Bài học giúp các em nắm được cách làm bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lý như: phân tích đề; lập dàn ý; nêu ý kiến đánh giá, nhận xét về vấn đề cần nghị luận; biết huy động kiến thức và những trải nghiệm của bản thân để phục vụ cho quá trinh viết bài; có ý thức tiếp thu những quan niệm đúng đắn và phê phán những quan niệm sai lầm.
a. Trước khi tìm hiểu đề phải thực hiện ba thao tác:
b. Tìm hiểu đề:
c. Lập dàn ý:
Đề: Anh (chị) nghĩ như thế nào về câu nói: "Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố" (Trích Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm).
a. Giải thích khái niệm của đề bài (câu nói):
b. Giải thích, chứng minh vấn đề:
c. Khẳng định, bàn bạc mở rộng vấn đề:
Đề: "Duy chỉ có gia đình, người ta mới tìm được chốn nương thân để chống lại tai ương của số phận" - Euripides. Anh (chị) nghĩ thế nào về câu nói trên?
a. Giải thích khái niệm của đề bài (câu nói)
b. Giải thích, chứng minh vấn đề
c. Khẳng định, bàn bạc mở rộng vấn đề
Để nắm được cách làm bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lý, các em có thể tham khảo bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Nghị luận xã hội: "Tình thương là hạnh phúc của con người" - Ngữ Văn 12
Câu trả lời của bạn
Có bao giờ bạn tự hỏi: “Chúng ta đã đối xử thế nào với mọi người xung quanh?” hoặc “Bạn cảm thấy thế nào nếu đối xử tốt với ai đó?”. Có thể bạn sẽ thấy vui vì “Tình thương là hạnh phúc của con người”.
Nếu có một gia vị làm tăng thêm hơi ấm và ý nghĩa trong cuộc sống… đó chính là tình yêu thương. Nếu có một tình cảm thiêng liêng giúp chúng ta vượt qua bao khó khăn, thử thách đó chính là tình yêu thương. Sự ân cần, ấm áp của tình thương thật đẹp! Với tình thương đó, chúng ta có thể chia sẽ những cảm xúc và thấu hiểu lẫn nhau. Tình yêu thương giúp chúng ta trong lúc khó khăn bởi vì nó giúp ta kết nối ngôn ngữ trái tim. Có tình thương chúng ta cùng sát cánh bên nhau khắp mọi nẻo đường đời. Có tình thương, chúng ta cùng ươm mầm cho trái tim hoài bão và khát vọng. Qua đó, chúng ta có thể thấy rõ:” Tình thương là hạnh phúc của con người”.
Trên thế gian này, có rất nhiều cách để định nghĩa tình thương nhưng nhìn chung tình thương yêu là một cảm giác đến từ sự chân thành cảu trái tim, nó vô cùng đơn giản, mộc mạc, không mang những mưu toan, tính toán và tình thương hiện diện khắp mọi nơi. Hạnh phúc là cảm giác vui vẻ, sung sướng hay đơn giản chỉ là sự thanh tịnh trong tâm hồn. Chính vì mà tình thương yêu và hạnh phúc luôn tồn tại trong nhau.
Xã hội ngày nay luôn bận rộn trong guồng máy công việc, con ngừoi luôn phải chạy đua với thời gian, nhưng không vì thế mà tình thương yêu giữa người và người bị mất đi. Ở đâu đó vẫn còn rất nhiều những tấm lòng chan chứa yêu thương luôn rộng mở. Có rất nhiều bạn học sinh, sinh viên tham gia các chiến dịch “Mùa hè xanh”, “Hoa phượng đỏ” để giúp đỡ những người kém may mắn. Các bạn không quản khó khăn để mang con chữ đến cho các bạn vùng sâu vùng xa. Hay như bản thân chúng ta, khi trung thu đến ta vẫn thường quyên góp lồng đèn giúp các em nhỏ vui tết Trung thu. Tất cả những điều đó đã phần nào chứng minh cho tình yêu luôn hiện hữu ở tất cả mọi nơi. mặt khác tình thương còn là tấm lòng người mẹ, người cha, người ông, người bà, … đối với con cháu. Họ cả đời lo lắng, chăm sóc, dành những gì tốt nhất cho người thân yêu. Thế đấy, sự thương yêu muôn màu muôn vẻ với muôn nghìn sự thể hiện. Nó tồn tại ở khắp mọi nơi và trong nhiều mối quan hệ từ bạn bè, gia đình đến xã hội.
Thế nhưng tấm huy chương nào cũng có mặt trái của nó, tình yêu cũng vậy. Nếu chúng ta không đặt đúng chỗ, không mang đến cho những người cần thì nó sẽ trở thành một tác nhân xấu cho gia đình và xã hội. Ví như một người mẹ thì lúc nào cũng yêu thương con nhưng nếu người mẹ đó lầm tưởng rằng yêu thương là cưng chiều thì sớm muộn đứa con ấy sẽ trở nên hư hỏng vì chúng cho rằng chúng là nhất. Không những thế, cuộc đời muôn hình vạn trạng, có người tốt cũng có kẻ xấu. Tuy xã hội có rất nhiều người tình yêu thương vô bờ đối với mọi người xung quanh nhưng cũng tồn tại những kẻ ích kỷ. Những người đó chỉ biết cuộc sống của mình, họ không quan tâm đến bất cứ ai. Họ không hề biết rằng cuộc đời là tập hợp của rất nhiều số phận may mắn, bất hạnh. Vì vậy những số phận may mắn cần dang rộng vòng tay yêu thương để giúp đỡ những số phận bất hạnh, giúp họ vượt qua khó khăn của cuộc đời.
Trên thế gian này, không có vị thần nào đẹp hơn thần mặt trời, không có ngọn lửa nào đẹp hơn ngọn lửa yêu thương. Chúng ta hãy mở rộng cánh của trái tim, mở rộng tấm lòng yêu thương, mang tình yêu đến với mọi người. Vì như ta không những hạnh phúc đến cho mọi người, cho chính mình mà còn giúp những người bất hạnh hiểu rằng thế giới này vẫn vô cùng ấm áp tình người.
Nghị luận xã hội bàn về lòng dũng cảm - Ngữ Văn 12
Câu trả lời của bạn
Lòng dũng cảm là một trong những đức tính vô cùng cần thiết và đáng quý trọng ở mỗi con người. Dù ở nơi đâu, khi làm bất cứ một việc gì, con người đều cần lòng dũng cảm.
Trong những cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc chúng ta đã có rất nhiều những tấm gương dũng cảm, vì nước quên thân, luôn sẵn sàng đối mặt với kẻ thù, với khó khăn gian khổ, thậm chí cả hy sinh mất mát. Những anh vệ quốc quân, giải phóng quân đã trở thành những biểu tượng đẹp về lòng dũng cảm. Lòng dũng cảm là một trong những phẩm chất vô cùng quan trọng của con người. Bởi trong cuộc đời mình, chúng ta luôn phải đối diện với khó khăn, thử thách.
Lòng dũng cảm là nghị lực, là sức mạnh, là ý chí kiên cường để con người có thể vượt lên mọi gian nan thử thách, để có được sức mạnh chế ngự thiên nhiên, chiến thắng kẻ thù … và nhiều khi là để chiến thắng chính bản thân mình. Người chiến sĩ ung dung, bình thản, không hề run sợ trước mũi súng quân thù, đó là dũng cảm. Chú bé thoăn thoát bước đi dưới làn đạn quân thù để đưa cho được bức thư đề “thượng khẩn”. Chị Trần thị Lí không hề run sợ và không chịu khuất phục trước những đòn tra tấn dã man của giặc. Trước những khó khăn, hiểm nguy, con người vẫn quyết tâm làm việc, hoàn thành nhiệm vụ, đó là dũng cảm.
Dũng cảm là sẵn sàng đối diện với gian khó để thực hiện cho được mục đích đề ra. Trong cuộc sống hoà bình, chúng ta vẫn hàng ngày hàng giờ chứng kiến những hành động dũng cảm. Dũng cảm vạch trần những việc làm sai trái của người khác dù đó là những kẻ có chức có quyền, những chiến sĩ công an dũng cảm bắt tội phạm để giữ cho nhân dân có cuộc sống thanh bình, một bạn học sinh sẵn sàng lao xuống dòng nước chảy xiết đề cứu bạn… Những con người dũng cảm ấy đã góp phần làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Chiến thắng được người khác đã rất khó khăn, nhưng chiến thắng được chính bản thân mình còn khó khăn hơn nhiều. Dũng cảm để nhìn ra và công nhận những sai lầm khuyết điểm của mình. Dũng cảm để chiến thắng những ham muốn cá nhân, những tham vọng và những nhu cầu vô tận của mình. Không đủ nghị lực để vượt qua khó khăn đã bao người rơi vào cạm bẫy của những cám dỗ, để rồi trở nên nghiện ngập, trộm cắp… Không đủ dũng cảm để nhìn thẳng vào sự thật, để sửa chữa sai lầm mà bao người ngày càng dấn sâu vào con đường tội lội để rồi khi có đủ dũng khí nhìn lại thì đã quá muộn. Chúng ta đã nghe nói rất nhiều đến lòng dũng cảm. Đó là một phẩm chất của những người anh hùng, làm nên những tấm gương anh dũng, song đó cũng là phẩm chất không thể thiếu trong mỗi con người.
Cuộc sống ngày càng khó khăn, để tồn tại con người phải đối diện với bao nhiêu thử thách, gian nan. Nếu không có đủ nghị lực và nếu không có lòng dũng cảm, chúng ta sẽ rất khó có được sự thành công trong cuộc sống. Dũng cảm là một phẩm chất mà chúng ta có thể bồi dưỡng thông qua rèn luyện. Cùng với lòng trung thực, dũng cảm sẽ là tố chất để mỗi người có thể là một người tốt.
Suy nghĩ về đức tính tự tin - Ngữ Văn 12
Câu trả lời của bạn
Để có được những sự thành đạt như thế, con người cần có một phẩm chất không kém phần quan trọng ở thời đại này, đó chính là sự tự tin. Vậy sự tự tin là gì và nó có tầm quan trọng như thế nào trong cuộc sống mỗi con người?
Tự tin là tin vào chính bản thân mình, tin vào chính giá trị, những phẩm chất tốt đẹp đang tồn tại bên trong con người mình, tin vào những thành công, những thành quả mà mình đã đạt được trong quá khứ để vững bước đón nhận những thử thách mới trong tương lai; tin vào tài năng của mình, những ước mơ tốt đẹp mà mình theo đuổi và tin rằng dù có phải thất bại đi chăng nữa, mình vẫn có thể thực hiện được nó ở những lần sau.
Tự tin trái ngược với sự hèn nhát, rụt rè, thiếu niềm tin vào bản thân và lo sợ phải thất bại, không dám theo đuổi ước mơ. Sự tự tin trong cuộc sống có thể được biểu hiện ở những việc làm nhỏ nhất như tự tin thuyết trình bài học trước lớp, tự tin đóng góp phát biểu ý kiến của mình cho tập thể lớp; cho đến những việc làm lớn hơn như công bố phát minh của một nhà khoa học hay một nhà văn cho ra đời tác phẩm của mình trước công chúng, và còn rất nhiều biểu hiện của sự tự tin trong cuộc sống mà chúng ta không thể kể hết.
Tự tin là một phẩm giá mà mỗi cá nhân cần phải hướng tới và rèn luyện để có thể tồn tại và phát triển trong cuộc sống và sự nghiệp. Với sự tự tin, chúng ta sẽ tạo được một nền móng vững chãi trong tâm hồn, một bản lĩnh vững chắc của bản thân, từ đó chúng ta có thể xác định rõ rang rằng: chúng ta là ai trong cuộc đời này, xác định rõ con đường chúng ta sẽ đi trong cuộc đời, sự nghiệp. Chỉ có thế chúng ta mới có thể hình thành và theo đuổi ước mơ đúng đắn của chính bản thân mình, cũng là thể hiện bản thân.
Đồng thời, sự tự tin trong cuộc sống hay công việc thường nhật mang đến cho ta khả năng quyết đoán trong việc lựa chọn khi mắc phải những vấn đề cần sự giải quyết. Những sự lửa chọn có thể là rất nhỏ như chọn đề trong một bài kiểm tra Văn hay lớn hơn là sự chọn ban ngành, công việc mà chúng ta sẽ làm trong tương lai, dù là lớn hay nhỏ thì sự tự tin và quyết đoán cũng đều ảnh hưởng đến kết quả mà chúng ta đạt được sau này.
Nếu không có sự tự tin thì làm sao chúng ta dám chọn đề văn khó hơn trong khi chúng ta đủ khả năng làm được, hay là chọn ban ngành mà mình yêu thích để mà theo đuổi. Kế đến, người tự tin sẽk hông ngần ngại trước bất cứ một công việc nào dù công việc đó có quá sức với họ đi chăng nữa và họ có thể thất bại. Qua đó, ta có thể thấy được: tự tin như một nguồn động lực giúp cho ta có thể chấp nhận đương đầu với những thử thách trong cuộc sống, dù thành công hay thất bại thì đó cũng là cơ hội để chúng ta học thêm những kiến thức mới, phát hiện, đào sâu những phẩm chất tồn tại bên trong con người chúng ta mà bấy lâu naychúng ta không biết.
Nếu ta không chịu đứng ra thuyết trình bài học của mình trước lớp thì làm sao chúng ta có thể biết kĩ năng nói của mình đến đâu để mà sửa chữa, bồi dưỡng? Quan trọng hơn, sự tự tin sẽ tiếp cho ta thêm sức mạnh và nghị lực để có thể vượt qua thất bại, khó khăn trước mắt để tiến lên phía trước, đồng thời cũng là chìa khóa dẫn đến thành công trong công việc.
Điển hình cụ thể hơn: những người nói tiếng Anh giỏi chắc chắn phải có nhiều lần đứng ra nói chuyện với người khác, người nước ngoài bằng tiếng Anh, cũng phải vấp những lỗi về ngữ pháp, cách dùng từ, nhưng sự tự tin trong giao tiếp đã giúp họ vượt qua và đạt được thành công trong việc học ngoại ngữ. Cuộc sống luôn đầy rẫy những thử thách, nếu chúng ta không tự tin, tin vào chính mình để vượt qua thì thành công sẽ khó mà đến với chúng ta.
Hầu như ai cũng biết, tự tin là một kĩ năng, phẩm chất cần thiết cho con người. Thế nhưng không phải ai cũng có trong người sự tự tin ấy. Trong cuộc sống, chúng ta vẫn quan sát thấy được những người nhút nhát, thiếu niềm tin vào bản thân, hay thích dựa dẫm vào kẻ khác, vào cha mẹ, dẫn đến sự thiếu kĩ năng và kiến thức cần thiết. Điển hình là một số bạn trẻ, dù đã bước sang tuổi trưởng thành rồi mà vẫn không tự tin dấn thân vào đời, tự lập để mà kiếm sống, vẫn ăn bám vào cha mẹ cung cấp, kĩ năng sống thì không có, sống vật vờ vô ích như một người thừa của xã hội.
Một số kẻ còn thiếu tự tin đến mức không dám chấp nhận những thử thách trong công việc, để học những cơ hội thăng tiến bay qua mà không muốn nắm bắt vì sợ thất bại, không tin vào những khả năng của bản thân mình có thể làm được. Trong việc chọn ngành nghề của học sinh sau khi tốt nghiệp THPT, đa số các bạn học sinh đều thi vào những trường như Kinh tế, Bách khoa, Ngoại thương,… với những ngành thật “hot” có thể gặt tiền nhiều mà không nghĩ đến tài năng của mình không thuộc những phạm trù của những ngành nghề ấy, không tự tin vào năng lực thực của mình mà chỉ muốn a dua theo kẻ khác.
Tệ hơn nữa là có một số người tự tin quá mức đâm ra chủ quan, tự phụ vào chính bản thân mình, xem trọng và đề cao cái tôi của mình, xem thường người khác. Ắt hẳn khi còn bé, chúng ta đã đều được đọc truyện ngụ ngôn “Rùa và Thỏ”, Thỏ đã chủ quan quá mức nên thua ê chề trong cuộc đua với Rùa. Những người chủ quan như thế sẽ khó tránh khỏi thất bại. Đồng thời, hcúng ta cũng cần phải hiểu tự tin thôi vẫn chưa đủ để dẫn đến thành công, cần có sự hỗ trợ của đức tính khác như cần cù, sự khéo léo, linh hoạt trong công việc,… và cả sự giúp đỡ của người khác để vươn tới thành công mai sau.
Việc rèn luyện một phẩm chất cho mình là một việc không dễ dàng thực hiện. Là một học sinh, trước tiên em phải ra sức học tập thật là tốt để tạo cho mình một nền móng kiến thức thật vững chãi, không ngừng ra sức học hỏi để phát huy tài năng bản thân. Từ đó, em có thể thực hiện việc rèn luyện từ những công việc làm nhỏ nhất như tự tin giơ tay phát biểu ý kiến của mình trước lớp, khắc phục sự rụt rè sợ sai khi phát biểu xây dựng bài học, kế đến nữa, em sẽ tham gia các hoạt động của trường, lớp, đoàn thể, tự tin trong giao tiếp và dũng cảm xung phong nhận lãnh những trách nhiệm phù hợp với sức của mình để thực hiện nó. Đến kì thi Đại học, sẽ chẳng có lí do gì để em từ chối thi vào trường Xã hội nhân văn khoa Tâm lý học, theo đuổi ước mơ của chính em.
Về phía gia đình, đặc biệt là các bậc cha mẹ cần đặc biệt chú ý rèn luyện đức tính tự tin cho con em mình ngay từ khi chúng còn nhỏ, như khen con khi con làm việc tốt, tôn trọng, khuyến khích những quyết định riêng tư chính đáng của con cái và biết lắng nghe, động viên, an ủi chúng khi cần thiết. Về phía nhà trường và xã hội, cần có những buổi hội thảo dành cho giới trẻ về “sự tự tin”, giáo dục một cách rõ ràng mà không sơ sài chung chung, gần gũi mà không cứng nhắc và lý thuyết suông, gần gũi với thực tế cuộc sống của chúng em, chú trọng hơn về việc tư vấn tâm lí tuổi vị thành niên, định hướng tương lai cho học sinh.
Tự tin là chiếc chìa khóa dẫn đến sự thành đạt trong cuộc sống, vậy chúng ta hãy rèn luyện nó ngay từ bây giờ để trở thành một con người năng động , bản lĩnh trong xã hội, tồn tại một niềm tin mãnh liệt vào bản thân trước chông gai cuộc đời.
Hãy nêu suy nghĩ về tình bạn - Ngữ Văn 12
Câu trả lời của bạn
Vào một giây phút nào đó trong cuộc sống, ta tìm được một người có thể thay đổi cuộc sống của ta dù chỉ một phần nhỏ. Đó là một người không chỉ đến bên ta khi vui, khi thành công mà còn là người không rời bỏ ta khi buồn, lúc lâm nguy hay khi thất bại, khi những người xung quanh đã rời bỏ ta mà đi. Và ta gọi đó là một người bạn - một người bạn thân, một người bạn thật sự. Và ta tin rằng : “Bạn là người đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”.
Trong cuộc sống, ta gặp gỡ nhiều người, cảm thấy thoải mái khi bên cạnh họ, ta giới thiệu với mọi người rằng đấy là bạn ta. Nhưng thực ra họ chỉ mới là những người quen biết. Có thể mời những người này đến nhà, cùng nhau đi chơi, cùng chia sẻ một số thứ. Nhưng không phải ai trong số họ cũng có thể trở thành người chia sẻ cuộc sống cùng với ta.
Bạn, hiểu đơn giản thì đó là người mà ta quen biết. Tuy nhiên không phải bất cứ ai ta quen cũng là bạn của ta. Một khi đã coi ai đã là bạn tức là người ấy với ta phải có quan hệ thân thiết, gần gũi ở một mức độ nào đó, là người biết đồng cảm và chia sẻ với ta. Ấy là chưa kể những người bạn thân, những người luôn lắng nghe khi ta có chuyện rắc rối, luôn bên ta lúc ta khó khắn và giúp ta vượt qua cơn hoạn nạn. Chỉ có người bạn thân thật sự mới là người ta có thể cùng sẻ chia cuộc sống. Đó là người ta yêu quý, quan tâm và thường xuyên chia sẻ với họ những vui buồn và ngược lại. Đó là một người bạn khiến ta cảm thấy an tâm khi ở bên cạnh bởi lẽ ta biết chắc họ quan tâm đến ta, luôn ở bên ta những khi ta gặp khó khăn buồn phiền. Đó cũng là người ngăn ta mắc sai lầm hoặc giúp ta sửa chữa khi ta phạm lỗi. Đó là người luôn gắn bó và ủng hộ ta. Họ nắm lấy tay ta để tiếp thêm sức mạnh và niềm tin. Họ dõi theo từng bước của ta trên đường đời, ngược lại, ta cũng dõi theo cuộc sống của họ và học hỏi từ đó. Vâng, chỉ có người bạn thân thiết và chân thành đó mới có thể là người “ đến với ta khi mọi người đã bỏ ta đi”. Để cuối cùng, sau bao thăng trầm của cuộc sống ta chợt nhận ra rằng ta có rất nhiều người quen nhưng ta không có nhiều bạn - những người bạn thân thật sự.
Khi ta ngã quỵ và thế giới quanh ta dường như quá đen tối, trống rỗng, người bạn ấy sẽ nâng ta lên và làm cho thế giới bỗng sáng lên và lấp đầy những trống rỗng ấy. Người bạn ấy có thể dắt ta qua những giây phút khó khăn của cuộc sống, nắm lấy tay ta và nói rằng mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp.Cuộc sống không phải luôn trải hoa hồng , đôi khi ta phải đối mặt với những khó khăn tưởng như không thể vượt qua được , những thất bại tưởng như có thể làm ta gục ngã. Ấy là khi ta hiểu rõ giá trị của tình bạn hơn hết. Bên cạnh gia đình, tình yêu, thì tình bạn chân thành là chỗ dựa vững chắc cho mỗi người trong cuộc sống. Người bạn thật sự là người biết khích lệ , động viên khi ta đang vươn lên, biết mừng vui khi ta hạnh phúc, biết bật khóc sẻ chia khi ta đau buồn, biết tìm đến ta khi ta cô đơn. Nếu cuộc đời khắc nghiệt khiến ước mơ , niềm tin của ta trong vùng giông bão thì bờ vai của một người bạn luôn là chỗ dựa an toàn cho ta. Những người bạn thật sự sống dựa vào nhau bằng niềm tin mạnh mẽ nhất. Chính niềm tin ấy khiến chúng ta có thể chia sẻ cùng nhau cả những điều tốt đẹp lẫn khó khăn nhất trong đời bằng nụ cười.
Có những người bạn đã đến bên ta, trao cho ta niềm tin, nghị lực, làm chỗ dựa cho ta khi mọi người đã quay lưng lại với ta, khi số phận dường như không mỉm cười với ta.
"Bạn là người đến bên ta khi mọi người đã bỏ ta đi ”. Ai cũng mong mình có được một người bạn như vậy trong đời. Vậy ta phải làm gì để có một người bạn như thế? “Cách duy nhất để có bạn tốt là chính bản thân mình phải là một người bạn chân thành”(Eurupide) . Tố Hữu viết rằng :
“Lẽ nào vay mà không trả?
Sống là cho đâu chỉ nhận cho riêng mình.”
Trong bất kì mối quan hệ nào cũng cần đến sự Cho- Nhận. Đặc biệt đối với tình bạn vì đó là một cuộc giao lưu vô vụ lợi của những người bình đẳng, không ai chỉ Cho hoặc chỉ Nhận. Ta hãy đối xử với bạn bè , yêu thương, quan tâm đến họ như chính bản thân mình.Hãy giúp đỡ mà không đòi hỏi trả công vì đến một lúc nào đó ta sẽ nhận lại được sự giúp đỡ của họ trong cuộc sống. Và thường thì nó nhiều hơn những gì ta nghĩ mình có thể nhận được. Hãy san sẻ mà không toan tính, cho đi mà không chờ nhận lại. Hãy trao yêu thương từ đáy lòng chứ không phải vì những âm mưu vụ lợi, để đó là tình cảm của trái tim chứ không phải toan tính của lý trí…Một mối quan hệ lâu dài là những bài học phải học suốt đời. Học cách yêu thương và quan tâm đến người bạn của mình . Học cách tha thứ cho lỗi lầm và giúp họ tránh những sai lầm như vậy. Học cách chấp nhận khuyết điểm của người khác… Tình bạn đôi khi là những điều giản đơn mà đôi khi cuộc sống bộn bề làm ta quên đi mất. Đôi khi đó chỉ là ánh nhìn động viên, một cái siết tay lúc mềm yếu, hay một bờ vai, một sự yên lặng để lắng nghe tất cả nỗi lòng của bạn bè.Tình bạn không có khuôn mẫu cũng không có chuẩn mực nhất định để thể hiện. nhưng luôn có những điều nhỏ nhặt, những tình cảm chân thành kết nối những người bạn với nhau.
Có được một người bạn thân đã khó , giữ được tình bạn ấy còn khó hơn. Bạn hãy nắm một nắm cát đầy trong tay đi. Bạn biết không, nắm cát trong lòng bàn tay của bạn cũng giống như bạn bè của bạn vậy. Những hạt cát quá xa lòng bàn tay bạn sẽ theo kẻ hở giữa những ngón tay bạn mà rơi ra ngoài. Nếu bạn càng siết chặt bàn tay thì chúng càng rơi ra nhiều hơn. Chỉ có những hạt cát nằm giữa lòng bàn tay bạn, được giữ chặt trong đó mới còn lại mà thôi. Đó chính là những người bạn thân thiết mà chúng ta thật sự cần, những người bạn này sẽ ở lại với ta dù bất cứ chuyện gì xảy ra. Nhưng, bạn thấy đó, những hạt cát này rất ít và dễ dàng rơi ra nếu ta không biết giữ gìn. Hãy giữ gìn và nâng niu chúng bằng tình cảm của mình. Chúng sẽ ở bên cạnh bạn và không rơi ra đâu.Cũng giống như cát, muốn giữ được bạn không phải nắm thật chặt mà phải biết nâng niu, trân trọng với tất cả sự yêu mến và tôn trọng.
Thực tế cuộc sống quanh ta đã chỉ ra rằng trong nhiều trường hợp có nhiều người đến với ta nhưng không phải là bạn ta. Chảng hạn như khi bạn là một người giàu có, thành đạt, tương lai rộng mở, quanh bạn có nhiều người tìm đến nhưng có phải tất cả những người trong số họ đều là bạn của bạn? Họ còn đến vì những mục đích gì? Cầu cạnh, nhờ vả, lợi dụng và biết đâu đấy, một ngày khi bạn sa cơ họ lại chẳng lạnh lùng bỏ đi, không chút bận tâm. Vậy mới nói : “ Bạn là người đến bên ta khi mọi người đã bỏ ta đi.”
Tuy nhiên trong thực tế cũng chỉ ra rằng có trường hợp mọi người quanh bạn bỏ đi và có người tìm đến với bạn nhưng không vì mục đích chia sẻ, giúp đỡ, không có mục đích tốt thì họ cũng không thể được coi là bạn.
Trong cuộc sống của chúng ta, có nhiều điều dễ dàng đến rồi đi, nhanh chóng và mỏng manh như một làn khói, dễ tan vỡ như lâu đài cát trước những cơn sóng gào. Chỉ có tình cảm là điều duy nhất có thể vượt qua mọi bão giông cuộc đời, là nền tảng, là gốc rễ cho mọi niềm vui và nguồn hạnh phúc. Và không có gì tuyệt vời hơn được trao gửi tình cảm của mình cho một người khác, và rồi cảm nhận được sự bình yên khi gọi nhau là bạn.
Nghị luận: "Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, cây hoa dại vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp" - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, cây hoa dại vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp. Hình ảnh ấy tạo một cảm giác cô đơn, lạc lõng thậm chí là bị đày đọa nhưng bông hoa bé nhỏ ấy vẫn kiên cường, hiên ngang. Nó chống chọi với những điều đó với tất cả sức lực nhỏ bé mà bền bỉ, như cánh chim bé nhỏ chao lượn giữa cơn giông bão tìm đường về tổ và cuối cùng nó đã chiến thắng.
Chiến thắng tất cả những khó khăn, gian khổ ấy mà trở thành một đóa hoa đẹp, bừng cháy sức sống, nó vượt lên những sỏi đá khô cằn, giữa nắng gắt để trở thành một điểm chấm phá trên bức tranh hoang mạc nỏng bỏng và khắc nghiệt. Đó thực sự là một phép màu của Chúa, là một trong rất nhiều những điều kì diệu của cuộc sống này, như môt câu chuyện cổ tích. Và hơn nữa, đó còn là một trong những bài học giản dị, sâu sắc và cũng tuyệt vời nhất mà cuộc sống đã dành tặng cho chúng ta.
Trong đời, ai chẳng đôi lần gục ngã trước những khó khăn, thách thức…Tất cả như đám mây đen khổng lồ, che lấp những tia sáng của tương lai, làm cho chúng ta kiệt quệ ,mỏi mòn, mất ý chí chiến đấu, muốn buông xuôi. Và đây cũng là lúc chúng ta đối mặt với chính mình, là thời khắc mà những quyết định sẽ ảnh hưởng đến quãng đời còn lại của chúng ta. Lòng dũng cảm, bản lĩnh, sự quyết đoán tất cả sẽ được thể hiện một cách rõ nét nhất.
Kì diệu thay, có những người khi gặp khó khăn, trắc trở thì họ trở nên cứng rắn, mạnh mẽ hơn cho dù họ vẫn có thể thất bại nhưng họ đã cố gắng đến mức cuối cùng. Họ nhận thức được rằng, một khi họ buông xuôi, họ sẽ mất tất cả. Công sức học hành bấy lâu, tiền bạc, thời gian…những thứ đó sẽ tan biến cùng với đám mây đen đang vần vũ trên bầu trời. Họ đã được Thượng đế ban cho một món quà mà không phải ai cũng có : nghị lực. Với món quà đó, họ đã biến những nỗi tủi nhục, đắng cay thành một thứ vũ khí sắc bén mà không có một loại khí tài nào trên Trái đất này có thể sánh được. Họ đã vượt qua chông gai để xua tan đám mây đen ấy. Và ánh sáng đã trở lại, tâm hồn họ có thể bị chai sạn, rách nát nhưng nó đã trở nên mạnh mẽ và thiêng liêng hơn bao giờ hết. Họ biết rằng dù con đường có đẹp đến mức nào cũng phải trả giá bằng những mũi gai đau đớn, bằng máu và nước mắt…
“Chặng đường nào trải bước trên hoa hồng
Bàn chân cũng thấm đau vì những mũi gai
Ðường vinh quang đi qua muôn ngàn sóng gió
Lời hứa ghi trong tim mình
Vẫn bước đi hiên ngang đầu ngẩng cao….”
(trích bài hát “Đường đến ngày vinh quang”)
Nhưng cuộc sống đâu phải chỉ có những điều tuyệt vời như thế, bên cạnh đó vẫn có những kẻ hèn nhác, yếu đuối, chưa gì đã từ bỏ những ước mơ của mình. Họ sẵn sàng vứt bỏ tất cả hoài bão để sống một cuộc đời vô vị, chán ngắt thậm chí là tàn tạ, vật vờ. Họ như một chiếc bóng lẻ loi đơn chiếc cứ đi đi về về trong cái xã hội nhộn nhịp,năng động này.Suốt đời lẩn tránh, số người ủ rũ và khi về già, chắc chắn họ sẽ nuối tiếc những tháng ngày lãng phí, không sống hết mình. Hối tiếc vì đã chấp nhận làm một bông hoa úa tàn, khô héo, không tô điểm cho đời.
Vâng, chúng ta sẽ vượt qua tất cả khó khăn, trắc trở. Cho dù con đường hoa hồng có nhiều gai đi thế nào chăng nữa thì nó vẫn là con đường của vinh quang, của thành công và theo một câu nói khá nổi tiếng thì trên con đường này ” không có dấu chân của kẻ lười biêng”. Thân xác có thể tả tơi, mỏi mòn nhưng ý chí ta vẫn luôn tồn tại một hạt giống – hạt giống của khát vọng và hoài bão – rồi nó sẽ đâm chồi nảy lộc, sẽ trở thành một đóa hoa dại đẹp đẽ để tiếp thêm sức mạnh cho chúng ta vượt qua những ghềnh thác cheo leo, đi đến bến bờ của những giấc mơ. Đau đớn, tủi nhục, nước mắt sẽ tan biến khi chúng ta đi hết con đường và chạm tay vào đỉnh vinh quang. Mặt trời sẽ chiếu sáng, vầng dương sẽ cài lên vai chúng ta vinh quang của những người chiến thắng, ta sẽ ngẩng cao đầu và tự hào vì chúng ta đã đấu tranh không mệt mỏi với những phút giây yếu mềm của bản thân và những gian nan chồng chất. Những bông hoa dại sau khi vượt qua những điều khắc nghiệt của thiên nhiên đã nở và…
“Ngày đó, ngày đó sẽ không xa xôi
Và chúng ta là người chiến thắng
Ðường đến những ngày vinh quang không còn xa”
Cuộc đời vẫn trôi đi, những khó khăn khác lại đến và chúng ta sẽ phải chiến đấu một cách ngoan cường. Hãy sống và đấu tranh sao cho đến lúc sức tàn lực kiệt, ta không phải hối tiếc về những tháng ngày tuổi trẻ bị hoài phí. Những gian truân, vất vả sẽ trở thành những chiến công bất diệt trong trái tim của mỗi con người. Vì loài hoa dại kia sẽ úa tàn và chúng ta cũng không sống mãi, nhưng những dấu chân mà chúng ta đã in trên đường đời, những thành công trong cuộc sống sẽ tô thắm cho bước tranh cuộc sống muôn màu kia, như loài hoa dại ấy đã gợi nên sức sống cho vùng sỏi đá khô cằn.
Anh (chị) hãy bình luận ý kiến sau đây của Lão Tử: "Kẻ biết người là người khôn, kẻ biết mình là người sáng" - Ngữ Văn 12
Câu trả lời của bạn
Ông cha ta thường nói “Ăn thì dễ, ở thì khó”. Thật vậy, trong cuộc sống hàng ngày của chúng la “ăn” thì chỉ là một vấn đề đơn giản, chỉ giải quyết sự đòi hỏi của bao tử, còn mối quan hệ của chúng ta với những người xung quanh trong xã hội để chúng ta sống mới là vấn đề quan trọng, phức tạp. Chính vì vậy mà nhà triết học nổi tiếng của Trung Quốc đã nói: "Kẻ biết người là người khôn, kẻ biết mình là người sáng".
Câu nói trên của Lão Tử có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, là bài học rất cần thiết trong cuộc đời chúng ta. Trước tiên ta phải biết vì sao Lão Tử bảo: "Kể biết người là người khôn” sở dĩ “Kẻ biết người là người khôn” vì ta có hiểu rõ người dó, biết được tâm tính, sở thích, cách sống của người đó thì ta mới có cách quan hệ thích hợp, để thu phục đựợc người đó và ta không bạo giờ bị người đó qua mặt ta trong bất kì công việc gì, nghĩa là ta không bao giờ bị người đó lừa gạt. Ví dụ, chúng ta biết được người chúng ta quan hệ là một con người có tâm hồn cao thượng, nhân đức, có quan điểm sống đúng đắn thì chúng ta yên tâm và học tập ở ngựời đó được nhiều điều tốt đẹp. Ngược lại chúng ta biết một người có tâm địa ác độc, bản chất gian xảo, có cách sống không đúng đắn thì ta nên tránh xa người ấy, đề phòng mọi hành động của người ấy. Quả đúng là “Kẻ biết người là người khôn”.
Điều thứ hai mà ta cần hiểu rõ ở đây là: “Kẻ biết mình là người sáng”. Kẻ biết mình là kẻ hiểu rất rõ về chính mình, biết mình có được nhữnu năng lực gì, có thể làm được những việc gì phù hợp với năng lực của mình, hoàn cảnh của mình thì mới thành công được. Ví dụ mình biết mình có năng khiếu về văn chương, rất say mê văn chương thì mình chọn thi vào đại học khối C như vậy thì xác suất mình đậu vào đại học rất cao,thực hiện được mơ ước và hoài bão của mình. Hay một bạn nào đó có năng khiếu về toán, lý, hóa, sinh,... là học sinh giỏi của những bộ môn này thì bạn dễ thi đậu vào các trường như Bách khoa, Kinh tế, Y dược, Sư phạm (các ngành thuộc khoa học tự nhiên), Khoa học tự nhiên, Ngân hàng... bạn nào có năng khiếu về văn, lý và vẽ thì bạn ấy đễ thi đậu vào ngành kiến trúc. Ngược lại có nhiều bạn không hiểu rõ được năng lực của mình mà mơ cao thì những bạn ấy không bao giờ thành đạt được, những ước mơ của những bạn ấy sẽ trở thành ảo tưởng. Đúng là “Kẻ biết mình là người sáng”.
Tóm lại, câu nói “Kẻ biết người là người khôn, kẻ biết mình là người sáng” là một chân lí, là một bài học sâu sắc cho chúng ta trong cuộc sống. Câu nói ấy của Lão Tử giúp chúng ta biết nhìn người, nhìn mình để hiểu người, hiểu mình để mà sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Anh (chị) hãy viết một bài văn nghị luận trình bày ý kiến của mình về ý nghĩa của câu tục ngữ: "Hợp quần gây sức mạnh" - Ngữ Văn 12
Câu trả lời của bạn
"Rừng núi dang tay nối lại biển xa, ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà...”
Khúc nhạc anh hùng, mạnh mẽ ngân vang, gieo vào lòng em những hân hoan, rộn rã. Em chợt nhận ra trái tim mình đang chan chứa niềm tin vào tình đoàn kết: “Hợp quần gây sức mạnh”
Câu tục ngữ đẹp như một bông hoa nảy nở trên môi trường lao động năm xưa. Trải qua bao thế hệ, bao tháng năm, ý nghĩa câu tục ngữ càng thêm sắc tỏa hương chứa đựng nhiều điều đẹp đẽ.
“Hợp quần gây sức mạnh" - câu tục ngữ chỉ có năm từ mà ý nghĩa vô cùng sâu sắc đó. Đó là lời khẳng định mạnh mẽ, chắc chắn của nhân dân Việt Nam về tác dụng và giá trị của tình đoàn kết. Sự quần tụ gắn bó giữa nhiều người sẽ biến sự yếu đuối, cô thế của mỗi cá nhân thành sức mạnh vô biên của cả cộng đồng. Tại sao sức mạnh lại nảy sinh từ sự đoàn kết? Đó là vì tình đoàn kết góp nhiều sức lực, nhiều khối óc, nhiều bàn tay làm thành một khối óc, một sức mạnh duy nhất, sức mạnh ấy lớn hơn rất nhiều lần sức mạnh của mỗi cá nhân. Sức mạnh ấy như con thuyền vững chãi, sẵn sàng lướt qua những giông tố, những bão táp thử thách trong cuộc sống.
Thật vậy, trải qua bao thăng trầm lịch sử, bao trở ngại chông gai, người Việt Nam vẫn chiến thắng nhiều kẻ thù xâm lược, vẫn xây dựng cho mình một đất nước ngày càng “to đẹp hơn, đàng hoàng hơn ” là nền tảng của tình dân tộc, nương tựa lẫn nhau.
Làm sao ta có thể quên được sự gắn bó, đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống giặc Minh mà bài cáo Bình Ngô, áng “thiên cổ hùng văn” bất hủ đã nêu rõ:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phất phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”.
(Nguyễn Trãi)
Ngọn cờ đại nghĩa phất phới tung bày, chén rượu thề hòa nước sông cũng hóa ngọt ngào vì từ “tướng sĩ” đến “nhân dân", ai ai cũng góp sức chung lưng đánh tan quân Minh xâm lược. Với tinh thần đoàn kết, gắn bó sâu sắc ấy, dân tộc ta đã đẩy lùi bước chân xâm lược tàn bạo của giặc Minh cũng như bao kẻ thù hùng mạnh, từ thuở Hai Bà Trưng cưỡi voi đánh quân Mông Nguyên tàn bạo... Có thể nói, những chiến thắng vẻ vang nghìn đời lưu danh sử sách ấy sẽ không thể nào có được nếu nhân dân ta không đồng lòng đánh đuổi giặc ngoại xâm. Như một làn sóng diệu kỳ, tinh thần đoàn kểt lại trỗi dậy mãnh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp. Bác Hồ kính yêu đã từng nói:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công thành công, đại thành công".
Lời khẳng định của Bác thật kiên quyết. Sự đoàn kết, gắn bó càng chặt chẽ, sự thành công càng lo lớn, vẻ vang. Giá trị của tinh thần đoàn kết có thể ví như núi cao, như biển rộng, không có sức mạnh nào kỳ diệu hơn! Thực tế lịch sử đã viết lên những dòng minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của linh thần đoàn kết. Khi kẻ thù nổ súng tàn phá quê hượng, từ cụ già đến trẻ em, ai ai cũng sôi sục hờn căm và một lòng chống trả. Cậu bé Lê Văn Tám đã biến mình thành bó đuốc đốt kho xăng Pháp, cậu bé Kim Đồng đi giao liên rồi những anh hộ đội đi hành quân "điệp điệp trùng trùng'", người mẹ trẻ út Tịch quyết tâm: “còn cái lai quần cũng đánh...” và nhiều, nhiều lắm. Ta thắng Pháp, thắng Mỹ vẻ vang là nhờ tinh thần đoàn kết, gắn bó thắm thiết của những người con đất Việt yêu quê hương, yêu dân tộc mình. Tình đoàn kết đã làm nên sự sống vĩ đại cuốn trôi bao kẻ thù xâm lược, xâm lấn nước Việt mến yêu. Sức mạnh của cả dân tộc quả thật đã bắt nguồn từ tinh thần đoàn kết.
Nếu trong chiến đấu, tinh đoàn kết tạo nên những chiến thắng vẻ vang thì trong lao động, sự gắn bó góp sức chung lưng đã và đang tạo nên nhiều thành quả lớn. Ngày xưa, những người nông dân đã nô nức:
Rủ nhau đi cấy lấy công
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu
Trên đồng cạn.,dưới đồng sâu
Chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Cả gia đình từ vợ,từ chồng đến cả con trâu. Tất cả đều cần cù trên đồng ruộng, luống cày. Sức vợ, sức chồng, sức con trâu bừa tạo nên một sức mạnh to lớn, sức mạnh ấy đã phủ lúa xanh đồng, phù khoai xanh rẫy, biến buổi "khó nhọc" thành ngày “phong lưu”. Tác dụng của sự gắn bó cùng nhau góp sức trên ruộng cày mới to lớn và đẹp làm sao! Ngày nay từ miền thượng đến dải trung du, đến đồng bằng, miền biển, nhân dân ta đang chung tay góp sức xây dựng bao công trình to lớn. Nhìn một thác nước cuồn cuộn tuôn chảy, ta không thể nào tin tưởng vào sức lực của một cá nhân có thể ngăn thác, đắp sông. Thế mà, nhiều khối óc, nhiều bàn tay đã hợp lại. ngăn thác xâỵ dựng công trình thủy điện Hòa Bình, Trị An, góp phần làm quê hương đẹp giàu. Những nhà máy, những cánh đồng, những nương rẫy, tất cả đều được tạo nên từ nền tảng của tình đoàn kết, gắn bó của những con người lao động cần cù.
“Bài ca cây lúa" có câu: “Những chàng trai đang lái máy cày và bao cô gái đang ngồi máy kéo”
Những chàng trai, những cô gái, nhiều đôi tay khéo léo, chăm chỉ đang tạo nên sức mạnh kỳ diệu của tinh thần tập thể gây dựng cánh đồng quê hương ngày thêm trù phú, tốt tươi. Quả thật, tinh thần đoàn kết trong lao động đã tạo nên sức mạnh vô cùng lớn lao!
Tinh thần đoàn kết trong lao động và trong chiến đấu là tinh thần bắt nguồn từ những công việc đòi hỏi sự góp sức của nhiều cá nhân trong cuộc sống hằng ngày. Dân gian thường" khuyên nhủ nhau:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
"Một cây" lẻ loi, đơn độc chẳng làm nên điều gì lo lớn. Thế mà khi “ba cây chụm lại" thì mỗi cây đơn lẻ trong "ba cây ấy" đã góp sức mạnh tạo nên “hòn núi cao”. "Hòn núi cao" chính là kết quả, là sự mạnh mẽ, lớn lao nảy sinh từ tình cảm gắn bó, chung lưng góp sức.
Bác Hồ cũng viết bài thơ:
"Hòn đá to, hòn đá nặng
Một người nhấc
Nhấc không đặng
Hòn đá nặng
Hòn đá to
Nhiều người nhấc nhấc lên đặng.”
Rõ ràng, khi nhiều đôi tay cùng góp sức thì hòn đá dù nặng, dù to đến mức nào cũng đều nhường sức mạnh cho sự đoàn kêt của nhiều nsười. “Hòn đá to, hòn đá nặng” hay khó khăn, thử thách to lớn, tất cả đều bị khuất phục bởi tinh thần đoàn kết.
Giá trị của câu tục ngữ “Hợp quần gây sức mạnh" không những đúng trong ngày hôm qua mà còn tỏa sáng đến ngày hôm nay. Dân tộc ta, con người Việt Nam ta không ngừng đoàn kết để xây dựng quê hương đất nước.
Bài học về sức mạnh to lớn của tinh thần đoàn kết đã giúp em sống tốt hơn với bạn bè, với người dân trong một nước. Đoàn kết, đó là sức mạnh to lớn vô cùng!
Anh (chị) hãy viết một bài văn nghị luận bàn về vấn đề tôn sư trọng đạo trong truyền thống đạo lí của dân tộc ta - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Trong đời sống tinh thần của dân tộc ta có những tình cảm đã thành truyền thống trong đạo lí làm người như: tình yêu quê hương, đất nước; lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ; lòng thủy chung, son sắt trong đạo vợ chồng và “tôn sư trọng đạo" cũng là một nét đẹp trong truyền thống đạo lí của con người Việt Nam ta.
Thật vậy, ngày trước người thầy có một vị trí rất quan trọng trong đời sống xã hội. Người thầy đươc mọi người kính trọng và đề cao tuyệt đối: “một chữ cũng thầy, nửa chữ cũng thầy". Và tổ tiên ta đã từng răn dạy:
Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu mến thầy
Truyền thống ấy được lưu truyền từ nghìn xưa đến hôm nay. Trong cuộc sống hôm nay người thầy không còn được kính trọng như xưa, bởi một số người trong xã hội hiện nay có xu hướng chạy theo đời sống vật chất, sống bằng hình thức, ít coi trọng những giá trị tinh thần, đạo đức suy đồi. Hơn nữa, đời sống vật chất của người thầy chân chính hiện nay quá khó khăn đã làm giảm đi các vị trí cao đẹp của người thầy trong xã hội. Người thầy trong xã hội hiện nay không còn được trọng vọng như ngày xưa. Nói như thế không phải là trong xã hội hiện nay cái đạo lí “tôn sư trọng đạo" đã hoàn toàn mất đi. Bên cạnh đó có một nguyên nhân khác làm mất đi vẻ đẹp của người thầy, người cô là do đồng lương không đủ sống nên có nhiều thầy, cô phải dạy thêm để kiếm sống. Nếu thầy cô nào dạy ngay thẳng, với cái tâm của một người thầy thì không có gì để nói. Nhưng có những thầy cô thiếu lương tâm nghề nghiệp, đã gây khó khăn những học sinh không chịu học thêm, gây nên sự bất bình của phụ huynh và học sinh. Chính những người thầy, người cô đó đã tự đánh mất cái phẩm chất cao quý của người thầy. Nói như thế không phải là trong xã hội hiện nay đạo lí “tôn sư trọng đạo" đã hoàn toàn mất đi, mà vẫn còn trong tâm trí và hành động của những người học trò chân chính, những người còn biết đặt giá trị tinh thần lên trên giá trị vật chất. Ngày nhà giáo Việt Nam 20 - 11, không phải là ngày toàn xã hội tri ân những người thầy, người cô đó ư? Tri ân và tôn vinh những người thầy, người cô có lương tâm trong sáng, đạo đức sáng ngời, tất cả vì học sinh thân yêu.
“Tôn sư trọng đạo" là một truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc ta mà ngày nay chúng ta cần phải kế thừa và phát huy, bởi cha mẹ sinh ra ta, nuôi nấng ta, cho ta cuộc sống, thầy cô cho ta bao kiến thức, bồi dưỡng cho tâm hồn chúng ta thanh cao trong sáng, chắp cánh cho ước mơ chúng ta bay cao và bay xa hơn, trang bị cho chúng ta hành trang để mai này chúng ta vững bước vào đời. Công ơn của thầy cô đối với chúng ta thật vô cùng to lớn chẳng khác nào công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, nên người ta thường nói thầy, cô là người cha, người mẹ thứ hai của chúng ta.
Vai trò của người thầy, người cô đối với cuộc đời chúng ta thật quá lớn, chúng ta không thể nào quên được. Mỗi lần nghe lời bài hát “Bụi phấn" lòng mỗi chúng ta không khỏi nôn nao:
Khi thầy viết bảng, bụi phấn rơi rơi
Có hát bụi nào, rơi trên bục giảng
Có hạt bụi nào, rơi trên tóc thầy
Mai sau lớn nên người
Thầy cô có thể nào quên
Ngày xưa từng dạy dỗ
Khi em tuổi còn thơ...
Biết ơn thầy cô, chúng ta cần phải luôn luôn giữ gìn và phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc. Những con người không biết “tôn sư trọng đạo” là những con người sống vong ân bội nghĩa, không có đạo lí làm người, quên đi nguồn cội và dễ trở thành những con người mất gốc, sống ích kỉ, nhỏ nhen, tầm thường, là loài sâu mọt của xã hội.
Anh (chị) hãy trình bày ý kiến của mình về câu nói sau đây của Virgile: "Cái gì cũng nhàm chán cả trừ học hỏi" - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Trong cuộc sống của chúng ta có những điều cứ lặp đi lặp lại hàng ngày thật nhàm chán, nhưng cũng có những điều luôn thay đổi, luôn mới mẻ làm cho chúng ta luôn thích thú. Một trong những vấn đề đó là việc học hỏi. Chính vì thế mà Virgile đã có một câu nói khá nổi tiếng sau đây: “Cái gì cũng nhàm chán cả trừ học hỏi".
Câu nói trên của Virgile thật chí lí, làm vỡ ra nhiều điều mới lạ mà bình thường chúng ta không nhận ra được. Trước tiên ta phải hiểu được những gì xảy ra hàng ngày, cứ lặp đi lặp lại như những chiếc kim đồng hồ, từ ngày này qua ngày khác, không có gì thay đổi làm cho chúng ta có cảm giác nhàm chán. Những việc như ăn, ngủ, vệ sinh, làm một công việc cố định nào đó trong một dây chuyền sản xuất. Những người thầy, người cô lên lớp qua năm này tới năm khác cũng dạy đi dạy lại những bài in trong sách giáo khoa cũng không tránh khỏi cảm giác nhàm chán. Những người giàu sang dư tiền, dư của, ăn rồi đi du lịch hết nước này đến nước khác ban đầu thì rất thích thú vì được tận mắt chứng kiến nhiều cảnh đẹp, nhiều kỳ quan của thế giới, nhưng rồi dần dần cái cảm giác thích thú cũng mất dần đi và cuối cùng thì cái cảm giác nhàm chán ấy lại đến. Một miếng ăn ngon đến mấv mà cứ ăn đi ăn lại nhiều lần thì chúng ta cũng thấy ngán...
Như vậy, ta có thể khẳng định rằng cái gì cứ lặp đi lặp lại nhiều lần thì ta khó tránh khỏi cảm giác nhàm chán. Và Virgile đã khẳng định với chúng ta một việc không bao giờ cảm thấy nhàm chán đó là việc học hỏi: “Cái gì cũng nhàm chán cả trừ học hỏi”. Do đâu mà Virgile đã khẳng định như thế?
Như chúng ta biết kho tàng tri thức của nhân loại thì bao la, vô tận mà chúng ta không bao giờ biết hết được. Kho tàng ấy được thể hiện ở nhiều phạm trù khác nhau như: văn chương, nghệ thuật, triết học, địa lí, lịch sử, toán học, vật lí học, sinh học, thiên văn học... Hơn nữa ở mỗi phạm trù ấy lại rất đa dạng, phong phú, ví dụ như ở lĩnh vực văn chương nghệ thuật thì có văn chương thời cổ đại, văn chương thời trung đại, văn chương thời cận và hiện đại của nhiều nước trên thế giới; về lĩnh vực nghệ thuật thì ngoài văn chương thì ta còn có âm nhạc, hội họa, điêu khắc, điện ảnh... Bể học mênh mông mà thời gian và sức lực con người có hạn, làm sao ta có thể nắm được hết tri thức của nhân loại. Càng học hỏi chúng ta càng khám phá và nhận biến những điều thật mới mẻ luôn làm chúngta say mê, thích thú, không hề có cảm giác nhàm chán. Đi vào kho tàng tri thức của nhân loại ta như đi vào một vườn hoa bất tận đầy màu sắc và hương thơm, làm cho chúng ta đi từ sự ngạc nhiên này đến sự ngạc nhiên khác và chúng ta càng nhận thấy rõ: Cái gì cũng nhàm chán cả trừ học hỏi.
"Con người không có mục đích nào khác ngoài mục đích trở thành người chân chính. Hãy giải thích ý kiến trên" - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
“Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người với người, sống để yêu nhau”
(Tố Hữu)
Tình người như những làn sóng muôn đời dào dạt vỗ nhịp vào cuộc sống con người. Đẹp biết bao, đáng trân trọng biết bao hình ảnh của những con người sống với đúng nghĩa làm người, sống đẹp bằng những cách dâng những làn sóng ấy đến với mọi người xung quanh. Một nhà văn đã từng khẳng định rằng:
“Con người không có mục đích nào khác ngoài mục đích trở thành người chân chính".
Sống để đạt đến mục đích của mình, và mục đích ấy chính là thành người chân chính. Một chân lí đã được nêu lên với tất cả tinh thần làm người, trách nhiệm làm người.
Con người là tạo vật vĩ đại và hoàn hảo nhất của tạo hóa. Ai đó đã từng nói “Con người - tôi xin cúi đầu trước Người”. Nhưng điều đáng nói là con người - hiểu theo nghĩa hẹp - có xứng đáng là một "con người chân chính” hay không? Điều ấy hoàn toàn tùy thuộc vào mục đích sống. Mục đích - đó là cái mà người ta hướng tới, và cao hơn là vươn tới để một lúc nào đó đạt đến nó. Mục đích tốt đẹp và lí tưởng sống, là chân lí sống, và lẽ sống của con người. Theo đó, mục đích cao đẹp “trở thành người chân chính" chính là trở thành một con người với đúng nghĩa là người, xứng đáng là người chủ của thế giới, của thiên nhiên, của vạn vật. Con người chân chính là con người có trái tim và có trí tuệ hướng thiện, sống đúng nghĩa, biết suy nghĩ, hành động và lí tưởng đẹp mà mình lựa chọn, biết mang đến hạnh phúc cho mọi người, từ đó tự làm cho mình hạnh phúc. Câu nhận định trên xuất phát chính từ cuộc sống con người - một cuộc sống phong phú, muôn màu muôn vẻ, đã nêu lên một chân lí thực sự về đời sống, vì lí tưởng sống của loài người nói chung. Đó là phải luôn tự hoàn thiện mình, để đi đến một mục đích cao đẹp trở thành người chân chính.
Một danh nhân đã từng nhận định rằng: “Nếu không có mục đích, anh không làm được gì cả. Anh cũng không làm được gì cả nếu như mục đích tầm thường Câu danh ngôn “con người không có mục đích nào khúc ngoài mục đích trở thành người chân chính” đã nhấn mạnh đến một lí tưởng sống cao đẹp là hướng tới sự hoàn thiện nhân cách con người, sống bằng tất cả trách nhiệm của mình đối với cuộc sống, đối với mọi người xung quanh. Theo vòng xoay lịch sử, xã hội loài người đang tiến triển không ngừng. Tất cả đều vận động, đều làm việc hăng say, vì thế là một con người, chúng ta phải sống đẹp cuộc sống của mình với tất cả trách nhiệm và nghĩa vụ làm người, để xứng đáng là chủ thể của vạn vật xung quanh mình. Điều phân biệt giữa con người với các động vật khác chính là trí tuệ và trái tim, nói cách khác, chính là ý thức trong lao động, chiến đấu và học tập. Nhờ có lao động và sáng tạo chúng la đã thoát ra khỏi cuộc sống của bầy vượn, để rồi từng bước, từng bước chúng ta đã tự hoàn thiện mình, cải thiện cuộc sống của mình để trở thành con người ngày nay. Và ngay trong cuộc sống đời thường, từng sự việc rất nhỏ tưởng chừng không đáng để ý cũng chính là cái giúp chúng ta hoàn thiện mình hơn. Những học sinh đi học, lao động và học tập trở thành người có đức, có tài, hữu dụng cho đất nước mai sau.
Những hành động bình thường như suy nghĩ để giải một bài tập, như cúi xuống nhặt một mảnh rác bên đường... đều có thể góp phần làm đẹp tính cách chúng ta. Giữa cuộc sống cuồn cuộn như dòng thác, giữa bao gian nan, vất vả, lo toan của đời thường, con người đã dần tiến đến mục đích của mình: trở thành người chân chính. Con người nghĩa là sáng tạo, và sáng tạo nghĩa là hoàn thiện. Vì vậy, khi chúng ta sống “sống" khác với “tồn tại” chúng ta đã tự tìm đến với chính mình, tìm đến với con người hoàn thiện về cả lí trí lẫn trái tim. Sống giữa một cộng đồng, nhận được tất cả những tình cảm đoàn kết, thân ái, tương trợ của mọi người, chúng ta đã tin tưởng, thương yêu và giúp đỡ mọi người. Các Mác có nói “Hạnh phúc là đấu tranh" và “Người nào mang đến hạnh phúc cho nhiều người nhất chính là người hạnh phúc nhất". Đến với hạnh phúc, đến với chân lí, đến với lí tưởng là một quá trình đấu tranh mãnh liệt giữa cái tốt và cái xấu, cái Thiện và cái Ác trong một cộng đồng, một tập thể nói chung và trong mỗi con người nói riêng. Sự đấu tranh ấy chính là nguyên nhân và động lực phát triển của xã hội và nhân cách của mỗi con người. Một bông hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời dù rằng nó không phải là mặt trời. Một con người khó bao giờ có thể đạt đến sự hoàn thiện tuyệt đối nhưng luôn sống và hướng đến sự hoàn thiện ấy. Điều ấy chính là lí do vì sao đã có nhận định: "Con người không có mục đích nào khác ngoài mục đích trở thành người chân chính".
Trong xã hội con người ngày nay, và trong bất cứ một xã hội nào, con người vẫn luôn sống vì mục đích hoàn thiện nhân cách mình. Xã hội không ngừng phát triển theo guồng quay của lịch sử, và Ph.Ăng-ghen có nói: “Vấn đề không phải ở chỗ giải thích thế giới, mà là chỗ cải tạo thế giới". Để làm được điều đó, ngay từ bây giờ, chúng ta không thể chỉ nói ra những lời nói suông, mà phải hành động, phải đặt ra mục đích làm người chân chính để sống và phấn đấu làm việc cho mục đích ấy. Một hành động nhỏ như giúp người qua đường, như một lời hỏi thăm ân cần đối với cha, mẹ, như một chút đỡ đần cho cha mẹ những công việc hàng ngày, một hoạt động từ thiện xã hội... đều là những hành động mang nhiều ý nghĩa đối với việc hình thành nhân cách con người chúng ta. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
Nếu là con chim, chiếc lá
Con chim phải hót
Chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?
Nhà văn Đức F.Sile có nói: "Tình yêu là niềm say mê làm cho người khác hạnh phúc". Anh (chị) nghĩ gì về ý kiến đó và về vai trò tình yêu trong cuộc sống con người? - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Có ai trên đời chưa một lần nếm “trái đắng” của tình yêu, dẫu biết “yêu là chết ở trong lòng một ít" (Xuân Diệu)?
Tình yêu - chỉ hai chữ đơn giản vậy mà đã làm hao tổn bao giấy mực của những nhà văn, những thi sĩ, những triết gia... từ xưa đến nay. Nó đã trở thành đề tài muôn thuở của con người. V.Hugo đã khẵng định: "Tình yêu là bông hoa, cuộc đời là mật ngọt". Vai trò của tình yêu lớn lao như vậy nhưng bản chất của nó là gì? Bàn về vấn đề này, F.Sile - nhà văn Đức thế kỉ XVIII cho rằng: “Tình yêu là niềm say mê làm cho người khác được hạnh phúc”.
Cho đây là tình yêu với nghĩa hẹp là tình yêu nam nữ là trước hết, cơ bản là chuyện con tim. Tình yêu lứa đôi của trai gái là một thứ tình cảm đặc biệt. Không nói đến trường hợp nó nảy sinh đột ngột như sét đánh, bình thường nó là một sự cảm thông dần dần, một sự thẩm thấu có quá trình.
Bắt đầu bằng sự gần gũi, bằng những cử chỉ, ánh mắt, nụ cười, sự ngượng ngùng rồi quen thân, rồi thương vì nết, trọng vì tài. Cái tài ăn nói có duyên, cái nụ cười như thể hoa ngâu... đều có vai trò mở đường vào con tim. Thế là tình yêu đến lúc nào không hay.
Vậy tình yêu là gì?
Cùng với F.Sile, biết bao nhà văn đã nói về tình yêu, Stendal nói: “'Một nửa và là một nửa đẹp nhất của cuộc đời vẫn là khép kín với những ai chưa từng yêu say đắm’’. V.Hugo viết: "Thế giới không có người biết yêu thì mặt trời sẽ tắt”. Và Tôn-Xtôi thì khẳng định: "Tình yêu biến những điều vô nghĩa của cuộc đời thành có ý nghĩa, làm cho những bất hạnh thành hạnh phúc”. Còn Dostoievski hùng hồn tuyên bố: “Tình yêu là sức mạnh toàn năng đến mức nó tái sinh chính bản thân ta". Nhưng cũng có một nhà thơ cổ điển Pháp từng nói: "Tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi”. Xuân Diệu cũng đã viết: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”.
Tự nhiên như hơi thở, cần thiết như cơm ăn áo mặc hàng ngày, thế nhưng tình yêu là gì thì khó ai giải thích nổi. Sức quyến rũ ghê gớm của nó có lẽ là ở chỗ đó chăng? Chi tiết: “từ lúc yêu nhau hoa nở mãi”. Thấy người mình yêu đẹp hơn. Cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn.
Vẻ đẹp trong trắng của nàng Giu-li-ét đã gọi Rô-mê-ô đến với nàng trong tiếng hót của chim dạ loan, bất chấp ngang trái cách ngăn của hai dòng họ. Tình yêu mạnh lắm, mạnh hơn cả oán thù.
Dáng dấp “phong nhã, hào hoa" của Kim Trọng đã khiến nàng Kiều phải “ghé theo’’ dù “khách đà lên ngựa”. Và bước chân nàng Kiều "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" đến tình tự với người yêu đến nay còn làm cho bao kẻ giật mình.
Hiểu nhau càng sâu thì độ dày của tình yêu càng tăng, hoa tình yêu càng nở đẹp. Và bây giờ thì hai người như đã hòa làm một. Yêu và nhớ là hai mặt của tình yêu. Yêu say đắm thì nhớ tha thiết. Người xưa có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề”. (Một ngày không gặp nhau dài tựa ba năm). Ca dao cũng nói: “Gió sao gió mát sau lưng. Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này”. Khi yêu nhau, người ta luôn có mong muốn được gặp nhau, gần nhau:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương”
(Xuân Quỳnh).
Những kẻ đang yêu bao giờ cũng hướng về nhau, dành cho nhau những tình cảm, ý nghĩ tốt đẹp. Họ là mặt trời suốt đời soi sáng và sưởi ấm cho nhau.
Tình yêu gắn với niềm say mê là sự đam mê cháy bỏng mãnh liệt, không giới hạn. Nó không chấp nhận sự hững hờ, lạnh nhạt. Nét đặc trưng nhất của tình yêu là vậy. Trương Chi nổi sóng tình trước nhan sắc kiều diễm của Mỵ Nương, Kim Trọng cũng sóng tình lai láng trước vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Thúy Kiều. Và người bình dân thì "yêu nhau tam tứ núi cũng trèo...”.
Dường như khi yêu, trong con người cháy lên ngọn lửa thiêu đốt những cái tầm thường để những người đang yêu gần nhau hơn, kính trọng nhau, vì nhau hơn. Tình yêu chân chính không chấp nhận sự tính toán vị kỉ, nhỏ nhen, chỉ có sự quên mình, hi sinh cho nhau. Khi yêu, người ta mang đến cho nhau hạnh phúc. Đó là sự sung sướng, sự thỏa mãn. Và người ta cảm thấy mình sống có ích, cuộc đời của mình thật ý nghĩa.
Hạnh phúc đến với Thúy Kiều thì hồn thơ dào dạt thành: “'Tay tiên gió táp mưa sa”, chỉ một giây thành một lời châu ngọc. Hạnh phúc khiến cho nàng trổ tài nghề mọn mà khi thì tiếng tơ thành tiếng sắt tiếng vàng, khi thì thành lời thủ thỉ, quyến rũ của tiếng chim yêu đương, mời gọi... hạnh phúc cho Kim Trọng được thưởng thức tài nghệ của người yêu và cảm thấy mình may mắn tột đỉnh khi được sánh vai với một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn như Thúy Kiều.
Một lứa đôi gắn bó từ độ sâu của tâm hồn như thế, nếu được chung sống với nhau, họ sẽ đem lại cho nhau biết bao hạnh phúc! Người ta lo lắng cho nhau, đón trước ý nghĩ của nhau để làm một cái gì đó đem lại niềm vui cho người mình yêu trong cuộc sống hằng ngày. Trước kia, Kim Trọng: "Rắp mong treo ấn từ quan - Mấy sông cũng lội, qua ngàn cũng qua” để làm gì, nếu không tìm cho được Thúy Kiều để đền lại chuyện lỡ làng! Chúng ta nhớ tới chuyện Tú Xương dán đôi câu đối tết để bà Tú khen ông mà cũng thấy sướng trong lòng: “Rằng hay thì thực là hay - Không hay sao lại đỗ ngay tú tài?!".
Tình yêu đến độ chín sẽ thành niềm say mê chân chính - niềm say mê làm cho người khác được hạnh phúc - là vậy.
Ở đời, không phải không có những niềm say mê chỉ dừng lại ở mức ích kỉ bởi tình yêu tầm thường. Ghen bóng, ghen gió, hiểu lầm đến giết chết tình yêu, người yêu. Hoặc mạo danh tình yêu để vụ lợi, không nghĩ đến đau khổ, đến tan vỡ hạnh phúc của người khác. Tình yêu chân chính sẽ làm cho người ta thêm yêu cuộc sống, thôi thúc ước mơ, nâng người mình yêu lên một giá trị cao hơn, để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Lênin đã nói về tình yêu: “tình yêu là ngọn lửa nồng nhiệt, đừng để nó thiêu cháy sự nghiệp, cũng là lời nhắc nhở các cô gái, chàng trai đang yêu".
Tuy vậy, tình yêu không chỉ giới hạn trong phạm vi nam nữ. Con người cần có tình yêu lớn: yêu gia đình, bạn bè, cuộc đời, quê hương đất nước. Chính đặt trong tình yêu lớn, ý nghĩa của tình yêu lứa đôi, hạnh phúc gia đình mới thật sự cao đẹp, lớn lao, như nhà thơ Xuân Quỳnh trong bài thơ Sóng đã viết:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
Người xưa nói rằng đất cũng có tình yêu say mê sự sống. Lúa nổi ở Đồng Tháp Mười là quà của đất tặng con người, không đòi hỏi con người một chút mồ hôi gieo trồng. Được người chăm sóc, đất say mê kết trái cho đời, không bao giờ ngừng nghỉ. Còn cuộc sống con người cần tình yêu biết bao! Con người không có tình yêu chẳng khác chi trái đất không có ánh mặt trời, tình yêu say mê của các nhà khoa học là sự hi sinh sức lực, thời gian cả một đời để nghiên cứu, phát minh, sáng tạo ra những điều tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho con người. Tình yêu của người chiến sĩ đem lại thanh bình cho đất nước. Người chiến sĩ hiểu rất rõ rằng: tính mạng đáng quý, tình yêu rất đẹp, nhưng nếu vì tự do họ có thể hy sinh cả hai thứ đó. Tất cả đều bắt nguồn từ tình yêu lớn, từ sự say mê làm cho người khác được hạnh phúc. Tình yêu là qui luật muôn đời. Tuy câu nói của F.Sile cách đây đã hai thế kỉ nhưng ý nghĩa nhân sinh của nó vẫn rất mới mẻ và sâu sắc. Quan điểm này không chỉ có giá trị trong phạm vi tình yêu lứa đôi mà còn có giá trị trong đời sống tinh thần của cả cộng đồng. Nó khá gần gũi với quan điểm đạo lí Á Đông nên dễ hiểu và dễ chấp nhận. Mỗi chúng ta hãy coi bài học về lòng vị tha và đức hi sinh trong tình yêu là bài học lớn trong cuộc đời.
Nhà văn Nga L. Tôn-xtôi nói: “Lí tưởng là ngọn đèn ... không có cuộc sống ". Hãy nêu suy nghĩ về vai trò của lí tưởng trong cuộc sống con người - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Sống phải có mục đích. Sống phải có lí tưởng. Nói về tầm quan trọng của lí tưởng, nhà văn Nga Lép Tôn-xtôi chỉ rõ: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thi không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống”.
Lí tưởng là gì? Lí tưởng là mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất mà người ta muốn đạt tới. Lí tưởng rất quan trọng đối với bất cứ ai, đối với tất cả mọi người. Đúng “lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường”. Nhờ có ánh sáng ngọn đèn lí tưởng dẫn đường mà ta có thể đi tới tương lai, tránh được sự mò mẫm, vấp váp. Nhờ có ánh sáng ngọn đèn lí tưởng mà chúng ta có nghị lực và niềm tin trong cuộc đời, biết sống thế nào cho có ý nghĩa, sống thế nào cho đáng sống. Không sống vô vị nhàm chán, không sông quẩn quanh, tăm tối, mà chỉ muốn sống có ý nghĩa, sống có ích cho bản thân, cho gia đình và cho xã hội. Ngọn đèn được tác giả so sánh với lí tưởng thật là sâu sắc và có nhiều ý nghĩa.
Nếu không có mục đích, sống không có lí tưởng thì sẽ như thế nào? Lép Tôn-xtôi cho biết: “Không có lí tưởng thi không có phương hướng kiên định, mà không có phương hưởng kiên định thì không có cuộc sống”.
Phương hướng là hướng được xác định. Kiên định là một phẩm chất tốt đẹp, là tinh thần giữ vững ý định, ý chí, không dao động trước mọi khó khăn, trở lực. Khi đã không có lí tưởng, không có mục đích tốt đẹp sẽ không có phương hướng kién định, khác nào ké đi đêm hoặc chui vào sừng trâu, đâm đầu vào lối cụt. Không có lí tưởng thì khác nào thuyền không lái, thuyền sẽ trôi về đâu, về bến bờ nào. Nhừng kẻ sống quẩn quanh, sống bị động, hay dao động vì sống không có mục đích, không có lí tưởng, không có phương hướng. Mà khi đã không có phương hướng, hoặc không có phương hướng kiên định thì sẽ không có cuộc sống ý nghĩa. Anh sẽ không có hành động thiết thực. Nếu không có mơ ước, không có khát vọng sống, cuộc sống sẽ trở nên nhạt nhẽo, vô vị. Anh sẽ trở thành kẻ sông thừa, sống mòn.
Nêu tuổi trẻ sống không có lí tưởng sẽ lười học, nhác lao dộng, sẽ sớm nhiễm phải những tệ nạn xã hội như ăn chơi đua đòi, cờ bạc, rượu chè, nghiện ma túy, cướp bóc... Những học sinh “cá biệt’' trong nhà trường hiện nay chú yếu là do cách sống buông thả, sống không có lí tưởng.
Sống mà như chết thì sao có thể gọi là sống? sống mà tâm hồn bị khô héo, trái tim bị băng giá thì không thể gọi là sống. Sống mà không nghĩ đến tương lai, sống mà không nghĩ đến công hiến, phục vụ cho gia đình, đất nước thì sau có thể gọi là sống? Cô giáo em nói thời còn là học sinh, câu khẩu hiệu: “Sống, học tập, lao động và chiến đấu theo gương Bác Hồ vĩ đại” có một sức mạnh ghê gớm, lôi cuốn hàng triệu thanh niên thi đua và lập công trong phong trào “ba sẵn sàng”.
Câu nói của nhà văn Nga đã chỉ rõ tầm quan trọng của lí tưởng và sống có lí tưởng. Câu nói ấy cho đến nay vần mới mẻ và giàu ý nghĩa đối với học sinh thanh niên chúng ta.
Đất nước đang đổi mới. Công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước đang kêu gọi thanh niên lên đường. Có học tập tốt mới trang bị cho bản thân mỗi chung ta kiến thức, kĩ năng khoa học, lao động. Hơn bao giờ hết chúng ta mới thấy rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề lí tường và sống có lí tưởng.
Lí tưởng là ngọn đèn. Với Tố Hữu, lí tưởng là “mùi hương chân lí”. Tôi nhớ vần thơ của ông.
Khi ta đã say mùi hương chân lí
Tương lai đó, trước mặt ta biển rộng
Trên đầu ta, lồng lộng gió trời cao!
(Như những con tàu)
Bình luận câu nói nổi tiếng của nhà đại văn hào nước Nga L.Tôn-xtôi: "Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng kiên định thì không có cuộc sống" - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
I. Mở bài:
a. Khái niệm về hai từ “lí tưởng": Lí tưởng là mục đích, là lẽ sống cao đẹp mà mỗi con người chúng ta sẽ vươn đến.
b. Nêu vai trò của hai từ “lí tưởng” trong cuộc sống của mỗi người chúng ta: Lí tưởng là động lực thúc đẩy chúng ta sống tích cực hơn, mạnh mẽ hơn, cao đẹp hơn, làm cho cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa hơn, có ích lợi cho xã hội hơn...
c. Nêu câu nói của L.Tôn-xtôi: Chính vì vậy mà nhà đại văn hào nước Nga đã phát biểu một câu nói đầy ý nghĩa; có tác dụng lớn trong cuộc sống của mỗi con người chúng ta: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng kiên định thì không có cuộc sống.”
II. Thân bài:
a.“Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường":
Vì sao L.Tôn-xlôi bảo: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường”. Quan điểm ấy có đúng trong thực tế của cuộc sống chúng ta không? - Lời phát biểu của L.Tôn-xtôi đúng là một chân lí, bởi mỗi con người chúng ta trong cuộc sống đều luôn luôn mơ ước, khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp trong tương lai. Chính những ước mơ, khát vọng ấy là động lực giúp con người chúng ta sống tích cực hơn để đạt cho kì được những ước mơ khát vọng ấy. Tương lai phải khởi đi từ hiện thực. Hiện thực là nền móng của tương lai. Tòa lâu đài tương lai có được hay không là cũng do từ hiện thực. Nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy trong một bài thơ có những câu thơ mang ý nghĩa sâu sắc này:
Dẫu bay lên Hỏa hay sao Kim
Con người cũng đi từ mặt đất
Dẫu lớn tựa thiên thần
Cũng sữa ngọt mẹ nuôi
Thật vậy, trong hiện thực, nếu chúng ta chịu khó làm việc, học tập, không kiêu căng, tự mãn, biết coi thường những gian khổ, biết đạp bằng mọi trở lực để tiến lên... thì chắc chắn chúng ta sẽ dạt được mục tiêu, lí tưởng mà mình từng ôm ấp, tương lai chúng ta sẽ tươi sáng hơn, đường hoàng hơn. Cuộc sống do mình tự tạo lập nên là một cuộc sống vô cùng ý nghĩa. Không ai lo tương lai của chúng ta bằng chính chúng la, mà tương lai của chúng ta bắt đầu từ hiện thực. Chính “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường” cho cuộc sống của chúng ta mai sau. Điều này, ta dễ dàng tìm thấy nhiều tấm gương trong cuộc sống: nhiều bạn học sinh nghèo phải học tập trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn, thiếu thốn đủ mọi thứ, lại vừa học vừa làm để phụ giúp cha mẹ, thế mà nhờ có niềm tin, có nghị lực, có lí tưởng mà những bạn ấy đã vượt lên chính mình để đạt thủ khoa trong các kì thi tuyển Đại học. Hoặc như Bác Hồ, người luôn luôn sống cho lí tưởng vì độc lập tự do cho Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì lí tưởng của chủ nghĩa cộng sản nên Bác đã phải chịu đựng biết bao nhiêu gian khổ để đi tìm đường cứu nước và đưa cách mạng Việt Nam vượt qua biết bao gian lao thử thách, đi đến thắng lợi vẻ vang.
b.“Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng kiên định thì không có cuộc sống”. Như trên ta đã thấy "Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường" nên “không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng kiên định thì không có cuộc sống”.
Thật vậy, người sống không có lí tưởng chẳng khác nào đi trong đêm tối hay lạc giữa rừng già, cứ mò mẫm tìm đường nhưng không có lối ra, tức là không có phương hướng kiên định và tự giết chết đời mình. Không có phương hướng kiên định thì cuộc sống của chúng ta dễ rơi vào chỗ bi quan, bế tắc, chúng ta chẳng làm nên việc gì cả, sống không có mục đích, không có lí tưởng thì chúng ta cảm thấy bơ vơ lạc lõng trước cuộc đời, bởi bánh xe cuộc đời nó sẽ nghiền nát những tâm hồn lạc lõng đó mà đi, không hề thương tiếc. Người sống mà chỉ biết ăn chơi, hưởng lạc, sống nhờ, sông bám vào kẻ khác như chầm gửi thì cuộc sống của con người ấy dễ đi đến chỗ sa đọa và dễ sa ngã vào tội ác. Nói một cách khác, những con người đó đã tự đào hố chôn cuộc đời mình. Có biết bao con người đã rơi vào thảm họa đó, đến khi hối hận thì không còn kịp nữa.
Những bài học ấy ta có thể rút ra từ hiện thực cuộc sống. Trong xã hội ta hôm nay có biết bao con người cách mạng đã sống trung thực, tận tụy với dân với nước, sông theo lí tưởng của Bác Hồ, nhưng bên cạnh đó còn có một số cán bộ cách mạng biến chất, sống trên xương máu của đồng đội, sống trên mồ hôi, nước mắt của nhân dân, luôn tìm cách bòn rút của công, ăn hối lộ, bảo kê cho bọn tội phạm, ăn chơi sa đọa... Nhưng rồi trước hay sau, nhanh hay chậm những con người ấy sẽ bị pháp luật lôi ra ánh sáng, lôi ra trước vành móng ngựa để trừng trị đích đáng. Có khi họ bị án tử hình, có khi bị án chung thân, bị tịch biên tài sản, để lại tiếng xấu muôn đời. Hoặc có những con người sống không chân chính, sống không có mục đích, chỉ biết có đồng tiền mà sa vào con đường phạm pháp như buôn ma túy, hút chích ma lúy, vùi mình trong vũ trường với rượu và thuốc lắc để đến nỗi thân tàn ma dại và dễ dẫn đến mắc căn bệnh của thế kỉ HIV/AIDS, trở thành gánh nặng của xã hội. Đúng là “không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng kiên định thì không có cuộc sống" như L.Tôn-xtôi đã nói.
III. Kết bài:
Khẳng định lại câu nói trên của L. Tôn-xtôi là một chân lí, là một bài học lớn cho chúng ta trong cuộc đời. Nêu suy nghĩ về bản thân.
Bạn suy nghĩ gì về hai chữ "nhẫn nhịn", "nhẫn nhục" - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Trong hành trang bước vào đời của mỗi chúng ta, không thể không mang theo chữ “nhẫn”, cổ nhân từng nói: “Tiểu bất nhẫn tất loạn đại mưu", nghĩa là, đối với chuyện nhỏ, việc nhỏ mà không kiềm chế, nhẫn nại, chịu đựng thi sẽ làm hỏng việc lớn.
Vậy “Nhẫn” là gì? - Nhẫn là nhịn, dằn lòng xuống. Nhẫn thường đi liền với các từ, nhẫn nại, nhẫn nhịn, nhẫn nhục. Nhẫn nại có nghĩa là bền bỉ, chịu đựng những khó khăn nào đó để làm việc gì. Nhẫn nhịn chịu nhịn, chịu dằn lòng xuống. Còn nhẫn nhục nghĩa là dằn lòng chịu đựng những điều cực nhục. Tất cả đó là những biểu hiện tâm lí tự làm chủ bản thân rất cao trước những áp lực bên ngoài.
Trong cuộc sống giao tiếp hằng ngày, rất ít khi tránh khỏi mâu thuẫn và xung đột. Không nên “việc bé xé làm to”. Nếu chuyện nhỏ mà cố chấp, không nhẫn nhịn, tự kiềm chế thì sẽ làm hỏng việc lớn, ông bà, cha mẹ thường khuyên bảo con cháu: “Một điều nhịn là chín điều lành”. Cổ ngữ có câu: “Tiến bất nhẫn bất thành đại sự” (không biết nhẫn nhịn chuyện nhỏ thì việc lớn không thành).
Trong cuộc sống, có lúc ta phải làm ngơ trước những điều trái tai của những kẻ hung hăng, hiếu thắng. Có lúc bị “bắt nạt” một cách hồ đồ mà ta vẫn phải nén lòng nhẫn nhịn, chịu đựng, cho qua... Có nên tranh luận, cãi lí với những kẻ nóng nảy, ăn nói hồ đồ, thậm chí vô lễ không? Ta phải biết “tránh voi” nhưng có lúc lại cần tránh xa “con trâu lấm”. Mà loại “trâu lấm” trên đường đời rất nhiều. Câu “tránh voi chẳng xấu mặt nào”, và câu “thấy cứt tránh ngang, có sang gì cứt!” là những câu tục ngữ chí lí nêu lên bài học về chữ “nhẫn”.
Sách cổ ghi lại bao câu chuyện lí thú về chữ “nhẫn”. Thuở thiếu thời, Trương Lương (đại mưu sĩ của Hán Cao Tổ sau này) lúc đi ngang qua bến đò sông Xích Thủy đã gặp một ông lão người nhỏ bé, mắt xếch, ngạo mạn bắt “nhặt giày”, rồi còn bắt “xỏ giày” cho ông ta. Sau lời khen: “Tay này có cốt cách làm người”, ông lão lên giọng bảo: “Năm ngày sau, nhà ngươi hãy đến gặp ta ở bến đò!...”. Trương Lương rất khó chịu, nhưug vẫn nén lòng chịu đựng. Sau đó, phải hai lần ra đứng đợi ở bến đò vào lúc nửa đêm, Trương Lương mới được gặp “lão già quái gỡ!”. Sự nhẫn nhục, nhẫn nại đã đưa đến một điều bất ngờ hiếm có: Trương Lương được ông lão tặng cho quyển sách quý Binh pháp Thái Công. Lúc đó, Trương Lương mới biết ông già ấy là Hoàng Thạch Công, một tiên ông ở chân núi thành Bắc.
Chuyện thứ hai nói về Hàn Tín bị anh bán thịt giễu cợt, chua cay, thậm chí còn bị hắn bắt chui qua háng. Trong bụng thì chua cay, tức giận, nhưng Hàn Tín vẫn nhẫn nhục nhất nhất làm theo lời anh hàng thịt trước những cặp mắt
ngạc nhiên và những tiếng cười ré lên của hàng trăm người đi chợ có mặt lúc ấy. Vị đại tướng của nhà Hán sau này, lúc đó không phải là một thằng hèn, trái lại ông ta đã nêu cao chữ “nhẫn”, làm đúng lời dạy của người xưa “Tiểu bất nhẫn tất loạn đạo mưu”.
Nhẫn nhịn, nhẫn nhục là một đức tính đẹp của người biết làm chủ bản thân, tự kiềm chế mình trước hoàn cảnh bất thuận, bất lợi. Có trường hợp bị người thân trách nhầm, bị bạn bè hiểu nhầm, rất dễ dẫn đến bất hòa. Lúc đó, nóng giận sẽ làm cho môi quan hệ bị rạn nứt, chẳng khiến cho mây mù tan nhanh, không làm cho gió xuân thành mưa. Phải bình tĩnh, hết sức bình tĩnh là ta sẽ tìm được cách “phá vây”, thoát ra khỏi tình trạng nặng nề, ngột ngạt!
Nhẫn nhịn, nhẫn nhục không phải là sự nhu nhược đáng khinh. Trái lại, chính là biểu hiện của một phẩm cách tự tin, thể hiện ý chí vừa tự kiềm chế vừa kiên cường.
Lan Tương Như, vị Tể tướng quyền cao chức trọng thời Chiến quốc, ở gia thất cũng như ở triều đình, ở đâu, tiếp xúc với ai, ông cũng lễ độ, nhường nhịn, khiêm nhường, cung kính. Nguyễn Công Trứ, nhà thơ lỗi lạc, vị đại quan thời Nguyễn, “lúc thủ khoa, khi tham tán, lúc Tổng đốc Đông...", “lúc bình Tây cờ Đại tướng”, có khi bị cách tuột làm lính thú, thế nhưng ông vẫn nhẫn nhục chờ thời. Ông từng nói: “lúc làm Đại tướng, ta không lấy thế làm vinh thì lúc là lính thú, ta cũng không lấy thế làm nhục!”. Giữa thời loạn, ông mang cốt cách một kẻ sĩ quân tử, một đấng trượng phu, lúc về trí sĩ, ông là “cây thông đứng giữa trời mà reo!” Bài học về chí nam nhi, chí anh hùng và bài học về chữ “nhẫn” mà ông nêu cao, cho đến nay vẫn còn được nhiều người ngưỡng mộ và giàu ý nghĩa nhân sinh.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người anh cả của quân đội ta - cuộc đời và sự nghiệp cùa ông gắn liền những trang sử vàng chói lọi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chông Mĩ xâm lược. Nghe nói, từ thập kỉ 80 của thế kỉ XX đến nay (năm 2010), trong tư dinh Đại tướng có treo một chữ “nhẫn” rất to, chắc do nhiều nguyên nhân, nhưng cái tâm đức của ông thật vô cùng trong sáng, được thiên hạ ngợi ca.
Tóm lại, nhẫn nhịn là sự độ lượng, khiến cho đức trong, tâm sáng, lòng thanh thản. Người có thể tự kiềm chế, biết nhẫn nại là người sâu sắc, giàu bản lĩnh thể hiện một cốt cách trí tuệ, mưu lược, cao thượng.
Ai cũng cần biết “nhẫn” trong cuộc sống. Tuổi trẻ cần biết “nhẫn” để rèn luyện bản lĩnh, để chờ thời cơ, để vươn lên lập đức, lập nghiệp.
Một lần, trả lời câu hỏi của các cô con gái: “Đức tính mà cha quý nhất là gì?". Các Mác đã trả lời bằng hai tiếng “giản dị". Anh (chị) hiểu thế nào về đức tính ấy? - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Làm người như thế nào là câu hỏi lớn day dứt bao nhiêu thế hệ xưa nay. Câu hỏi của các cô con gái của Các Mác đối với cha mình chính là như thế. Câu hỏi “Đức tính mà cha quý nhất là gì” cũng tức là hỏi cha thích một con người như thế nào, thích sống như thê nào.
Câu trả lời cùa Các Mác đã nêu lên một đức tính quan trọng của con người: giản dị. Giản dị là một đức tính về phong cách sống. Người ta thường nói: con người giản dị, tác phong giản dị, ăn mặc giản dị, lời văn giản dị... Đức tính giản dị đối lập với thói xa hoa, thói phô trương, kiểu cách, làm bộ làm tịch, bày vẽ ra nhiều thú tục rườm rà, rắc rối. Giản dị là sống tự nhiên, tìm một con đường ngắn nhất để đến với mọi người, mọi việc.
Bác Hồ của chúng ta là một tấm gương sáng lớn về đức tính giản dị. Phạm Văn Đồng từng nói: Bình sinh Hồ Chủ Tịch là một người rất giản dị, lão thực. Vĩ nhân, thật vĩ nhân bao giờ cũng giản dị, lão thực. Hồi còn sống ở chiến khu, Chủ tịch Hồ Chí Minh sống chung, ăn chưng với cán bộ, bộ đội. Đến bữa cơm, Người lấy thìa chia thức ăn cho mọi người. Giờ giải lao, Người đánh bóng chuyền với mọi người, về Hà Nội, Người vẫn thích mặc bộ bà ba, đi dép lốp, ở nhà sàn, về ngôn ngữ, tuy Người rất giỏi tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc và nhiều thứ tiếng khác, nhưng Người chủ trương nói tiếng Việt, không thích dùng từ nước ngoài khi không cần thiết, không chủ trương nói tiếng Việt, không thích dùng từ nước ngoài khi không cần thiết, không ai hiểu. Bác Hồ rất ghét phô trương, xa hoa. Đến thăm nơi nào, Người không muốn báo trước để người ta tổ chức đón rước, mất công mất việc. Trong Di chúc, Người không muốu sau khi mình mất, nhân dân phải tổ chức điếu phúng linh đình.
Nhưng giản dị không phải là đơn giản, thô sơ. Thơ của Bác Hồ chẳng hạn, là giản dị, nhưng không giản đơn chút nào. Ví như bài Đi đường, dễ hiểu, gợi cảm, không dùng điển cổ, nhưng rất sâu sắc. Giản dị là hình thức của cách sống, cách suy nghĩ chân thật, trung thực của con người.
Không nên hiểu giản dị là không ăn mặc đẹp, không đi giày dép, nói năng không cần thưa gửi, uống nước lã, ăn quả xanh. Có bạn hiểu giản dị là ăn nói tùy tiện, thậm chí nói tục ở trong lớp, trước mặt mọi người. Như thế không phải là giản dị, mà là thiếu văn hóa, thiếu tôn trọng người khác. Một người học sinh giản dị là người sống khiêm nhường, không phô trương, không khoe khoang. Một học sinh giản dị là học sinh biết ăn mặc đẹp, lịch sự, sạch sẽ, nhưng không lố lăng. Đó là người hòa nhã, gần gũi với mọi người trong học tập và vui chơi. Đó là người hồn nhiên, học hết mình, chơi hết mình, không có thái độ giả tạo. Chẳng hạn, không hiểu mà không hỏi bạn, sợ mang tiếng là dốt, hoặc biết mà bạn hỏi thì không bảo, giữ kẽ, giữ tủ. Che đậy mình hoặc khoe khoang mình tức là giả tạo, không giản dị.
Tóm lại, câu trả lời của Các Mác đối với các con gái của ông có một ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Đức tính mà Các Mác quý nhất cũng chính là đức tính mà chúng em yêu quý. Giản dị là một đức tính quý báu, đồng thời cùng là một phương hướng tu dưỡng, rèn luyện. Đẹp biết bao khi mọi người sống với nhau giản dị, chân thật, ấm áp và dầy lòng tin cậy, như M. Go-rơ-ki đã nói: “Cái đẹp là ở cái giản dị”.
Bàn luận về câu tục ngữ Pháp: “Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu".
Câu trả lời của bạn
Tiền bạc là một vật dụng được lưu thông trong xã hội, có tác dụng thúc đẩy và phát triển ngành mậu dịch. Nó là một thứ “tài sản đặc biệt” gắn bó thiết thản đối với mỗi người, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia. Đã có nhiều câu tục ngữ, câu thơ, bài ca dao... nói về tiền bạc, về đồng tiền. Người Pháp có câu tục ngữ nói về tiền bạc từng được nhiều người nhắc đến: “Tiền bạc là người đầy tớ trung thành và là người chủ xấu”.
1. Câu tục ngữ đã nêu bật được “hai mặt” của đồng tiền, tùy theo cách sử dụng và người sừ dụng, mà có khi "tiền bạc là người đầy tớ trung thành", có khi nó biến thành “người chủ xấu”.
Trên thương trường, trong cuộc sống hằng ngày, ta càng thấy rõ tính chất “hai mặt” của tiền bạc. “Tiền bạc là người đầy tớ trung thành” khi người sử dạng nó vào mục đích tốt đẹp, lương thiện; làm chủ được nó. Trái lại, khi tiền bạc đã được sử dụng sai, mục đích, dùng tiền bạc đề gây ra bao điều xấu xa, bất lương, tội ác... thì nó đã trở thành “người chủ xấu”. Lúc ấy, người sử dụng đồng tiền đã trở thành tên nô lệ cua tiền bạc, kẻ thù ác vô cùng xấu xa. Vì thế, câu tục ngữ khuyên mọi người phải biết sống lương thiện, biết làm chú đồng tiền, đừng vì hám bạc, hám tiền, hám lợi mà gây ra bao điều xấu xa, tội lỗi.
2. Tại sao “tiền bạc là người đầy tớ trung thành?”. Bằng lao động mà kiếm được tiền bạc, đó là tiền bạc trong sạch, là thứ tài sản chân chính. Người nông dân bán nông phẩm sau những ngày tháng dầm mưa dãi nắng: cán bộ, công nhân, thầy giáo, thầy thuốc được phát lương và nhận lương; nhà kinh doanh có tài làm ăn (theo khuôn khổ pháp luật) mà trở thành tỷ phú... có thể nói, đó là thứ tiền bạc, thứ tài sản “trong sạch”, chính đáng. Đồng tiền làm ra ấy lại dùng để mua bán, chi tiêu, dùng vào những nhu cầu thiết yếu của đời sống hằng ngày, biết chi tiêu hợp lí, tiết kiệm, biết dùng đế san sẻ, cưu mang bà con nghèo khổ. đóng góp vào quỹ tình thương, quỹ công ích... thì lúc đó “tiền bạc là người đầy tớ trung hành". Người chủ của những tiền bạc ấy là ông chủ chân chính; nhân ái tỏa sáng tâm hồn họ.
3. Tiền bạc có một sức mạnh ghê gớm. “Có tiền mua tiên cũng được”, “Đồng tiền là Tiên, là Phật, là sức bật lò xo...” - đó là những cầu thường được nhiều người nhắc lại.
Tại sao, có khi, có nơi, có người tiền bạc lại trở thành “người chủ xấu”. Con người ta rất dề bị đồng tiền lung lạc. Khi người ta trở thành nô lệ của tiền bạc, bị đồng tiền sai khiến, dùng đồng tiền vào những chuyện bất lương, thì lúc đó tiều bạc đã trở thành “người chủ xấu” rất đáng sợ. Con người lúc ấy sẽ bị đồng tiền sai khiến, hành hạ.
Có kẻ vì quá nghèo khổ mà trở thành nô lệ đồng tiền, thật đáng thương. Có kẻ vì quá tham lam mà cướp của, giết, người! Vì tiền bạc mà vợ chồng phải li dị. Vì tiền bạc mà có đứa con giết bố mẹ, đứa cháu giết ông bà, đứa anh giết em, đứa em giết chị, gây ra bao vụ án mạng rùng rợn. Những kẻ lừa thầy
phản bạn, các vụ việc như chạy chức, chạy quyền, chạy khen thưởng, chạy điểm, mua bằng cấp, bán học hàm, học vị (giáo sư rởm, tiến sĩ rởm) đều do “ông chủ xấu" là tiền bạc gây ra!
“Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mô”; "Tiền tài hai chữ son khuyên ngược! Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi”; “còn bạc, còn tiền, còn đệ tử/ Hết xôi, hết rượu, hết ông tôi": “có tiền việc ấy mà xong nhỉ. Đời trước làm quan cũng thế a?”; “‘Nén bạc đâm toạc tờ giấy”... đó là những câu thơ, câu tục ngữ mà nhiều người đã biết nói về “mặt trái” của đồng tiền, châm biếm tiền bạc là “ông chủ xấu
Sống ở đời, ai cũng muốn được giàu sang phú quý, ai cũng hiểu “vạn khổ bất như bần”.
Giữa thời kinh tế thị trường, kinh doanh làm giàu đã và đang được luật pháp và xã hội khuyến khích, nhiều nông dân triệu phú, nhiều nhà kinh doanh trẻ có nhiều triệu đô xuất hiện trên mọi miền đất nước.
Hãy học giỏi, bước vào đời, đem tài năng thi thố với thiên hạ và làm giàu để góp phần làm cho đất nước hùng cường thịnh vượng. Câu tục ngữ của người Pháp được bàn tới ở đây là bài học sâu sắc, nó nhắc nhở mỗi chúng ta biết sống đẹp, biết lao động làm giàu, được sống sung sướng hạnh phúc.
Giàu tiền bạc mà lương thiện, nhân ái. Giàu tiền bạc mà không bao giờ tham lam để “hoàng kim hắc nhân tâm".
Tuân Tử nói: "Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy". Em nghĩ gì về câu nói trên? - Ngữ Văn 12
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài
Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Để có được thái độ an nhiên, bình thản với mọi được - mất, khen - chê ở đời như Nguyễn Công Trứ đâu phải dễ. Chúng ta vẫn luôn bận lòng với lời khen tiếng chê ở đời. Khen chê đôi khi là động lực để ta hoàn thiện mình. Khen chê đôi khi là “thuốc thử” để ta biết thật – giả của lòng người. Khuyên con người cần tỉnh táo trước lời khen, chê ấy, Tuân Tử nói: “Người chê ta mà chê phải là thầy của ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy”.
2. Thân bài
a) Giải thích
c) Bài học nhận thức và hành động
3. Kết bài
Câu nói của Tuân Tử là một lời khuyên đẹp. Ông đã nêu lên một phương châm sống giàu ý nghĩa; nêu lên tiêu chí đúng đắn về cách nhận diện người thầy, người bạn, kẻ thù. Chọn thầy để học và hành đạo (đạo làm người). Chọn bạn (bạn tốt) để thêm sức mạnh trong cuộc đời. Nhận diện kẻ thù, bọn xu nịnh để gạt chúng ra khỏi tâm trí, để tâm hồn trong sạch, sống thảnh thơi.
Nhà sư phạm nổi tiếng V.A. Xu-khôm-lin-xki có viết: "Niềm tin và thế giới ... không xứng đáng". Theo bạn, đối với một con người có đạo đức và tâm hồn đẹp đẽ, những điều gì là không xứng đáng? - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Có một vật rất tinh vi và dịu dàng, mạnh mẽ và can trường, bất khả xâm phạm và không gì lay chuyến được - đó là phẩm giá của cá nhân con người. Trong cuộc sống, con người đụng chạm với cái đẹp và cái đê tiện, với niềm vui và nỗi đau khổ: trong cuộc sống tinh thần của con người thường có những giờ phút vinh quang và những giờ phút đau khổ, tình yêu đắm say và cảm giác về sự đê mạt lay động tâm hồn con người; cũng có những bước ngoặt và những sự trùng hợp hoàn cảnh trong đó phải khước từ sự vui thú và tự nguyện hi sinh, vì lợi ích cùa người thân, đặc biệt là vì lợi ích của vợ con, cần tự nâng mình lên trên tình tảm và sự xúc động bằng sức mạnh của tư tưởng và niềm tin.
Tất cả những việc đó đòi hòi phải có phẩm chất (...) Phẩm giá - đó là quyền lực sáng suốt biết làm chủ bản thân. Sự cao thượng của nhân cách con người của em biểu hiện ở mức độ em có thể sáng suốt và tinh tế xác định cái gì xứng đáng và cái gì không xứng đáng. Điều xứng đáng phải trở thành chính bản chất văn hóa tinh thần của em, còn điều không xứng đáng thì hãy để cho nó gây ra trong tâm hồn em sự kinh tởm và khinh bỉ.
Việc hiểu rõ sự thấp hèn, đê tiện, quái gở, tầm thường của cái không xứng đáng phải trở thành một nét tính cách của em.
Dưới đây là chín điều không xứng đáng, niềm tin và thế giới xúc cảm của con người có đạo đức đúng đắn, tâm hồn đẹp đẽ được xây dựng trên cơ sở khinh bỉ những điều không xứng đáng này.
Là không xứng đáng nếu tìm kiêm cuộc sống hạnh phúc, niềm vui, sự thỏa mãn, sự bình yên của mình nhờ vào sự ức hiếp, sự quấy phá gây nỗi buồn phiền và sự lo âu cho người khác. Không để cho ai xúc phạm mình nhưng cũng đừng xúc phạm người khác (...). Người thực sự có phẩm giá không thể tự mãn, binh thản, thờ ơ đối với những gì đang xảy ra trong trái tim người khác.
Là không xứng đáng nếu bỏ bạn trong tai họa, hiểm nghèo hoặc thờ ơ đối với nỗi buồn phiền đau khổ của người khác. Chứng đui điếc về phương diện đạo đức, sự chai cứng về trái tim, đó là một trong những tật xấu đáng kinh tởm nhất. Điều xứng đáng đem lại niềm vui, còn điều không xứng đáng khiến cho tinh thần lên án mạnh mẽ.
Là không xứng đáng nếu lợi dụng kết quả lao động của người khác, núp đằng sau lưng người khác. Trở thành người lao động - đó là một điều vinh dự; trở thành kẻ ăn bám - đó là một sự sỉ nhục.
Là không xứng đáng nếu rụt rè, yếu đuối. Biểu lộ sự thiếu cương quyết, lùi bước trước gian nguy, than vãn, rên rỉ thật đáng xấu hổ. Sự rụt rè và không kiên quyết đẻ ra tính hèn nhát, đê tiện, phản bội. Sự can đảm và bạo dạn là nguồn gốc của sự dũng cảm. Thể hiện lòng can đảm, sự bạo dạn, tính kiên quyết, sự can trường, tính kiên nghị trước nguy nan - đó là trạng thái tinh thần không gì có thể so sánh được, để lại dấu ấn trên toàn bộ tính cách của con người và tạo ra sự cao thượng thật sự ở con người. Tôi tin chắc một ngàn lần rằng con người chỉ thực sự tự biểu hiện và tự nhận thức bản thân mình trong sự can đảm và lòng dũng cảm. Chỉ có hành vi dũng cảm, gan dạ mới duy trì suốt đời tính nhạy cảm tinh tế của trái tim và tư tưởng đối với tai họa - nỗi đau và sự bất hạnh – của kẻ khác và đôi với những người cần được bảo vệ và đồng tình. Sự gan dạ - đó là tia lửa làm bùng lên ngọn lửa trung thực và thái độ của người dũng sĩ đối với nghĩa vụ. Những động cơ cao thượng thúc đẩy con người có hành vi dũng cảm dường như chiếu sáng ý thức con người bằng ý nghĩ cho rằng bộc lộ tính nhu nhược, đi theo con đường dễ nhất là đáng để bạn bè coi khinh. Sự cam đảm, cao thượng, nói lên một cách có hình ảnh, là con dao khắc tinh vi nhất tạo nên vẻ đẹp chân chính của con người.
Là không xứng đáng nếu em thả lỏng nhu cầu và dục vọng làm cho chúng dường như thoát khỏi sự kiếm soát của tinh thần con người. Em muốn ăn hoặc uống, nghỉ ngơi hoặc sưởi ấm – thể xác em có nhu cầu như vậy, nhưng chớ quên rằng em là một con người! Khi thỏa mãn các nhu cầu của mình, em phải thể hiện lòng cao thượng, sự kiềm chế, tính tự chủ. Đó không phải là sự khiêm nhường. Đó là một cái gì còn cao hơn và quan trọng hơn: chế ngự được nhu cầu và dục vọng cùa bản thân, em đã nâng cao bản chất tinh thần của mình.
Là không xứng đáng nếu em im lặng khi lời nói cua em là sự trung thực, cao thượng và dũng cảm, còn sự im lặng là nhu nhược, hèn hạ và thậm chí phản bội. Không nên nói khi sự im lặng của em là sự trung thực, cao thượng và dũng cảm, còn lời nói là sự nhu nhược, hèn hạ, thậm chí là phản bội. Việc con người biết làm chủ lời nói cùa mình sáng suốt đến mức nào, biết sử dụng công cụ tinh tế này của con người thành thạo đến đâu là điều nói lên phẩm giá của con người! Điều không xứng đáng, với một người chân chính, không những là nói dối, đạo đức quá, quỵ lụy, tuân theo ý chí của người khác, mà còn là không có cách nhìn riêng của mình, để mất bản lĩnh. Mách lẻo là hèn hạ và đáng ghẻ tởm. Mách lẻo, tố giác bạn chẳng khác nào bán sau lưng.
Con người với những quan điểm và niềm tin bị bẻ gãy trở thành con người đáng thương hại Người đó trở nên trông rỗng về mặt tinh thần, sẵn sàng đồng ý với mọi điều người ta nói, chỉ cần đừng phá vỡ sự yên ổn của anh ta, không xâm phạm đến sự êm ấm của anh ta. Một con người như vậy khéo chiều theo ý kiến của người điều khiển công việc và hành vi của anh ta. Anh ta cố gắng làm vừa lòng kẻ mạnh và xúc phạm người yếu. Anh ta không thể có những hành động cao thượng của tâm hồn con người, không thể có sự đồng cảm, đồng tình. Bẻ gãy quan điểm và niềm tin cá nhân có nghĩa là làm cho con người trở nên tàn nhẫn.
Là không xứng đáng nếu em nói năng bừa bãi thiếu suy nghĩ và hứa những điều không thực hiện được. Hãy làm cho việc đạt mục tiêu đem lại cho con người niềm vui sướng và tự hào. Khát vọng hoàn toàn không phải là điều ao ước. Điều ao ước nảy sinh cả trong những tâm hồn lười biếng. Còn những niềm khát vọng thì gắn liền với việc con người tự bắt buộc mình, tự hứa với mình, tự đặt ra yêu cầu cho mình. Khi nhận ra khát vọng là ý chí của bản thân, con người hiểu được một chân lý rất quan trọng: lời hứa thật sự của con người bao giờ cũng là khó với ý nghĩa là nó không thể có được nếu thiếu sự lao động của tâm hồn.
Là không xứng đúng nếu em quá thương xót bản thân mình - cũng như không thương xót, thờ ơ với người khác. Phóng đại quá mức những đau buồn, tai họa, tổn thương và thống khố riêng của mình là không xứng đáng. Không nên mau nước mắt. Sự chịu đựng tăng vẻ đẹp cho con người. Những giọt nước mắt, rỏ ra để người thân phải thương hại mình không chỉ hạ thấp con người, mà còn làm suy giảm khả năng con người tự rèn luyện bằng sự kiềm chế, sự cao thượng của ý chí. Là không xứng đáng nếu em bình thản và thờ ơ khi bên cạnh em có một người phụ nữ đang gặp khó khăn.
Là không xứng đáng nếu em say rượu. Rượu làm cho ý thức bị lu mờ và bản năng trỗi dậy, hạ thấp con người xuống hàng súc vật.
Bạn nghĩ như thế nào khi nhà triết học Hi Lạp Dê-nông (346-264 trước Công nguyên) nói với một người bẻm mép: “Chúng ta có hai tai và một mồm để nghe nhiều hơn và nói ít hơn".
Câu trả lời của bạn
Ai cũng có mồm để ăn nói, có tai để nghe. Nói như thế nào, nghe như thế nào, là cả một nghệ thuật sống trong giao tiếp hằng ngày, trong ứng xử giữa người với người trong cộng đồng.
Câu nói của nhà triết học Hi Lạp Dê-nông (346-264 trước Công nguyèn) với một người bẻm mép là một lời khuyên sâu sắc để chúng ta ghi lòng và suy nghĩ: “Chúng ta có hai tai và một mồm để nghe nhiều hơn và nói ít hơn”.
Câu nói trên đây của Dê-nông hướng tới kẻ bẻm mép. Kẻ bém mép còn gọi là kẻ trém mép, nhừng kẻ nói hay mà ít làm, không chịu làm. Hai chữ “chúng ta” trong câu nói cùa Dê-nông như một lời tâm sự, một điều chiêm nghiệm nên không làm mất lòng đối với người đang đối thoại, dù đó là kẻ bẻm mép. Dê- nông đã từ một hiện thực cụ thể hiển nhiên là “chúng ta có hai tai và một mồm” để rút ra một bài học, một chân lí, một lời khuyên giản dị mà sâu sắc: Ai cũng nên nghe nhiều hơn và nói ít hơn.
Tại sao trong giao tiếp cần nghe nhiều hơn và nói ít hơn? Kẻ bẻm mép thường ăn nói ba hoa, khoe mẽ; nói đủ chuyện trên trời dưới đất. Ăn nói khoe khoang là bản tính của kẻ bẻm mép. Lúc giao tiếp, lúc đối thoại với bất cứ ai, kẻ bẻm mép bao giờ cũng vậy, ăn nói huyên thuyên, hết đưa xa cái lí lẽ này, lời bình phẩm nọ, tung ra mọi tin tức thông báo, rồi nhận xét, đánh giá. Anh ta cũng có hai tai đấy, nhưng không biết lắng nghe mà chỉ huyên thuyên khoe biết, khoe tài, khoe giỏi. Anh ta có biết đâu, nhưng người đang nghe anh ta nói khó chịu và coi thường anh ta.
Trong giao tiếp cần nghe nhiều hơn, nói ít hơn. Nói là để biểu đạt tình cảm, tư tưởng, nhận thức, sự hiểu biết của mình. Phải biết làm chủ bản thân mình nên phải nói ít. Biết mười nói một, làm nhiều nói ít là người khôn. Tục ngữ có câu:
- Người khôn nói ít làm nhiều,
Không như người dại lắm điều rởm tai.
- Khôn ngoan chẳng lọ nói nhiều,
Người khôn mới nói nửa điều cũng khôn.
Nói ít nghe nhiều lúc giao tiếp là thể hiện sự khiêm nhường, lịch sự, đức tính chín chắn. Ngay cả lúc tranh luận, bàn cãi bất cứ về chuyện gì, ta cũng phải làm chủ thái độ, làm chủ ngôn ngữ, đừng cướp lời, đừng đỏ mặt tía tai, đừng vừa nói, vừa vung tay! Nói ít nghe nhiều thì mới học được điều hay, điều tốt đẹp. Ông bà, cha mẹ thường dạy bảo con cháu: "Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Học ăn, nói, gói, mở, để ứng xứ, để giao tiếp, để tu dưỡng nhân cách, đạo đức, trình độ học vấn của mỗi người. Trong giao tiếp, bất cứ ai cũng vậy, nên nói ít nghe nhiều, phải suy nghĩ chín chắn rồi mới nói. Nghe nhiều, nói ít mới đúng là người có nhân cách văn hóa.
Đó đây trong nhà trường, ở đường phô, trên báo chí; .. ta thường bắt gặp những kẻ đa sự, nói nhiều. Có kẻ nói nhiều đã trở thành bệnh lí, cố tật. Kẻ bẻm mép có biết đâu bị thiên hạ cười chê. Nói dài, nói dai, nói dại: Đất xấu trồng cây khẳng khiu / Những người thô tục nói điều phàm phu - những lời châm biếm ấy của dân gian hình như những kẻ bẻm mép chưa bao giờ được nghe, chưa hao giờ được nghĩ tới.
Trong xã hội mới, trong nền kinh tế trí thức, bài học nghe nhiều, nói ít vẫn rất thiết thực và bổ ích đối với thế hệ trẻ chúng ta. Học cho rộng, suy cho kĩ, nghĩ cho sâu mới là con người mới. Nói và làm phải đi đôi với nhau, cổ nhân đã từng lưu ý: “Ngôn quá kì hành, bất khả trọng dụng”, nghĩa là nói nhiều hơn làm, không dùng việc lớn được. Ngày nay, việc lớn là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì không thể dùng được những kẻ bẻm mép nói nhiều hơn làm.
Sau hơn hai nghìn năm, câu nói trên đây của nhà triết học Hi Lạp Dê-nông vẫn còn nguyên giá trị. Nghe nhiều hơn và nói ít hơn là một lời khuyên đẹp, một bài học nhẹ nhàng mà sâu sắc, thấm thía. Nói ít, nghe nhiều, làm giỏi là thước đo giá trị và nhân phẩm. Nhắc lại câu nói của Dê-nông, làm theo câu nói của Dê-nông là để sống đẹp.
Có ý kiến cho rằng: “Có ba điều trong cuộc đời mỗi người, nếu đi qua sẽ không lấy lại được: thời gian, lời nói và cơ hội". Hãy bình luận ý kiến đó.
Câu trả lời của bạn
Kiếp nhân sinh dài hay ngắn? Làm người khó hay dễ? Có biết bao câu hỏi được mỗi người, tự đặt ra để hỏi mình, có biết bao câu ca, tiếng hát, danh ngôn sâu sắc, lí thú, đã trở thành hành trang vào đời của mỗi người, mỗi chúng ta. Làm sao để sống đẹp, sống tốt, vươn lên làm chủ với ý kiến sau đây:
“Có ba điều trong cuộc đời mỗi người, nếu đi qua sẽ không lấy lại được: thời gian, lời nói và cơ hội”.
Mỗi người là một cá thể trong cõi nhân sinh. Sướng hay khổ, vui hay buồn, giàu sang hay nghèo hèn, khỏe mạnh hay đau ốm, trường thọ hay đoản thọ mỗi người một số phận, một cảnh ngộ, nào ai giống ai? Đúng thời gian, lời nói và cơ hội là những “tài sản’’ vô cùng quý báu đối với mỗi người. Những thứ ấy đã trôi qua thì không bao giờ lấy lại được. Do đó, phải sống như thế nào, sống tích cực hay buông xuôi, sống đẹp hay sống vô vị, sống nhạt nhẽo, sống thừa như "phường giá áo túi cơm!”.
1. Trước hết, nói về thời gian.
Thời gian là vàng; thời gian quý hơn vàng. Quỹ thời gian là vốn sống của mỗi người. Ăn ngủ vui chơi, học hành, lao động... của bất cứ ai đều diễn ra theo ngày đêm, bốn mùa, năm tháng. Con người dùng thì giờ để lao động sản xuất ra của cải vật chất và mọi giá trị tinh thần, để sống trong no ấm, hạnh phúc. Con người cũng dùng thời gian để học hành, mở mang trí tuệ, vươn lên tầm cao của học vấn, văn minh.
Quỹ thời gian sinh lí thì mọi người như nhau, nhưng quỹ thời gian tâm lí của mỗi người lại khác nhau. Có người sống trong tâm trạng: “Ba thu dồn lại một ngày dài ghê”. Có người “uống rượu tiêu sầu” nên cảm thấy: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy - Kiếp phù du trông thấy cũng nực cười!” Có người lại hối hả “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm”, nhất là bà con dân cày đã thức khuya dậy sớm, đã một nắng hai sương cuốc bẫm cày sâu để làm ra những mùa vàng, những bát cơm đầy dẻo thơm.
Thời gian trôi nhanh “vun vút như tên bay, như bóng câu (ngựa) lướt qua cửa sổ, như nước chảy qua cầu". Thời gian một đi không trở lại. Sinh, trưởng, lão, bệnh, tử và vòng đời của mỗi người. Tuổi trẻ thường phung phí thì giờ, cho nên lúc mái tóc chớm bạc mới hối hận, mới tiếc nuối: “Ôi kiếp nhấn sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như tuyết tan..”.
Kẻ lười biếng nên sông buông thả: “Ăn no rồi lại nằm khoèo - Nghe giục trống chèo, vác bụng đi xem”. Dân gian đã châm biếm: “Đời người có một gang tay - Ai hay ngủ ngày còn có nửa gang!” Muốn chiếm được bảng vàng, các thí sinh, sĩ tử phải “dùi mài kinh sứ", phải “Thập niên đăng hỏa”, ở nước ta đã có những “vua lợn”, “vua quỷ”: như Lê Ngọa Triều, Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, nhưng cũng có những vị minh quân như Lê Thánh Tông: “Trống đời canh, còn đọc sách - Chiêng xê bóng, chửa thôi chầu”.
Kẻ lười biếng, ăn không ngồi rồi thì lúc nào cũng cảm thấy thừa thời gian. Người siêng năng cần cù thi luôn cảm thấy thiếu thời gian. Biết làm chủ thời gian là biết sống tích cực. Trong bài thơ Vội vàng viết vào thời mười tám, đôi mươi, thi sĩ Xuân Diệu đã thể hiện một tâm thế tuyệt đẹp:
Mỗi buối sớm Thần Vui hằng gõ cửa Tháng giêng ngon như một cặp môi gần Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ môi hoài xuân.
Vì cảm nhận được "Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật - Không cho dài thời trẻ của nhân gian”, nên chàng thi sĩ họ Ngô mới “vội vàng”, muốn “say”, muốn “riết”, muốn “ôm”...
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng...
Thật vậy, thời gian rất quý, thời gian trôi nhanh, một đi không trở lại, nên không được vung phí thời gian, phải biết làm chủ thời gian.
2. Thời gian mải miết trôi qua, không thể nào lấy lại được, vậy lời nói thì thế nào? Người xưa từng nói: Tên bắn đi thì máu sẽ đổ, và thịt nát xương tan, đô thị hoang tàn. Tên bắn đi làm sao thu hồi được? Lời đã nói ra làm sao lấy lại được? "Lời nói gió bay" (tục ngữ). Lời nói là vàng. Đó là những lời nói tốt đẹp, mang tính người, hoặc là lời ngợi khen, hoặc là lời động viên, an ủi. Hoặc là lời ông bà, cha mẹ báo ban con cháu. Hoặc là lời thầy, cô dạy bảo học trò. Hoặc là lời bạn bè tâm sự. Hoặc là tiếng nói tâm tình của lứa đôi. Hoặc là lời chào hỏi âu cần, vui vẻ cùa đồng loại. Lời nói dù tốt đẹp, nhân văn đến đâu cũng khôug thể nào lấy lại được.
Còn có những lời nói độc địa, tiếng chửi rủa, quát tháo. “Lời nói đọi máu” (Tục ngữ). Có những lời nói có thể làm người nghe đau đớn, tủi nhục, căm giận, nhưng khi đã được “phun ra” thì làm sao lấy lại được? Nhất là những lời nói tục tằn, thô lỗ, phàm phu càng không lấy lại được
Đất xấu trồng cây khẳng khiu,
Những người thô tục nói điểu phàm phu!
Cũng như tiếng chim hót nghe rất vui tai, câu hát, lời ru của bà, của mẹ tuy “gió đưa về trời” những vẫn thấm sâu vào tâm hồn con cháu. Đúng như nhà thơ Nguyễn Duy đã viết:
Cái cò... sung chát đào chua
Câu ca mẹ hát gió đưa về trời
Ta đi trọn kiếp con người.
Cũng không đi hết những lời mẹ ru.
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
Khi lời nói đã “xuất khẩu”, dù hay, dở thế nào cùng không lấy lại được, do đó, lúc nói năng phải đắn đo, suy nghĩ cẩn trọng. Không thể ăn nói văng mạng được. “Ăn nhai, nói nghĩ”, phải “uốn lưỡi bảy lần mới nói" - đó là lời khuyên về sự ăn nói. Trong chúng ta, hầu như ai cũng nhớ câu:
Lời nói chẳng mất tiền mua.
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Lời nói thể hiện tư tưởng, tình cảm, cách ứng xử, bộc lộ cá tính, nhân cách văn hóa của mỗi người. Lời nói khi đã phát ngôn thì không thể nào lấy lại được, do đó, chúng ta phải học cách ăn nói văn minh, lịch sự, lễ phép. Và phải thận trọng, lễ độ trong nói năng, ứng xử.
Thời gian đã trôi, không thể chạy ngược dòng, lời nói đã phát ngôn không thể thu hồi, còn cơ hội có lấy lại được không?
Cơ hội là dịp may hiếm có, mang tính khách quan, ngoài mong muốn chủ quan của mỗi người. Có loại cơ hội nghìn năm mới có một. Đời người có mấy cơ hội tốt đẹp trong học hành, thi cử, làm ăn?
Sau gần một thế kỉ làm trâu ngựa cho ngoại bang, nhân dân ta bao phen quật khởi vùng dậy, nhưng đã bị kẻ thù "tắm trong những bể máu”. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Hồ Chủ tịch và Đảng ta đã chủ động “Chớp lấy cơ hội” Pháp chạy, Nhật hàng Đồng Minh, là lãnh đạo nhân dân ta làm cuộc Cách mạng tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nhờ cơ hội phát triển nền kinh tế thị trường mà có nhiều doanh nhân trẻ, nhà quản lí tài ba xuất hiện, góp phần làm đổi thay bộ mặt đất nước.
Nhờ cơ hội mở rộng giao lưu văn hóa, giáo dục với các nước trên thế giới, mà hiện nay Việt Nam có hàng ngàn, hàng vạn học sinh, sinh viên du học ở Anh, Pháp, Mĩ, Nhật... Đó là những “cơ hội đỏ” giúp nhiều tài năng trẻ được đào tạo, hứa hẹn tương lai tươi sáng.
Bao giờ cũng thế, vận may rất hiếm, cơ hội một đi không trở lại. Vì thế, con người phải có ý thức chuẩn bị tốt mọi điều kiện chủ quan, mọi thực lực để
chủ động đón bắt cơ hội. Không thể chần chừ do dự, không thế “há miệng chờ sung’’ mà phải có ý chí, có quyết tâm, sẵn sàng nắm bắt cơ hội, để thi thố tài năng, để làm nên sự nghiệp.
Tuổi trẻ phải 12 năm (hoặc lâu hơn nữa) siêng năng, chăm chỉ học hành, rèn luyện mới có thế tiến xa được. Các kì thi đại học, cao đăng hàng năm là “cơ hội vàng” để thanh niên, thiếu niên biến mơ ước thành hiện thực. Học hành lười biếng, thích ăn chơi đua đòi thì sao đón được “cơ hội vàng”, dù trước ngày thi có theo nhau vào Văn Miếu “xoa đầu các cụ rùa", thắp hương cầu khấn bia Tiến sĩ! Chao ôi! Cơ hội đến rồi qua nhanh, không lấy lại được cơ hội, dù có phép thánh thần!
3. Tóm lại, “có ba điều trong cuộc đời mỗi người, nếu đi qua sẽ không lấy lại được: thời gian, lời nói và cơ hội” - là một lời khuyên đẹp, một lời nói hay, hàm chứa chất triết lí và đạo đức. Phải biết sống tích cực, sống chủ động, phải biết nỗ lực học tập và siêng năng lao động, nâng cao kiến thức, tu dưỡng đức hạnh, nâng tầm vân hóa của bản thân mình lên cao, ngang tầm thiên hạ. Phải biết quý trọng thời gian, thì giờ. Phải biết “Học ăn, học nói, học gói, học mở” để giao tiếp văn minh lịch sự, trung thực, lễ phép. Phải biết chuẩn bị đức tài để đón nhận thời cơ, cơ hội.
Câu nói trên đây luôn luôn nhắc nhở mỗi chúng ta phải học cách sống, phải biết sống, sống đẹp để trở thành con người văn hóa khi bước sang thế kỉ XXI.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *