhà vẫn hơn”
Trình bày quan niệm về nội dung câu ngạn ngữ: "Không có nghề nào hèn cả, chỉ có những kẻ hèn mà thôi" - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Sống trong cảnh gia đình đầy đủ, xa hẳn mọi điều lo lắng khổ cực, chúng ta dễ khinh thường những người lao động, hàng ngày phải lam lũ với nghề nghiệp. Chúng ta lại thường sẵn có thành kiến sai lầm, phân biệt nghề cao quý với nghề ti tiện, trọng nghề trí thức, khinh nghề chân tay. Để cảnh báo thái độ đó, phương Tây có câu ngạn ngữ:
''Không có nghề nào là hèn cả, chỉ có những kẻ hèn mà thôi"
Thật ra có nghề nào là nghề hèn kém không? Để trả lời chúng ta đưa vài ví dụ. Đây là bác phu xe, mặt mũi đen đũi, áo quần lôi thôi, lấy chiếc xe ba bánh làm kế sinh nhai. Ta liệt bác vào hạng tầm thường và nghề bác là nghề hèn kém. Còn đây là bác công nhân quét đường, mỗi đêm và sáng, bác làm vệ sinh thành phố, đến cửa từng nhà, hốt để lên xe nhửng đống rác thối tha, đầy ruồi nhặng, có người nhìn bác bằng cặp mắt khinh rẻ.
Bác phu xe ấy mỗi lần gò lưng đạp xe chở khách, nhận được một món tiền nho nhỏ, mang về nuôi sống gia đình, bác đổi bát mồ hôi lấy bát cơm. Đồng tiền tuy ít ỏi nhưng bác kiếm ra trong sạch. Bác công nhân quét đường cũng vậy. Bác chịu cực khổ, ngày ngày làm bạn với những đống rác bẩn thỉu tanh hôi. Thế rồi, tháng đến, bác vui mừng đưa tay đón lấy đồng tiền lương nhỏ mọn đủ sống qua ngày. Nghề của bác thật là lương thiện. Cả hai người - và còn biết bao nhiêu người khác nữa - đều giúp ích cho xã hội một phần không nhỏ. Người thì chuyên chở giúp ta trên quãng đường xa, dưới nắng mưa không ngại. Người thi chịu dơ dáy thân mình để bảo vệ sức khỏe cho bao người khác.
Như thế thì sao có thể gọi nghề của họ là “hèn” được? Nghề của họ, tưởng là tầm thường mà thực ra có ích cũng chẳng khác gì nghề nghiệp của những người tri thức. Mà đã có ích thì là cao quý rồi.
Hơn nữa, những người ấy đều đã đặt hết cả lương tâm, trí óc, cũng như sức khỏe của họ để làm đầy đủ bổn phận mà cuộc đời đã dành cho họ. Ngoài ra họ còn là những người biết tự trọng, biết đem sức lao động mà trả nợ áo cơm, giúp ích xã hội, để sống xứng đáng với danh nghĩa “làm người” của họ. Như thế chẳng đáng cho ta cảm phục hay sao? Có phải người ta đã nông nổi mà xét đoán nghề nghiệp của họ một cách nhầm lẫn không?
Như vậy, ta phải công nhận rằng chẳng có nghề nào là hèn cả, mà chỉ có người hèn thôi, và đó chính là ké bĩu môi chê lao động chần tay là nghề hèn kém. Vậy thế nào là người hèn? Đó là những người lười biếng, không nhận thức được bổn phận của họ là phải làm việc cho xã hội. Họ đã cướp công của xã hội, đã lừa cơm, cướp áo của lớp người cần lao kia. Người hèn là những hạng người thiếu lương tâm, thiếu trách nhiệm, làm việc chiếu lệ cho xong, không xứng đáng với đồng tiền mà họ nhận. Người hèn là những người làm dân thì phản nước, làm trò thì phản thầy, chơi bạn thì phản bạn. Nói tóm lại những hạng lọc lừa, tham vàng bò ngãi, hình người lòng thú, dưới muôn hình vạn trạng, là những ăn cắp của công để ăn chơi thỏa thích, lãng phí tiền bạc của nhân dân. Từ “hèn” chỉ dành cho những con người ấy.
Câu ngạn ngữ Tây phương trên thật đã cho ta một bài học quý giá về nghề nghiệp. Nó khuyên ta nên tiêu diệt đầu óc hủ bại, đầy rẫy thành kiến sai lầm về nghề nghiệp. Nên nhớ ràng những nghề đã giúp ích cho xã hội đều là đáng trân trọng, đều là đáng quý. Vậy ta phải coi trọng sức cần lao của mọi lớp người lao động, cũng như trí thức. Đó là con đường duy nhất đưa ta đến một xã hội bình đẳng, bác ái và tiến bộ.
Anh (chị) suy nghĩ gì về bốn chữ: Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ đối với người và đất nước - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Hành trình làm người là cả một chặng đường gian khổ để hoàn thiện nhân cách, phẩm chất, hướng đến phụng sự quốc gia và xa hơn nữa là nhân loại. Mỗi quốc gia có phong tục, tập quán riêng nhưng chung quy vẫn cùng mục đích giáo dục công dân mình hướng Thiện. Sách Quan Từ của Trung Hoa có một quan điểm khá mẫu mực như là điều kiện mang tính chất quyết định sự đắc dụng của mỗi cá nhân đối với quốc gia: Lễ, nghĩa, liêm, sỉ là bốn trong nhiều điều kiện để giữ vững quốc gia. Bốn cái rường vó ấy nêu không được căng lên, nghĩa là người trong nước mà vô lễ, vô nghĩa, vô liêm sỉ thì quốc gia phải sụp đổ và diệt vong.
Không chỉ dân tộc Trung Hoa phải rèn luyện như thế, mà làm người chung cần phải có những đức tính lễ, nghĩa, liêm, sỉ được xem là nền tảng không thể thiếu. Vậy bốn đức tính ấy có vai trò quan trọng như thế nào thiếu nó, quốc gia sẽ diệt vong? Nêu lễ là phép tắc trong phép cư xử phải kính trọng với người xung quanh để giữ hòa khí, thì nghĩa là phải đi làm theo điều phải, tránh cái xấu xa, phát huy lòng hào hiệp, nghĩa khí. Sống trong sạch ngay thẳng, không tham của người để giữ đức liêm và biết xấu hổ, biết phẩm giá cho bản thân và quốc gia chính là sỉ.
Bốn đức trên tưởng là vô hình nhưng thật sự mang tính quyết định vẽ tồn vong của một quốc gia. Quả thật, mỗi công dân nêu vô lễ trong cư xử nhau tức là không thủ lễ sẽ sinh loạn, đảo lộn những trật tự, chẳng còn tôn ti. Thuyết "Chính danh" của Khổng Tử có đoạn rất hay: "Quân quân, thần thần,phụ phụ, tử tử”. Nghĩa là vua phải ra vua, bể tôi phải ra bề tôi, cha phải ra cha, con ra con. Tức là người nào ở vị trí nào thì phải ứng xử ở vị trí đó, không lẫn lộn, không được tùy tiện, phải tuân theo phép tắc, quy củ của xã hội quy định. Từ xưa Tổ tiên Việt Nam từng dạy con cái "anh nhường em kính", “ phu xướng phụ tùy",... cũng không ngoài mục đích giữ trong trật tự gia đình có khuôn phép để hưởng hạnh phúc, để yên cộng đồng, xã hội. Thử xem, cha mẹ qua đời, anh em tranh giành tài sản phải đưa nhau ra "pháp đình" vẫn có những việc đau lòng như vậy. Thật may số ấy không nhiều, nếu không đất nước sẽ về đâu? Trong quan hệ xóm làng, dân gian vẫn thường nói: "Láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau", hoặc "Bán anh em xa mua láng giềng gần" để chỉ quan hệ thân thiết, nâng đỡ, thủ lễ và yêu thương, kính trọng nhau. Nếu quan hệ tan vỡ, tình làng, nghĩa xóm sẽ tan hoang. Khi cắp sách đến trường, chúng ta thấy ngay câu "Tiên học lễ, hậu học văn". Vì thế, chữ “lễ" có thể như một cây trụ nâng đỡ nhàn cách chúng ta.
Thử nghĩa thật rộng lớn: Nghĩa cha mẹ, nghĩa thầy trò, nghĩa chồng vợ, nghĩa anh em cốt nhục đồng bào, nghĩa bằng hữu chi giao, ấy là ngũ - luân chi Mọi sự đều phải có nghĩa, thì mới đủ tư cách làm người cao trọng. Ghét xa lánh điều xâu tức là đầu mối của nghĩa! Nghĩa thường đi đôi với nhân, "Nhân nghĩa", “nghĩa tình" tức là cái đạo lí làm người. Vì nghĩa đồng bào, dân tộc ta thường chia bùi sẻ ngọt "Nhiễu điều phủ lấy giá gương: Người trong nước phải thương nhau cùng". Nghĩa đồng bào trong chín năm kháng chiến chống Pháp, nhiều khi đơn so chia sẻ nhau bữa cơm rau lúc gian khó. Chỉ thế thôi, vậy mà những người lính có thể "chẳng tiếc đời xanh"; quên ngày tháng đói khổ, nhưng quyết không quên hương nếp xôi đơn sơ, mộc mạc nhưng đượm biết bao nghĩa đồng bào: "Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch; Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương". Không chỉ có Chế Lan Viên viết thế mà Quang Dũng cũng nhớ mãi cái hương vị nghĩa tình ấy "Nhớ ai Tây Tiến cơm lên khói;Mai Châu mùa em thơm nếp xôi". Nguyễn Đình Chiểu nói "kiến ngãi bất vi" thấy nghĩa không làm thì "Phi anh hùng"; chẳng đáng mặt anh hùng. Cho nên Vân Tiên ra tay nghĩa hiệp cứu Kiều Nguyệt Nga. Kho tàng ca dao Việt rất đề cao tình và nghĩa. Tình yêu là yêu thương nhau: nghĩa là không phụ bỏ nhau. Hãy nghe tấm lòng người vợ: "Chồng em áo rách em thương; Chồng người áo gấm xông hương mặc người". Lại có câu chuyện về một chú chó có làm lay động lòng người. Chuyện xảy ra cách đây hai năm tại thành phố Thẩm Dương, tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc, sau khi chú chó vàng bị gãy chân vì bị cán trúng, chú chó trắng kiên quvết không rời xa cún bạn tội nghiệp. Chó trắng còn biết đường đẩy chó bạn vào chỗ râm mát bằng mũi và sủa vang lên đe dọa khi những người lạ tìm cách tiếp cận bạn nó. Thật là một con chó có nghĩa: Không bỏ bạn lúc nguy khốn. Con vật còn thế huông gì chúng ta. Cho nên, có thể nói "nghĩa" là cái đức quý, ví như cây cột thứ hai nâng đõ nhân cách chúng ta.
"Liêm" là ngay thẳng, trong sạch, không để lòng tham xói mòn nhân phẩm,... Tham là một bệnh lớn nhất trong thiên hạ và dễ mắc phải, cho nên Thanh Liêm là một đức quý nhất và cũng khó rèn luyện nhất trong các đức tính. Từ xưa đến nay, có biết bao tấm gương liêm khiết, họ sống đời thanh bạch như Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến... ở thế kỉ XX, lãnh tụ Hồ Chí Minh một đời thanh bạch với hình ảnh chiếc áo kaki bạc màu, ngôi nhà sàn đơn sơ đã làm sáng ngời đức liêm khiết. Hằng ngày, ta vẫn thây những em nhỏ nhặt của rơi nhưng không động lòng tham. Nhiều cán bộ kiên quyết không nhận hối lộ. Những tấm gương ấy làm ta cảm phục. Thế nhưng, bên cạnh đó vẫn còn không ít người lợi dụng chức quyền để ăn của “đút lót" mà người ta gọi là "ăn bẩn”. Chắc chắn, họ là những người không có nhân cách và pháp luật sẽ trừng trị, rồi mọi người xa lánh. Kết quà họ sẽ là người sống cô độc và vô nghĩa giữa cuộc đời.
Nếu "liêm" là cây cột thứ ba làm vững nhân phẩm con người thì “sỉ" là cái đức của người giàu lòng tự trọng, biết xấu hổ, biết nhục khi không vưọt qua cái tầm thường. Nguyễn Tri Phương thà treo cổ chứ không chịu cái nhục hàng giặc. Trấn Bình Trọng thà "làm quỷ nước Nam" chứ không để giặc Nguyên mua chuộc, Nguyễn Trãi nuốt giận vào trong lòng cùng Lê Lợi mười năm khang chiến, quyết đòi cái nợ mà giặc Minh sỉ nhục dân tộc mình; Phan Bội Châu với nỗi nhục dân trí lạc hậu, bị ngoại bang hà hiếp, quyết tạo dựng phong trào Đông Du chờ ngày khai sáng dân tộc, đòi độc lập dân tộc; Hồ Chí Minh tủi nhục dân tộc mình bị chà đạp trong bóng đêm nô lệ, Người một mình bôn ba nửa đời quyết đánh đuổi bọn giặc thực dân ra khỏi đất nước mình để rửa sạch nỗi đau ấy. Ôi, đẹp biết bao cái đức "sỉ" bi tráng của nhũng nhân cách lớn!
Là thanh niên, học sinh ngày hôm nay đang tận hưởng những tháng ngày thanh bình nhất trong lịch sử, lại được hưởng những vinh quang của nền công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đa số mọi người cần cù lao động, học tập để rèn luyện bản thân, đế phụng sự Tổ quốc. Vậy mà có một bộ phận đã sống "sống hoài sống phí" trong ma túy, trong nhà hàng, quán bar, thậm chí còn cướp giật…Và đâu biết rằng dành quá nhiều thời gian nơi đó, chẳng khác đào mồ chôn tương lai mình, đất nước mình. Bởi lẽ, chỉ một đêm ngủ dậy, ta đã thấy thế giới có hàng trăm phát minh mới. Nếu mải mê trong vui chơi, ta sẽ lầm lạc vẽ nhân cách là đất nước sẽ thiếu những nhân tài - đất nước sẽ lạc hậu thì nỗi nhục đến. Vì vậy, "sỉ" là phải rèn luyện trau dồi sự tự trọng, tự cường cho bản thân cho tương lai của đất nước, là nhiệm vụ của tất cả mỗi công dân.
Hãy nêu suy nghĩ của em về lòng khoan dung trong cuộc sống.
Câu trả lời của bạn
Trong cuộc sống, không ai là hoàn hảo. Ai cũng mang trong mình những yếu đuối rất con người. Và vì thế ai cũng cần được khoan dung...
Khoan dung là một phẩm chất đáng trân trọng của con người. Khoan dung là biết tha thứ, bỏ qua cho những sai lầm thiếu sót của người khác; là biết chấp nhận những yếu đuối sai phạm của người khác và giúp họ đứng lên sau vấp ngã. Khoan dung, còn nghĩa là tự tha thứ cho chính mình...
Khoan dung - ấy là khi bạn bỏ qua cho người lạ vừa vô tình dẫm lên chân bạn trên xe buýt. Khoan dung - ấy là khi tôi chân thành đón nhận lời xin lỗi của người bạn vừa khiến tôi buồn. Khoan dung - là khi người mẹ giang rộng vòng tay ôm lấy đứa con trai sau những chuỗi ngày lang thang, nay đã ân hận trở về. Khoan dung, nhiều cách biểu hiện, chung một trái tim: Nhân ái!!!
Vậy... tại sao phải khoan dung?
Trước hết, khoan dung là sự hiểu biết của một nhân cách cao đẹp, thể hiện một tâm hồn rộng mở, giàu lòng yêu thương. Bởi, chỉ khi biết mở rộng tấm lòng, chỉ khi tình yêu được nhân ái hoá, con người ta mới có thể quên đi những thiệt hại, những tổn thất của mình mà tha thứ cho người khác. Hãy xem cách dân tộc Việt Nam tha thứ cho kẻ thù xâm lược để thấy đưọc truyền thông nhân đạo, nhân ái của ông cha ta đáng khâm phục đến nhường nào. Trong "Bình Ngô đại cáo", Nguyễn Trãi viết:
Mã Kì, Phương Chính cấp cho 500 chiếc thuyền
Vương Thông, Mã Anh cấp cho hàng nghìn cỗ ngựa.
Trong "Tuyên ngôn độc lập” Bác đã khẳng định: "Tuy vậy, dân tộc Việt Nam trước sau vẫn giữ thái độ khoan hồng, nhân đạo với kẻ thù thất thế"...
Hẳn là khi viết lại những hành động khoan dung, nhân đạo ấy của dân tộc ta, các tác giả phải tự hào biết bao!
Không chỉ là biểu hiện của một tấm lòng nhân ái cao đẹp, lòng nhân ái đã thấm đượm tình người, khoan dung còn là phẩm chất của một con người biết mình biết ta. Không ai là không phạm sai lầm. Chính khi khoan dung với người khác là bạn đang chuẩn bị cho mình "một lối đi về”... Bởi cũng sẽ đến lượt bạn sa ngã, bạn phạm lỗi. Ai sẽ tha thứ cho bạn nếu bạn không từng biết tha thứ? Ai sẽ chấp nhận bạn nếu bạn từng không đoái hoài đến sự ăn năn hối lỗi của người khác? Và ai sẽ khoan dung với bạn nếu bạn chưa từng khoan dung với kẻ khác đây?
Vậy, không khoan dung với người khác là tàn nhẫn với chính mình...
Không những thế, bất cứ khi nào bạn khoan dung cho người khác là bạn đang rộng mở một đường về cho chính họ. Lòng khoan dung sẽ cảm hoá được lỗi lầm, là động lực thúc đẩy, khuyến khích họ nhận ra sai lầm và sửa chữa. Chỉ cần một ánh mắt thiện cảm thôi cũng đủ cho những người từng là tù nhân cảm thấy được đón nhận, sống có ý nghĩa hơn, chỉ cần một nụ cười khuyến khích cũng đủ đẻ những thanh niên vừa ra trại thấy mình không bị bỏ rơi, lạc lõng..
Tôi cực kì lên án thái độ thờ ơ lạnh nhạt của một số thanh niên hiện nay. Đối với những người đã từng phạm sai lầm giờ đang mang trong mình căn bệnh thế kỷ, mòn mỏi sống trong sự ghẻ lạnh của không ít người. Chính sự thờ ơ, lạnh nhạt, chính lòng ích kỷ thiếu khoan dung ấy đang gián tiếp tiếp tay cho tội ác lan rộng. Như thế là đúng sao? Là văn minh, tiến bộ sao?
Những ánh mắt ghẻ lạnh ấy, những con người vô cảm ấy đang khiến xã hội này ngày càng thêm lạnh! Thiếu thốn tình cảm, thiếu thốn vị tha, lòng khoan dung,... tất cả sẽ chỉ còn là một xã hội vô tri, vô giác, lạnh lùng, vô cảm… Nhưng, vẫn còn đó những tấm lòng nhân ái, sống vì mọi người, biết tha thứ biết khoan dung góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, phát triển hơn, nhân ái hơn,...
Và chắc hẳn những người biết khoan dung đó sẽ luôn nhận được tình yêu thương, sự kính trọng của mọi người.
Khoan dung với người khác, rất cần thiết, nhưng chưa đủ! Tôi đau lòng khi không ít người tự dằn vặt mình, hành hạ tâm hồn và thể xác mình... vì họ cho rằng mình đã làm sai, mình không đáng được tha thứ. Đừng như thế. Biết nhận ra lỗi lầm là điều tốt, nhưng cứ sống mãi trong hoài niệm thế có tốt không? Tại sao không tự tha thứ và bắt đầu lại... một sự khởi đầu mới tốt đẹp hơn...?
Tuy nhiên cần biết phân biệt giữa khoan dung và bao che. Thật đáng buồn khi nhiều người tiếp tay cho tội ác mà cứ nghĩ là khoan dung. Nhìn thấy người bạn thân quay cóp bài, một lần, hai lần, rồi ba lần... làm ngơ bỏ qua, hi vọng bạn tự biết sửa chữa. Khoan dung đây ư?
Xin nhắc lại, khoan dung là tha thứ chứ không là bao che.
Khoan dung - là chấp nhận những yếu đuối của người khác và giúp họ sữa chữa - không có nghĩa là tiếp tay cho họ. Mỗi người hãy học cách khoan dung với bản thân, với người khác bằng lòng nhân ái, bằng đức hi sinh. Không chỉ biết khoan dung, bên cạnh đó, việc giúp người khác (hay chính mình) nhận ra sai lầm, định hướng sửa chữa, cũng là điều rất quan trọng.
Vâng! Tôi cũng không phải là một người hoàn hảo. Bản thân tôi cũng từng mắc sai lầm... đó là khi tôi không học bài và bị điểm kém.... tôi đã vô tình khiến bố mẹ và thầy cô thất vọng... Là khi tôi trách nhầm đứa bạn... là khi tôi đã dửng dưng trước những ánh mắt thơ ngây cầu xin sự giúp đỡ của những em bé đánh giầy tội nghiệp…
Nhưng nhờ đó tôi cũng rút ra bài học cho bản thân mình... đó là khi nhìn thấy ánh mắt buồn của mẹ, tôi biết mình cần cố gắng. Là khi nhận được lời giải thích, cái ôm xiết chặt của nhỏ bạn, tôi biết mình cần suy nghĩ chín chắn hơn. Là khi tôi nhận được sự giúp đỡ của những em nhỏ đánh giầy nhặt giúp tôi chiếc ví mà tôi đã vô ý đánh rơi, tôi biết mình cần rộng lượng... Sau những vấp ngã, tôi vẫn được đón nhận, được yêu thương.
Chính tình yêu, sự tha thứ của mọi người khiến tôi đứng lên sau những thất bại. Và tôi tin là lòng khoan dung có sức mạnh cảm hoá mãnh liệt...Chính vì vậy, để cuộc sống tươi đẹp và giàu tình người hơn. Mỗi chúng ta hãy sống một cách chân thành, luôn bao dung và độ lượng với những người xung quanh. Khi đó, bạn sẽ cảm thấy cuộc sống thật đẹp và ý nghĩa.
Suy nghĩ của bạn về lời dạy của Đức Phật: “Giọt nước chỉ hòa vào biển cả mới không cạn mà thôi” - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Có một lần, trên một chương trình truyền hình, tôi đã nhìn thấy hình ảnh những con linh cẩu sống thành bầy đàn hợp tác, hộ trợ nhau để săn bắt được những con mồi to lớn hơn. Khi đấy, tôi đã tự hỏi “Điều gì sẽ xảy ra, nếu một con linh cẩu ko sống với bầy đàn mà chỉ sống riêng lẻ”. Và để rồi một lần khác, tôi đã tự tìm ra câu trả lời cho câu hỏi đó khi nghe thấy một lời dạy bảo của Đức Phật “Giọt nước chỉ hòa vào biển cả mới không cạn mà thôi”.
Lời dạy ấy của ngài thật giản dị mà sâu sắc bằng những hình ảnh rất cụ thể là “giọt nước” và “biển cả”. Giọt nước nhỏ bé và sẽ trở nên khô cạn đi nhanh chống nếu chỉ lẻ loi một mình nó, nhưng khi nó hòa vào biển lớn mênh mông, hòa vào hàng triệu, hàng tỉ giọt nước khác thì nó không bao giờ biến mất.
Và trong cuộc sống cũng thế, con người không thể nào chỉ sống mỗi một mình mà có thể sống được, tồn tại được.
Khi sống chỉ biết đến mình, không quan tâm đến mọi người, không có trách nhiệm với cộng đồng, vô tâm với xã hội,…thì tất nhiên, ta sẽ ko phải nhận dc những phiền toái do người khác, do cộng đồng, xã hội mang lại. Nhưng khi đó, ta cũng đã tự đánh mất những cơ hội nhận được sự giúp đỡ, quan tâm từ người khác. Và cũng có thể, ta đang tự làm hại chính bản thân ta một cách gián tiếp, vì ta là một phần trong cộng đồng, trong xã hội đó.
Hơn tất cả, “Con người là động vật có tinh thần” và cái “tinh thần” ấy bao gồm cả tính cộng đồng, đoàn kết bởi nhờ cái đoàn kết ấy mà từ thời xa xưa đến nay, con người mới có thể chống chọi lại với thiên nhiên khắc nghiệt mà tồn tại, phát triển. Nếu ta sống một lối sống “không cộng đồng, không xã hội”, tức là ta đã tự vứt bỏ đi phần “người” trong “con người” mình.
Ngược lại, nếu sống một cuộc sống hòa nhập, có trách nhiệm với cộng đồng, gắn kết với xã hội thì có thể ta sẽ phải cho đi rất nhiều, nhưng những thứ mà ta nhận được lại càng nhiều hơn. “Đoàn kết là sức mạnh”, chỉ có sự đoàn kết, sự gắn kết với nhau với cho ta sức mạnh để ta tồn tại, để ta phát triển trong thế giới này. Có những thứ một mình ta sẽ không làm được, nhưng một cộng đồng, một xã hội sẽ làm được.
Xã hội, cộng đồng là những cái mà ta không thể tách rời được cũng như “giọt nước” nếu tách rời “biển cả” thì sẽ nhanh chóng bị cạn khô. Thế nên khi ta sống, thì ta phải biết đến cộng đồng, phải có trách nhiệm với xã hội, phải biết hòa nhập với mọi người.
Lời dạy “Giọt nước chỉ hòa vào biển cả mới không cạn mà thôi” của Đức Phật là một lời dạy thật đơn giản những lại cho ta một bài học có giá trị suốt cả cuộc đời. Để học được bài học ấy không phải là điều dễ dàng, nhưng tôi tin tất cả chúng ta sẽ làm được, bởi vì chúng ta là con người.
Nghị luận xã hội “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẻ bắn vào anh bằng đại bác” - Ngữ Văn 12
Câu trả lời của bạn
1. Giải thích:
“Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục”: hành động gạt bỏ những gì thuộc về quá khứ, quay lưng, thờ ơ, ghẻ lạnh với quá khứ…
“Tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”: mệnh đề kết quả chỉ những hậu quả phải gánh chịu khi có thái độ, hành vi quay lưng lại với quá khứ…
⇒ ý nghĩa: bằng cách nói hình ảnh, tác giả muốn gửi gắm cho chúng ta một bài học nhân sinh vô cùng ý nghĩa về thái độ, cách ứng xử ở đời. Quá khứ tuy đã qua, nhưng không có nghĩa nó là vô nghĩa. Nó có thể là một quá khứ đau thương, có thể là một quá khứ huy hoàng, và dù thế nào chăng nữa, mỗi cá nhân cần biết trân trọng, gìn giữ những câu chuyện “ngày xưa” của mình. “Súng lục” chỉ sự tàn bạo, chà đạp, là hiện thân cho sự hủy hoại đến dã man, tàn bạo đến rợn người, song “đại bác” còn mang tính hủy hoại hơn rất nhiều. Vấy bẩn quá khứ hay cũng chính làm vấy bẩn tương lai của chính mình. Quá khứ cho ta những bài học từ sai lầm hay những kỷ niệm khó quên mà không gì có thể mua được, nếu ta không biết nâng niu, trân trọng nó, thay vào đó là những hành vi quay lưng, phủ nhận, gạt bỏ,… cuộc đời sẽ cho ta một tương lai không hề tốt đẹp…
2. Phân tích, giải nghĩa câu nói:
a) Tại sao?
b) Như thế nào?
3. Bài học nhận thức:
Hãy suy nghĩ về câu: Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương - Ngữ Văn 12
Câu trả lời của bạn
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: “Than ôi! Sống đẹp là gì hỡi bạn?”. Vâng! Sống đẹp là sống có ích, sống biết yêu thương và sống có trách nhiệm. Con người sinh ra trên đời đều mang trên mình trách nhiệm và nghĩa vụ. Đó là trách nhiệm với bản thân, với gia đình, với quốc gia, dân tộc và trách nhiệm đối với chính công việc mà mình đã lựa chọn. Nhà văn Nam Cao đã viết: “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề nào cũng là sự bất lương”. Phải chăng ông muốn đề cập đến vấn đề trách nhiệm của con người đối với công việc của mình?
“Cẩu thả” trong công việc là thái độ làm việc không chuyên tâm, không nghiêm túc, không dành hết tâm huyết cho công việc mà mình đang làm. Hai từ “Bất lương” mà tác giả nói ở đây nghe có vẻ khá nặng nề, nó dường như là một tiếng chửi đối với những ai không có tinh thần trách nhiệm trong công việc, gây ra ảnh hưởng xấu đối với mọi người.
Vâng! Câu nói trên của nhà văn Nam Cao quả rất đúng đắn. Con người làm việc một cách cẩu thả, sơ sài nghĩa là không có tinh thần trách nhiệm, không có cái tâm với nghề, điều đó quả thật đáng chê trách bởi lẽ sau cái sự cẩu thả đó là biết bao nhiêu hậu quả xấu. Sự cẩu thả của một bác sỹ trong khi phẫu thuật có thể sẽ cướp đi cả sinh mạng của một con người. Một vị thẩm phán cẩu thả trong quá trình điều tra, kết luận một vụ án sẽ gây ra hàm oan cho một số người, gây bất bình trong xã hội. Người giáo viên không hết lòng với nghề, không nghiên cứu kỹ tài liệu, cẩu thả truyền cho học sinh những kiến thức sai trái. Học sinh vốn là tương lai của đất nước và bạn hãy thử tưởng tượng xem hậu quả sẽ ra sao nếu chúng được giáo dục sai kiến thức?
Trong cuộc sống, bất cứ một nghành nghề nào, dù thấp bé hay cao sang, tất cả đều cần có tinh thần trách nhiệm cao. Một lao công nếu không có tinh thần trách nhiệm, cẩu thả khi làm việc sẽ gây mất mĩ quan đô thị, gia tăng ô nhiễm môi trường và gây ảnh hưởng lớn đến đời sống con người. Ngay cả trong chính nghề văn của tác giả cũng vậy, nếu nhà văn cứ tùy tâm trạng mà viết, không có sự chọn lọc, nghiên cứu kĩ lưỡng thì sẽ mang đến cho đọc giả những tác phẩm không có chất lượng, có thể làm người đọc hiểu sai ý nghĩa, tiếp thu những thứ không lành mạnh, làm thay đổi suy nghĩ của con người theo chiều hướng tiêu cực. Văn học vốn có ảnh hưởng rất lớn đến hệ tư tưởng của con người, thế nên việc cẩu thả trong nghề văn quả là điều đáng chê trách.
Tóm lại, con người đối với công việc của mình cần phải có tinh thần trách nhiệm cao, phải có cái tâm với nghề. Làm tốt công việc của mình cũng có nghĩa là ta đã sống có ích cho xã hội. Câu nói của Nam Cao vừa thể hiện quan niệm của ông về tinh thần trách nhiệm trong công việc, vừa là lời nhắc nhở chân thành những ai đã và đang cẩu thả trong công việc hãy nhìn lại.
Ý kiến của anh (chị) về câu nói sau đây: “Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ chia” - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Một trong những đức tính tốt đẹp nhất của con người là lòng nhân hậu. Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ chia.
1. Nhân hậu là gì? Nhân là lòng thương người; nhân hậu là tình thương bao la, mênh mông và sâu sắc đối với mọi người. Cảm thông với cảnh ngộ, với nỗi niềm của đồng loại là đồng cảm: biết chia ngọt, sẻ bùi, biết xót thương với những người bất hạnh là san sẻ. Cây có cội, nước có nguồn: nhân hậu như cội, như nguồn; đồng cảm, san sẻ tựa như cội, như nguồn của lòng nhân hậu.
Hơn 2.000 năm về trước, Khổng Tử đã ca ngợi cái nhân của con người; và ngài đã khẳng định: Nhân là cái gốc của đạo lí; kẻ có nhân mới có thể tích đức, tu thân, tề gia trị quốc, bình thiên hạ.
2. Trên đời đầy ngang trái, bất công, thảm cảnh. Người có lòng nhân hậu tựa như ngọn lửa, như ánh sáng góp phần xua tan bóng tối, đem lại hơi ấm và hạnh phúc cho đồng loại, đem lại niềm vui và hi vọng của kẻ cô đơn, người bần cùng, bất hạnh. Một bát cơm cho người hành khất, một tấm áo cho người rét giữa mùa đông lạnh lẽo, một chén thuốc cho người ốm đau, một lời an ủi, động viên cho người hoạn nạn,... đó là những cử chỉ, hành động, những biểu hiện cụ thể trong nhân hậu, sự đồng cảm, san sẻ.
3. Nhân dân ta giàu lòng nhân ái, “thương người như thể thương thân”, trong hoạn nạn cơ hàn biết ‘lá lành đùm lá rách”, nhường cơm sẻ áo cho nhau.
Lời ru, tiếng hát của bà, của mẹ, đã in sâu vào tâm hồn tuổi thơ mỗi chúng ta: “Thấy người hoạn nạn thì thương / Thấy người đói rét, ta nhường áo cơm”. Một chữ ‘‘thương’' in đậm trong lòng tuổi học trò qua những trang thơ văn của dân tộc giàu giá trị nhân đạo.
Bầu ơi thương lấy bí cùng
(Ca dao)
Thương nhau chia củ sắn lùi.
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
(Tố Hữu)
Những nhân vật như Thúy Kiều, Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, những em bé đáng thương như cái Tí trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, những cụ già đau khổ như lão Hạc trong truyện ngắn của Nam Cao... đã để lại trong lòng người bao tiếng thở dài, bao giọt nước mắt.
Vì văn sĩ, thi sĩ có trái tim nhân hậu bao la nên câu thơ lời văn mới trở thành tiếng khóc muôn đời mai hậu:
Đau đớn thay phận đàn bà.
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Truyện Kiều)
4. Đất nước ta trải qua 30 năm chiến tranh (1945-1975), hàng triệu người đã ngã xuống trong mưa bom bão đạn của quân xâm lược, hàng chục vạn cô nhi quá phụ. hàng trăm nghìn nạn nhân chất độc da cam, là vết thương chiến tranh. Thiên tai, hạn hán, lũ lụt, bão tố xảy ra triền miên. Chính trong cảnh ngộ ấy, ta càng thấm thía về truyền thông nhân ái bao la của dân tộc, ta càng tự hào về đạo lí cùa nhân dân ta.
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
(Ca dao)
Những quỹ tình thương, những mái nhà tình nghĩa, các phong trào cứu trợ nhân đạo dân vùng bị thiên tai, vùng sâu, vùng xa đã làm bớt bao nỗi đau, bao hoàn cảnh khó khăn của đồng bào. Và qua đó, ta càng hiểu một cách sâu sắc chân lí tỏa sáng tâm hồn dân tộc: “Có nhân hậu mới biết đồng cảm và sẻ chia". Người nhân hậu là người đẹp nhất. Sống trong tình thương là sống hạnh phúc nhất.
Bàn về cái đẹp trong xã hội và trong thiên nhiên - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Hoa không nên thấy rụng, trăng không nên thấy chìm, mĩ nhân không nên thấy chết yểu.
Trông hoa nên thấy hoa nở, đón trăng nên thấy trăng tròn, viết sách nên viết cho xong, mĩ nhân nên thấy vui vẻ, sung sướng, nếu không thì uổng công.
Ngắm đàn bà buổi sáng, nên đợi lúc phấn son xong.
Có những bộ mặt xấu mà dễ coi, có những bộ mặt không xấu mà khó coi: có những áng văn viết không thông (mẹo) mà khả ái, có những áng văn viết thông mà đọc rất chán. Điều đó, không dễ gì giảng cho hạng nông cạn hiểu được.
Lấy lòng yêu hoa và yêu mĩ nhân thì tất cả có cái thú riêng; lấy lòng yêu mĩ nhân mà yêu hoa thì thêm cái thâm tình và thêm lòng nâng niu thương tiếc.
Mĩ nhân, hơn hoa ở chỗ biết nói; hoa hơn mĩ nhân ở chỗ tỏa hương. Nếu không được cả hai thì bỏ hương mà lựa biết nói. Thường hoa đẹp thì không thơm, cánh nhiều tần thì không trái.
Gọi mĩ nhân thì mặt đẹp như hoa, tiếng nói như chim, tinh thần như trăng, vẻ như liễu, xương như ngọc, da như băng tuyết, dáng như nước thu, lòng người thơ, ta không còn chỗ nào chê cả.
Trong thiên hạ không có sách thì thôi, có thì phải đọc: không có rượu thì thôi, có thì phải uống; không có núi đẹp thì thôi, có thì phải tới chơi; không có hoa có trăng thì thôi, có thì phải mến yêu, thương tiếc.
Người đàn bà xấu không cho gương là thù địch vì nó là vật vô tri, nếu gương mà hữu tri thì tất cả đã tan tành rồi.
Mua được một chậu hoa đẹp còn nâng niu thương tiếc, huống là đối với một “đóa hoa biết nói”.
Không có thơ thì rượu sơn thủy cũng vô nghĩa; nếu không có đàn bà đẹp thì trăng hoa cũng vô ích. Tài tử mà lại đẹp, giai nhân mà lại biết làm văn đều là không thọ được. Không phải chỉ vì tạo vật đố kị, mà còn vì hạng người đó không phải là bảo vật của một thời, mà là bảo vật cổ kim vạn đại, cho nên tạo hóa không muốn cho lưu lại lâu trên đời mà hóa nhàm.
Anh (chị) hiểu như thế nào về câu nói của nữ văn sĩ Thác-kơ-rê trong bộ tiểu thuyết Hội chợ phù hoa - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Các Mác đã nói: “Hạnh phúc là đấu tranh". Quả đúng như vậy, để có một cuộc sống thực sự đúng nghĩa, mỗi con người chúng ta phải luôn đấu tranh không ngừng nghỉ, đấu tranh chống thiên nhiên, chống ngoại xâm, chống đói nghèo, chống cái ác, cái xấu... để tìm lấy sự sống. Cuộc đời tuy thế nào đi nữa vẫn có rất nhiều cái đáng yêu, đáng sống nếu chúng ta biết thân thiện với cuộc đời. Ngược lại, nếu chúng ta căm ghét cuộc sống, hận thù cuộc sống thì chúng ta sẽ đón nhận một kết quả khá đau thương cho chính chúng ta. Chính vì vậy mà nữ văn sĩ nổi tiếng của nước Anh và của cá thế giới, bà Thác-kơ-rê trong bộ tiểu thuyết Hội chợ phù hoa đã có một câu nói khá nổi tiếng: “Cuộc đời là một tấm gương soi, cau mặt với nó, nó sẽ cau mặt trả lại với chúng ta ngay; nếu mỉm cười với nó, nó sẽ thành một người bạn vui tính và tốt bụng”.
Câu nói trên của bà Thác-kơ-rê là một chân lí, có ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Đi vào thực tế cuộc sống, ta nhận ra ngay ý nghĩa thực tế của câu nói này. Thật vậy, trong cuộc sống hàng ngày, nếu chúng ta không tin yêu cuộc sống, xa rời cuộc sống, tự tách mình ra khỏi cuộc sống, thì chúng ta cảm thấy bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc đời. Cuộc đời có thương xót gì ta, dòng thời gian cứ trôi, lạnh lùng bỏ ta lại bơ vơ bên một bến bờ hoang vu nào đó. Hay nếu ta sống quá vị kỉ, chỉ biết có bản thân mình, lạnh lùng với những người xung quanh thì chúng ta cũng nhận lại tình cảm lạnh lùng của những người xung quanh đối với chúng ta. Đó là một qui luật trong cuộc sống, ta có sống cho người khác thì người khác mới có quan tâm và sống cho mình. Tư tưởng của cách mạng, của Bác Hồ, của chủ nghĩa xã hội đã từng nêu rõ điều đó: “Mình vì mọi người, mọi người vì mình". Nếu ta biết yêu thương, giúp đỡ người nghèo khổ, biết nhường cơm sẻ áo cho họ khi họ gặp hoạn nạn thì ngược lại khi ta gặp hoạn nạn thì ta cũng sẽ được mọi người yêu thương, và tận tình cứu giúp.
Hơn nữa, trong lĩnh vực học tập đối với học sinh, nếu chúng ta chăm chỉ, cần cù, siêng năng học tập để nắm vững toàn bộ kiến thức trong chương trình thì tương lai cánh cửa vào đại học sẽ rộng mở đón chúng ta vào. Và khi đã là sinh viên thì việc chăm chỉ học tập, luôn tìm tòi, nghiên cứu mới giúp chúng ta nắm vững và nâng cao kiến thức. Có như thế ta mới đem vinh quang về cho chính ta và cho đất nước, nhân loại. Những bác sĩ giỏi, những giáo sư giỏi, những nhà khoa học nổi tiếng chẳng phải đã đi từ sự tự tin vào chính mình, tin yêu vào cuộc đời đấy ư?
Không có niềm tin vào cuộc đời, vào chính mình, thiếu nghị lực, lười lao động, không chịu làm việc, không chịu tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi thì cuộc đời làm sao ban cho ta những niềm vui và hạnh phúc trong sự thành đạt được. Một người công nhân, một người thợ, nếu không trau dồi tay nghề, thiếu chí tiến thủ thì làm sao có thể trở thành một thợ giỏi, một người công nhân lành nghề được? Làm sao cuộc sống có thể khá hơn được? Ta không nên oán trách cuộc đời mà chúng ta tự oán trách ta. Ta phải tự hỏi mình: mình đã làm gì để cuộc sống của mình ngày càng vươn tới niềm vui và hạnh phúc hơn? Cuộc đời nào có lấy mất của ai tất cả đâu và cũng không giành cho ai tất cả. Nếu ta tin yêu cuộc sống thì chúng ta sẽ tìm lấy niềm vui, niềm lạc quan để sống, chúng ta sê tìm thấy hạnh phúc và thấy cuộc đời thật đáng yêu, là “người bạn vui tính và tốt bụng” của ta. Và ngược lại, nếu chúng ta cáu ghét với cuộc đời, xa lánh cuộc đời thì cuộc đời sẽ cáu ghét và xa lánh ta. Đúng là: “Cuộc đời là một tấm soi, cau mặt với nó, nó sẽ cau mặt trả lại chúng ta ngay; nếu mỉm cười với nó, nó sẽ trở thành người bạn vui tính và tốt bụng" như bà Thác-kơ-rê đã nói.
Tóm lại, một lần nữa chúng ta có thể khẳng định câu nói trên của bà Thác-kơ-rê là một chân lí, là một bài học có giá trị vô cùng to lớn đối với chúng ta khi còn học tập và khi bước vào đời, nó là kim chỉ nam trong cuộc sống của mỗi con người chúng ta. Câu nói này không những chỉ đúng đối với mỗi con người mà còn đúng đối với mỗi dân tộc, như dân tộc ta chẳng hạn. Nếu trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta mà ông cha ta không có niềm tin vào sức mạnh của lòng yêu nước, yêu độc lập, yêu tự do, không quyết tâm đấu tranh chống phong kiến phương Bắc xâm lược, chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mĩ thì làm sao chúng ta có được một dải giang sơn gấm vóc từ Bắc chí Nam như ngày hôm nay, làm sao thế giới biết hai chữ Việt Nam, mà có lẽ chúng ta đã trở thành một châu, một quận, một huyện, một xứ thuộc địa hay một tiểu bang nào đó của bọn phong kiến, thực dân, đế quốc nào đó, làm gì có đất nước Việt Nam trên bản đồ thế giới. Câu nói trên của bà Thác-kơ-rê mãi mãi là bài học làm người sâu sắc cho mỗi con người chúng ta.
Bàn luận câu cổ ngữ: “Ngọc vô cùng quý giá, nhưng ngọc tâm hồn còn quý giá hơn nhiều” - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Sống ở trên đời đã mấy người có ngọc làm gia bảo, làm đồ trang sức, làm tài sản? Thế mà cổ ngữ lại có câu: “Ngọc vô cùng quý giá, nhưng ngọc tâm hồn còn quý giá hơn nhiều”.
Một sự so sánh nhiều ý nghĩa, giúp cho mỗi chúng ta hiểu rõ và trân trọng giá trị của ngọc tâm hồn.
1. Ngọc còn có tên là hạt minh châu rất quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, hơn hẳn vàng, Ngọc rất cứng, có màu sắc lóng lánh, đủ loại: bạch ngọc, hồng ngọc, ngọc lam, huyền ngọc, ngọc lưu li... Ngọc được chế tác thành nhiều vật dụng tuyệt dẹp: chén ngọc, ấn ngọc, tượng ngọc, đồ nữ trang... Trên thị trường thế giới, có những viên ngọc giá nhiều triệu đô la.
Thật vậy, ngọc vô cùng quý giá. Đã mấy ai sỡ hữu được ngọc; có ngọc làm tài sản, làm đồ gia bảo?
2. “Nhưng ngọc tâm hồn còn quý giá hơn nhiều” - tại sao?
Trong câu cổ ngữ này, ngọc tâm hồn là một ẩn dụ, một hình tượng nhằm khẳng định, ngợi ca tâm hồn đẹp hơn, trong sáng hơn, quý giá hơn thứ ngọc vật chất.
Tâm hồn thì người nào chẳng có, nhưng ngọc tâm hồn thì không phải ai cũng có. Không phải đá nào cũng có ngọc. "Người ba đấng, của ba loài” (Tục ngữ). Không phân biệt tuổi tác, giới tính, học vấn, địa vị xã hội... mà có ngọc tâm hồn.
Một em bé học sinh nhảy xuống hồ Bảy Mẫu cứu bạn thoát khỏi chết đuối. Một cụ già “thất thập cổ lai hi”, trước lúc qua đời gửi lại sổ tiết kiệm, với lời trăng trói “gửi tặng các cháu mồ côi”. Một thầy thuốc giàu y đức cứu chữa được nhiều người bệnh mà không hề lấy tiền công, tiền thuốc,... Đó là những tấm gương sáng ngời ngọc tâm hồn mà báo chí từng ngợi ca, hàng triệu người ngưỡng mộ.
Không phải có học vấn cao, chức vụ cao, giàu sang phú quý... mà có ngọc tâm hồn. Người có ngọc tâm hồn là người giàu tình thương, thương mình, thương người, biết san sẻ, đồng cảm, cưu mang đồng loại. Có tấm lòng “thương người như thể thương thân", coi trọng tình người hơn vàng bạc... là có ngọc tâm hồn.
Phong cách sống của người có ngọc tâm hồn rất đẹp: thanh cao, bao dung, lễ độ. Khổng Tử có nói: “Văn nhã, hòa khí, khiêm tốn là cốt cánh kẻ sĩ”. Phải chăng văn nhã, hòa khí, khiêm tốn là ngọc tâm hồn?
Cách ứng xử của người có ngọc tâm hồn bất cứ hoàn cảnh nào, tình thế nào đều thể hiện một tâm thế, một bản lĩnh rất đẹp, như người xưa đã nói: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
3. Ngọc tâm hồn là một giá trị tinh thần, có thể biến đổi trong thời gian và không gian. Nó có thể phai mờ, cũng có thể mỗi ngày thêm tỏa sáng. Cho nên phải tu dường, rèn luyện như ông cha từng nhắc nhở: “Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Trang sách giáo khoa và những lời dạy dỗ, giáo huấn của thầy cô giáo là những nhân tố bồi đắp nuôi dưỡng ngọc tâm hồn của tuổi trẻ.
Tiếng ru, điệu hát của bà, của mẹ là chất liệu hình thành và làm sáng trong ngọc tâm hồn của tuổi thơ. Có đứa con, đứa cháu nào dám quên?
Mẹ ru cái lẽ ở đời,
Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn.
Bà ru mẹ, mẹ ru con,
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa - Nguyễn Du)
Nhân dân ta có nhiều câu ca trở thành điệu ru, tiếng hát nói về ngọc tâm hồn, mà nhiều người luôn nhắc nhở để làm bài học:
4. Tóm lại, “Ngọc vô cùng quý giá, nhưng ngọc tâm hồn còn quý giá hơn nhiều”. Ngọc tâm hồn là thứ tài sản tinh thần vô giá của đời người.
Người có ngọc tâm hồn thật đáng quý trọng.
Tuổi trẻ cần phấn đấu học tập văn hóa ngoại ngữ, khoa học kĩ thuật, và rèn luyện tu dưỡng đạo đức để có ngọc tâm hồn, ngẩng cao đầu trước thiên hạ. Đừng nên “ăn xổi ở thì”, mà phải biết: “Vô kiến tiểu lợi, vô cầu tốc thành”, nghĩa là không coi trọng cái lợi nhỏ trước mắt, không vội vàng để mong thành đạt.
Bàn luận về: Truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Dân tộc ta có truyền thống tôn sư trọng đạo. Đó là một truyền thống tốt đẹp của một dân tộc văn hiến và hiếu học. Từ xa xưa đã có câu ca:
Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy
Hoặc thâm thúy hơn, ông cha ta cũng từng nhắc con cháu: Nhất tự vi sư, bán tự vi sư (Một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy).
Tôn sư là đề cao, tôn vinh, coi trọng người thầy. Vì sao vậy? Người thầy dạy chữ, dạy kiến thức cho ta, đem đến cho ta những hiểu biết để ta sống tốt hơn, có ích hơn. Người thầy lại dạy ta đạo lí, nhân cách để ta biết làm người trong xã hội. Vai trò người thầy là hết sức quan trọng, không thể thiếu đối với bất cứ một quốc gia, dân tộc nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Thế thì sao lại không tôn vinh, đề cao người thầy? Đây là tôn vinh một con người đã góp phần đem lại lợi ích cho cả một dân tộc. Sự tôn vinh này xuất phát từ chức năng cao quý và trách nhiệm lớn lao của người thầy.
Trọng đạo là gì? Trong kết câu hai vế cân đối tôn sư/trọng đạo, nếu tôn sư là tôn vinh người thầy thì trọng đạo là coi trọng nghề dạy học. Đạo ở đây là đạo làm thầy, là nghề dạy học. Nghề dạy học là nghề đáng được coi trọng vì sản phẩm nó đào tạo ra chính là con người, như ai đó đã nói: “Trong các nghề thì nghề dạy học là nghề cao quý nhất”. Nhân dân ta “trọng đạo” chính là trọng cái nghề “trồng người” cao quý ấy, cũng như họ đã tôn vinh người thầy là những “kĩ sư tâm hồn”.
Tôn sư trọng đạo hàm chứa một ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, đó là sự suy nghĩ nhìn nhận đúng đắn và tiến bộ cùa nhân dân ta về một nghề đáng được coi trọng và một con người đáng được tôn vinh. Nó chứng tỏ dân tộc ta là một dân tộc văn hiến và hiếu học, bởi coi trọng nghề dạy học là một biểu hiện sâu sắc của một dân tộc văn hiến và tôn vinh người thầy là bằng chứng hùng hồn của một dân tộc hiếu học. Nhưng ý nghĩa sâu xa của tôn sư trọng đạo chính là nó gắn bó mật thiết với sự nghiệp trồng người để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực. bồi dưỡng nhân lưc; bồi dưỡng nhân tài làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội phát triển tốt đẹp. Xưa, ông cha ta đã nói “hiền tài là nguyên khí quốc gia”; nay, ta lại khẳng định “giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu” - những điều đó không thể không liên quan đến truyền thông tôn sư trọng đạo của dân tộc ta. Tôn sư trọng đạo đã trở thành một đạo lí, một truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta chính là như thế. Nó là sức mạnh tinh thần, tình cảm lớn lao và bền vững của dân tộc để góp phần xây dựng nên một nước Việt Nam văn hiến và giàu mạnh.
Truyền thống tốt đẹp đó đã được nhân dân ta kế thừa và phát huy trong cuộc sống hiện nay. Trên khắp đất nước, ở đâu cũng vậy, từ thành thị đến nông thôn, miền xuôi đến miền ngược, người dân Việt Nam đều yêu quý, tôn trọng ông thầy, đều dành cho thầy những tình cảm ưu ái nhất, đặc biệt là lòng biết ơn sâu sắc thầy, đã dạy con cái họ nên người. Trong hoàn cảnh nước nhà còn nghèo, đời sống thầy giáo còn nhiều khó khăn, họ đã tận tình giúp đỡ thầy một cách chân thành và cảm động. Các dân tộc vùng cao đã coi các thầy giáo, cô giáo miền xuôi lên dạy học như người con của quê hương minh. Người thầy được tôn vinh thì nghề dạy học cũng được coi trọng. Không phải ngẫu nhiên mà giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, và ngày 20-11 hằng năm đã trở thành ngày hội lớn của toàn dân đế tôn vinh người thầy và nghề dạy học cao quý. Hình ảnh cha mẹ học sinh tặng hoa các thầy, cô giáo trong ngày 20- 11 và cả những cán bộ cấp cao của Đàng và Nhà nước đến thăm thầy giáo cũ đã nói lên sâu sắc truyền thông và đạo lí cao đẹp đó. Từ một đạo lí truyền thống của dân tộc, tôn sư trọng đạo đã mang một ý nghĩa cách mạng mới trong thời đại ngày nay gắn liền với tư tưởng “trồng người” cua Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nó không chỉ là đạo lí, tình cảm mà còn là tinh thần, sức mạnh, hành động cách mạng để đưa đất nước đi lên ngày càng giàu mạnh, văn minh. Đó là nét mới của truyền thống tôn sư trọng đạo trong cuộc sống hiện nay của nhân dân ta.
Bước sang thế kỉ XXI, cuộc sống có nhiều đổi mới kéo theo sự đổi mới của giáo dục, của vai trò người thầy và nghề dạy học. Trên cơ sở kế thừa, giữ gìn những mặt tốt đẹp của truyền thống, chúng ta cần biết phát huy và vận dụng đạo lí tôn sư trọng đạo một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng mới để đạt kết quả tốt đẹp nhất.
Bình luận ý kiến sau đây của Các Mác: "Tình bạn chân chính là viên ngọc quý" - Ngữ Văn 12
Câu trả lời của bạn
Cùng với tình yêu, nhiều người trong cuộc đời còn có tình bạn, sống trong tình bạn. Đã có nhiều ý kiến, nhiều câu ca, câu thơ nói về tình bạn. Nhà triết học vĩ đại Các Mác từng nói: “Tình bạn chân chính là viên ngọc quý”.
1. Ngọc là một loại đá - kim loại rất cứng, màu sắc óng ánh tuyệt đẹp, rất quý hiếm; quý hiếm hơn cả vàng, thường được chế tác thành đồ nữ trang, pho tượng. Ngọc có nhiều loại, đủ màu sắc như hồng ngọc, bạch ngọc, ngọc lam, ngọc phỉ thúy, bích ngọc, ngọc trai. Các vua chúa ngày xưa hay dùng ngọc để làm quốc ấn, quốc bảo - biểu tượng cho vương triều.
Tinh bạn chân chính là tình bạn trong sáng, tâm đầu ý hợp, thủy chung, hết lòng yêu thương nhau, tôn quý nhau; không vụ lợi, không dung tục tầm thường.
Các Mác dùng lời nói so sánh “tình bạn chân chính là viên ngọc quý" nhằm hình tượng hóa, cụ thể hóa tình bạn chân chính là tình bạn đẹp, tình bạn quý, rất đáng trân trọng, ngợi ca.
2. Nếu ngọc có nhiều loại thì tình bạn cũng có nhiều thứ: bạn học thời ấu thơ, bạn cùng trang lứa (đồng tuế), bạn cùng quê (đồng hương), bạn đồng khoa, bạn buôn bán làm ăn, bạn đồng đội, bạn chiến đấu...
3. Tại sao “tình bạn chân chính là viên ngọc quý?".
Bạn chân chính yêu thương nhau, quý trọng nhau như anh em ruột thịt, cùng chung chí hướng, giúp đỡ nhau học hành, làm ăn. Bạn chân chính sẽ cùng nhau chia ngọt sẽ bùi với nhau, nghèo khổ, hoạn nạn có nhau, hết lòng giúp đỡ lẫn nhau vượt qua vận hạn. Bạn chân chính vào sinh ra tử có nhau, nghèo khổ, vinh hiển đều gắn bó với nhau, trọn đời sắt son chung thủy. Tình bạn tri âm, tri kỉ, tình bạn chiến đấu, tình đồng chí... là viên ngọc quý, sáng trong mãi trong cõi đời.
Sống trong tình bạn chân chính, ai cũng tự hào cảm thấy mình vô cùng hạnh phúc, “lớn lên” trong cuộc đời, tự tin trước mọi gian nan thử thách.
Bá Nha - Tứ Kì, Lưu Bình - Dương Lễ, Mác - Ăng-ghen... là những gương sáng tuyệt đẹp về tình bạn chân chính thủy chung.
Có những câu ca nói về niềm hạnh phúc được sống trong tình bạn chân chính, được gặp gỡ bạn hiền:
Ra đi gặp được bạn hiền,
Sướng bằng ăn quả đào tiên trên trời.
(Ca dao)
Cụ Tam nguyên Yên Đổ có bài thơ kiệt tác Khóc Dương Khuê nói lên một tình bạn thủy chung của hai nhà nho ngày xưa. Một tình bạn chân chính tuyệt đẹp. Lời thơ thấm đầy lệ:
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Phận đấu thăng chẳng dám than trời.
Bác già tôi cũng già rồi.
Biết thôi thôi thế thi thôi mới là (...)
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương.
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.
Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu ca ngợi tình bạn chiến đấu của hai người lính cụ Hồ trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), nhiều người trong chúng ta đã được học và nhớ:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
4. Trên đời, có bạn chân chính sắt son thủy chung, lại có thứ bạn sớm nắng chiều mưa của bọn lừa thầy phản bạn. “Tin bạn mất vợ, tin bợm mất bò” là câu tục ngữ chê trách “tình bạn” của kẻ bất lượng. Có trải qua hoạn nạn, khó khăn mới đo được tình bạn; tình bạn chân chính hay cách sống của kẻ vụ lợi, cơ hội:
Khi vui thì vỗ tay vào,
Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai!
(Ca dao)
5. Sống ở đời có mấy người không có bạn? Bạn thân hay bạn sơ. Có một tình bạn chân chính, bạn tri âm tri kỉ đâu phải dễ. Nguyễn Sưởng, một danh sĩ đời Lê từng nói: “Hồ hải thập niên tri kỉ thiểu”.
Nghĩ về những gương sáng về tình bạn trong cuộc đời xưa nay, gần xa nhắc lại câu nói của Các Mác về tình bạn, tuổi trẻ mỗi chúng ta đang sống trong thời hội nhập của nền kinh tế thị trường, chắc đã nhìn thấy bao kẻ ăn chơi đua đòi mà sa ngã. Câu tục ngữ “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” là bài học sâu sắc mà mỗi chúng ta cần nhớ khi chọn bạn và kết bạn.
Bạn nghĩ gì về bạn và chọn bạn trong cuộc sống - Ngữ Văn 12
Câu trả lời của bạn
Sống trong xã hội, hầu như người nào cũng có bạn hữu. Có bạn tốt và có bạn xấu. Bạn tri âm, bạn tri kỉ, bạn chí thân... là nói về bạn tốt. Trái lại có loại bạn sớm nắng chiều mưa, có kẻ lừa thầy phản bạn, khi vui thi có bạn, lúc hoạn nạn thì hết bạn!
Không Tử chia bạn tốt ra làm ba loại: bạn chính trực, bạn biết giữ chữ tín, bạn có kiến thức uyên bác. Đó là những con người thẳng thắn khuyên ngăn những sai lầm, khiếm khuyết của bạn, không bao giờ sai hẹn, sai lời, lúc hoạn nạn, khó khăn, lúc vui, buồn, lúc sống, chết đều có nhau; bạn có văn hóa, có học vấn, từng trải, có thế giúp ta mở mang kiến thức, vươn lên một tầm văn hóa mới: thành người có học và có hạnh, một nhân cách văn hóa. Câu chuyện cổ, vở chèo cổ rất được nhân dân ta yêu thích mang tên Lưu Bình - Dương Lí ca ngợi tình bạn đẹp thủy chung như thế. Nhà thơ Chính Hữu có bài thơ Đồng Chí nói về thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954) từng gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau cùng chung lí tưởng chiến đấu cao cả.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đòi tri kỉ...
.. Đêm nay rừng hoang sưang muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Trong cuộc sống, có nhiều tình bạn rất đẹp: giúp nhau công việc, vốn liếng làm ăn, vượt qua số phận, vượt qua đói nghèo, vươn lên làm giàu. Có nhiều thứ tình bạn: bạn đồng học, bạn tuổi thơ, bạn đồng hương, bạn đồng khoa, bạn đồng tuế Bạn tuổi thơ trong sáng, hồn nhiên của thời áo trắng là thật đẹp. đáng tự hào. Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến và Tiến sĩ Dương Khuê là hai bạn đồng khoa cuối thế ki XIX. Đọc bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến, ai cũng cảm động về một tình bạn thủy chung:
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau,
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong lúc gặp gỡ khác đâu duyên trời.
Khổng Tử cũng chia bạn xấu làm ba loại: bạn chỉ biết khua môi múa mép, bạn miệng nam mô bụng bồ dao găm, bạn chỉ ba hoa nói mà không làm. Đó là những kẻ đạo đức kém, hai mặt tráo trở, sẵn sàng bán ré lương tâm, bán rẻ bạn bè cho quỹ dữ. Tục ngữ có câu: “Tin bạn mất vợ, tin bợm mất bò”. Bạn xấu nhan nhản khắp nơi; loại bạn này đáng sợ lắm!
“Buôn có bạn, bán có phường”, “Ra đi vừa gặp bạn hiền /Sướng bằng ăn quá đào tiên trên trời". Bạn hiền là bạn tốt. Trong cuộc đời, ta không nên tin và kết bạn với những người chí biết nói mà không hề làm, chỉ biết đàn đúm vui chơi hưởng lạc, thấy lợi quên bạn, “tham vàng bỏ ngãi”, khi bạn gặp bất hạnh thì ngoảnh mặt làm ngơ, thậm chí còn ngấm ngầm hại bạn.
Kết giao bạn bè có quan hệ rất lớn đến sự trưởng thành, đến sự thành bại trong sự nghiệp. Tuổi thơ được sống trong tình bạn đẹp, được kết giao với bạn tốt mà trở nên chăm ngoan, học giỏi. Nếu giao du với bạn xấu thì sớm muộn cũng trở thành ăn chơi đua đòi, nhác học, trốn học, bỏ học, thành học sinh hư, cá biệt. “Gần mực thì đen" là điều ta cần biết, cần nhớ.
Hậu quả của việc chơi với bạn xấu, kết giao với bạn xấu thật đáng sợ. Có người bị bạn xấu lừa mà bị tổn thất tài sản, trắng tay. Có người chơi với bạn xấu mà dấn sâu vào vòng tù đày, tội lỗi. Có người không thận trọng khi kết bạn mà bị bạn lừa, tan nát cả gia đình, thậm chí mất cả mạng sống của mình.
A dua theo bạn xấu là không nên. Phải tránh xa những kẻ “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Có trải qua hoạn nạn, khó khăn, ta mới phân biệt được bạn xấu, bạn tốt, bạn hiền, bạn thủy chung...
Bước vào đời, không ai có thể sống cô đơn, cô độc, cần được sum vầy, trong bạn bè. Người xưa có nhắc: “Phải quảng giao để tìm tri âm, tri kỉ”, để được sống hạnh phúc, cổ ngữ có câu: “Nhân sinh, đắc nhất tri kỉ, túc hĩ", nghĩa là trên đời mà có được một người bạn tri kỉ, thế là đủ”. Có phải vì thế mà Nguyễn Sưởng, một danh sĩ thời Trần đã viết: “Trải qua biển hồ mười năm mà ít tri kỉ’’ (Hồ hải thập niện tri kỉ thiểu). Đó là sự thật, vì ở khắp mọi nơi, sỏi, đá thì nhiều mà vàng, ngọc thì ít!
Chọn bạn mà học hành, làm ăn. Chọn bạn để được sống hạnh phúc trong tình người. Một vấn đề, một việc rất hệ trọng, không đơn giản.
Anh (chị) nghĩ gì về thời gian và niềm tin? - Ngữ Văn 12
Câu trả lời của bạn
Nhiều năm trước, khi khai quật một ngôi mộ cổ Ai Cập, một nhà khảo cổ đã tìm thấy những hạt giống vùi trong một miếng gỗ. Khi đem gieo, những hạt giống ấy đã nảy mầm, bộc lộ sức sống tiềm tàng sau hơn 3000 năm bị chôn vùi.
Phải chăng điều kiện sống mà chúng ta, vì không nhận ra được những tiềm năng vốn có của mình đã cam chịu sống trong thất bại và tuyệt vọng? Hay trong chúng ta cũng có những hạt mầm của những khả năng, như một sự thôi thúc vươn lên mạnh mẽ đến nỗi mọi vỏ cứng của nghịch cảnh cũng sẽ bị chọc thủng? Hãy suy ngẫm câu chuyện từng được phát rộng rãi trên Assciated Press vào ngày 23-5-1984
Khi còn là một cô bé, Mary Groda không thể học đọc và học viết được. Các chuyên gia cho rằng, cô mắc chứng chậm phát triển. Khi đến tuổi dậy thì, cô lại bị gán cho là “kẻ bất trị” và bị giam 2 năm trong trại học và cô học 16 giờ mỗi ngày. Sự nỗ lực của cô đã được đền đáp bằng tấm bằng tốt nghiệp trung học.
Thế nhưng, những bất hạnh vẫn tiếp tục đến với Mary. Sau khi rời trại cải tạo, cô mang thai mà không nhận được sự trợ giúp nào. Rồi 2 năm sau, lần mang thai thứ hai đã khiến cô bị một cơn đột quỵ, mất khả năng đọc và viết mà khó khăn lắm cô mới học hết được. Với sự trợ giúp và ủng hộ của người cha, Mary đã chiến đấu chống trả bệnh tật, giành lại được những gì đã mất.
Trong điều kiện tài chính eo hẹp, Mary cố gắng vượt qua tất cả. Để thoát khỏi bước đường cùng cô nhận nuôi 7 đứa trẻ cùng lúc. Cùng thời gian đó, cô bắt đầu học tại một trường cao đẳng cộng đồng. Khi hoàn thành khóa học, cô nộp đơn và được chấp thuận vào học tại Trường Y khoa Albany.
Vào mùa xuân năm 1984, tại Oregon, Mary Groda Lewis, giờ đây đã lập gia đình, bước lên sân khấu nhận tấm bằng tốt nghiệp. Không ai biết được Mary đang nghĩ gì khi cô đưa tay nhận tấm bằng minh chứng cho sự tự tin vào bản thân và lòng kiên trì của mình. Tấm bằng đã cho cả thế giới biết rằng, nơi đây, ngay tại một điểm rất nhỏ trên trái đất này, có một con người dám ước mơ một giấc mơ tưởng chừng không thể, một con người đã khẳng định với chúng ta về khả năng tuyệt diệu mà con người có thể làm được. Nơi đây, người đang hiên ngang ngẩng cao đầu chính là Mary Groda Lewis, tiến sĩ Y khoa.
Hãy khao khát và nuôi dưỡng niềm tin. Hãy dành thời gian cho những ước mơ, vì đó là động lực vàng giúp bạn đạt được những thành tựu lớn nhất của cuộc đời.
Có ý kiến cho rằng: "Có ba điều trong cuộc đời mỗi người, nếu đi qua sẽ không lấy lại được: thời gian, lời nói và cơ hội". Hãy bàn luận ý kiến đó - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Kiếp nhân sinh dài hay ngắn? Làm người khó hay dễ? Có biết bao câu hỏi được mỗi người, tự đặt ra để hỏi mình, có biết bao câu ca, tiếng hát, danh ngôn sâu sắc. lí thú, đã trở thành hành trang vào đời của mỗi người, mỗi chúng ta. Làm sao để sống đẹp. sống tốt, vươn lên làm chủ với ý kiến sau đây:
“Có ba điều trong cuộc đời mỗi người, nếu đi qua sẽ không lấy lại được: thời gian, lời nói và cơ hội”.
Mỗi người là một cá thể trong cõi nhân sinh. Sướng hav khổ, vui hay buồn, giàu sang hay nghèo hèn, khỏe mạnh hay đau ốm, trường thọ hay đoản thọ mỗi người một số phận, một cảnh ngộ, nào ai giống ai? Đúng thời gian, lời nói và cơ hội là những “tài sản’’ vô cùng quý báu đối với mỗi người. Những thứ ấy để trôi qua thì không bao giờ lấy lại được. Do đó, phải sống như thế nào, sống tích cực hay buông xuôi, sống đẹp hay sống vô vị, sống nhạt nhẽo, sống thừa như "phường giá áo túi cơm!”.
Trước hết, nói về Thời gian là vàng; thời gian quý hơn vàng. Quỹ thời gian là vốn sống của mỗi người. Ăn ngủ, vui chơi, học hành, lao động... của bất cứ ai đều diễn ra theo ngày đêm, bốn mùa, năm tháng. Con người dùng thì giờ để lao động sản xuất ra của cải vật chất và mọi giá trị tinh thần, để sống trong no ấm, hạnh phúc. Con người cũng dùng thời gian để học hành, mớ mang trí tuệ. vươn lêu tầm cao của học vấn, văn minh.
Quỹ thời gian sinh lí thì mọi người như nhau, nhưng quỹ thời gian tâm lí của mỗi người lại khác nhau. Có người sống trong tâm trạng: Ba thu dồn lại một ngày dài ghê”. Có người “uống rượu tiêu sầu” nên cảm thấy: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy - Kiếp phù du trông thấy cũng nực cười!” Có người lại hối hả “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm”, nhất là bà con dân cày đã thức khuya dậy sớm, đã một nắng hai sương cuốc bẫm cày sâu để làm ra những mùa vàng, những bát cơm đầy dẻo thơm.
Thời gian trôi nhanh “vun vút như tên bay, như bóng câu (ngựa) lướt qua cửa sổ, như nước chảy qua cầu". Thời gian một đi không trở lại. Sinh, trưởng, lão, bệnh, tử và vòng đời của mỗi người. Tuổi trẻ thường phung phí thì giờ, cho nên lúc mái tóc chớm bạc mới hối hận, mới tiếc nuối: “Ôi kiếp nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như tuyết tan..”.
Kẻ lười biếng nên sống buông thả: “Ăn no rồi lại nằm khèo - Nghe giục trống chèo, vác bụng đi xem”. Dân gian đã châm biếm: “Đời người có một gang tay - Ai hay ngủ ngày còn có nửa gang!” Muốn chiếm được bảng vàng, các thí sinh, sĩ tử phải “dùi mài kinh sử", phải “Thập niên đăng hỏa”, ở nước ta đã có những “vua lợn”, “vua quỷ”: như Lê Ngọa Triều, Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, nhưng cũng có những vị minh quân như Lê Thánh Tông: “Trống đời canh, còn đọc sách - Chiêng xê bóng, chửa thôi chầu”.
Kẻ lười biếng, ăn không ngồi rồi thì lúc nào cũng cảm thấy thừa thời gian. Người siêng năng cần cù thì luôn cảm thấy thiếu thời gian. Biết làm chủ thời gian là biết sống tích cực. Trong bài thơ Vội vàng viết vào thời mười tám, đôi mươi, thi sĩ Xuân Diệu đã thể hiện một tâm thế tuyệt đẹp:
Mỗi buổi sớm Thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Vì cảm nhận được "Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật - Không cho dài thời trẻ cùa nhân gian”, nên chàng thi sĩ họ Ngô mới “vội vàng”, muôn “say”, muốn “riết”, muốn “ôm”...
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng...
Thật vậy, thời gian rất quý, thời gian trôi nhanh, một đi không trở lại, nên không được vung phí thời gian, phải biết làm chủ thời gian.
Thời gian mải miết trôi qua, không thể nào lấy lại được, vậy lời nói thì thế nào? Người xưa từng nói: Tên bắn đi thì máu sẽ đổ, và thịt nát xương tan, đô thị hoang tàn Tên bắn đi làm sao thu hồi được? Lời đã nói ra làm sao lấy lại được? "Lời nói gió bay" (tục ngữ). Lời nói là vàng. Đó là những lời nói tốt đẹp, mang tình người, hoặc là lời ngợi khen, hoặc là lời động viên, an ủi. Hoặc là lời ông bà, cha mẹ báo ban con cháu. Hoặc là lời thầy, cô dạy bảo học trò. Hoặc là lời bạn bè tâm sự. Hoặc là tiếng nói tâm tình cùa lứa đôi. Hoặc là lời chào hỏi ân cần. vui vẻ của đồng loại. Lời nói dù tốt đẹp, nhân văn đến đâu cũng khôug thể nào lấy lại được.
Còn có những lời nói độc địa, tiếng chửi rủa, quát tháo. “Lời nói đọi máu” (Tục ngữ). Có những lời nói có thể làm người nghe đau đớn, tủi nhục, căm giận, nhưng khi đã được “phun ra” thì làm sao lấy lại được? Nhất là những lời nói tục tằn, thô lỗ, phàm phu càng không lấy lại được
Đất xấu trồng cây khẳng khiu,
Những người thô tục nói điều phàm phu!
Cũng như tiếng chim hót nghe rất vui tai, câu hát, lời ru của bà, của mẹ tuy “gió đưa về trời” những vẫn thấm sâu vào tâm hồn con cháu. Đúng như nhà thơ Nguyễn Duy đã viết:
Cái cò... sung chát đào chua
Câu ca mẹ hát gió đưa về trời
Ta đi trọn kiếp con người.
Cũng không đi hết những lời mẹ ru.
(Ngồi buồn nhở mẹ ta xưa)
Khi lời nói đã “xuất khẩu”, dù hay, dở thế nào cùng không lấy lại được, do đó, lúc nói năng phải đắn đo, suy nghĩ cẩn trọng. Không thể ăn nói văng mạng được. “Ăn nhai, nói nghĩ”, phải “uốn lưỡi bảy lần mới nói" - đó là lời khuyên về sự ăn nói. Trong chúng ta, hầu như ai cũng nhớ câu:
Lời nói chẳng mất tiền mua.
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Lời nói thể hiện tư tưởng, tình cảm, cách ứng xử, bộc lộ cá tính, nhân cách văn hóa của mỗi người. Lời nói khi đã phát ngôn thì không thể nào lấy lại được, do đó, chúng ta phải học cách ăn nói văn minh, lịch sự, lễ phép. Và phải thận trọng, lễ độ trong nói năng, ứng xử.
Thời gian đã trôi, không thể chạy ngược dòng, lời nói đã phát ngôn không thể thu hồi, còn cơ hội có lấy lại được không?
Cơ hội là dịp may hiếm có, mang tính khách quan, ngoài mong muốn chủ quan của mỗi người. Có loại cơ hội nghìn năm mới có một. Đời người có mấy cơ hội tốt đẹp trong học hành, thi cử, làm ăn?
Sau gần một thế kỉ làm trâu ngựa cho ngoại bang, nhân dân ta bao phen quật khởi vùng dậy, nhưng đã bị kẻ thù "tắm trong những bể máu”. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Hồ Chủ tịch và Đảng ta đã chủ động “Chớp lẩy cơ hội” Pháp chạy, Nhặt hàng Đồng Minh, là lãnh đạo nhân dân ta làm cuộc Cách mạng tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nhờ cơ hội phát triển nền kinh tế thị trường mà có nhiều doanh nhân trẻ, nhà quản lí tài ba xuất hiện, góp phần làm đổi thay bộ mặt đất nước.
Nhờ cơ hội mở rộng giao lưu văn hóa, giáo dục với các nước trên thế giới, mà hiện nay Việt Nam có hàng ngàn, hàng vạn học sinh, sinh vièn du học ở Anh, Pháp, Mỉ, Nhật... Đó là những “cơ hội đỏ” giúp nhiều tài năng trẻ được đào tạo, hứa hẹn tương lai tươi sáng.
Bao giờ cũng thế, vận may rất hiếm, cơ hội một đi không trờ lại. Vì thế, con người phải cỏ ý thức chuẩn bị tốt mọi điểu kiện chù quan, mọi thực lực để chủ động đón bắt cơ hội. Không thể chần chừ do dự, không thể “há miệng chờ sung’’ mà phải có ý chí, có quyết tâm, sẵn sàng nắm bắt cơ hội, để thi thố tài năng, để làm nên sự nghiệp.
Tuổi trẻ phải 12 năm (hoặc lâu hơn nữa) siêng năng, chăm chỉ học hành, rèn luyện mới có thế tiến xa được. Các kì thi đại học, cao đẳng hàng năm là “cơ hội vàng” để thanh niên, thiếu niên biến mơ ước thành hiện thực. Học hành lười biếng, thích ăn chơi đua đòi thì sao đón được “cơ hội vàng”, dù trước ngày thi có theo nhau vào Văn Miếu “xoa đầu các cụ rùa", thắp hương cầu khẩn bia Tiến sĩ! Chao ôi! Cơ hội đến rồi qua nhanh, không lấy lại được cơ hội, dù có phép thánh thần!
Tóm lại, “có ba điều trong cuộc đời mỗi người, nếu đi qua sẽ không lấy lại được: thời gian, lời nói và cơ hội” - là một lời khuyên đẹp, một lời nói hay, hàm chứa chất triết lí và đạo đức. Phải biết sống tích cực, sống chủ động, phải biết nỗ lực học tập và siêng năng lao động, nâng cao kiến thức, tu dưỡng đức hạnh, nâng tầm văn hóa của bản thân mình lên cao, ngang tầm thiên hạ. Phải biết quý trọng thời gian, thì giờ. Phải biết “Học ăn, học nói, học gói, học mở” để giao tiếp văn minh lịch sự, trung thực, lễ phép. Phải biết chuẩn bị đức tài để đón nhận thời cơ, cơ hội.
Câu nói trên đây luôn luôn nhắc nhở mỗi chúng ta phải học cách sống, phải biết sống, sống đẹp để trở thành con người văn hóa khi bước sang thế kỉ XXI.
Ý kiến của anh (chị) về câu tục ngữ: "Anh em khinh trước, làng nước khinh sau" - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Trong dân gian vẫn lưu truyền nhiều câu tục ngữ nói về khen/chê, khinh/trọng. Mỗi câu tục ngữ là một bài học sâu sắc có tác dụng giáo dục đối với bất cứ ai, nhất là lớp người trẻ tuổi trong xã hội.
Câu tục ngữ sau đây, nhiều người vẫn nhớ, vẫn nhắc:
Anh em khinh trước, làng nước khinh sau.
Khinh là sự đánh giá và chê bai, coi thường. Chữ khinh thường gắn liền với các từ ngữ: khinh thường, khinh bỉ, coi khinh...
Một kẻ nào đó, nhân cách lèm nhèm, có việc làm xấu xa, thối nát... sẽ bị mọi người coi khinh và xa lánh.
Trong gia đình, con cháu bất hiếu, vợ chồng bất hòa, anh em lục đục, sẽ bị mọi người trong nhà, trong gia tộc “khinh trước”. Một kẻ mà đã bị “anh em khinh trước” là kẻ vô cùng suy đốn; từ cử chỉ thái độ đến hành động, việc làm đều xấu xa, đồi bại, phương hại đến đạo lí, nếp nhà, hành động, việc làm đều xấu xa, đồi bại, phương hại đến đạo lí, nếp nhà, đến gia phong. Những kẻ cờ bạc rượu chè, nhác làm siêng ăn, tham lam, tục tằn... sẽ bị “anh em khinh trước”.
Và khi đã bị “anh em khinh trước” thì con người ấy không còn chỗ đứng trong xóm dưới làng trên, trong làng ngoài xã nữa. Khi đã bị “làng nước khinh sau" thì con người ấy còn dám vác mặt đi đâu nữa. Chỉ còn cúi gầm mặt mà đi. Mọi quan hệ chòm xóm, láng giềng chẳng còn gì nữa. Mọi người đều “sợ” và xa lánh. Kẻ bị làng nước coi khinh sẽ sống trong cô độc, tủi nhục, làm hại đến danh dự chồng con, vợ con; làm nhục ông bà, cha mẹ, anh em.
“Anh em khinh trước, làng nước khinh sau”, câu tục ngữ nghĩ có tám chữ, điệp lại hai lần chữ “khinh” đã nói lên một cách cô đúc sức mạnh của gia phong, của lệ làng.
Câu tục ngữ nêu bật sức mạnh tính giáo dục đạo đức của gia đình và làng xã; chỉ cần nghe ông bà, cha mẹ nhắc lại một lần là con cháu nhớ mãi. Nhờ đó mà nếp nhà được giữ gìn, gia phong được đề cao, thuần phong mĩ tục được phát triển.
Kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam có nhiều câu nêu bật sự khinh/trọng, khen/chê của cộng đồng đối với một con người nào, nhất là đối với những kẻ sa sút, sa đọa, tha hóa. “Bia miệng” thế gian thật đáng sợ:
Hôm kia kẻ đón người đưa.
Bây chừ đi sớm về trưa một mình.
Ngày xưa võng lọng nghênh ngang,
Bây giờ cúi mặt mo nang che đầu.
Xây dựng nền đạo đức mới, xây dựng gia đình văn hóa, thiết nghĩ câu tục ngữ “Anh em khinh trước, làng nước khinh sau” có tác dụng gấp nhiều lần những bài luận thuyết dài dòng.
Thomas Carlyle cho rằng:
Những giá trị bên ngoài rồi sẽ biến mất, những giá trị sâu bên trong vẫn luôn như vậy, ngày hôm qua, ngày hôm nay và mãi mãi.
Anh/chị hãy viết bài nghị luận trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên.
Câu trả lời của bạn
Giải thích ý kiến:
⇒ Câu nói của Thomas Carlyle nhấn mạnh ý nghĩa của những yếu tố bên trong làm nên giá trị thực chất và bền vững cho con người và cuộc sống.
Bàn luận
Mở rộng - phản đề:
Bài học nhận thức và hành động:
"Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động."
Ý kiến trên của M. Xi-xê-rông (nhà triết học La Mã cổ đại) gợi cho anh/chị những suy nghĩ gì về việc tu dưỡng và học tập của bản thân.
Câu trả lời của bạn
Khi mỗi người trong chúng ta làm một việc tốt, bất kể là việc gì, có ai biết rằng chúng ta đang thể hiện đức hạnh của chính mình. Hay nói cách khác những lời của nhà văn Pháp M. Xi-xê-rông: " Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động".
Mỗi con người khi sinh ra đều co mặt tốt và mặt xấu. Trong mặt tốt, một phần chính là đức hạnh của mỗi người. Đức hạnh là đạo đức, là phẩm chất, là những đức tính tốt đẹp của con người, có sẵn hay phải trải qua quá trình rèn luyện mới có được. Hành động có thể được định nghĩa là những việc làm có thể được bộc lộ hằng ngày, và quan trọng hơn đó là sự thể hiện của đức hạnh. Đó cũng chính là phần còn lại của mặt tốt trong mỗi người. Cả câu nói của nhà văn M. Xi-xê-rông mang ý nghĩa như chính nghĩa gốc của nó. Mọi phẩm chất tốt đẹp cần được thể hiện ở trong những hành động cụ thể.
Một người không phải tự nhiên được biết đến là có đức hạnh, mà điều đó còn phụ thuộc vào những việc làm ý nghĩa mà người ấy đã làm. Đơn giản hơn, đó chỉ là những công việc bình thường, như giúp đỡ người già qua đường nhường chỗ cho phụ nữ và trẻ em trên xe buýt hay biết quan tâm đến người khác và đối xử tốt với mọi người xung quanh. Đó chi là những công việc nhỏ hằng ngày được xuất phát từ một tâm hồn trong sáng, luôn hướng về cái dẹp, cái thiện, điều đó sẽ chính là sự thể hiện của đức hạnh.
Người ta thường nói rằng: "Ý nghĩa là nụ, Lời nói là bông hoa, Việc làm mới là quả ngọt."
Khi ta có ý nghĩa về một việc làm tốt, ta cần nói ra để xem xét. Nhưng không phải là nói suông, ta cần phải thực hiện điều đó. Chúng ta làm điều đó bằng tất cả tấm lòng, biến những điều ấy từ suy nghĩ, lời nói thành vệc làm như thế, như vậy mới tạo thành "quả ngọt". Tuy vậy, vẫn có một số trường hợp cần được xem xét trong từng hoàn cảnh. Nói dối được xem là một hành động xấu và sai. Nhưng trong trường hợp một bác sĩ phải nói dối về bệnh tình của bệnh nhân để người ấy yên tâm tiếp tục điều trị, đó lại là một hành động cao cả. Thế nhưng vẫn còn tồn tại rất nhiều những kẻ thiếu đức hạnh. Họ nói ra những điều lớn lao, cao cả nhưng hành động thì ngược lại, vì thực chất, họ làm vậy vì những mục đích ích kỉ riêng cho chính họ. Chúng ta không loại bỏ họ mà phải làm thay đổi được những con người ấy.
Một xã hội tốt đẹp là một xã hội có những con người làm nhiều việc tốt, biết tu dưỡng bản thân, hoàn thiện tâm hồn. Điều đó được xuất phát từ đức hạnh ta hay cũng chính là sự thể hiện của một con người có mọi phẩm chất tốt đẹp từ đức hạnh. Nhạc sỹ thiên tài người Đức Beettoven có nói "Trong cuộc sống, không có gì cao quý và tốt đẹp hơn là đem hạnh phúc cho người khác". Ý kiến đó có còn nguyên giá trị trong cuộc sống của ngày hôm nay? "Hạnh phúc" chính là cuộc tốt đẹp; niềm vui, sự thỏa mãn về mặt tinh thần, tình cảm của con người... Còn "cao quý" và "tốt đẹp" là những cụm từ có ý tôn vinh, ca ngợi. Câu nói "Trong cuộc sống, không có gì cao quý và tốt đẹp hơn là đem hạnh phúc cho người khác" của Beettoven thể hiện quan niệm sống đẹp, khẳng định, ca ngợi quan niệm sống hướng về cống hiến, vị tha... Trong cuộc sống, ai cùng tìm kiếm hạnh phúc nhưng quan niệm về hạnh phúc của mỗi người khác nhau. Có người coi sự thỏa mãn vật chất, tình cảm của riêng mình là hạnh phúc. Nhưng cũng có không ít người quan niệm hạnh phúc là cống hiến, là trao tặng. Đối với họ, cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi con người biết hi sinh cho hạnh phúc nhân loại. Beethoven quan niệm như thế. Những người biết sống vì người khác, đem lại hạnh phúc cho người khác, là những người có tấm lòng nhân hậu; có cuộc sống đầy ý nghĩa cao cả, đáng trân trọng.. Thật vậy, trong cuộc sống nếu chúng ta đem lại được hạnh phúc cho người khác thì quả là tuyệt vời. Hạnh phúc đó có thể dễ dàng có được khi ta giúp đỡ một cụ già qua đường, hay nhường chỗ cho một phụ nữ có thai trên xe buýt... Tất cả những điều đó thật đơn giản nhưng đã mang lại hạnh phúc cho người khác, làm mọi người vui vẻ. Và không dừng ở đó, hạnh phúc cũng ở tại với chúng ta khi ta làm được một điều tốt đẹp, có ích cho người khác, cho xã hội. Hành động cao cả và tốt đẹp hơn, to lớn hơn chính là hạnh phúc của sự bình yên mà các anh bộ đội, các chiến sỹ Cách mạng đã đem lại cho chúng ta. Tất cả những hy sinh của các anh chỉ để đem lại hạnh phúc cho chúng ta, cho dân tộc. Hạnh phúc ở đây là sự độc lập, tự do cho cả dân tộc. Thật cao quý và tốt đẹp đáng tôn vinh nhường nào!
Việc đem hạnh phúc cho người khác thật đơn giản nhưng cũng rất cao quý. Tuy nhiên trong xã hội vẫn còn nhiều người ngay cả việc nhỏ nhất họ cũng không làm. Một số họ chỉ biết có bản thân, toàn đem lại bất hạnh cho người khác. Trong gia đình, chúng ta cần lên án những người chồng vũ phu, đánh đập vợ con hoặc những đứa con bất hiếu chỉ ăn chơi, thoả mãn nhu cầu cá nhân, làm cha mẹ đau lòng. Tại sao những con người ấy lại nhẫn tâm đem lại bất hạnh cho chính những người thân yêu nhất của mình?... Ngoài xã hội, hiện có một lóp thanh niên, thay vì giúp đỡ người già yếu, họ lại lợi dụng để cướp giật, móc túi... Những kẻ lấy sự bất hạnh của người khác làm hạnh phúc của mình cần đáng bị trừng trị!. "Trong cuộc sống, không có gì cao quý và tốt đẹp hơn là đem hạnh phúc cho người khác". Đó là một quan điểm sống mang tính nhân văn. Nêu có một điều ước thì tôi sẽ ước cho tất cả mọi người trên thế giới này đều được hạnh phúc. Muốn vậy, ngay từ bây giờ mỗi người chúng hãy cố gắng làm thật nhiều điều, dù lớn, dù nhỏ, để đem lại hạnh phúc cho mọi người, cho gia đình và cũng là cho bản thân chúng ta...
Hãy chứng minh rằng: Bảo vệ rừng là nghĩa vụ của tất cả mọi người?
Câu trả lời của bạn
Rừng xanh ngăn ngắt, rừng bạt ngàn, rừng vô tận... Nhưng đừng nghĩ rằng rừng vô tận rồi khai thác bừa bãi để rồi đến một ngày nào đó, rừng bị tiêu diệt và lúc ấy, tai hoạ sẽ vô cùng. Phải làm sao để mọi người đều thấm thìa rằng: rừng mang lại nhiều lợi ích cho con người, con người phải bảo vệ rừng.
Ta thường nói: “Rừng vàng biển bạc”, nhưng nói như thế là hình như chí mới nói đến cái trữ lượng tài sản quý giá mà chưa nói hết những lợi ích vô giá của rừng.
Từ thuở xa xưa, rừng đã là nguồn vật liệu vô tận cung ứng cho cuộc sống con người: tre gỗ để làm nhà, than củi để nấu nướng bữa ăn hằng ngày, để sưởi ấm qua những đêm đông vừa dài vừa giá lạnh. Từ chiếc nón lá của cô nông dân nơi đồng ruộng đến đôi guốc của cô gái thị thành, cái thước kẻ, cái bàn, cái ghế... có cái gì mà không do rừng đưa lại?
Ngày nay, khi nền công nghiệp đã phát triển đến độ tưởng chừng con người đã thay thế được thiên nhiên, thì rừng lại vẫn tiếp tục hiện diện trong các nhà máy. Rừng cung cấp nguyên liệu để sản xuất giấy cho các xưởng in, thành tập vở học trò, thành sách báo, tạp chí, thành tiểu thuyết, thành thơ, thành bách khoa từ điển... Rừng cung cấp nguyên liệu để chế tạo ra những sợi tơ tổng hợp, để thành quần áo, thành những bộ sưu tập trên các sàn diễn thời trang. Rừng có mặt trong nội thất các tòa nhà lộng lẫy, trong những con tàu xuyên đại dương...
Rừng là nơi trú ngụ của ngàn vạn loài chim chóc và muông thú, từ loài vật bé nhỏ như chú thỏ đến to lớn, như bác voi, từ hiền lành như hươu nai đến hung dữ như hổ báo. Tất cả những loài chim muông ấy tạo nên một sự hài hòa tuyệt vời của sự sống trên bề mặt hành tinh của chúng ta.
Rừng là kho thuốc vô tận, từ những cây thuốc chữa bệnh thông thường đến những vị thuốc quý giá. Từ ngày xưa, các vị lương y nổi tiếng như Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông đã hiểu được tác dụng của bao nhiêu thứ động vật, thực vật trong rừng đối với sức khoẻ của con người. Đó là chưa nói đến những khu rừng cho ong làm tổ, với muôn triệu bông hoa kết tinh thành mật ong sóng sánh chứa đầy chất bổ dưỡng.
Rừng là chiếc máy lọc khổng lồ và tuyệt diệu luôn luôn cung cấp cho con người bầu không khí trong lành. Công nghiệp càng phát triển, ống khói các nhà máy càng đố vào không trung nhiều thứ khí thải, thì rừng lại nhẫn nại thu lấy thứ khí thải ấy để trả lại thứ không khí nguyên vẹn ban đầu. Thật hoàn toàn chính xác khi người ta đặt cho rừng tên gọi là “lá phổi của các thành phố”. Không có phối, con người làm sao còn sông được. Rồi rừng, với vô vàn những bộ rễ cây chằng chịt hút nước, vô vàn chiếc lá để nước bốc hơi, có tác dụng điều tiết, làm dịu bớt những dòng nước trước khi đổ ra sông ra suối, ngăn bớt sức vội vã và dữ dội của cơn lũ lụt.
Nhịp sống đô thị đang ngày càng trở nên khẩn trương, con người ở các vùng đô thị mỗi ngày càng như sống mà không kịp thở. Những âm thanh ầm ầm trong nhà máy, tốc độ ào ào của những dòng xe, màu xanh màu đỏ chói lòa của đủ thứ đèn quảng cáo, tắc nghẽn giao thông trên những ngả đường... tất cả những thứ gây tác động lên thần kinh con người như muốn làm cho nó suy kiệt. Lúc này, không có gì tốt hơn là nghĩ đến những cánh đồng, những dòng sông, những khu rừng. Rừng đang trở thành những trung tâm du lịch có tác dụng không chỉ bồi bổ sức khỏe, mà cho cả tinh thần và tình cảm của con người.
Trong đời sống con người, rừng đóng một vai trò thật quan trọng. Thế nhưng, cùng với sự phát triển của đời sống, con người đã huỷ hoại rừng thật ghê gớm. Người ta đốt những cánh rừng để làm rẫy; người ta đốn hạ những cây cổ thụ để làm củi, làm than, làm nhà cửa, bàn ghế. Chỉ trong vài chục năm trở lại đây, diện tích rừng đã bị thu hẹp đến độ hầu như không còn rừng nguyên sinh. Rồi người ta săn bắt các loài chim, loài thú; càng là chim thú quý hiếm thì lại càng bị săn bắt dữ dội, khiến cho không ít loài chim thú đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Ở những khu rừng ngập mặn thì người ta chặt phá rừng để làm đìa nuôi tôm... Rồi đôi khi vô tình hay thiếu trách nhiệm, người ta gây ra những trận cháy rừng. Hậu quả của việc phá rừng đối với đời sống con người thật đã rõ ràng: không còn rừng để tiết nước, đã xảy ra những trận lũ đột ngột tàn phá cả một vùng; không còn rừng ngập mặn, những trận lở đất và cát vùi xảy ra cho những làng ven biển... Thử tưởng tượng đến một lúc nào đó, trên thế giới không còn ai nói đến rừng, không còn có màu xanh bạt ngàn của rừng, không còn có từ “rừng” trong từ vựng, rồi cùng với chuyện ấy, không còn có hình ảnh các loài chim, các loài thú. Thật là khủng khiếp!
Nhân loại từ lâu đã nhìn thấy nguy cơ của nạn phá rừng, đã lên tiếng cảnh báo con người, đã có những hoạt động để mọi người có thế hưởng được những lợi ích từ rừng một cách lâu dài. Nhà nước ta cũng đã có luật pháp, có những chính sách và những cơ chế để bảo vệ rừng. Đã có những khu rừng được coi là tài sản quý của quốc gia và được bảo vệ nghiêm ngặt, như rừng Cúc Phương, rừng Phong Nha - Kẻ Bàng, với hàng chục nghìn loài động, thực vật quý. Tuy nhiên, hầu như ngày nào, giờ phút nào, trong những cánh rừng, tiếng búa chặt, tiếng cưa máy của những tên “lâm tặc” vẫn vang lên một cách nhức nhối, những phát đạn, những cạm bẫy của những kẻ săn trộm vẫn giết chết những con thú đế đem về nấu rượu, nấu cao hoặc làm món nhậu cho các nhà hàng “đặc sản”, vẫn còn rất nhiều những kẻ hoặc vì không hiểu biết, hoặc vì tham lam, đang đe dọa màu xanh của rừng. Cơ thề rừng vẫn tiếp tục chảy máu.
Bảo vệ rừng không chỉ là trách nhiệm của riêng ai. Rừng gắn liền với đời sống của tất cả mọi người. Mọi người phải có nghĩa vụ bảo vệ rừng.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *