Bài học giúp các em nắm được cách làm bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lý như: phân tích đề; lập dàn ý; nêu ý kiến đánh giá, nhận xét về vấn đề cần nghị luận; biết huy động kiến thức và những trải nghiệm của bản thân để phục vụ cho quá trinh viết bài; có ý thức tiếp thu những quan niệm đúng đắn và phê phán những quan niệm sai lầm.
a. Trước khi tìm hiểu đề phải thực hiện ba thao tác:
b. Tìm hiểu đề:
c. Lập dàn ý:
Đề: Anh (chị) nghĩ như thế nào về câu nói: "Đời phải trải qua giông tố nhưng không được cúi đầu trước giông tố" (Trích Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm).
a. Giải thích khái niệm của đề bài (câu nói):
b. Giải thích, chứng minh vấn đề:
c. Khẳng định, bàn bạc mở rộng vấn đề:
Đề: "Duy chỉ có gia đình, người ta mới tìm được chốn nương thân để chống lại tai ương của số phận" - Euripides. Anh (chị) nghĩ thế nào về câu nói trên?
a. Giải thích khái niệm của đề bài (câu nói)
b. Giải thích, chứng minh vấn đề
c. Khẳng định, bàn bạc mở rộng vấn đề
Để nắm được cách làm bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lý, các em có thể tham khảo bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Hãy viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về vấn đề: "Tự hào dân tộc không phải là việc vỗ ngực xưng tên, xem nhẹ các nền văn hóa khác mà là thể hiện bản sắc người Việt trong bối cảnh quốc tế".
Câu trả lời của bạn
"Tự hào dân tộc không phải là việc vỗ ngực xưng tên, xem nhẹ các nền văn hóa khác mà là thể hiện bản sắc người Việt trong bối cảnh quốc tế". Tự hào dân tộc: Đó là thái độ ngưỡng mộ, trân trọng, sự tự tôn trước những vẻ đẹp trong bản sắc văn hoá dân tộc. Tự hào dân tộc là biểu hiện của tình yêu đất nước, ý thức trách nhiệm công dân đối với đất nước... Khẳng định ý kiến trên là hoàn toàn đúng đắn bởi lẽ: Tự hào dân tộc không phải là sự tự tôn mù quáng đề cao văn hoá dân tộc mình mà hạ thấp văn hoá các dân tộc khác.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cần hoà nhập để thể hiện bản sắc văn hoá nhưng không hoà tan và luôn có ý thức trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam. Cần nhận thức sâu sắc và đầy đủ về văn hoá dân tộc, những nét đẹp và cả những điểm hạn chế, phát huy nét đẹp và loại trừ những hủ tục lạc hậu, thói quen xấu… Phê phán những người quay lưng lại với văn hoá dân tộc, bài xích, xem thường văn hoá cha ông, chạy theo lối sống lai căng, học đòi, sùng ngoại...Bài học nhận thức hành động: Mỗi cá nhân cần có những hành động thiết thực, trực tiếp để thể hiện niềm tự hào dân tộc
"Chúng ta phải thực hiện đức tính trong sạch, chất phác, hăng hái, cần kiệm, xoá bỏ hết những vết tích nô lệ trong tư tưởng và hành động”. Hãy nêu suy nghĩ của mình về câu nói trên?
Câu trả lời của bạn
Trời có bốn mùa xuân - hạ - thu - đông, đất có bốn phương: Đông - tây - nam - bắc, người có bốn đức: cần - kiệm - liêm - chính. Thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một phương thì không thành đất, thiếu một đức thì không thành người. Điều đó đúng như lời khẳng định của Hồ Chí Minh: “Chúng ta phải thực hiện đức tính trong sạch, chất phúc, hăng hái, cần kiệm, xóa bỏ hết những vết tích nô lệ trong tư tưởng và hành động”. Tôi thực sự tâm đắc với ý kiến trên của Hồ Chí Minh. Còn về phía các bạn, các bạn có suy nghĩ như thế nào về vấn đề đó?
Dù đi đâu chúng ta vẫn luôn lưu giữ bên mình câu ca:
“Tháp mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
Hồ Chí Minh! đẹp nhất tên Người. Bởi, Người không chỉ là một người lãnh tụ vĩ đại đã giúp nhân dân Việt Nam tìm thấy con đường đấu tranh giải phóng đất nước, khỏi gông cùm nô lệ mà còn là một bậc "Đại nhân, đại chí, đại dùng',là tấm gương sáng về nhân cách để mọi người noi theo. Người đã luôn trực tiếp tuyên dạy những đức tính cần thiết cho con người; đặc biệt là những người lãnh đạo của Đảng. Người cho rằng chỉ có tôi luyện được đức tính " trong sạch, chất phác, hăng hái, cần kiệm, xóa bỏ hết những vết tích nô lệ trong tư tưởng và hành động" thì đất nước mới có những bước tiến trong tương lai.
Người với người sống là để yêu thương nhau. Vì lẽ đó mà con người không nên có những hành động sai trái với nhau mà phải giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Con người phải luôn đấu tranh với cái xấu để giữ cho mình đức tính "trong sạch". Để có một lương tâm trong sạch thì cần phải có những hành động thiết thực, quang minh chính đại, không cảm thấy hổ thẹn với mọi người, với đất nước và với chính bản thân mình. Đó là những hành động vì mọi người sau đó mới đến mình, luôn vì lợi ích chung. Với bạn bè thầy cô, không được lừa thầy phản bạn với người trong gia đình không được dối trên lừa dưới, với đất nước không được tham ô, tham nhũng. Con người phải có cái tâm từ trong cốt tủy. Có được đức tính trong sạch thì mới có thể tiếp tục rèn luyện những đức tính khác. Con người phải sống đúng với đạo lý làm người.
"Chất phác” hay có thể nói khác đi đó chính là sự "liêm" "chính","chí công vô tư" và sự thành thật. Con người cũng phải rèn luyện đức tính này. Dù ở môi trường nào, sự tác động của ngoại cảnh như thế nào thì vẫn luôn cần sự liêm chính. Không vì tiền tài công danh làm mờ mắt mà xiêu lòng nâng đỡ người xấu diệt trừ người tốt, phải luôn đặt con người khác nhau ở những vị thế như nhau, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, cần phải biết phân biệt công tư rõ ràng. Đặc biệt là luôn phải thành thật với mọi người và với chính mình. Đừng nên tự dùng những lời lẽ sai trái để biện hộ cho những hành động sai trái. Có được những điều này thì tâm mới vững để xử lý mọi việc giúp đất nước phát triển và tạo được những tình bạn đẹp. "Chất phác" là một trong những phẩm chất cần thiết để tạo nên sự thành công của con người, tạo lập được lòng tin, sự quý trọng ở người khác.
Con người sống đúng với đạo lý làm người thôi chưa đủ mà cần phải "hăng hái" trong mọi hoàn cảnh. Sự "hăng hái"vừa thể hiện được dũng khí và lòng nhiệt tình của bản thân. Mac đã từng nói "hạnh phúc là đấu tranh". Không phải mọi cái là đều tự sinh ra mà cần có sự đấu tranh. Làm việc gì cũng cần phải có lòng nhiệt tình, hăng say thì mới thành công được. Nhưng lòng nhiệt tình thôi thì chưa đủ mà cần có dùng khí. Dũng khí khiến cho bạn đứng vững, không lùi bước, dũng khí thật sự là dũng khí ở trong tâm hồn con người, là dũng khí đối dám đối mặt với mọi thử thách, dũng khí khi hành động.
Trước những hành động sai trái như tham ô tham nhũng của những người lãnh đạo thì mọi công dân không nên vì nể sợ quyền chức mà "khuất mắt trông coi" ngược lại phải đấu tranh loại bỏ. Không vì hoàn cảnh khó khăn mà quản ngại. Những tấm gương sáng ngời về lòng hăng hái đó là những chiến sĩ nơi biên cương, hải đảo. ớ những nơi hải đảo biên giới xa xôi, mọi điều kiện sinh sống đều khó khăn và thậm chí cái chế cận kề nhưng với lòng nhiệt tình, hăng hái hàng năm thành niên Việt Nam vần xung phong bảo vệ nơi biên giới, hải đảo cho người dân có cuộc sống ấm yên, hạnh phúc. Điều này làm ta liên tưởng đến sự dũng cảm hy sinh của những anh bộ đội cụ Hồ ngày xưa như Phan Đình Giót, La Văn cầu, Võ Thị Sáu,... Nếu không có sự hăng hái sẵn sàng "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh"ấy thì có lẽ không có Việt Nam giàu đẹp như ngày nay và sẽ không có Việt Nam vĩ đại trong tương lai.
Hăng hái trong lao động sản xuất, đấu tranh, sẽ đạt được nhiều kết quả nhưng nếu không "Cần kiệm" thì những thành quả đó cũng sẽ mất đi để tạo ra nhiều của cải thì phải cần cù, chăm chỉ và tiết kiệm. Cơ chế thị trường ngày nay là làm theo năng lực hưởng theo sản phẩm, không làm không hưởng... Người lao động ngày nay đều ngang bằng như nhau chứ không như thời kỳ hợp tác xã không làm vẫn được hưởng. Tài sản làm ra chính là công sức bỏ ra của chính bản thân mình và để tạo được khối lượng lớn của cải phải biết tiết kiệm. Nước ta hiện nay vẫn còn nghèo nếu không tiết kiệm thì không có vốn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội. Những người lãnh đạo Đảng phải nêu gương tinh thần “cần kiệm” này. Nhờ có sự tu dưỡng về nhân cách, tạo lập được các đức tính "trong sạch, chất phác, hăng hái, tiết kiệm" mà con người sẽ đạt được những thành công trong cuộc sống. Nhưng một trong những chiếc chìa khóa vàng để xã hội phát triển đó là phải “xóa bỏ những vết tích nô lệ trong tư tưởng và hành động”.
Thiết nghĩ về những "vết tích nô lệ" trong tư tưởng và hành động chính là những định kiến, những lề thói cũ, nếp nghĩ cũ trong tư tưởng. Đi đôi với nó là những hành động sai trái được coi là tàn dư của xã hội. Chúng ta cần loại bỏ, xóa bỏ hết vì có như vậy con người mới có những suy nghĩ tiến bộ, phát triển sáng tạo, đất nước mới đi lên được. Đất nước Việt Nam đã có những "thay da đổi thịt" đáng kể nhưng những vết tích nô lệ vẫn đang còn tồn tại nó không chỉ tồn tại trong nếp nghĩ của người dân mà còn nguy hại hơn là còn tồn tại trong tư duy của những người lãnh đạo. Vì vậy mà đây là một đức tính cần có, nếu không sẽ gây hại đến đất nước. Nói đơn giản như sự hạn chế trong câu thành ngữ "học thầy không tày học bạn' là những câu thể hiện sự đúc rút kinh nghiệm của nhân dân ta. Bạn bè xung quanh ta có rất nhiều điểm để học nhưng học bạn thôi chưa đủ mà cần học hỏi ở thầy cô. Vì đó là những người trực tiếp dạy dỗ ta, truyền đạt cho ta những kiến thức về đời sống xã hội, đạo lý làm người... Hay trong tác phẩm "Chí Phèo" của Nam Cao ta cũng thấy những nếp nghĩ rất cổ hủ của nhân dân ta. Chỉ vì những định kiến xã hội mà Chí không thể trở lại làm người lương thiện hòa vào dòng đời chung của mọi người. Chí từ khi ra tù đã chở thành tay sai của Bá Kiến, trở thành con quỷ của làng Vũ Đại. Nhờ Thị Nở, Chí đã muốn trở lại làm người lương thiện nhưng dân làng không ai còn tin hắn nữa, mọi người ai cũng xa lánh hắt hủi hắn. Bởi hắn đã phá hoại biết bao hạnh phúc của biết bao gia đình. Cái chết của Chí là cái chết của sự thức tỉnh lương tâm. Chí chết trên ngưỡng cửa của sự lương thiện nhưng người dân không ai hiểu điều đó. Họ cho rằng Chí chết là đáng đời, không ai thương xót cảm thông cho Chí Phèo. Vì với họ người xấu như Chí không thể trở thành người tốt. Qua câu chuyện này bạn hãy tự nhận ra cho mình bài học: Hãy giúp đỡ những người mất hết nhân hình, nhân tính, đánh kẻ chạy đi chứ đừng đánh người chạy lại; phải có niềm tin vào con người, bởi trong con người luôn tiềm ẩn sự lương thiện. Hãy đánh thức sự lương thiện ấy.
Nhiều người cho rằng gửi tiền vào ngân hàng nhà nước mới đảm bảo còn tư nhân thì không nên. Ngành ngân hàng tư nhân không phát triển được không tạo được sự cạnh tranh phát triển là do những nếp nghĩ cổ hủ. Rồi sự độc chiếm về ngành điện lực của Nhà nước khiến cho các dịch vụ quan tâm về đời sống người dân của ngành chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân. Chính sự mở rộng các loại hình tư nhân như công ty nhà nước chuyển thành công ty cổ phần giao hẳn cho người lao động làm chủ, giảm gánh nặng cho Nhà nước khiến cho có thể sánh vai cùng đất nước ta.
Xóa bỏ những vết tích nô lệ trong tư tưởng và hành động còn là loại bó những cái xấu trong bản thân mỗi con người. Bởi tư tưởng quyết định hành động, chì có những tư tưởng tốt thì mới có hành động đẹp.. Mỗi người luôn tồn tại trong mình cái thiện và, cái ác, cái xấu và cái đẹp. Vì vậy cần phải vượt lên chính những dục vọng của bản thân thì mới hoàn thiện về nhân cách giữ được sự trong sạch trong tính cách.
Trong lời nhận định của Bác có những từ ngữ rất đắt như "Phải thực hiện", "xóa bỏ hết". "Phải thực hiện" khác với nên thực hiện. Hãy coi đây là lời hiệu triệu của người. Mỗi công dân Việt Nam hãy luôn tu dưỡng và học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đặc biệt là thế hệ thanh niên, những người lãnh đạo nhà nước, những người cầm cán cân công lý. Không chỉ xóa bỏ những vết tích nô lệ mà phải xóa bỏ hết không để lại chút tàn dư nào. Người đã dùng những từ ngữ rất chuẩn, đanh thép để thức tỉnh người dân Việt Nam.
Thực hiện được lời Bác dạy mỗi người dân Việt Nam sẽ là những bông hoa đẹp tô điểm cho vườn hoa Việt Nam ngày càng giàu đẹp vững mạnh
Đất nước đang đổi mới để vươn tới xây dựng nền kinh tế tri thức. Xã hội ta đòi hỏi phải không ngừng nâng cao kiến thức khoa học và công nghệ. Chủ động góp phần vào hướng đi đỏ của đất nước, thanh niên, học sinh cần suy nghĩ và hành động như thế nào?
Câu trả lời của bạn
Trong cuộc sống hiện đại, việc hiểu biết công nghệ thông tin, khoa học kỹ thuật là một kỹ năng vô cùng cần thiết. Đất nước đang đổi mới để vươn tới xây dựng nền kinh tế tri thức, xã hội ta đòi hỏi mỗi người phải không ngừng nâng cao kiến thức khoa học kỹ thuật và công nghệ. Đặc biệt là học sinh, sinh viên với sức trẻ, lòng nhiệt huyết thì việc tiếp thu kiến thức công nghệ thông tin càng trở nên cấp thiết.
Trong vòng 20 năm trở lại đây, Internet bắt đầu du nhập vào Việt Nam và ngày càng phát triển mạnh mẽ, giờ đây việc sử dụng máy vi tính, sử dụng mạng Internet không còn quá xa lạ đối với mỗi người dân. Nhớ ngày xưa, học sinh cấp ba, thậm chí là cả sinh viên đại học cũng chưa hề biết đến máy vi tính, mạng Internet thì giờ đây, những em bé lớp 1, lớp 2, thậm chí là mẫu giáo đã có thể sử dụng thành thạo một vài chức năng cơ bản của máy vi tính.
Khoa học công nghệ ngày nay đã phát triển và phổ biến trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những người không có kiến thức về công nghệ, công nghệ thông tin đã trở nên lạc hậu, trở thành những người tụt hậu.
Những người học sinh, sinh viên - để suy nghĩ tích cực và chủ động, góp phần vào hướng đi của đất nước, điều cần thiết đầu tiên có lẽ là sự chủ động. Tuổi trẻ cần tự mình chủ động tiếp cận với công nghệ thông tin, khoa học nhằm nâng cao vốn tri thức cho bản thân mình.
Hiện nay, có rất nhiều các cuộc thi dành cho độ tuổi học sinh, sinh viên như cuộc thi “Em làm khoa học” hay “Robocon”, đó là những cuộc thi thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các bạn trẻ. Đó là những chương trình nên được tổ chức thường xuyên nhằm thu hút sự tham gia của các bạn học sinh, sinh viên. Thông qua những chương trình đó, chắc chắn bạn sẽ thu được nhiều kiến thức khoa học tự nhiên, công nghệ cho bản thân mình.
Nếu như trước đây, những trò chơi Game online một thời từng bị phản đối rất gay gắt thì ngày nay, đã có những cuộc thi dành cho game thủ, đã có rết nhiều các gamer tham gia, bên cạnh việc thử sức mình, còn là thể hiện sự quan tâm, hứng thú của mình đối với công nghệ thông tin, khoa học.
Sáng 23/9, tại Hà Nội, Trung ương Hội Liên hiệp thanh niên (LHTN) Việt Nam và Công ty cổ phần Dịch vụ phần mềm trò chơi (VinaGames) tổ chức Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác về lĩnh vực công nghệ thông tin
Theo đó, VinaGames sẽ đồng hành cùng Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam xây dựng, triển khai các chương trình truyền thông; các chương trình công nghệ thông tin và phổ biến kiến thức khoa học công nghệ cho thanh thiếu niên; các sự kiện văn hoá, giáo dục, vui chơi, giải trí online và offline lành mạnh cho thanh niên thông qua Cổng tri thức Thánh Gióng.
Nhân dịp này, VinaGames cam kết sẽ phối hợp cùng Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam xây dựng hai điểm Văn hóa thanh niên Làng Gióng - Vinagame. Đây là 2 điểm truy cập Internet để tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học công nghệ, đồng thời là điểm giao lưu, vui chơi, giải trí của thanh niên. Việc xây dựng điểm văn hóa thanh niên góp phần nâng cao nhận thức cho thanh niên về vai trò, tầm quan trọng của công nghệ thông tin trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế; định hướng thanh niên sử dụng Internet có hiệu quả, mặt khác, đây cũng là điều kiện để nhân rộng mô hình phổ cập tin học, nổi mạng tri thức cho thanh niên Việt Nam gắn với điểm văn hóa thanh niên.
Ông Nguyễn Phước Lộc, Phó Chủ tịch Thường trực Trung ương Hội LHTN Việt Nam nhấn mạnh, việc hợp tác giữa hai đơn vị góp phần quy tụ và tổ chức cho đông đảo thanh niên tham gia vào các phong trào hành động của Đoàn; vừa bồi dưỡng thanh niên, vừa khơi sức phát huy tinh thần tình nguyện và sự phát triển của thanh niên, cổ vũ các tầng lớp thanh niên nỗ lực lập thân, lập nghiệp và lập công, góp phần xây dựng nguồn nhân lực trẻ phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
Sự quan tâm sâu sắc của nhà nước, của các công ty máy tính cho thấy sự ủng hộ rất nhiệt tình của nhà nước trong việc khuyến khích phát triển công nghệ thông tin, khoa học ở giới trẻ. Vậy thì tại sao - bạn - một người trẻ lại có thể để mình tụt hậu so với xã hội, với thế giới. Hãy năng động hơn để tiếp thu kiến thức cho bản thân mình và làm giàu cho đất nước.
Dàn bài Chứng minh rằng bảo vệ rừng là nghĩa vụ của tất cả mọi người?
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài
Nêu khái quát lợi ích của rừng và sự cần thiết phải bảo vệ rừng.
2. Thân bài
a. Rừng mang lại nhiều lợi ích cho con người
b. Con người cần phải bảo vệ rừng
3. Kết bài
Phải bảo vệ rừng tốt hơn: vừa khai thác một cách hợp lí, vừa tiếp tục trồng rừng.
Có ba điều trong cuộc đời mỗi người nếu đi qua sẽ không lấy lại được: "thời gian, lời nói và cơ hội” nêu suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến đó?
Câu trả lời của bạn
Trong cuộc đời, những thứ quý giá thường khó giữ vì thế con người có cảm giác nuối tiếc. Có những nuối tiếc qua đi có thể lấy lại được nhưng cũng có những điều không thể có được lần thứ hai. về điều này, có ý kiến cho rằng: “Có ba điều trong cuộc đời nếu qua đi sẽ không lấy lại được: "thời gian, lời nói, cơ hội”. Hiểu được ý kiến đó, chúng ta sẽ có một thái độ sống đúng đắn và có ý nghĩa hơn.
Câu nói là một câu khẳng định mang ý nghĩa tuyệt đối về giá trị quý báu của thời gian, lời nói và cơ hội.
Thời gian là quy luật khách quan, nằm ngoài ý muốn của con người, là sự tuần hoàn chảy trôi của vũ trụ. Thời gian đã trôi đi sẽ không bao giờ trở lại. Nói thời gian tuần hoàn chỉ là sự lặp lại của vòng quay trái đất, nhưng trong đó vạn vật sẽ không còn như cũ được nữa. vẫn là bốn ngày của xuân, hạ, thu, đông; ba ngày của quá khứ, hiện tại, tương lai; hai ngày của hôm trước và hôm sau nhưng vạn vật thì luôn thay đổi. Cây trái đâm chồi nảy lộc vào mùa xuân sẽ tàn lụi khi đông đến, và cũng không còn hoàn toàn giống nó vào những mùa sau nữa. Con người trong hiện tại và tương lai không phải là trẻ trung, xinh đẹp của quá khứ. Cũng như bông hoa của ngày hôm trước là rực rỡ thì ngày hôm sau đã là tàn lụi, héo úa...Cùng với thời gian, tuổi trẻ và sức lực sẽ tàn phai theo năm tháng.
Lời nói như “bát nước hắt đi”, nói ra thì rất dễ dàng nhưng không thể thu lại được. Lời nói, đó là sản phẩm, phương tiện giao tiếp của con người, thể hiện trình độ phát triển của xã hội cũng như khả năng tư duy của con người. Nó là thứ con người chỉ có thể chủ động được khi đang thuộc về mình. “Lời nói gió bay” nhưng ý nghĩa và ấn tượng về nó thì sẽ còn đọng lại ở những người tiếp nhận nó, trong trường hợp cụ thể nào đó là không thể nào quên.
Cơ hội là những điều may mắn đến với ta trong cuộc sống, đó có thể là một cơ may, một thuận lợi nào đó mà nhờ nó con người thay đổi cuộc sống cũng như số phận của mình. Tuy nhiên, cơ hội lại thường rất hiếm hoi, muốn có được nó phải là sự hội tụ của rất nhiều yếu tố, và không phải ai cũng là nắm bắt được khi nó đến. Cơ hội khi đã qua đi thì khó có thể có lại lần hai.
Tất nhiên, trong cuộc sống có rất nhiều thứ quý giá đáng để người ta trân trọng bởi cuộc đời là hữu hạn và không có nhiều thời gian để bắt đầu lại. Đối với những giá trị thuộc về vật chất như tiền bạc, nó cần thiết và quan trọng đối với con người nhưng nếu mất đi, người ta vẫn có cơ hội tìm lại được. Còn với những thứ không thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, họ khó có thể tự mình tìm lại được. Đời người không thể lúc nào cũng vẹn toàn như mình mong muốn. Thế nên mới có chuyện khi nhìn lại người ta thường hay nuối tiếc về những điều đã qua. Và thời gian, lời nói, quá khứ là những thứ phải nuối tiếc nhiều nhất. Đó là một quy luật.
“Có ba điều trong cuộc đời nếu qua đi sẽ không lấy lại được: thời gian, lời nói, cơ hội”. Có thể nói, đây là một ý kiến đúng đắn được đúc rút, chiêm nghiệm và chứng minh bằng thực tế đời sống. Mọi điều khác trong cuộc sống, xét đến cùng chính là sự bắt nguồn từ ba điều quý báu ấy. Người ta thường nói: “Nếu như được quay ngược thời gian, nếu như có được cơ hội ấy một lần nữa, tôi sẽ...”. Nghĩa là nếu như có được thời gian và cơ hội, người ta sẽ có điều kiện để làm lại và làm tốt hơn nhiều thứ...Nhưng tất nhiên, đó chỉ là “nếu như”, và những điều “nếu như” ấy sẽ không bao giờ trở thành sự thật, nghĩa là con người sẽ không thể đoạt quyền tạo hóa để quay ngược thời gian, hay đảo ngược quy luật cuộc sống để tạo lại cơ hội cho mình.
Vũ trụ bao la, thời gian của vũ trụ là tuần hoàn nhưng cuộc sống con người lại hữu hạn. Ý thức được điều này, ở từng thời kỳ khác nhau quan niệm về thời gian là khác nhau. Là “người thư kí trung thành của thời đại”, văn học phản ánh một cách chân thực và sâu sắc đời sống, quan niệm thời đại trong các sáng tác. Thời trung đại, ý thức về sự chảy trôi của thời gian, con người mong muốn gắn mình với vũ trụ, đặt mình vào vòng quay của vũ trụ để tồn tại mãi. Điều này giải thích cho việc trong văn học trung đại xuất hiện rất nhiều những hình ảnh phóng đại, con người đứng ngang tầm vũ trụ để tự khẳng định như hình ảnh người tráng sĩ “cắp ngang ngọn giáo bảo vệ non sông đã mấy thu”.
Cũng bởi ý thức được sự trôi chảy của thời gian, nhà thơ Mãn Giác Thiền sư trong “Có bệnh bảo mọi người” viết:
“Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân tới trăm hoa tươi
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi”
Nguyễn Trãi vì
“Tiếc xuân cầm đuốc mảng đi chơi
Những lệ xuân qua tuổi tác thêm”
Nguyễn Du luyến tiếc khi “Thu đến”:
“Bốn mùa cảnh đẹp được bao ngày
Vùn vụt thoi đưa gọi không trở lại”
Và đã không ít người như Nguyễn Công Trứ khẳng khái ca ngợi cuộc sống hưởng thụ bởi ý thức cuộc đời là ngắn ngủi:
“Dẫu ba vạn sáu nghìn ngày là mấy chốc
Hạn lấy tuổi để mà chơi lấy
Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi bấy
Nếu không chơi thiệt ấy ai bù”
Bước sang thời hiện đại người ta càng ý thức sâu sắc hơn nữa giá trị và sự chảy trôi của thời gian. Xuân Diệu, “chàng hoàng tử của phong trào thơ Mới” có lẽ là người cuống quýt, lo lắng nhiều nhất:
“Nói là chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng, tôi tiếc cả đất trời”
Với một tâm hồn lúc nào cũng khát khao tình yêu, khát khao “giao cảm với đời” như Xuân Diệu thì bằng nào thời gian cũng là không đủ. Nhà thơ muốn níu giữ tất cả vị ngon của tình yêu và cuộc sống khi nó đang thời kỳ hương sắc nhât. Ông sống “vội vàng”, “không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. sống và tận hưởng đắm say:
“Tôi muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
(...) Cho chuếnh choáng mùi thơm
Cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng. Ta muốn cắn vào ngươi!”
Cùng với sự chảy trôi của thời gian, lời nói và cơ hội khi đã qua đi rồi cũng không thể lấy trở lại.
Ông cha ta xưa đã từng dặn dò:
“Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”
Cũng chính bởi ý thức được điều này. Tại sao có những câu nói ra được người khác đón nhận nhiệt tình nhưng cũng có những câu nói làm người khác cảm thấy khó chịu? Có những câu nói có thể làm thay đổi một số phận nhưng cũng có những câu nói có thể kết thúc cuộc đời một con người. Thế mới biết lời nói có sức mạnh to lớn như thế nào. Tuy vậy, con người lại thường không biết trân trọng những gì mình đang có. Có trong mình một phương tiện giao tiếp hữu ích là quan trọng nhưng đôi khi người ta lại không biết cách để sử dụng nó có ý nghĩa.
Lời nói ra giống như bát nước đã hất đi, dù có cố gắng thế nào đi nữa thì cũng không thể thu lại được như cũ. Thế nên mới có chuyện chỉ một câu nói nhỡ mồm mà vạch trần bản chất ích kỷ, nhỏ nhen của ông thầy đồ nọ. Thầy tham ăn, trong một lần đi ăn cỗ mang theo cả học trò. Nhà chủ mang bánh ra thiết đãi. Thầy ăn nhiều mà vẫn thòm thèm nhưng ngại gia chủ nên cầm một cái đưa cho học trò, kèm theo một cái nháy mắt ẩn ý. Cậu học trò đáng thương không hiểu nên cầm chiếc bánh ăn ngon lành. Thầy tức lắm nhưng không làm gì được. Trên đường về, trò đi như thế nào cũng bị thầy quở trách, mếu máo hỏi thầy. Thầy tức mình: “Thế bánh của tao đâu?”. Chỉ một câu nói lỡ miệng ấy thôi cũng đủ để khiến nhân cách của ông thầy đồ bị hạ xuống mức thảm hại, không thể cứu vãn được
Trong quan niệm của cha ông “quân tử nhất ngôn”, người quân tử phải là người nói một là một, nói lời phải giữ lời. Đó là một tiêu chí để đánh giá và phân biệt với kẻ tiểu nhân. Thế mới biết giá trị của lời nói từ xưa đã được đề cao như thế nào.
Thời hiện đại, nắm được giá trị lời nói cũng như vận dụng nó phù hợp với từng hoàn cảnh, cũng như tâm lí của người mình giao tiếp cũng là một bí quyết của thành công. Lời nói là thứ có thể tác động rất lớn đến người khác. Nếu như biết cách sử dụng khéo léo thì những gì nó mang lại cho bản thân và những người xung quanh là rất lớn.
Thời gian đến cùng với nó là những cơ hội, nhưng nếu ta không biết nắm bắt chúng thì cơ hội sẽ qua đi. Thời gian không chờ đợi một người nào. Có những cơ hội do con người tạo ra, cũng có những cơ hội do bên ngoài đưa đến nhưng không phải lúc nào nó cũng được thể hiện rõ ràng và dễ nắm bắt. Cơ hội có khi gõ cửa rất khẽ và đến lúc nó qua rồi người ta mới nhận ra rằng mình vừa để tuột mất. Khi ấy, dù có nuối tiếc thì cũng không thể thay đổi được, và cái lần thứ hai sẽ chẳng biết khi nào mới có thể quay trở lại.
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ, nhà quân sự vĩ đại của dân tộc Việt Nam chẳng phải vì nhận ra thời cơ cách mạng đã chín muồi mà lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công Cách mạng tháng Tám năm 1945, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa? Nếu không có sự phân tích tình hình đúng đắn, chớp thời cơ có một không hai khi “Pháp chạy. Nhật hàng. Vua Bảo Đại thoái vị", nhân dân chuẩn bị được thế và lực sẵn sàng cho cuộc khởi nghĩa thì đã không thể nào có được độc lập như ngày hôm nay.
Có một điều gì đó tương đồng giữa cơ hội với việc nắm bắt vẻ đẹp, “bắt những vật thoáng qua phải dừng lại trong nhiều thế kỉ” như trong “Nghệ thuật nhìn thế giới” (Bông hồng vàng) Pau-tốp-xki đã đề cập đến. Người họa sĩ bối rối trước vẻ đẹp của tạo vật đang trong sự vận động bày ra trước mắt nhưng lại không làm sao có thể dừng nó lại để thưởng ngoạn. Cơn giông đến mang lại bức tranh đầy màu sắc, nhưng đó chỉ là một khoảnh khắc. Và khi nó qua đi rồi người ta chỉ còn biết tiếc nuối: “Thế là hết!” - Họa sĩ xúc động kêu lên. - Cái cảnh hỗn độn này ta chẳng được thấy luôn đâu”. Tất nhiên rồi sẽ có những cơn giông khác nhưng những mảng màu, những khoảnh khắc của những lần sau đó sẽ không bao giờ có thể giống lần này. Và cũng có nghĩa là chẳng bao giờ người nghệ sĩ được gặp lại một lần thứ hai như thế. Có lẽ đó chính là điều làm cho anh ta phải suy nghĩ nhiều nhất. Cơ hội cũng vậy. Có thể sẽ có một cơ hội khác đến sau cơ hội vừa qua đi, nhưng nó không bao giờ lặp lại như cũ. Và hơn nữa, để có được một cơ hội không phải là một điều đơn giản.
Nhận thức được điều này ta càng thấm thía sâu sắc hơn giá trị của những gì ta đang có mà nắm bắt và tận dụng nó. Thời gian qua đi sẽ không bao giờ quay trở lại, vì vậy con người cần phải biết quý trọng thời gian, biết quý trọng những gì mình đang thuộc về mình. Tận dụng thời gian để làm những việc có ích cho bản thân cũng như cho xã hội. Thời gian hiện tại đối với những người đã trải qua phần lớn cuộc đời không vận động nhiều. Họ thường hướng về quãng thời gian trong quá khứ, để chiêm nghiệm lại những gì mình đã và không làm được. Khác với đó, người trẻ tuổi lại là những người đang được sống với khoảng thời gian đẹp nhất của cuộc đời mình, thời gian của sức trẻ, của tình yêu, của những dam mê và khát vọng, cần phải quý trọng và phấn đấu hết mình trong những phút giây hiện tại. Biết được sức mạnh của lời nói, mỗi chúng ta cần phải cẩn thận và chín chắn hơn khi ăn nói, mở lời.
“Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau"
Cũng luôn cần phải biết nhận biết, nắm bắt và tận dụng cơ hội. Bởi có những thứ, nếu như bỏ qua chúng có thể ta sẽ phải nuối tiếc suốt cả cuộc đời. Cuộc sống hiện đại năng động càng đòi hỏi nhiều hơn nữa sự nhanh nhạy của mỗi người. Và có một điều có thể chắc chắn là những ai biết quý trọng thời gian, quý trọng mỗi lời nói ra cũng như mỗi cơ hội đến với mình là người sáng suốt. Và họ sẽ thành công.
“Có ba điều trong cuộc đời nếu qua đi sẽ không lấy lại được: thời gian, lời nói, cơ hội". Con người hãy ý thức sâu sắc giá trị quý báu của chúng để không bao giờ phải nói lời hối tiếc...
Chứng minh rằng, nếu chịu khó suy nghĩ kĩ thì ta có thể nhận ra nhiều điều đáng bàn từ một hiện tượng tưởng chừng nhỏ bé nhỏ trong đời sống?
Câu trả lời của bạn
Trong cuộc sống, có những điều tưởng chừng như thật nhỏ bé, đôi khi ta vô tình lướt qua và không để tâm tới. Nhưng nếu như bạn chỉ cần thử để tâm một chút thôi, có thể thấy được rằng, những điều giản dị trong cuộc sống lại luôn luôn mang đến những điều thú vị.
Đầu tiên, hãy thử tìm hiểu về hiện tượng sóng trong tự nhiên. Thoạt đầu, khi nghe đến “Sóng”, bạn có thể tưởng tượng đến sóng biển rì rào, những giai điệu của một bản nhạc hoặc một bài thơ nào đó. Nhưng ở đây, lại là “sóng” trong các hiện tượng vật lý.
Đã bao giờ bạn tự hỏi vì sao khi làm những cái cán búa, tùy vào loại búa gì mà người ta thường ước chừng những độ dài thích hợp? Nếu sau khi mua về ta cắt ngắn cán búa đi một nửa hay thay một cái cấn búa khác dài hơn liệu tốt hơn không?
Những người thợ mộc, thợ rèn thường dùng phải búa, thậm chí cả những cầu thủ đánh bóng chày đều có kinh nghiệm sau: Nơi tay nắm vào cán, nếu không thích hợp thì có thể làm cho tay rung đến phát tê, thậm chí rất đau. Vì sao lại như vậy chứ?
Những hiện tượng trên có thể chỉ là những hiện tượng hết sức bình thường, đôi khi bạn chẳng để ý, nhưng chỉ cần bạn quan tâm một chút thôi, bạn sẽ nhận ra được những hiện tượng rất thú vị đấy. Hãy trở lại với cái búa nhé.
Đầu tiên, hãy khoan trả lời câu hỏi vì sao kia. Bạn đã từng quan sát một người kéo đàn nhị chưa?
Thoạt nhìn thì việc kéo nhị hay đánh đàn của người chơi nhạc và việc đập búa của người thợ rèn không liên quan gì với nhau, nhưng thực ra chúng vẫn có điểm chung đấy.
Trước tiên, hãy xem khi kéo nhị, dây nhị đã rung động (tạo thành sóng) như thế nào: Nếu đem phóng đại rung động của dây nhị bạn sẽ thấy mội hiện tượng rất thú vị. Khi rung động không phải nơi nào trên dây nhị cũng rung như nhau mà có nơi biên độ rung động rất lớn, đó là điểm rung động cực đại, lại có nơi không rung động. Mấy điểm bất động ấy chia dây nhị thành mấy đoạn, điểm giữa của mỗi đoạn là điểm rung động cực đại; vì sao lại xuất hiện hiện tượng đó? Đó là vì khi kéo nhị cái cần kéo đã làm dây nhị rung động. Cũng giống như sự truyền lan chấn động trên mặt nước làm hình thành sóng nước, sự rung động của dây cũng truyền lan trên dây. Khi rung động đó truyền đến một đầu dây nó có thể phản xạ trở lại, tạo thành sóng phản xạ. Thế là trên dây nhị vừa có sóng tới vừa có sóng phản xạ và như vậy mỗi một điểm trên dây đều chịu ảnh hưởng của hai loại sóng. Nếu hai loại sóng đó gây ra dao động hoàn toàn như nhau (Vật lý cùng pha) thì dao động ở điểm đó đặc biệt mạnh, dùng ngón tay khẽ chạm vào đó, bạn sẽ cảm thấy ngón tay tê đi; còn nếu như hai loại sóng đó gây ra dao động hoàn toàn ngược nhau (ngược pha) thì ở điểm đó dứt khoát sẽ không có dao động, dùng tay chạm nhẹ vào đó, bạn thấy nó không rung.
Bây giờ thì là cái búa nhé. Khi dùng búa đập vào vật, dao động do đầu búa gây ra cũng truyền lan. theo cán búa, khi rung động truyền đến một đầu cán búa; thì cũng tạo thành sóng phản xạ. Mỗi một điểm trên cán búa, dưới ảnh hưởng của hai loại sóng cũng sẽ có điểm dao động mạnh nhất và điểm không dao động. Vị trí của các điểm này là xác định, nơi nắm cán búa thích hợp nhất là điểm không dao động vì vậy cán búa phải có một độ dài thích hợp. Cũng không phức tạp lắm phải không!
Suy rộng ra một chút nhé, nếu bạn là giáo viên, thường cầm trên tay những viên phân trắng, bạn có thể thấy ngay, khi một viên phấn rơi xuống đất nó thường đứt thành ba đoạn, đó là vì điểm đứt gãy chính là điểm dao động mạnh nhất và vị trí của các điểm này là xác định. Từ nhỏ suy ra to, những ống khói cao to, những công trình kiến trúc cao tầng, những cây cầu có khẩu độ dài đều có điểm dễ đứt gãy, vì thế khi thiết kế và thi công phải đặc biệt chú ý gia cô’ những điểm đó. Ngoài ra tay cầm của một số’ máy móc rung động mạnh như tay cầm của máy kéo đẩy tay, của máy đầm rung, máy khoan v.v... cũng nên đặt vào vị trí không rung động, nếu không sẽ làm cho người sử dụng chống mệt, thậm chí gây ra tai nạn lao động.
Bạn thấy không, chỉ cần chịu khó tìm hiểu một chút thôi, ta có thể thấy được những hiện tượng rất thú vị đấy chứ. Hiện tượng trên đây chỉ là một trong số những hiện tượng vô cùng lý thú của cuộc sống quanh ta.
Ngày bé, ta luôn thường hỏi mẹ rằng “Mẹ ơi, sao ông trăng cứ đi theo con?” và mẹ luôn trả lời rằng “ừ, vì ông trăng thích đi theo mình đó”. Vậy liệu ông trăng có biết đi? Bạn đã bao giờ thử tìm câu trả lời lí giải cho hiện tượng này chưa?
Những đêm trăng sáng, nếu vừa đi bộ vừa chú ý nhìn trăng, bạn sẽ thấy như trăng đang đi theo bạn. Không riêng gì mặt trăng, nếu để mắt quan sát các đỉnh núi xa xa, bạn cũng sẽ có cảm giác tương tự.
Nguyên do là khi ta đi bộ, chúng ta không thể không chú ý tới mọi vật xung quanh. Nhưng tầm mắt của ta lại có giới hạn. Lúc ta đi về phía trước, mọi vật gần quanh ta (chiếm khoảng lớn trong tầm nhìn) trôi đi rất nhanh, nhưng những vật ở xa (chiếm khoảng rất nhỏ trong tầm nhìn) thì trôi đi rất chậm và rất lâu mới ra khỏi tầm mắt.
Các bạn hãy nhớ lại cảm giác trên xe lửa đi với tốc độ nhanh. Bạn sẽ thấy các cột điện ở dọc đường trôi qua vùn vụt ngoài cửa sổ, nhưng cây cối, cột điện, nhà cửa ở phía xa xa thì trôi rất chậm, còn dãy núi ở tận cuối chân trời thì như dán chặt vào cửa sổ. Hiện tượng này giống hệt như khi mặt trăng và các vì sao mà bạn đã thấy vậy! Những vật này cũng chiếm khoảng rất nhỏ trong tầm nhìn, nên bạn sẽ thấy nó rất lâu. Đối với Mặt Trăng, vì nó là vật to và sáng nhất trong đêm nến nó nổi bật hơn hắn các vì sao và vật thể khác, cũng chính vì thế mà ta luôn có cảm giác mặt trăng theo sát bước chúng ta ...
Bạn có biết tại sao nước biển lại mặn? Đơn giản hơn là tại sao con lật đật không bị đổ. Thực ra, mỗi một vật dù nhỏ bé trong cuộc sống, đều có những sự lí giải rất thú vị. Bạn hãy tìm hiểu để biết được nhiều thông, tin hơn, để nâng cao kiến thức cho bản thân mình nhé.
Bạn thấy không, chỉ cần chịu khó tìm hiểu một chút thôi, ta có thể thấy được những hiện tượng rất thú vị đấy chứ. Hiện tượng trên đây chỉ là một trong số những hiện tượng vô cùng lý thú của cuộc sống muôn màu. Xem ra, con sóng này đã hơn cả “Con sóng dưới, lòng sâu. Con sóng trên mặt nước. Ôi con sóng nhớ bờ. Ngày đêm không ngủ được”của thi sĩ Xuân Quỳnh rồi.
Bàn luận về "vật chất” có làm nên con người bạn?
Câu trả lời của bạn
Vật chất có làm nên con người bạn? - Đừng vội khẳng định đây là câu hỏi dễ trả. lời. Bằng chứng là khi câu hỏi này được đưa ra trước nhiều người, chúng tôi đã nhận về rất nhiều đáp án khác nhau.
Nếu coi câu hỏi trên đây là một phương trình nhiều nghiệm thì chúng ta hãy xuất phát từ các vế của nó. Vật chất ở đây, theo tôi, là tất cả đồ ăn, thức uống, tiền bạc, của cải... tất cả những gì có giá trị kinh tế gắn bó với con người. Khái niệm con người có phần phức tạp hơn. Nó không những chỉ con người - sinh vật mà còn hàm ý con người - tinh thần, một thực thể của xã hội. Từ các cách hiểu đó, chúng ta sẽ đưa ra được các câu trả lời khác nhau.
Vật chất có làm nên con người. Sự thật là như vậy. Mỗi chúng ta đều là một con người - sinh vật, một thực thể sống của tự nhiên. Sự sống của chúng ta từ ngàn xưa đến ngàn sau không thể không có mối liên hệ nào với thế giới vật chất này. Chúng ta không thể sống mà không ăn cơm, uống nước, mà không mặc quần áo, học hành, giải trí... Tất cả các hoạt động sống của con người đều liên quan đến vật chất và cần sự hỗ trợ của thế giới vật chất. Ngay cả khi trở về cõi vĩnh hằng, chúng ta cũng vẫn gắn bó mình với vật chất. Một tấm lụa khiến chúng ta trở nên đẹp hơn. Một chiếc xe kiểu cách khiến chúng ta trở nên cá tính hơn. Một ngôi nhà đồ sộ, tiện nghi làm chúng ta có thể ngẩng cao đầu vì thành quả lao động của chính mình. Vật chất vừa là chất liệu lại vừa là phương tiện để con người tồn tại trong thế giới này.
Ở phương diện con người - tinh thần, câu trả lời cũng là khẳng định: vật chất làm nên con người. Một manh áo, một bát gạo cũng là tấm lòng vị tha, sẻ chia với đồng bào chịu thiên tai, lũ lụt. Một lời ru hay giọt nước mắt cũng là tình yêu của bà, của mẹ. Một chiếc khăn tay cũng là bao nỗi nhớ niềm thương. Vật chất chính là tín hiệu trao gửi tình yêu thương giữa người với người. Nó nối liền trái tim với trái tim, hàn gắn tình yêu với tình yêu. Và chính bởi thế, nó làm nên Con Người, làm nên những nhân cách thật cao thượng, trong sáng.
Những diện mạo của vật chất không chỉ có thế. Nó cũng có những mặt trái đáng ghét, thậm chí đáng phê phán. Vật chất đủ quyền năng và sức cám dỗ khiến con người sa đoạ về nhân cách. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: Có ba trăm lạng việc này mới xuôi. Câu thơ của cụ Tiên Điền đâu chỉ để tự sự lại sức mạnh của đồng tiền trong xã hội phong kiến? Đến tận ngày nay, đồng tiền vẫn có sức công phá mạnh mẽ tới đạo đức con người. Hoài Thanh đã có lời bình xác đáng về đồng tiền sức tác quái khủng khiếp của đồng tiền: Quan lại vì tiền mà bất chấp công lí, sai nha vì tiền! mà làm nghề buôn thịt bán người, Sở Khanh vì tiền mà táng tận lương tâm, Khuyển Ưng ví tiền mà làm những điều ác. Cả xã hội chạy theo tiền. Nghe lời nhận định của Hoài Thanh, có ai dám khẳng định xã hội ngày nay, xã hội của đời thực không còn những kẻ chạy theo tiền bạc, chạy theo vật chất như thế? Hàng loạt những vụ án tham ô, nhận hối lộ, “rút ruột» công trình... vẫn còn đó. Không ít người dựa vào tiền bạc, vật chất để xử lí công việc. Ngày nay, những câu chuyện cười như Và phải bằng hai mày có lẽ đầy rẫy trong xã hội. Hàng loạt những con người biến mình thành nô lệ cho đồng tiền, cho ma tuý... vẫn còn đó. Tiền bạc, nói rộng ra là vật chất đã điều khiển, sai khiến con người, làm con người biến dạng, tha hoá về nhân cách.
Vật chất là cái bề ngoài. Dù nó có đẹp đẽ, hào nhoáng bao nhiêu cũng không thể che đậy bản chất thực bên trong của con người. Người mặc bộ quần áo đẹp, đeo bao nhiêu trang sức đắt tiền chưa chắc đã là người có nhân cách cao đẹp, thánh thiện. Và ngược lại, người có bộ dạng rách rưới, thiểu não chưa chắc đã là người không đàng hoàng. Nói như vậy để chúng ta hiểu rằng nhân cách- cái làm nên bản chất thực của con người không phải là vật chất.
Vì những lẽ trên đây, có thể kết luận vật chất không làm nên Con Người.
Với mỗi đáp án đó, chúng ta có thể tự xác định cho mình được vai trò, vị trí của vật chất trong cuộc sống. Có thể thấy vật chất nói chung có giá trị vô cùng to lớn đối với mỗi con người. Không có vật chất, con người không thể tồn tại được. Trong mối quan hệ giữa con người và vật chất, chúng ta nên biết nâng niu, trân trọng những điều kì diệu mà thế giới vật chất đã dành cho chúng ta.
Vật chất cũng có sức mạnh của riêng nó. Mỗi con người cần chủ động để chế ngự sức mạnh ấy, không nên để mình bị cám dỗ trước nó. Hãy đảo ngược lại vấn đề, hãy ra sức cống hiến để chúng ta có thể nói rằng: Con người làm nên vật chất. Và cuộc sống của chúng ta sẽ ý nghĩa hơn biết bao nhiêu.
Câu thơ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" có nét tương đồng với những lời ca dao nào. Phân tích ngắn gọn ý nghĩa câu thơ này trong sự đối chiếu, so sánh với những bài ca dao mà anh (chị) đã liên tưởng
Câu trả lời của bạn
Đoạn trích “Đất nước” nằm trong trường ca “Mặt đường khát vọng” - Nguyễn Khoa Điềm là một đoạn trích hay và độc đáo với hình tượng “đất nước của nhân dân”. Có thể nói một trong những thành công của đoạn trích đó là việc xây dựng nên đất nước từ những chết liệu dân gian gần gũi và quen thuộc. Đọc bài thơ thấy thấp thoáng trong đó bóng dáng của những câu ca dao yêu thương tình nghĩa từ ngàn đời nay: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Ra đời trong thời kì chống Mĩ, “Mặt đường khát vọng” là bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc, hướng về nhân dân, đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuồng đường đấu tranh hòa nhịp vào cuộc chiến đấu của toàn dân tộc... “Đất nước” được trích từ phần đầu chương V của trường ca, là bài hát ngợi ca Tổ quốc Việt Nam giàu đẹp trong đó hình tượng đất nước được khai thác từ góc nhìn văn hóa dân tộc, tập trung khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân. Câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” nằm trong trường liên tưởng về những yếu tố tạo nên đất nước. Tất cả đều thật gần gũi và thân thương.
“Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bay giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất nước có từ ngày đó”
Làm nên đất nước này là truyền thống yêu nước, là nền văn hóa riêng, là những tình cảm con người thủy chung son sắt. Tình cảm “thương nhau bằng gừng cay muối mặn” ấy đâu chỉ là của riêng cha mẹ, đó còn là tình yêu thương nói chung của tất cả những con người đang sống chung trong một mảnh đất thân thương được gọi tên là “Đất nước”. Nó gợi ta nhớ đến những bài ca dao nghĩa tình thân quen từ ngàn xưa:
“Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
“Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Ca dao, dân ca là nguồn sữa nuôi dưỡng tinh thần con người Việt Nam tự bao đời nay. Tình cảm yêu thương, tình nghĩa của con người trong ca dao là thứ tình cảm cao đẹp bắt nguồn từ những gì gần gũi nhất. Chính vì lẽ đó mà ca dao từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng, chất liệu cho người nghệ sĩ sáng tác. Cùng với đoạn trích “Đất nước”, hình ảnh “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một trong những ví dụ tiêu biểu.
Gừng và muối là những hình ảnh thường bắt gặp trong ca dao. Người xưa đã dựa vào những đặc tính tự nhiên của chúng để diễn tả tình nghĩa thủy chung son sắt của con người. Muối mặn, còn gừng thì thời gian chỉ làm cho tính chất của nó càng thêm đậm đặc, “gừng càng già càng cay”. Chúng cũng giống như tình cảm yêu thương chân thành của con người sẽ càng trở nên mặn mà, đằm thắm qua thời gian.
Xây dựng “đất nước của nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm mượn chính những hình ảnh dân gian để vận dụng vào trong thơ mình, thể hiện một cách chính xác và đầy hình tượng về truyền thống tình cảm tốt đẹp của người dân Việt Nam. Đó là “gừng cay”, là “Muối mặn” bởi cha ông ta đã khẳng định:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay”
Qua đó nói lên lời thề hẹn, ao ước:
“Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau cũng phải ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
“Ba vạn sáu ngàn ngày” là thời gian của một trăm năm. Nó bắt nguồn từ khao khát sống hạnh phúc cùng nhau đến lúc “Đầu bạc răng long”, “Bách niên giai lão”, tức sống cùng nhau đến trọn cuộc đời. Nó cũng giống như lời ao ước tình cảm của “đôi ta” sẽ ngày càng sâu đậm, không bao giờ xa cách. Hành động “Tay bưng chén muối đĩa gừng” gần như mang tính biểu tượng. Nhắc đến chúng là nhắc tới chúng là nhắc tới sự đậm đà, sâu sắc. Bởi vậy nhân vật trữ tình trong bài ca dao đã đưa nó ra như một minh chứng cho lời hẹn thề thủy chung. Thế mới có chuyện đang từ hành động:
"Rủ nhau xuống bể mò cua”
Cha ông liên hệ ngay đến những đắng cay, ngọt bùi trong cuộc sống mà tha thiết:
“Em ơi chua ngọt đã từng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Đọc những câu ca dao, thấy nổi bật lên trong đó là sự khẳng định tình cảm lứa đôi còn trong thơ Nguyễn Khoa Điềm những gì nhà thơ gửi gắm còn nhiều hơn thế. Không chỉ đơn thuần là lời ngợi ca, khẳng định tình cảm thủy chung đôi lứa, câu thơ còn gợi lên thứ tình cảm rộng lớn hơn là nghĩa tình của con người nói chung với nhau. Tất nhiên, cũng có mạch nguồn từ truyền thống tình cảm tốt đẹp của dân tộc nhưng trong tư tưởng “đất nước của nhân dân”, Nguyễn Khoa Điềm đã khiến cho nó có tầm rộng và bao quát hơn. Câu thơ không chỉ cho ta thấy tình cảm yêu thương mà còn khẳng định sức mạnh của tình cảm ấy nữa. “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, thương nhau từ những khó khăn vất vả trong cuộc sống, và không vì những khó khăn ấy mà đổi thay. Hình ảnh “gừng cay muối mặn” gợi người ta nhớ đến một đất nước Việt Nam trong “Bài thơ của một người yêu nước mình” (Trần Sao Vàng):
“Tôi yêu đất nước này cay đắng
Những đêm dài thắp đuốc đi đêm
(...) Áo mồ hôi những buổi chợ về
Đời cúi thấp
Gánh từng lon gạo mốc
Từng cọng rau, hạt muối
(...) Tôi yêu đất nước này áo rách
Căn nhà dột, phên không ngăn nổi gió
Vẫn yêu nhau qua từng hơi thở
Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài”
Tình yêu thương bắt nguồn và gắn bó với những gì thân thuộc và gần gũi nhất, với cả những gian lao vá vất vả trong cuộc sống. Với họ, gian khổ càng làm cho nó trở nên sâu sắc hơn.
Vì là hình tượng “đất nước của nhân dân” nên những hình ảnh được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong bài thơ hết sức gần gũi, thân thuộc trong đó chất liệu dân gian được dùng một cách rất đắc dụng. Đất nước được bắt nguồn và nuôi dưỡng bằng nguồn sữa tinh thần là ca dao, dân ca, cổ tích; đất nước được làm nên từ lịch sử oai hùng của dân tộc khi “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”; mỗi địa danh, mỗi mảnh đất đều gắn với những con người cụ thể là nhân dân mà “những cuộc đời đã hóa núi sông ta”... Tình yêu thương như “gừng cay muối mặn” của mẹ và cha chính là nét truyền thống tốt đẹp trong đời sống tình cảm của con người Việt Nam. Nó đã được đúc kết và khẳng định từ lịch sử hàng nghìn năm, thời của những bài ca dao và dân ca đến nay, góp phần:
“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Việc sử dụng chất liệu từ trong ca dao, dân ca làm cho ý thơ trở nên sâu sắc, giàu sức liên tưởng, sâu sắc và dễ đi vào lòng người hơn. Đó cũng chính là một trong những lí do làm nên thành công của đoạn trích.
Câu thơ không chỉ có giá trị như một lời khẳng định đầy thuyết phục truyền thống tình cảm tốt đẹp của con người Việt Nam mà còn góp phần tài năng và sự sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm khi xây dựng hình ảnh đât nước của nhân dân.
Có ba điều làm hỏng một con người: rượu, tính kiêu ngạo và sự giận dữ anh (chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến đó?
Câu trả lời của bạn
Khổng Tử từng nói: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Mỗi người ngay từ lúc sinh ra không ai mang trong mình mầm mống của những thói hư tật xấu. Chỉ khi va đập với cuộc sống, bản tính thiện trong con người mới bị pha tạp. Có người cho rằng có ba thứ có thể làm hỏng một con người, đó là rượu, tính kiêu ngạo và sự giận dữ. Điều đó có hoàn toàn chính xác?
Tôi cho rằng, rượu, tính kiêu ngạo và sự giận dữ đúng là ba điều có thể làm hỏng một con người. Khái niệm “hỏng” ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là hỏng về thân xác mà còn là biến dạng về nhân cách, nhân tính. Bản thân mỗi điều đó cũng đủ khiến con người không còn là chính mình bởi lẽ, tác hại của chúng rất lớn.
Thực tế mà nói, bản thân rượu không có hại nhưng sự lạm dụng của con người khi dùng rượu gây ra những tác hại khôn lường. Rượu làm con người mất tỉnh táo, không làm chủ được hành vi của mình, vì thế nhiều điều đáng tiếc đã xảy ra. Những tác hại do rượu gây ra vô cùng nghiêm trọng. Trước tiên. xét về phương diện sức khỏe y tế, một chút rượu có thể làm con người hưng phấn, những loại rượu thuốc, nếu biết sử dụng chừng mực sẽ có tác dụng bồi bổ sức khỏe cho con người.
Nhưng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói trong Tuyên ngôn độc lập rượu “làm cho nòi giống ta suy nhược”. Những người uống rượu có khả năng mắc các bệnh về gan, tim mạch, bao tử, thần kinh... rất cao. Hàng năm, trên thế giới có hàng triệu người bị u xơ gan, phần lớn nguyên nhân là do uống quá nhiều rượu bia. Cũng có không ít trường hợp đột tử do uống quá nhiều rượu.
Bên cạnh những ảnh hưởng về sức khỏe là những thiệt hại về kinh tế. Không tính đến chi phí sản xuất, chi phí cho hoạt động tiêu thụ rượu cũng chiếm một khoản không nhỏ. Những cuộc nhậu nhẹt đến linh đình chắn chắn sẽ tiêu tốn rất nhiều tiền cho khoản mua rượu.
Người uống rượu say thường không làm chủ được bản thân nên hay có những hành vi không kiềm chế, gây rối rắm mất trật trị an xã hội. Mỗi ngày hàng chục vụ tai nạn giao thông ở Việt Nam nguyên nhân do người điều khiển phương tiện tham gia giao thông uống quá nhiều rượu, bia. Những tổn thương về tinh thần cho cả nạn nhân và người thân của họ là không thể đong đếm được. Hình ảnh những người say rượu bê tha, các vụ đánh cãi chửi nhau do say rượu là những hình ảnh phi văn hoá nhất, cần bị phê phán.
Với những tác hại đó, chúng ta có đủ chứng cớ để kết luận rượu là nhân tố có thể làm hỏng con người.
Điều thứ hai có thể làm hỏng con người là tính kiêu ngạo. Kiêu ngạo là sự ngạo mạn, coi thường người khác. Kiêu ngạo không giống với kiêu hãnh và khác xa lòng tự tôn. Người kiêu ngạo cũng có khi đạt được thành công nên thường cho mình là trên hết, không ai bằng mình. Chính vì thế họ không bao giờ nhận thức đúng đắn về bản thân, không bao giờ nhìn ra điểm yếu của mình. Vậy nên, tính kiêu ngạo làm con người chủ quan, không biết sửa sai khi mắc lỗi, làm con người không có ý thức vươn lên trong cuộc sống. Đó là lí do người kiêu ngạo rất hiếm khi thành công trong cuộc sống. Một học sinh kiêu ngạo không bao giờ đạt được kết quả học tập như ý. Một giáo viên kiêu ngạo không bao giờ có tiết dạy hay. Hẳn chúng ta ai cũng đã nghe câu chuyện dân gian Thỏ và Rùa, Thỏ kiêu ngạo đù thực lực có chạy nhanh đến đâu cũng phải chấp nhận thua cuộc Rùa kiên nhẫn. Bài học về tính kiêu ngạo của Thỏ là sẽ còn cổ giá trị giáo dục đối với tất cả chúng ta.
Điều thứ ba làm hỏng con người là sự giận dữ. Giận dữ là trạng thái giận đến mức tức tối, có lời nói và cử chỉ đáng sợ. Thường thì con người hay giận dữ khi gặp phải những điều trái ý mình. Có khi sự giận dữ là chính đáng nhưng cũng có khi sự giận dữ là vô cớ. Và dù có lí do hay không có lí do, lúc giận dữ là lúc con người yếu đuối nhất, hoang mang nhất.
Tác hại của sự giận dữ cũng ghê gớm không khác gì tác hại của rượu và sự kiêu ngạo. Sự tức giận làm con người mất tỉnh táo, hồ đồ trong hành động, ông cha ta cũng đã dạy: “Cả giận mất khôn". Bất kì sự giận dữ nào cũng khiến mọi việc “sôi hỏng bỏng không”. Người giận dữ sẽ thấy chính mình tổn thương và khi không kiềm chế được, làm tổn thương người khác là không thể tránh khỏi. Sự giận dữ của những tên bạo chúa thời phong kiến làm biết bao dân lành phải chịu cái chết thảm khốc. Có khi giận dữ đi liền với tội ác. Hành động đánh đứa trẻ hai tuổi của người đàn bà trông trẻ độc ác với lí do trẻ không chịu ăn là hành động vô nhân đạo. Không thể lí giải nó từ sự giận dữ.
Chung quy lại rượu, tính kiêu ngạo và sự tức giận đúng là ba điều làm hỏng con người. Nhưng đó chưa phải là tất cả những yếu tố làm nhân hình, nhân tính con người biến dạng. Còn nhiều thứ khác làm hỏng con người, ví dụ như ma tuý, các tệ nạn xã hội, thậm chí cả tình yêu không đúng cách...
Chỉ một trong số những thứ trên đã đủ làm hỏng con người. Nhiễm phải bất kì điều tệ hại nào, chúng ta cũng rất dễ khiến mọi người xa lánh, ghét bỏ. Vậy nên, tất cả những thói xấu ấy đều đáng bị lên án.
Nhưng làm thế nào để bài trừ những thói hư, tật xấu đó ở mỗi con người? Trước hết, bản thân mỗi người phải có ý thức tăng cường khả năng tự miễn dịch. Hãy nói “không" với rượu, với tính kiêu ngạo, với sự tức giận, với tất cả những thói xấu, nết xấu trong cuộc sống. Để làm được điều đó, mỗi người cần phải xác định cho mình một bản lĩnh vững vàng. Cùng với những nỗ lực của cá nhân, cộng đồng, xã hội cũng cần có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục bằng mọi hình thức, xử lí nghiêm minh những trường hợp vi phạm nặng... Có như vậy chúng ta mới có những người tốt - những bông hoa đẹp như Bác Hồ kính yêu từng trông đợi.
Thế hệ thanh niên ngày nay đang đứng trước nhiều vận hội và thách thức lớn. Một trong những thách thức đó là sự cám dỗ của những tệ nạn xã hội, những tư tưởng bảo thủ. Các học sinh, sinh viên không nên chủ quan mà cần chủ động nhận thức và bài trừ chúng.
Đã có rất nhiều nhân cách bị “hỏng” vì rượu, tính kiêu ngạo và sự tức giận. Đó là điều đáng buồn nhưng không đáng tiếc bởi những con người không có bản lĩnh trong cuộc sống thì nên bị đào thải.
Anh (chị) suy nghĩ gì về hiện tượng “nghiện” ka-ra-ô-kê và internet trong giới trẻ hiện nay?
Câu trả lời của bạn
Sinh động, mới mẻ, hấp dẫn,... đó là những gì mà công nghệ thông tin, công nghệ kỹ thuật số... đã mang đến cho đời sống con người. Nhưng bên cạnh đó, không ít những thành quả của khoa học kĩ thuật đang bị lạm dụng gây ra những hiện tượng “nghiện” đầy nguy hiểm. Hiện tượng nhiều học sinh, sinh viên hiện nay “nghiện” ka ra ô kê và internet cũng là một trong số những trường hợp đó.
Về bản chất, chúng ta không thể phủ nhận những tác dụng to lớn của ka-ra-ô-kê và in-tơ-nét. Ka-ra-ô-kê là một loại hình giải trí lành mạnh. Mỗi khi có dịp vui, bạn bè có thể cùng nhau đi hát ka-ra-ô-kê; âm nhạc, lời ca, tiếng hát có thể trở thành nguồn vui, tiếng cười giúp chúng ta giải tỏa căng thẳng, gắn bó thêm tình bạn bè bằng hữu,... In-tơ-nét lại là một phương tiện thông tin vô cùng hữu ích. Sử dụng in-tơ-nét, chúng ta có thể nắm bắt nhanh chóng, cập nhật, sinh động nhiều thông tin trên nhiều lĩnh vực: y tế, giáo dục, khoa học, âm nhạc... Bạn muốn biết thông tin mới nhất về việc tuyển sinh vào lớp 10 - vào các trường Đại học, Cao đẳng,...? Bạn muốn biết những thông tin nổi bật về mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội trong ngày?,... Bạn chỉ cần “click” vào biểu tượng In-tơ-nét trên màn hình máy tính. Từ đây, có thể áp dụng những tri thức quý báu ây vào cuộc sống: vào bài học trên lớp, vào việc nghiên cứu, vào việc thực hành,... Mặt khác, in-tơ-nét cũng là phương tiện thông tin liên lạc tiện lợi: chỉ bằng một số tiền rất nhỏ chúng ta có thể trao đổi thông tin trực tiếp với bạn bè, người thân (qua Yahoo), nhìn rõ nhau (qua Webcam), ...
Tuy nhiên, cũng giống như một số thành tựu khoa học kĩ thuật khác, ở nhiều bạn trẻ, ka-ra-ô-kê và in-tơ-nét bị lạm dụng và gây ra nhiều tác hại.
Ở nhiều thành phố, thị trấn, thị xã,... có những dãy phố ka-ra-ô-kê dài hút mắt, có những cửa hàng ka-ra-ô-kê quy mô lớn chứng tỏ sự chuyên nghiệp của loại hình giải trí này càng cao, nhiều ngôi nhà mặt đường gần khu dân cư không bỏ qua cơ hội kinh doanh cũng mở hàng ka-ra-ô-kê,... Nếu chỉ đơn thuần là phục vụ nhu cầu giải trí lành mạnh, phục vụ những cuộc gặp gỡ bạn bè xả “stress”., thì đâu cần đến nhiều quán ka-ra-ô-kê như vậy? Mặt khác, những quán ka-ra-ô-kê dường như hoạt động cả ngày, đặc biệt là vào những buổi tối. Một câu hỏi đặt ra: giới trẻ có thực sự cần đến nhiều quán ka-ra-ô-kê như vậy đế’ phục vụ cuộc sống của mình không?
Sự thật đã trả lời cho chúng ta. Nhiều bạn trẻ đến với ka-ra-ô-kê như một nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Bất kì một sự việc gì cũng là lý do để họ “đi ka-ra-ô-kê”. Sinh nhật, cuối tuần, quần áo mới,... Thực chất của những cuộc ka-ra-ô-kê như vậy là dịp để họ tụ tập, hò hét và ... say xỉn! Có những cuộc hát thâu đêm, có những giọng hét nhiều hơn hát, có những nhóm ra khỏi phòng hát không còn được một người tỉnh táo, họ thậm chí gây sự với ngay chủ cửa hàng,... Giá của những cuộc ka-ra-ô-kê như vậy lại không hề “mềm” chút nào. Nó liên tục tăng lên chóng mặt, giá cụ thể tuỳ thuộc vào chất lượng phòng hát, chất lượng âm thanh nhưng có lẽ không dưới bốn mươi ngàn đồng một tiếng. Vậy là đã rõ, những cuộc hát hò vô bổ như vậy chỉ là sản phẩm của những bạn trẻ không biết trân trọng sức lao động, không biết trân trọng đồng tiền, thậm chí coi những cuộc hát hò ấy như một thứ trang sức cho sự giàu có của cha mẹ mình. Đó là mục đích của họ sau mỗi cuộc ka-ra-ô-kê chăng? Lúc ấy, ka-ra-ô-kê đã trở thành kẻ đồng phạm của thói ăn chơi, đua đòi đáng lên án.
Với in-tơ-nét, số bạn trẻ biết sử dụng những tính năng của chúng sao cho mang lại hiệu quả lớn nhất cũng chỉ chiếm thiểu số. Đến với những “quán nét”, một cảnh tượng không thể nào khác được là những những gương mặt trẻ tuổi đang căng thẳng, hồi hộp với bao trò game (trò chơi điện tử). Có thể kể đến vô số trò chơi như đế chế, MU,... Có những bạn ngồi lì trước máy quên cả ăn uống, ngủ nghỉ (đừng nói chi đến việc học hành!). Lại có những bậc mà phụ huynh không thấy con về nhà, đã tốn bao công sức “truy lùng” rồi bất ngờ phát hiện cậu ấm “mai danh ẩn tích” ở một quán “nét” và đang hào hứng với trò chơi điện tử! Không chỉ vậy, “ôm ấp” chiếc máy tính và mạng in-tơ-nét còn có những “đệ tử” trung thành của Yahoo. Họ lạm dụng chức năng của hệ điều hành này để ngày đêm chát chít với bạn bè, dĩ nhiên, câu chuyện của họ chỉ đơn giản là: “Ăn cơm chưa? Ăn rồi à? Đang làm gì đấy?” rất vui vẻ! Những điều nguy hiểm nhất là qua đây, nhiều bạn trẻ có thể “kết bạn” dễ đàng, yêu nhau dễ dãi và mắc bẫy cũng dễ dàng. Hàng trăm câu chuyện bị “lừa tình”, “lừa tiền” qua Yahoo không còn là chuyện lạ. Đó là những lời cảnh tỉnh nghiêm khắc đối với những ai còn đang mù quáng với những câu chuyện, những lời tán gẫu qua một kênh ảo như vậy. Có những bạn đến với in-tơ-nét đơn thuần chỉ là để ... tải nhạc và “down ảnh”. Những đối tượng như vậy tưởng chừng vô hại nhưng kỳ thực trong hành động của họ lại tiềm ẩn những hiểm họa rất lớn. Chưa kể đến việc mất thời gian, tiền bạc và sức lực. Hãy xem đến những loại nhạc và loại ảnh họ tải về: “Em yêu! Nhổ anh không? Nhớ à? Đang làm gì đấy?”... những tấm ảnh ngoài luồng, những đoạn “clip” đen,... Chẳng phải chúng đang tiềm ẩn những hiểm họa làm suy thoái cả một thế hệ người hay sao? Giới trẻ sẽ yêu như thế nào,' sông như thế nào khi lớn lên trong môi trường những ngôn từ nhạt nhòa, thậm chí ngớ ngẩn; những tấm ảnh nhơ nhớp, như vậy?
Việc “nghiện” ka-ra-ô-kê và in-tơ-nét đang lấy đi sức lực, thời gian, tiền bạc và hơn hết là sự vô tư, trong sáng của tuổi trẻ.
Sa đà vào những hoạt động như vậy, một điều dễ hiểu là những bạn trẻ ấy không có thời gian cho việc học hành, cho những hoạt động ngoại khóa bổ ích, hiển nhiên không có cả thời gian cho gia đình, người thân. Vậy rồi tương lai những người bạn ấy sẽ ra sao?
Nguyên nhân của lối sống ấy bắt nguồn từ việc những bạn trẻ ấy chưa xác định được lí tưởng sống đúng đắn, họ ham vui chơi, đua đòi, lười biếng, và chỉ quen thói hưởng thụ. Sinh ra trong sự nuông chiều của gia đình, không biết trân trọng những giá trị chân thực của đồng tiền và quan trọng là không chịu học tập, rèn luyện đã biến họ trở thành những người Việt trẻ hư hỏng, đáng chê trách. Vậy thì trước lối sống sai lầm ấy của những bạn trẻ này, trách nhiệm thuộc về việc giáo dục của gia đình họ nhưng phần lớn là do việc tự nhận thức và quá trình tự rèn luyện của bản thân mỗi con người mà thôi.
Ka-ra-ô-kê và in-tơ-nét là những phát minh có ích cho cuộc sống con người nhưng nếu không biết sử dụng đúng cách thì chúng sẽ gây những tác hại vô cùng to lớn. “Nghiện” ka-ra-ô-kê và in-tơ-nét là biểu hiện của sự tiêu cực khi sử dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật này. Tuổi trẻ chúng ta - thế hệ tiên phong trong nhiều lĩnh vực khoa học công nghệ - không thể là những con nghiện, là những nô lệ cho ka-ra-ô-kê, in-tơ-nét hay bất kì phương tiện máy móc nào khác. Các bạn trẻ, chúng là hãy là những chủ nhân thông minh của những thành quả khoa học kĩ thuật!
Một số sinh viên đi du học nước ngoài nhưng dành nhiều thời gian cho chơi bời, giải trí mà chưa chăm chỉ học tập để trở về góp phần xây dựng đất nước. Anh (chị) suy nghĩ gì về hiện tượng trên
Câu trả lời của bạn
Cùng với đà phát triển kinh tế và sự mở cửa của đất nước, phong trào cho con em đi nước ngoài học tập ở Việt Nam ngày càng diễn ra rộng khắp. Dọc các tuyến phố Hà Nội và Sài Gòn treo rất nhiều các băng rôn quảng cáo các chương trình du học. Nhìn vào đó, có thể thấy tầm vóc của công cuộc truy tìm học vấn bên ngoài biên giới ấy. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tốt đẹp mà mỗi du học sinh và gia đình họ thu về sau các kỳ tu nghiệp đó, cũng vẫn còn không ít người đã làm biến dạng mục tiêu, kết quả du học của mình. Điều này có những lý do chính đáng và một trong số đó là hiện tượng một số sinh viên Việt Nam đi du học ở nước ngoài nhưng dành quá nhiều thời gian cho việc chơi bời, giải trí mà chưa chăm chỉ học tập, rèn luyện.
Thực chất, du học là hành trình đi tìm kiến thức khá hữu hiệu đối với các học sinh, sinh viên có điều kiện kinh tế khá giả. Việc tiếp cận với nền tri thức hiện đại ở các nước tiên tiến sẽ giúp các bạn bồi dưỡng năng lực, hoàn thiện trình độ... để tự tin hơn trong học tập, công việc của mình. Thời gian vừa qua, có khá nhiều học sinh, sinh viên đất Việt, sau khi đi du học nước ngoài về đã mang kiến thức tiếp thu được để góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Trí tuệ, tài năng mà họ có được phải đánh đổi bằng những năm tháng miệt mài học tập, nghiên cứu... Không ít người đã làm rạng danh gia đình, đất nước. Tuy nhiên, không ít người mang tiếng đi du học nhưng lại thu về bao nhiêu hệ lụy...
Bên cạnh những sinh viên luôn đặt mục tiêu học tập lên hàng đầu thì có một bộ phận không nhỏ đã tiêu tốn thời gian, tiền bạc, thiêu đốt sự kỳ vọng của gia đình, đất nước vào nhiều việc chơi bời, giải trí. Hiện thực đáng buồn này đã được phản ánh ở rất nhiều các bài báo, các diễn đàn trên internet. Từ những nguồn tin này, có thể thấy nhiều sinh viên Việt Nam sang nước ngoài du học đã bị cuốn vào vòng xoáy của tình yêu, cờ bạc, nhậu nhẹt, quậy phá... Thoát khỏi vòng kiềm tỏa của cha mẹ, không ít sinh viên coi rước ngoài là thiên đường tình yêu. ở nơi đó, họ có thể tự do yêu đương, thậm chí làm những việc không phù hợp với thuần phong mỹ tục của người Việt. Bộ phận khác vùi đầu vào các canh bạc. Một số cựu du học sinh ở Anh cho biết một sinh viên Việt Nam mỗi ngày “nướng” vài ngàn bảng vào sòng bạc là chuyện bình thường. Mỗi sáng các cậu cũng khoác ba lô lên vai nhưng không phải đến giảng đường mà vào sòng bạc và vất vưởng trở về nơi trọ khi đã trắng tay. Không sa ngã vào trường tinh, canh bạc thì không ít người lại “dam mê” nhậu nhẹt, quậy phá. Theo lời kể của một sinh viên năm thứ ba khoa Công nghệ thông tin trường Đại học Công nghệ thông tin Nanyang (Singapore), chuyện sinh viên Việt Nam bỏ học, ăn chơi trác táng ngày càng nhiều. Một sinh viên mới sang học được một tuần lễ đã cạo trọc đầu rồi cùng các “chiến hữu” Việt Nam thành lập băng nhóm chuyên ăn nhậu, trêu chọc đồng hương. Có sinh viên không những không chăm chỉ học hành mà còn tụ tập đua xe, sau nhiều lần bị cảnh sát thổi phạt nhưng không có tiền đóng, đã bị trục xuất về nước. Nhiều nhóm bạn ở cùng nhà hoặc cùng một khu ký túc xá có thể nối mạng chơi game ngày này qua ngày khác, tìm cách đối phó được chăng hay chớ với chuyện học hành, và một số người có thể lập những kỷ lục kinh dị như chín năm mà không ra được khỏi trường đại học...
Những câu chuyện có thật và cười ra nước mất như thế còn nhiều lắm. Và thật khó để có thể bào chữa rằng chúng không làm xấu đi hình ảnh con người, đất nước Việt Nam. Có lẽ không quá lời khi nói rằng những du học sinh đó là những con sâu làm rầu nồi canh. Hiện tượng chơi bời, đua đòi ở bất cứ học sinh, sinh viên nào cũng đáng phê phán nhưng một khi xảy ra ở các nước bạn, các hiện tượng đó càng đáng lên án hơn. Tất nhiên, người chịu thiệt thòi đầu tiên là chính các sinh viên này. Nhưng rộng hơn còn là cha mẹ, họ hàng, quê hương, đất nước. Những ước mơ, kỳ vọng, niềm tin yêu của gia đình, quê hương đã bị họ làm tổn thương. Đó là còn chưa kể đến những thiệt hại về vật chất. Những nguyên nhân nào dẫn đến hiện tượng nhiều sinh viên Việt Nam ham chơi bời, giải trí, xao nhãng học hành?
Trước hết, phải kiểm điểm ý thức của các du học sinh này. Việc du học là một sự thay đổi tích cực trong cuộc sống nhằm xác lập nghề nghiệp cho tương lai, giao thoa với những nền văn hoá, với bạn bè quốc tế để tích lũy vốn sống cho bản thân. Quan trọng hơn, các bạn sinh viên có thể tiếp thu kiến thức để góp phần xây dựng đất nước. Nhiều sinh viên không ý thức được nhiệm vụ và quyền lợi của mình. Họ coi việc đi du học là nhu cầu thay đổi không khí hoặc là cơ hội để thoát khỏi vòng kiềm tỏa của gia đình. Họ không xót xa khi tiêu phí thời gian, tiền bạc vào những trò vô bổ. Tự bản thân họ không thấy sự thúc bách trong học tập, rèn luyện. Chính sự sa sút trong ý thức là nguyên nhân chủ quan chủ yếu dẫn đến tình trạng ham chơi biếng học ở bộ phận du học sinh này.
Nguyên nhân thứ hai dẫn đến hiện tượng ham chơi, không chịu rèn luyện, học tập ở các sinh viên du học nước ngoài xuất phát từ chính gia đình các bạn. Nhiều bậc cha mẹ cho con đi du học chỉ vì muốn mở mày mở mặt với họ hàng, làng xóm. Có người muốn tách con mình khỏi những thằng bạn xấu, hay rủ rê chơi bời, lêu long. Có người cho con đi theo phong trào. Có người lại cho con đi du học chỉ để mua danh... Đúng là muôn hình vạn trạng những lý do không chính đáng. Và chỉ cần một lý do phi lý đó thôi cũng đủ khiến hành trình du học của các cô cậu con cái họ trở thành hành trình chơi bời, giải trí vô bổ. Sự lơ là trong cách quản lý con cái đã khiến nhiều người “sốc” khi biết hàng tháng cứ đến kỳ rút tiền là con lại bay sang nước ngoài để nhận rồi lại bay về Sài Gòn để vui chơi bên bạn trai, bạn gái trong các vũ trường...
Cùng với những nguyên nhân dễ nhận thấy đó còn là sự buông lỏng của một số cơ quan chức năng trong việc tổ chức, quản lý sinh viên du học ở nước ngoài... Muốn hiện tượng này chấm dứt, có lẽ cần có sự tăng cường hợp tác quản lý giữa gia đình và các tổ chức, ban ngành có liên quan đối với các du học sinh. Thậm chí, sự hợp tác đó cần được mở rộng, nối liền với việc quản lý sinh viên du học nước ngoài ở các nước sở tại. Chúng ta cũng có thể đưa ra những điều kiện khắt khe hơn trong việc tuyển hoặc cho phép (đối với các sinh viên du học tự túc) ra nước ngoài du học. Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là sự tự ý thức của mỗi cá nhân. Dân gian có câu Đem chuông đi đấm xứ người,các bạn, một khi đã rời Tổ quốc thân yêu sang đất nước khác để học tập, thì hãy cố gắng đừng đánh lên những “tiếng chuông rè”.
Thực ra, hiện tượng ham chơi, biếng học không chỉ xảy ra ở các sinh viên du học nước ngoài. Nhiều sinh viên trong nước cũng mắc phải những cái bẫy đầy cám dỗ đó.
Công bằng mà nói, sau những giờ học căng thẳng, các bạn có thể giải trí để cân bằng lại chính bản thân. Nhưng hãy làm sao để không bao giờ sa ngã vào những trò vô bổ, để cuộc sống thời sinh viên luôn có nhiều ngày thật ý nghĩa.
Từ xưa đến nay, cha ông ta luôn coi văn học là một thứ vũ khí chiến đấu mạnh mẽ và sắc bén anh (chị) hãy làm sáng tỏ quan niệm đó?
Câu trả lời của bạn
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại. Trong muôn loại vũ khí chống chọi với quân thù, có một thứ khí giới “thanh cao mà đắc lực” (Nguyễn Minh Châu), “có sức mạnh hơn mười vạn quân” (Nguyễn Trãi) - đó chính là văn chương nghệ thuật.
Văn học là loại hình nghệ thuật thuộc thượng tầng kiến trúc. Những giá trị nó tạo ra thuộc phạm trù tinh thần, chúng hoàn toàn vô hình nhưng sức tác động của văn học tới tư tưởng con người rất mạnh mẽ.
Tại sao văn học lại được coi là thứ vũ khí chiến đấu? Điều này trước hết xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử đất nước. Từ người Việt còn nằm trong bọc trứng của mẹ Âu Cơ, cha Lạc Long Quân đã phải chiến đấu với lũ thuỷ quái, yêu tinh. Rồi quân xâm lược phương Bắc, bầy giặc cỏ phương Nam, đến lũ cướp nước phương Tây thay nhau quấy nhiễu, giày xéo, thống trị đất nước ta. Sống giữa cảnh chiến tranh loạn lạc, “mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt, mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng”, “ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ”, lẽ nào ngòi bút của người nghệ sĩ không trở thành vũ khí chiến đấu?
Ở Việt Nam, quan điểm văn nghệ Nho giáo đã thấm sâu vào trí thức, kẻ sĩ. Quan niệm có phần tích cực là kích thích kẻ sĩ đem văn chương phục vụ đất nước. Trong Bảo kính cảnh giới bài số 56, Nguyễn Trãi viết:
“Đao bút phải dùng tài đã vẹn
Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên
Vệ Nam mãi mãi ra tay thước
Điện Bắc đà đà yên phận tiên”.
Thế kỉ XIX, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng viết:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đám mấy thằng gian bút chẳng tà”
Văn chương một mặt chuyên chở đạo lí thánh hiền, mặt khác phục vụ chính trị, đạo đức, giáo hoá.
Đến Sóng Hồng - nhà cách mạng cũng làm những vần thơ:
“Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ
Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”
Các nhà văn cách mạng đều đề cao chức năng tuyên truyền, giáo dục của văn học, coi văn học là thứ vũ khí sắc bén, lợi hại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dõng dạc khẳng định: “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Vậy nên Người đã chủ động tăng cường chất thép trong những vần thơ của mình:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải kiệt xung phong”
Bao nhiêu năm qua, văn học đã không ngừng chiến đấu với bọn ngoại xâm, nội phản. Mỗi vần thơ, mỗi câu chuyện là một mũi tên xuyên trực diện vào lũ cướp nước. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi không ngại ngần lên án tội ác của bọn giặc Minh:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân, đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi"
Những vần thơ Đông A, những vần thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương, những vần thơ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... bừng bừng khí huyết căm thù giặc. Thời chống Pháp, chống Mĩ cỏ cà một thế hệ những nhà văn, nhà "thơ vừa cầm súng vừa cầm bút chiến đấu. Hàng loạt những bài thơ của Phạm Tiến Duật, Anh Thơ, Xuân Quỳnh, hàng loạt tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Minh Châu... vừa là bài ca ca ngợi lòng yêu nước của nhân dân, vừa là bản cáo trạng đanh thép tuyên cáo tội ác tày trời của giặc. Bằng cách đối lập hai hình tượng nhân vật thằng Xám và chị Sứ, nhà văn Anh Đức đã lột trần tội ác của tên Việt gian và ngợi ca lòng yêu nước của người con gái xứ Hòn (Hòn Đất). Cũng theo cách đó, Nguyễn Đình Thi đã viết những vần thơ hạ bệ quân giặc một Cách thảm hại:
“Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không đánh được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà”
(Đất nước)
Bất kì thời đại nào, mỗi vần thơ, mỗi câu văn chiến đấu chống giặc ngoại xâm cũng là những bài ca đanh thép nhất, kiên cường nhất. Những bài ca đó thẳng thắn lên án sự phi nghĩa của quân giặc, chĩa mũi nhọn vào tội ác của chúng. Chiến thắng mà các nhà thơ, nhà văn đạt được có khi là sự kinh hãi quân thù. Bài ca Nam quốc sơn hà tương truyền của Lí Thường Kiệt khi được đọc bên bờ sông Như Nguyệt đã khiến quân giặc khiếp sợ. Những bài dụ tướng giặc làm quân tướng giặc hoang mang, nao núng vì Nguyễn Trãi đã chỉ ra cho chúng hàng loạt các điểm yếu. Mỗi bài ca thể hiện khí phách, tinh thần quyết chiến của dân tộc cổ vũ thêm lòng yêu nước cho nhân dân.
Đất nước sạch bóng quân thù, điều đó không có nghĩa là văn học không còn nhiệm vụ chiến đấu nữa. Đối tượng chiến đấu của văn học không phải là quân cướp nước, bán nước mà là những cái ác, cái xấu đang đày đọa con người. Các truyện ngắn Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu), Một người Hà Nội (Nguyễn Khải) có tính chiến đấu không? Tất nhiên là có. Chừng nào còn những điều phi nghĩa giày vò con người, chừng nào còn có những điều bất an đe dọa cuộc sống của con người, chừng đó người nghệ sĩ còn cầm bút để chiến đấu.
Bản chất của“văn học là nhân học”. Khi nhà văn dùng ngòi bút của mình tham gia chống lại cái ác, cái xấu trong xã hội, cũng là lúc họ đang thực thi nhiệm vụ là khoa học của lòng người, của con người. Mặt trận không tiếng súng này không có máu, nhưng mồ hôi và nước mắt sẽ không lúc nào vơi cạn.
Anh (chị) suy nghĩ gì về những thành công và thất bại trong hành trình kiếm tìm những giá trị cao đẹp của đời sống con người?
Câu trả lời của bạn
“Giá trị của con người không ở chân lí người đó sở hữu hoặc cho rằng mình sở hữu, mà ở chỗ gian khó chân thành người đó nhận lãnh trong khi đi tìm chân lí”.Câu nói của Lét-xinh gợi cho ta nhiều suy nghĩ về những thành công và thất bại trong hành trình kiếm tìm những giá trị cao đẹp của đời sống con người.
Trong cuộc sống, con người luôn khao khát khám phá những giá trị của bản thân mình: mình đang đứng ở đâu? Mình là ai trong mắt mọi người, trong đời sống xã hội? Xác định được vị trí, hiểu được giá trị của bản thân là nhu cầu tất yếu, chính đáng của mỗi người. Song, không phải ai cũng có được nhận thức đúng đắn về điều đó. Có những kẻ luôn ngộ nhận về khả năng của mình, họ cho rằng mình là số một, là chân lí của cuộc sống. Đó là tư tưởng của những kẻ độc tài, tự kiêu và tự phụ. Lại có người nhút nhát, sợ sệt mọi thứ, không bao giờ nghĩ rằng mình có thể làm được điều gì có ích. Đó lại là những người tự ti. Rõ ràng “Giá trị của con người không ở chân lí người đó sở hữu hoặc cho rằng mình sở hữu”, tức là giá trị của con người không nằm ở những gì tốt đẹp, đúng đắn mà bản thân họ có hay họ nghĩ rằng mình có. Vậy giá trị mấy năm ở đâu? Nó nằm ở những "gian khó chân thành người đó nhận lãnh trong khi đi tìm chân lý".
Vậy là, điều được ghi nhận trong giá trị của con người là những nỗ lực, những cố gắng trong hành trình đi tìm, vươn tới cái đẹp, cái thiện ở đời.
Tại sao vậy?
Cuộc sống là hành trình con người đi tìm mình và tự khẳng định mình. Ai cũng khao khát vươn tới cái hoàn mĩ của sự sống. Nếu con người đạt được một điều nào đó, một chân lý trong cuộc sống thì chân lý đó đã được con người chiếm lĩnh. Nhưng bất hạnh nằm ở việc chân lý cũng có tính tương đối, nó có thể đúng trong nhiều trường hợp nhưng lại sai trong một số trường hợp. Vậy nếu con người bằng lòng với chân lí mình có, dừng lại cuộc hành trình tìm kiếm vẻ đẹp cuộc sống thì khi ấy con người thất bại. Vậy kết quả của mọi công việc chưa phải là điều lớn nhất chúng ta đòi hỏi ở một con người. Quan trọng là con người ấy đã vượt khó, vượt khổ để đi tới thành công. Chính trong quá trình vượt qua những gian khó mà con người nhận lãnh trên đường đi tìm chân lý đã giúp con người bộc lộ nhiều phẩm chất, đức tính của mình. Đó có thể là sự chăm chỉ cũng có thể là lười nhác. Đó có thể là can đảm cũng có thể là hèn nhát. Đó có thể là sáng tạo, năng động nhưng cũng có thể là thụ động, máy móc. Đó có thể là sự chân thành nhưng cũng có thể là dối trá,... Hành trình đi tìm cái đẹp là hành trình chạy đua trong một đường hầm kín. Kẻ về đích sớm nhất, ló dạng ra khỏi đường hầm sớm nhất chưa chắc đã là kẻ nhanh nhất, giỏi nhất, tốt nhất,... Chính bởi những điều ấy, giá trị đích thực của một con người phải là những "gian khó chân thành người đó nhận lãnh trong khi đi tìm chân lý ". Qua quá trình vượt qua những điều khó khăn ấy, con người bộc lộ những phẩm chất, giá trị của mình.
Trong cuộc đời này, mọi người đang cùng đứng trên một quả đất nhưng mặt đất ta đang đứng không bằng phẳng mà chỗ cao, chỗ thấp, ấy bởi mỗi người một hoàn cảnh, một điều kiện khác nhau. Còn chân lý lại là một độ cao nhất định mà tất cả chúng ta phải vươn tới mới đạt được. Vậy thì, giá trị của mỗi người không nằm ở việc ai chạm tay vào chân lí sớm hơn mà nằm ở việc đã nhảy như thế hào từ vị trí của mình để đến được với chân lí.
Anh (chị) suy nghĩ gì về hiện tượng nhiều học sinh coi thường các môn học khoa học xã hội và nhân văn?
Câu trả lời của bạn
Những năm gần đây, có một thực trạng đáng báo động đó là tình trạng học sinh coi thường các môn học Khoa học xã hội và nhân văn. Ở xu thế xã hội nào, các môn học này vẫn có vai trò vô cùng quan trọng đến nhân cách và văn hóa ứng xử. Do đó, học sinh coi thường các môn xã hội đã gây ra những tác hại nghiêm trọng và ảnh hưởng không nhỏ của mỗi học sinh. Vậy nguyên nhân dẫn đến những thái độ đó của học sinh là gì?
Trước tiên có thể thấy, các môn khoa học xã hội và nhân văn đã không tạo được niềm hứng thú đối với các môn khoa học tự nhiên. Thường ngày trong chương trình học không chỉ có các môn tự nhiên, các môn xã hội mà còn có rất nhiều môn học khác như sinh học, thể dục. Vì vậy các em không những học bài mà còn phải chuẩn bị rất nhiều bài tập trước khi đến lớp. Thêm vào đó, các môn khoa học xã hội như văn học, lịch sử, địa lí... kiến thức vô cùng rộng với những sự kiến thức dài dễ tạo ra học sinh cảm giác chán nản, mệt mỏi. Không như các môn khoa học xã hội và nhân văn, các môn tự nhiên tạo được cho học sinh nhiều hứng thú hơn với những con số, công thức ngắn gọn, dễ nhớ, dễ học thuộc, từ đó các môn này tạo cho học sinh được cảm giác kích thích, đào sâu suy nghĩ và tìm tòi hướng giải quyết.
Thứ đến phải kể là cách giảng dạy của giáo viên. Cách học “cô đọc trò chép” đã làm cho học sinh trở nên thụ động, lười suy nghĩ. Chính vì vậy, những giờ học môn khoa học xã hội và nhân văn đã không được học sinh yêu thích và coi trọng.
Khi nhìn nhận một vấn đề ta không chỉ nhìn từ một phía, có thể thấy do bản chất của các môn học xã hội, do cách truyền đạt của giáo viên mà học sinh coi thường các môn học xã hội nhưng đã bao giờ ta thử lật ngược lại vấn đề? Nếu như các bạn học sinh yêu thích các môn học xã hội thì liệu có dẫn đến tình trạng chán nản đó hay không?
Gorki đã từng nói: “Văn học là nhân học” tức là Văn học không chi cung cấp những kiến thức về môn học đó nói chung mà các môn học xã hội còn hướng con người sống “chân, thiện, mỹ, giúp con người yêu thương con người hơn.
Hậu quả của việc coi thường các môn khoa học xã hội và nhân văn để lại là vô cùng nghiêm trọng, tác hại của sự thiên lệch trong tư duy đã làm cho một số học sinh rơi vào những cảnh tiếc nuối. Và chỉ khi ở trong những cảnh tiếc nuối đó, học sinh học lệch mới thấy học đều các môn tốt biết bao.
Nhìn chung, vấn đề học sinh coi thường các môn học khoa học xã hội và nhân văn đang được rất nhiều nhà trường quan tám. Vì vậy, ta nên có thái độ tích cực và bình đẳng đối với tất cả môn khoa học xã hội và nhân văn và các môn học tự nhiên. Như vậy, ta vừa có thêm kiến thức, vừa không gặp những rủi ro mà việc học đem lại.
Bàn luận về Tuổi trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc?
Câu trả lời của bạn
Đã bao giờ bạn tự hỏi: “Tuổi trẻ trong sự nghiệp đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã và đang làm gì với trình độ, lòng nhiệt huyết và sức trẻ của mình?” Trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, đã có hàng triệu con người lên đường tình nguyện chiến đấu, tình nguyện hi sinh vì tự do, độc lập cho đất nước. Và trong thời bình ngày nay, đã có biết bao nhiêu con người, tình nguyện đi vào vùng sâu, vùng xa, tình nguyện làm những việc dù là nhỏ nhất để mong sao cho cuộc sống xã hội tốt đẹp hơn, vẹn toàn hơn.
Là một sinh viên trường Đại học Quốc gia Hà Nội, có lẽ tôi sẽ không bao giờ quên được cái cảm giác sục sôi lòng nhiệt huyết khi nghe Thông điệp tình nguyên được truyền đi khắp cả trường, làm náo nức sục sôi biết bao trái tim trẻ. “Họ đã sưởi ấm xã hội bằng những ngọn lửa nhiệt huyết của mình, vì họ biết rằng sự cho đi của họ không bao giờ vô nghĩa. Ai đó từng bảo: “Bây giờ đã khác ngày xưa. Bây giờ người ta sống cá nhân hơn, vị kỷ han”, chúng ta nghĩ sao về điều đó? Đã bao giờ bạn có được cảm giác của một người cho máu và biết rằng với số lượng máu ấy đã giúp được ít nhất một người vượt qua cơn bạo bệnh? Đã bao giờ bạn hòa mình vào tiếng cười của những em nhỏ có hoàn cảnh khó khăn để được nhìn những ánh mắt hồn nhiên, trong sáng nhưng rạng ngời niềm tin vào tương lai? Đã bao giờ... và đã bao giờ...? Hãy bắt đầu một ngày mới cụm từ “tình nguyện”, dù là những việc nhỏ nhất”.
Viết về tuổi trẻ cả nước trong sự nghiệp đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc .có rất nhiều tấm gương đáng ngợi ca. Ở đây, chúng tôi chỉ xin đưa ra một ví dụ tiêu biểu của trường Đại học Quốc gia Hà Nội để qua đó có thể nhìn thấy rằng, sinh viên, học sinh, tuổi trẻ Việt Nam ở bất cứ nơi đâu luôn luôn sẵn sàng tham gia đóng góp cho đất nước, cho dân tộc. Và một chương trình thể hiện được sự đóng góp của tuổi trẻ nhiều nhất, có lẽ đó là các chương trình tình nguyện được tổ chức thường niên. Sức trẻ, sức khỏe đã tạo nên những kỳ tích thật đáng tự hào.
Có một dạo, cách đây mấy năm khi xem chương trình truyền hình đưa tin về các bạn sinh viên của một trường đại học đang làm vệ sinh môi trường với đất đá, rác và bụi bay mù mịt để hưởng ứng phong trào mùa hè thanh niên tình nguyện, một giáo sư đã lắc đầu, bảo: “Thanh niên tình nguyện là một phong trào rất thực tiễn, rất sáng tạo của tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên, nhưng nếu chỉ đơn thuần làm theo kiểu cách này thì theo tôi là chưa ổn. Sinh viên là một đội ngũ trí thức tỉnh hoa của đất nước, nên hướng cho họ những phần việc tình nguyện mùa hè gắn với những kiến thức họ đang được đào tạo. Và khi ấy ý nghĩa của phong trào sẽ được nâng lên, tầm ảnh hưởng của nó cũng sẽ sâu, rộng hơn.”... Thoạt nghe vậy, tôi cứ nghĩ ông giáo sư này chắc hơi khó tính. Vậy nhưng sau mấy mùa hè đi cùng các đội sinh viên tình nguyện của ĐHQGHN về các mặt trận, xuất phát từ các chương trình hoạt động cụ thể gắn với từng địa bàn, nghe những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của cán bộ và nhân dân các địa phương, tôi mới thấy lời nhận xét đó thật đáng suy nghĩ...
Trong cuộc đời mỗi người, ai cũng có một thời tuổi trẻ nhưng không phải ai cũng sẵn sàng dấn thân vào các phong trào tình nguyện. Tinh thần tình nguyện phụ thuộc vào các yếu tố như: kiến thức, quan niệm, kinh nghiệm và vốn sống hay nói cách khác đó là năng lực trí tuệ của thanh niên, lẽ sống và lối sống của họ. Hoạt động tình nguyện có các đặc trưng riêng biệt: Tính tự giác cao, phản ánh sự giác ngộ sâu sắc về nghĩa vụ và trách nhiệm công dân; tính không vụ lợi, hoạt động không đặt điều kiện, không vì mục đích kinh tế hay lợi ích cá nhân; tính cộng đồng cao, mục đích là được cống hiến, nên có tính lan tỏa trong xã hội. Từ tất cả những điều đã viết trên đây, chúng ta nhận thấy rằng với mỗi “trái tim tình nguyện” thì động lực tri thức, văn hóa và các giá trị nhân văn vẫn là chủ yếu, có tính nổi trội, bền vững hơn hẳn các giá trị kinh tế, vật chất. Do đó, giải pháp quan trọng nhất là kiên trì, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục nâng cao trí tuệ, xây dựng lẽ sống cách mạng và lối sống văn hoá cho thanh niên theo các chuẩn giá trị như: Kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Yêu nước, thương dân, trung thành với cách mạng; Yêu lao động, làm việc hết mình, có tinh thần cạnh tranh lành mạnh; Năng động, sáng tạo, làm việc có hiệu quả cao; Dồi dào tri thức, vươn lên chiếm lĩnh các đỉnh cao khoa học công nghệ hiện đại...
Vậy khi nào thì tuổi trẻ lên đường?
Đó là khi chúng ta thấy những phần việc mình làm có ích cho cộng đồng, xã hội, Tổ quốc và nhân loại. Những công việc như xoá đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội, xây dựng đời sống văn hóa, diệt giặc đói, diệt giặc dốt, phòng chống các dịch bệnh nguy hiểm, bảo vệ môi trường, chống chiến tranh... sẽ tạo ra những môi trường phù hợp để tuổi trẻ thử thách, trải nghiệm và cống hiến.
Đó là khi cuộc sống đặt ra những vấn đề bức thiết với những công việc không thể không làm hoặc không thể làm khác. Chẳng hạn như hỏa hoạn, lũ lụt, thiên tai hay ngoại bang xâm lược.
Từ nhiều năm nay, phong trào sinh viên tình nguyện mùa hè đã được BCH Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên ĐHQGHN duy trì thường niên, có sức lan tỏa và sức hút lực lượng đoàn viên một cách mạnh mẽ, không chỉ riêng ở một đơn vị đào tạo nào mà trong phạm vi toàn ĐHQGHN. Khẩu hiệu “Tuổi trẻ xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng” luôn được các thế hệ sinh viên ĐHQGHN nêu cao và trở thành một nét đẹp bừng sáng mỗi dịp hè về. Năm 2008, huyện Thạch Thất, Hà Nội được lựa chọn là địa bàn trọng điểm để triển khai các hoạt động tình nguyện trong chiến dịch Mùa hè xanh của tuổi trẻ ĐHQGHN. Chiến dịch kéo đài trong 20 ngày được chuẩn bị khá công phu, tỉ mỉ và chi tiết từ khâu phối hợp tổ chức nhịp nhàng giữa BCH Đoàn ĐHQGHN với huyện Đoàn Thạch Thất, từ khung chương trình hoạt động đến việc liên hệ sắp xếp nơi ăn, chốn ở cho các đội sinh viên tình nguyện. “Đầu xuôi thì đuôi lọt” - 600 chiến sĩ áo xanh thuộc 20 đội hình tình nguyên của ĐHQGHN thực hiện thắng lợi tất cả các phần việc theo dự kiến tại địa bàn 20 xã trong huyện. Kết quả đó mới đây đã được lãnh đạo Đảng ủy, Ủy ban Nhân dân huyện Thạch Thất và BCH huyện Đoàn tôn vinh tại lễ tổng kết chiến dịch.
Kết thúc chiến dịch tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng, các chiến sĩ tình nguyện ĐHQGHN đã tặng được 200 xuất quà trị giá gần 20 triệu đồng cho các gia đình chính sách, tặng 55 xuất quà cho các em học sinh nghèo vượt khó, tổ chức được 20 buổi tuyên truyền cho hơn 3.000 lượt đoàn viên và bà con nhân dân trong huyện về thực hiện nếp sống văn hóa, kế hoạch hóa gia đình, phòng chống các dịch bệnh mùa hè, các dịch bệnh ở người và gia súc, gia cầm, tuyên truyền phòng chống các tệ nạn xã hội đặc biệt là tệ nạn ma túy, mê tín dị đoan. Phối hợp với đoàn thanh niên địa phương, các đội sinh viên tình nguyện đã tổ chức tốt công tác vệ sinh môi trường, vệ sinh quang cảnh nhà bia, trường học, các trụ sở UBND xã, thị trấn, khơi thông cống rãnh, nạo vét kênh mương, bắt ốc bươu vàng bảo vệ lúa, hoa màu...
Những việc làm của các chiến sĩ tình nguyện thật sự có ý nghĩa, đó thật sự đã trở thành cầu nối, thành chất xúc tác quan trọng giữa tuổi trẻ với nhân dân, với mọi miền của Tổ quốc. Ngày chia tay, là những cái nhìn lưu luyến, là giọt nước mắt bịn rịn không muốn chia xa. Đất nước ta đang có những bước tiến dài trong phát triển kinh tế; đời sống người dân được nâng lên rõ rệt... Để tiếp tục phát huy những thành quả ấy, thanh niên ngoài việc có trình độ, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, còn phải tu dưỡng đạo đức cách mạng. Thế hệ thanh niên phải mang trong mình bầu nhiệt huyết, sẵn sàng tình nguyện, xung kích vì cộng đồng. Có như vậy mới có những người chủ tương lai hết lòng vì cộng đồng, vì sự phát triển của đất nước.
“Trong chiến tranh, con người phải lựa chọn giữa sống và chết, còn hiện tại các bạn phải lựa chọn giữa hưởng thụ và cống hiến, tôi mong thế hệ trẻ sáng suốt để đi theo con đường cách mạng đúng đắn nhất" (lời của Thiếu tướng Phan Khắc Hi). Đất nước đã vào thế vận hội mới, tuổi trẻ bằng sức lực, khả năng và lòng nhiệt huyết của mình càng phải cống hiến hết mình cho Tổ quốc. “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta, mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”.
"Bậc thánh nhân không tích lũy, càng giúp người càng giàu có, càng cho đi càng nhận lại nhiều hơn. Đức của thánh nhân chia sẻ chứ không tranh giành”. Từ những quan niệm trên của Lão Tử về đạo, suy nghĩ về lẽ sống của con người trong cuộc sống hiện đại
Câu trả lời của bạn
Xưa kia, Lão Tử quan niệm rằng: “Bậc thánh nhân không tích lũy, càng giúp người càng giàu có, càng cho đi càng nhận lại nhiều hơn. Đạo của trời làm lợi mà không làm hại. Đức của thánh nhân chia sẻ chứ không tranh giành”. Có thể nói, quan niệm của Lão tử không chỉ có vai trò quan trọng trong xã hội xưa mà quan niệm này còn rất thiết thực cho cuộc sống. Phải chăng, đây là một quan niệm, một tuyên ngôn về lối sống của con người, sống ở trên đời mọi người phải biết chia sẻ với nhau, sống vì nhau và không bao giờ làm hại nhau. Nhưng liệu quan niệm đó còn đúng với cuộc sống hiện đại hôm nay không? Và con người trong thời đại ngày nay còn sống theo quan niệm đó hay không?
Có nhà thơ nào đó từng nói:
“Nếu là con chim chiếc lá
Thỉ con chim phải hót chiếc lá phải xanh
Sống ở trên đời người cũng vậy
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”
Như chúng ta đã thấy, mọi tôn giáo trên thế giới như Đạo giáo, Nho giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo...Đều hướng con người làm việc thiện, “tu thân, tích đức” để con người sống gần nhau hơn, yêu thương nhau hơn. Vậy mà giờ đây, lòng đố kỵ, lòng ích kỉ và cả những bon chen của cuộc sống càng ngày càng khiến con người quay cuồng với những lợi ích cá nhân. Chính vì thế, quan niệm trên ý nói về lối sống của con người, khi ta càng cho đi nhiều, càng giúp đỡ mọi người nhiều thì ta cũng nhận lại được nhiều, không nên tranh giành, bon chen mà hãy biết giúp đỡ và chia sẻ cùng nhau, có làm như vậy thì hợp với đạo trời, với lòng người.
Trong cuộc sống, nhiều người muốn người khác giúp đỡ, chia sẻ, muốn nhận được nhiều cái lợi nhưng họ lại không muốn cho người khác, không muốn giúp đỡ, chia sẻ với người khác mà chỉ muốn hưởng thụ một mình. Lối sống ích kỷ đó sẽ khiến họ bị mọi người ghét bỏ, không hòa nhập được vào cuộc sống chung. Chính bởi vậy, chúng ta không nên giữ khư khư những gì mình có. Tục ngữ có câu “Lá lành đùm lá rách”. Khi chúng ta chia sẻ hạnh phúc với mọi người xung quanh thì mọi người sẽ yêu quý chúng ta, tôn trọng, biết ơn và họ luôn sẵn sàng giúp đỡ bạn khi bạn gặp khó khăn.
Cuộc sống luôn có những vòng xoáy, con người chỉ cần bất cẩn, chỉ cần lơ là mất cảnh giác một chút là có thể bị cuốn ngay vào đó. Nhiều người đã khẳng định “thương trường như chiến trường” cho nên họ đã đạp đổ những công ty khác, đè bẹp áp bức, thậm chí dùng những thủ đoạn xấu để đạt được mục đích của mình. Dường như là họ nghĩ “phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ” nhưng “lưới trời lồng lộng" những người “gieo gió ắt khác gặt bão”. Đó chính là đạo trời, luật trời.
Vâng, cuộc sống luôn có tính hai mặt của nó. Bên cạnh những kẻ ích kỉ, cá nhân còn rất nhiều nhà hảo tâm, những doanh nghiệp vì cộng đồng, giúp đỡ mọi người, ủng hộ cho những hoàn cảnh khó khăn. Lúc đó, họ sẽ có được hạnh phúc, họ sẽ nhận được rất nhiều, nhiều hơn cả những gì đã cho đi.
Nhìn chung, cuộc sống của chúng ta thực sự rất phức tạp. Chính vì vậy chúng ta cần mở rộng lòng mình hơn, biết yêu thương con người hơn. Vì “người với người sống để yêu nhau” mà. Đây chính là cái đích lớn nhất, cao cả nhất của bậc thánh nhân và cũng là cái đích của mọi thời đại.
Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về câu nói của nhà văn Pháp: “Nghèo nàn về vật chất dễ chữa, nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa"?
Câu trả lời của bạn
Nếu có một ít tiền, bạn sẽ mua thứ gì, ổ bánh mì thơm phức, bó hoa hồng cũng rất đẹp hay chia số tiền ít ỏi đó làm đôi để mua mỗi thứ một chút? Câu trả lời sẽ cho tôi biết bạn là người có tâm hồn như thế nào? Nhưng dù đói thật bạn hãy cứ chia số tiền đó để mua được, cả hai, bởi lẽ - như nhà văn Pháp Mi-sen Ê-ken đơ Mông-te-nhơ nói: “Nghèo nàn về vật chất dễ chữa, nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa”.
Vật chất và tinh thần là hai mặt trọng yếu trong đời sống con người. Cả hai thứ đó đều góp phần mang lại cảm giác hạnh phúc cho con người. Nếu vật chất và tâm hồn viên mãn, con người sẽ thấy cuộc đời ý nghĩa. Nhưng không phải ai cũng may mắn giàu có về vật chất và dạt dào về tình cảm. Mặc dù vậy, không phải không khắc phục được những nghèo nàn đó.
Nghèo nàn về vật chất tức là sự khó khăn, thiếu thốn về tiền bạc, tài chính, kinh tế. Nhìn từ điều kiện sống, người nghèo là người không có hoặc không đủ cái ở, cái ăn, cái mặc. Người nghèo ở trong những căn nhà tồi tàn, tạm bợ, ăn uống bữa đói, bữa no, quần áo cũ nát, không lành lặn. Hiện nay, do đời sống xã hội ngày càng được cải thiện, tiêu chí xếp hộ đói nghèo ở Việt Nam cũng thay đổi, nhưng nhìn chung, sự thiếu thốn về mặt kinh tế vẫn là điểm cốt yếu ở mỗi hộ nghèo.
Nghèo nàn về tâm hồn là sự đơn điệu, tẻ nhạt, khô cằn trong tình cảm, cảm xúc. Mọi sắc thái tình cảm của trạng thái tâm lí này đều nghiêng về phía tiêu cực (ích kỉ, đố kị, ghen ghét...). Trái ngược với người có tâm hồn giàu có, phong phú, những người này ít biết đến yêu thương, xúc động. Người có tâm hồn nghèo nàn không biết thích thú, say đắm trước cái đẹp nên không tiếc nuối khi cái đẹp bị chà đạp, tàn phai. Họ dửng dưng, không biết chia sẻ với nỗi đau khổ ở đời. Trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) nếu Thuý Kiều nhạy cảm bao nhiêu trước những biến động của cuộc sống thì em gái nàng - Thuý Vân lại thờ ơ bấy nhiêu với nỗi đau khổ ở đời. Chẳng thế mà lúc nghe Vương Quan kể lại câu chuyện cuộc đời Đạm Tiên, trong khi Thuý Kiều không cầm được nước mắt thì nàng Vân lại trách chị “Vân rằng “Chị nói hay sao, Một lời là một vận vào khó nghe”. Rồi lúc gia biên, trong khi Kiều thổn thức, đớn đau thì Vân vẫn say sưa giấc xuân, không mảy may phiền muộn. Người như Thuý Vân nếu không nói là vô tâm thì cũng là người quá nghèo nàn về tâm hồn.
Người có tâm hồn nghèo nàn không những không quan tâm đến thế giới xung quanh mà với chính bản thân, học còn thờ ơ, lãnh đạm. Họ không biết sáng tạo những niềm vui nho nhỏ trong cuộc sống, không biết làm cho cuộc đời tươi vui hơn, phấn khởi hơn. Hình ảnh hai Kiều trong “Toả nhị kiều” (Xuân Diệu) là những con người như thế. Cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt của họ ngày này tiếp diễn ngày khác như một vòng quay bất tận. Họ ở mãi trong cái “ao đời phẳng lặng” mà không hay mình đang “sống mòn”, đang tự huỷ diệt chính bản thân mình.
Là con người, ai cũng mong muốn cuộc sống của mình no đủ, giàu có, ai cũng mong có được tinh thần vui vẻ, sảng khoái, trẻ trung. Không ai không muốn vượt thoát hoàn cảnh túng quẫn. Sự nghèo nàn nào cũng đều khiến con người có những nỗi khó, nỗi khổ riêng. Nhưng tại sao Mi-sen Ê-ken đơ Mông-te-nhơ lại cho rằng “nghèo nàn về vật chất dễ chữa” còn “nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa’”?
Vật chất là những thứ do chính năng lực lao động của mình làm ra. Có rất nhiều nguyên nhân khiến hoàn cảnh vật chất của con người thiếu thốn. Có thể do khả năng lao động của chúng ta quá thấp, không tạo ra được nhiều sản phẩm, dẫn đến mức thu nhập không cao, không đủ chi dùng cho sinh hoạt hàng ngày. Cũng có thể do ngành nghề chúng ta lựa chọn cho giá trị kinh tế cao. Thu nhập của người làm nông nghiệp bình thường không thể cao hơn thu nhập của một người làm trong các ngành công nghiệp, dịch vụ. Hoặc như các cụ ta đã nói: “Không ốm không đau làm giàu mấy chốc”, khi ốm đau, bệnh tật lâu ngày, chúng ta khó có thể làm giàu được...
Nhưng, thực tế cho thấy, có thể giải quyết những khó khăn trong vấn đề kinh tế. Chìa khoá để tháo gỡ vướng mắc nó rất đa dạng. Chỉ cần con người có sức khoẻ, chăm chỉ làm việc, nhạy bén nắm bắt thời cơ, mạnh dạn tìm cho mình những hướng đi mới, có hiệu quả... thì tình trạng nghèo đói có thể được cải thiện. Có nhiều cách để chúng ta thoát khỏi cảnh nghèo đói. Nhiều người Việt Nam chọn con đường xuất khẩu lao động, sang nước ngoài làm thuê để được trả công cao hơn. Nhiều người lại tự làm giàu trên chính đồng đất, quê hương mình. Không ít nông dân đã mạnh bạo chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Thay vì trồng lúa, họ chuyên canh những loại hoa màu khác, như hoa hồng, loa kèn, đu đủ, chuối tây, các loại rau có giá trị kinh tế cao như cần tây, tỏi tây... Họ đào ao thả cá, xây dựng chuồng trại chăn nuôi gà, vịt, ngan, ngỗng, bò sữa, dê, cừu... Hầu hết sự đầu tư của họ đều đem lại kết quả khả quan. Cái nghèo đói không còn là nỗi ám ảnh thường trực trong cuộc sống người nông dân nữa. Cuộc sống của họ được cải thiện rất nhiều mặt. Bằng chứng là họ xây được những ngôi nhà khang trang, con cái họ được học hành tử tế và trên nét mặt họ không còn in nỗi niềm suy tư, trăn trở.
Khi thiếu thốn về vật chất, chúng ta có thể vay mượn, đền trả bởi tiền bạc là thứ hiện hữu, cụ thể, có thể đo đếm. Người dư dật có khả năng giúp đỡ người kém may mắn hơn mình. Các tổ chức, cơ quan Nhà nước cũng có nhiều chính sách hỗ trợ người nghèo. Mô hình kinh tế của những người nông dân chắc chắn cần rất nhiều vốn đầu tư. Họ phải vay mượn anh em, bạn bè, thậm chí thế chấp nhà cửa, đất đai để vay vốn. Trở lực đó cũng chính là động lực để họ tích cực, hăng say làm giàu. Và khi thoát khỏi sự nghèo nàn, họ có thể hoàn trả phần cả vốn và lãi suất trước đó.
Muốn thoát khỏi sự đói nghèo không dễ nhưng cũng không khó nếu chúng ta có sức khoẻ, có ý chí, quyết tâm và biết tính toán. Nghèo nàn về tâm hồn khó chữa hơn. Người Việt có câu: “Cha mẹ sinh con trời sinh tính”. Tính nết, tình cảm con người hình thành tự nhiên trong quá trình giao lưu, tiếp xúc -với môi trường bên ngoài. Khoa học tâm lí đã chứng minh, khi con người trưởng thành (khoảng 21 tuổi trở ra), nhân cách đã được định hình bởi vậy rất khó có thể thay đổi. Những va chạm trong cuộc sống giúp con người có thêm kinh nghiệm ứng xử chứ không làm tâm hồn con người biến đổi được. Người có tâm hồn phong phú dẫu trong hoàn cảnh ngặt nghèo cũng vẫn lạc quan, yêu đời. Hồ Chí Minh trong những tháng ngày bị giam hãm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch là một ví dụ điển hình. Đọc Nhật kí trong tù, ta bắt gặp nhiều vần thơ mang âm hưởng vui đùa, hóm hỉnh như “Hôm nay xiềng xích thay dây trói, Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung” hay “Đầy mình đỏ tím như hoa gấm, Sột soạt đưa tay tựa gẩy đàn”... Hoàn cảnh tù đày gian khổ không làm người tù cách mạng chán nản mà trái lại, tâm hồn Người vẫn đồng cảm, bầu bạn với thiên nhiên (Vãn cảnh, Vọng nguyệt). Trái lại, người mang sẵn tâm hồn nghèo nàn thì dẫu có sống giữa cuộc đời tươi đẹp cũng không cảm nhận được. Họ không nhìn thấy sự đáng yêu trong nụ cười của em bé, không thích thú cánh diều đang vi vút trên bầu trời, không thấy cầu vồng sau cơn mưa thật lung linh... Với họ cuộc sống chỉ là chuỗi ngày bàn bạc như nhau, không màu sắc, không hương vị. Họ thấy chán nản mà không thể tìm ra được cách thức giải toả. Thậm chí họ thu mình trong những vỏ bọc, trong những chiếc bao như nhân vật Bê-li-côp trong câu chuyện Người trong bao (Sê-khốp).
Cái khó khi chạy chữa căn bệnh nghèo nàn về tâm hồn là ở chỗ tâm hồn không hiện hữu mà vô hình. Khi tâm hồn nghèo nàn, không thể vay mượn, vá víu được. Người giàu tình cảm dẫu có muốn cũng không san sẻ cho người thiếu thốn. Không thể làm cuộc cách mạng lấy tâm hồn ở người giàu có để chia cho người nghèo hơn. Tình cảm, cảm xúc là thứ không thể bắt ép. Người nghèo nàn về tâm hồn không thể thụ động yêu thương, xúc động theo người khác. Mọi sự gò ép chỉ làm họ thêm hằn học với cuộc đời. Đấng thương hơn là bản thân người mắc “căn bệnh” này không tự nhận thấy tác hại do nó mang đến. Cuộc sống đơn điệu, tẻ nhạt là hệ quả tất yếu dẫn đến hệ quả tiếp theo là sự nhàm chán, đơn điệu trong cuộc sống. Không tìm thấy nghĩa lí cuộc đời, con người sẽ không tìm được sự thanh thản, điều đó ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tuổi thọ, công việc...
Câu nói của Mi-sen Ê-ken đơ Mông-te-nhơ hoàn toàn chính xác. Sự nghèo nàn nào cũng làm cuộc sống con người khó khăn nhưng rõ ràng, nghèo nàn về tâm hồn khó chữa hơn rất nhiều.
Nhưng nói như vậy không có nghĩa là không thể khôi phục, xây dựng một tâm hồn phong phú. Các nhà tâm lí đã nghiên cứu và đưa ra một số “đơn thuốc chữa bệnh” cho người nghèo nàn về tâm hồn.
Muốn cải thiện sự nghèo nàn trong tâm hồn, trước tiên, chúng ta phải tự gây dựng cho mình cuộc sống tươi đẹp. Không khó để chúng ta làm những công việc nho nhỏ như cắm một lọ hoa trong phòng, treo một bức tranh lên trên tường, bật đĩa nhạc mà chúng ta yêu thích, nấu những món ăn hợp khẩu vị... Không khó khi chúng ta nở nụ cười với bạn bè, đồng nghiệp. Không khó khi chúng ta gọi điện về nhà hỏi thăm sức khỏe những người thân yêu của mình. Không khó khi chúng ta nhắn một tin nhắn gây dựng quỹ hỗ trợ trẻ em nghèo... Chỉ cần bớt chút thời gian “trang trí” cho cuộc sống của mình, chỉ cần dành thời gian quan tâm đến mọi người xung quanh một chút, ta sẽ thấy cuộc sống này có ý nghĩa hơn nhiều. Cái khó không nằm ở trong mỗi hành động mà ở ý chí thực hiện của con người.
Để bồi đắp cho tâm hồn, chúng ta còn có thể theo dõi, lắng nghe những câu chuyện trong các cuốn sách nhỏ như Quà tặng cuộc sống, Vượt lên chính mình, Phút dành cho cha, Phút dành cho mẹ... đang có trên kệ sách của nhiều nhà sách. Gần gũi hơn là những trang sử, những tác phẩm văn học giàu giá trị nhân văn được lựa chọn giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Đọc và hiểu sâu sắc các bài học đó, chúng ta sẽ trưởng thành hơn trong ý thức, sẽ tự bồi đắp cho mình những giá trị tâm hồn cao quý. sống động hơn là bao tấm gương, bao câu chuyện về lòng vị tha cao cả của những người sống quanh ta. Đó là những câu chuyện về em bé đánh giày nuôi bà nội già ở quê, về chàng thanh niên Nguyễn Hữu An, về những sinh viên tình nguyện mùa hè nào cũng xung phong đi khắp mọi miền đất nước... Lắng hồn mình để suy ngẫm, chiêm nghiệm mỗi câu chuyện đó, đặt mình vào hoàn cảnh mọi người để thấu hiểu họ, từ xúc động chúng ta sẽ muốn hành động. Hành động chính là biểu hiện của sự trưởng thành trong tâm hồn con người.
Một nhà văn nổi tiếng trên thế giới đã nói: “Cái đẹp cứu vớt nhân loại". Thực tế đã chứng minh tâm hồn cao đẹp của mỗi người làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Tự bồi đắp cho tâm hồn mình thêm giàu có, phong phú là việc làm cần thiết của bất cứ cá nhân nào trong cộng đồng này.
"Kính trọng thầy như kính trọng cha” từ lời khuyên trên anh (chị) hãy viết bài văn bàn về sự kính trọng?
Câu trả lời của bạn
Cha mẹ sinh ra ta, vất vả nuôi ta khôn lớn. Thầy cô là người truyền cho ta tri thức, dạy ta làm người. Chính vì vậy, mà chúng ta phải biết ơn và “Kính trọng thầy như kính trọng cha”. Lời khuyên đó đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc ta từ xưa đến nay.
Nếu như cha mẹ nuôi ta lớn lên bằng vật chất thì thầy cô lại nâng đỡ ta bằng tinh thần. Rời chiếc nôi đầy ắp tình yêu thương của cha mẹ, chúng ta bước vào cánh cổng tri thức với vòng tay che chở, nâng đỡ của thầy cô. Không mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày nhưng đối với thầy cô, học trò luôn là những đứa con ngây thơ, hồn nhiên. Mong con khôn lớn, không ngại nắng mưa, thầy cô vẫn hàng đêm miệt mài bên những trang giáo án để hôm sau bước lên bục giảng truyền lại cho chúng em những tri thức mới mẻ. Sự trưởng thành của học trò là niềm vui, niềm hạnh phúc lớn nhất của thầy cô.
Đúng như nhà văn Quách Mạt Nhược (Trung Quốc) từng nói: “Mặt trời mọc rồi lặn, mặt trăng tròn rồi khuyết nhưng ánh sáng tri thức người thầy soi rọi cho ta vẫn còn mãi mãi”. Vì vậy, chúng ta không chỉ kính trọng thầy cô như kính trọng cha mà còn biết ơn sâu sắc.
Kính trọng thầy như kính trọng cha là một lời khuyên, lời dạy vô cùng sâu sắc. Đối với tôi, thầy cô chính là người cha, người mẹ thứ hai của tôi. Thầy cô dạy cho tôi những điều hay, lẽ phải, dạy cho tôi biết yêu thương, biết trân trọng những giá trị của cuộc sống. Như một người lái đò thầm lặng đưa khách qua sông. Khách đi rồi nhưng người lái đò vẫn còn đó, vẫn dõi theo sự trưởng thành của học sinh.
Hôm nay đây, tôi đã là một học sinh trung học, tôi vô cùng biết ơn thầy cô, người đã dạy dỗ tôi trưởng thành. Dù có đi xa nhưng ngôi trường và hình bóng thầy cô luôn hiện lên trong tôi.
Phân tích hàm ý trong bài ca dao sau: "Bao giờ rau diếp làm đình/ Gỗ lim làm ghém thì mình với ta"?
Câu trả lời của bạn
Ca dao dân ca luôn là những tiếng nói ân tình của người lao động được thể hiện một cách nhuần nhị, kín đáo. Cô gái trong ca dao khi diễn tả nỗi nhớ với người mình yêu thương đã nói theo một cách riêng:
Khăn thương nhớ ai?
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai?
Khăn vắt lên vai....
Khăn thương nhớ ai
Và khi không dành tình cảm cho người đang theo đuổi mình thì cũng thật tế nhị:
Bao giờ rau diếp làm đình
Gỗ lim làm ghém thì mình với ta
Câu ca dao dựng lên một sự ngược đời, đối lập đầy hàm ý. Rau diếp là một loại cây nhỏ, cùng họ với cúc, được trồng nhiều chủ yếu làm rau ăn (lá thường được dân gian dùng để ăn ghém). Khi trưởng thành, cây có thể cao khoảng trên dưới 10cm. Gỗ lim là một loại cây thân gỗ cứng, chắc, nặng khả năng chịu lực tốt, không bị mối mọt. Gỗ thường dùng làm cột, kèo, xà... trong các công trình kiến trúc theo lối cổ hoặc làm các đồ gia dụng như giường, phản... Gỗ lim còn có một đặc tính quý nữa là không bị cong vênh, nứt nẻ, biến dạng do thời tiết xấu nên được ưa chuộng trong các công việc làm nhà cửa, lát sàn.
Đây có thể nói là hai loại thực vật đối lập nhau hoàn toàn về hình dạng, đặc tính và công dụng. Vậy mà nhân vật trữ tình trong bài thơ lại đưa ra một hoán đổi. Thứ ra mềm yếu sống bám mặt đất kia có thể thay vào vị trí của “gỗ lim”: làm đình tức làm những thứ như cột, kèo, xà... là bộ xương sống, làm nên kiến trúc ngôi đình. Còn gỗ lim lại được lấy để thay vào vị trí mà rau diếp thường làm: làm ghém. Sự hoán đổi là không thể thực hiện. Cũng giống như nhân vật trữ tình trong một bài ca dao cũng đã nói với bạn mình:
Khi nào trạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình.
Không thể có chuyện trạch, một loài động vốn sống dưới nước lại có thể lên sinh sản ở trên cây cao; cũng như loài chim sáo, chuyên sống trên cây lại có thể xuống dưới dưới nước đẻ trứng. Tất cả thật ngược đời. Tất cả là không thể xảy ra, và không thể có. Thế cũng có nghĩa là không thể bao giờ có chuyện “ta lấy mình” hay “mình với ta” được. Thì ra, người lao động đã dùng tất cả những cái vô lí, những cái không có thực ấy để diễn tả một điều có thực, có lí là: mình và ta không thể kết thành đôi. Cách nói vừa diễn tả một sự thực lại vừa rất tế nhị. Người lao động đã dùng cách nói hình ảnh, đầy hàm ý để nói tránh đi một điều mà chắc chắn khi nhận được nó người nhận không thể không buồn. Hướng tới việc để cho đối tượng của mình tự ngầm hiểu về câu trả lời, dân gian ta xưa đã thật thông minh, hóm hỉnh nhưng cũng không kém phần kín đáo, tế nhị.
Hai câu thơ góp phần gợi mở thêm cho chúng ta niềm tin yêu và sự trân trọng đối với những tâm hồn lao động đầy trí tuệ nhưng cũng đầy truyền thống nhân đạo và nhân văn.
"Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta và gợi cho ta tình cảm cao quý, không cần tìm nguyên tắc nào để đánh giá nó, đó là một cuốn sách hay". Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e?
Câu trả lời của bạn
Giá trị của một tác phẩm văn học là lí do tồn tại của tác phẩm ấy đồng thời là cơ sở để khẳng định tài năng và tâm huyết của người sáng tạo ra nó. Những tiêu chuẩn nào thường được đưa ra để đánh giá giá trị của tác phẩm? Theo quan niệm của nhà văn người Pháp La Bơ-ruy-e thì “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho.ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra”. Vậy cần phải hiểu ý kiến này như thế nào?
Văn học là sản phẩm nghệ thuật bằng ngôn từ phản ánh hiện thực khách quan qua lăng kính chủ quan của tác giả. Khi đến với độc giả, ở từng thời kì khác nhau lại có những cách tiếp nhận khác nhau. Nhưng có thể nói, tất cả đều tựu trung ở những giá trị mà tác phẩm đó mang lại.
Đi vào tìm hiểu ý kiến của La Bơ-ruy-e trước hết cần phải hiểu thế nào là một cuốn sách hay? Đây là một khái niệm cụ thể nhưng cũng được dùng với ý nghĩa chỉ chung cho tất cả các sáng tác văn học nghệ thuật. Có người lấy sự sáng tạo của người nghệ sĩ, lấy sự “phật minh về hình thức và khám phá về nội dung” làm tiêu chí để đánh giá một tác phẩm hay, hoàn thiện; Có người lại lấy nội dung thể hiện cuộc sống, con người trong tác phẩm làm cơ sở xem xét tác phẩm đó như thế nào, có “đáng thờ” hay không?... Còn người nghệ sĩ thực sự, theo họ, phải là người biết đồng cảm với những khổ đau của con người, “tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường; bênh vực những con người không còn được ai bênh vực” (Nguyễn Minh Châu), là người “không có phép thần thông để vượt ra ngoài thế giới này nhưng thế giới này trong con mắt nhà văn phải có hình sắc riêng” (Hoài Thanh)... Cũng có sự gặp gỡ trong tư tưởng và quan niệm, La Bơ-ruy-e cho rằng khi tác phẩm “nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm” thì đó là tác phẩm thực sự, do một nghệ sĩ viết ra. Thực ra cũng không hẳn là “không cần tìm một nguyên tắc nào” khác vì điều mà La Bơ-ruy-e nêu ra xét đến cùng cũng chính là những tiêu chuẩn mang tính hệ quả từ những nguyên tắc đánh giá về văn chương. Mọi tác phẩm đã được coi là có giá trị thì cuối cùng đều hướng tới đích lớn nhất là con người. Đó là việc nâng cao tư tưởng, tình cảm, tức đánh giá tác phẩm dựa vào giá trị nhận thức, thẩm mĩ và giáo dục mà nó mang lại.
Có thể nói, quan niệm của La Bơ-ruy-e là quan niệm đúng đắn được đúc kết từ thực tế sáng tác. Điều hiển nhiên là khi một tác phẩm nghệ thuật đạt được đến những giá trị như La Bơ-ruy-e nói thì nó đã thành công, thế có nghĩa là nó là một tác phẩm, một cuốn sách hay. Và tất nhiên người sáng tạo ra một tác phẩm như thế phải là người có tài năng và tâm huyết, nghĩa là là một nghệ sĩ đích thực với đúng nghĩa của nó.
“Tác phẩm nâng cao tinh thần của ta lên” vì thông qua chức năng nhận thức, văn học cung cấp cho con người hiểu biết về thế giới vật chất và tinh thần. Nắm bắt được quy luật cuộc sống, con người sẽ có thể chủ động hơn trong mọi trường hợp. Thế giới tinh thần không chỉ được nâng cao mà còn được bồi dưỡng và làm cho ngày càng trở nên phong phú.
Bên cạnh đó, thông qua bản chất thẩm mĩ của thế giới thể hiện trong tác phẩm mà văn học giáo dục, bồi dưỡng tình cảm của con người cũng như phát triển những phẩm chất thẩm mĩ tốt đẹp của họ, làm cho họ ngày càng hoàn thiện hơn. “Tham gia vào hoạt động văn chương cho dù là sáng tác hay thưởng thức, người ta đều được “thanh lọc”, ít nhiều sẽ trở nên tốt hơn, nhân ái hơn.Trong thế giới xô bồ ồn ã hiện nay, khi con người ta luôn bị lôi ra bên ngoài, bị cuốn vào đám đông và bị nhu cầu vật chất cám dỗ dữ dội thì thi ca, văn chương lại càng cần thiết” (Nguyễn Văn Hạnh - Ý nghĩa của văn chương)
Văn học dân gian Việt Nam từ xưa đến nay được biết đến như một kho tàng văn hóa của dân tộc, một đời sống tinh thần vô cùng phong phú và đa dạng. Ngay từ thời xưa cha ông ta đã đùng ca dao, dân ca, tục ngữ một cách phổ biến với tư cách là những kinh nghiệm dân gian trong lao động sản xuất, trong đối nhân xử thế, những lời than thân, những tình cảm,yêu thương tình nghĩa. Chúng không chỉ góp phần nâng cao tinh thần mà còn gợi và bồi dưỡng cho ta những tình cảm yêu thương con người, yêu thương đồng loại.
Trước khó khăn vất vả tưởng chừng như có thể gục ngã, ca dao giúp con người trở nên mạnh mẽ. Đó là câu chuyên của “Mười cái trứng” khi tất cả niềm hi vọng, ước mơ của người nông dân dồn vào thứ tài sản quý giá ấy thì bảy quả bị ung, ba quả nở ra ba con:
“Con diều tha
Con quạ bắt
Con mắt cắt xơi"
Người nông dân vẫn đầy lạc quan tin tưởng: “Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”. Mỗi chúng ta tự nhìn nhận lại mình từ đó mà vững vàng, mạnh mẽ hơn trước sóng gió cuộc đời.
Ca dao giáo dục quý trọng thành quả lao động vất vả mới-có được:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”
Ca dao còn là những bài ca ca ngợi tình nghĩa thủy chung thương yêu giữa con người với nhau. Ta bắt gặp trong đó tình yêu mãnh liệt nhưng cũng thật tế nhị:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà”
Bắt gặp tình cảm vợ chồng thủy chung son sắt:
“Rủ nhau lên núi đốt than
Chồng mang đòn gánh vợ mang quang giành
Củi than nhem nhuốc với tỉnh
Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên”
Tình cảm gia đình đằm thắm:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Văn học là sản phẩm nghệ thuật bằng ngôn từ phản ánh hiện thực khách quan
Những bài ca dao ấy gợi lên trong ta thứ tình cảm trong sáng, thủy chung giữa con người với nhau. Đọc ca dao, ta có thêm nghị lực và niềm tin vào cuộc sống mà nuôi dưỡng, phấn đấu cho đời sống tinh thần và tình cảm của mình ngày càng tốt đẹp hơn.
Trong văn thơ trung đại, những bài học giáo dục được tồn tại trong một hình thức văn học quy ước sẵn và vì thế nên cũng mang nội dung quy ước nhất định. Thấy nhiều trong mảng thơ ca giáo huấn, bày tỏ lòng mình, bài học giáo dục mang tính trực tiếp. Thơ ngợi ca thì hào sảng. “Bình Ngô đại cáo” là lời tuyên bố độc lập tự do của dân tộc, khơi dậy trong lòng mỗi người dân Việt Nam niềm tự hào:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc - Nam cũng khác”
Số phận bất hạnh của Kiều (Truyện Kiều - Nguyễn Du) không chỉ giúp chúng ta hiểu hơn về xã hội phong kiến thời bấy giờ cũng như bồi dưỡng thêm những tình cảm con người tốt đẹp: sự đồng cảm, trân trọng, xót thương...
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Truyện “Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu) xây dựng hai hình tượng nhân vật đạp, lí tưởng là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. Tình yêu thủy chung son sắt của Nguyệt Nga một lần nữa bổ sung thêm vào thế giới hình tượng đẹp về người phụ nữ. Còn đức tính hào hiệp “giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha” của Vân Tiên cũng là một điều đấng cho chúng ta học tập.
Với những tác phẩm như vậy, các nhà thơ trung đại như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu,... xứng đáng là những nghệ sĩ lớn.
Bước sang thời kì hiện đại, văn học không chỉ bó mình trong những khuôn mẫu có sẵn mà ngày càng mở rộng và trở nên gần gũi hơn với cuộc sống con người nhưng không vì thế mà làm giảm đi tính giáo dục, thẩm mĩ. Tô Hoài đi vào khai thác thế giới loài vật với những dế mèn, dế chũi, chị bồ nông, anh xén tóc, vợ chồng nhà chuột... gửi gắm sau đó bài học sâu sắc về cách đô'i nhân xử thế giữa con người với nhau, bài học về tình đoàn kết, tinh thần yêu thương đồng loại. Cuộc phiêu lưu của Dế Mèn là một cuộc hành trình vươn tới hoàn thiện mình cả trong suy nghĩ và trong tình cảm, lối sống.
“Mùa lạc” (Nguyễn Khải) là câu chuyện thay đổi cuộc đời con người trong cuộc sống lao động mới. Đào, một người phụ nữ kém may mắn, chịu nhiều bất hạnh cuối cùng cũng tìm thây hạnh phúc của mình trên mảnh đất Điện Biên. Từ chao chát, chỏng lỏn chị trở thành một con người hoàn toàn khác. Chị chỉ mỉm cười bao dung trước những câu đùa của mọi người, bởi vì giờ đây họ đã trở thành những người “nhà trai, nhà gái” của chị. Ta hiểu thêm rằng trong mọi hoàn cảnh, nghị lực sề giúp chúng ta vượt qua tất cả.
“Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) mang đến cho người đọc thông điệp về cái đẹp đích thực. Nghệ thuật không chỉ là khám phá sự vật ở cái bề ngoài mà phải nhìn thấy được cái hiện thực bộn bề nằm ở bề sâu. Đó là chất cuộc sống làm nên giá trị của tác phẩm. Cái đẹp không phải đâu xa lạ mà nằm trong chính những con người đang lăn lộn mưu sinh ngoài kia. Với người vợ chài lưới, điều quan trọng nhất và cũng là lí do để chị hi sinh tất cả những thứ khác đó chính là hạnh phúc và tương lai của những đứa con. Chị chấp nhận những trận đòn roi tàn nhẫn của chồng mà kiên quyết không li dị bởi chị biết trong cuộc sống khốn khổ của họ, anh ta cũng là một người bất hạnh; và cũng còn bởi một lí do khác quan trọng hơn: trên thuyền không thể không có đàn ông cũng như những đứa con của chị không thể không có cha. Người phụ nữ ấy đã nhận hết đau khổ về mình để những người xung quanh mình được hạnh phúc. Biết đồng cảm với số phận bất hạnh của họ, hiểu được ý nghĩa đích thực của cái đẹp trong cuộc sống nghĩa là chúng ta đang làm cho đời sống tinh thần tình cảm của mình phong phú, hoàn thiện hơn.
Giá trị của một tác phẩm cũng như tài năng của người nghệ sĩ thường được đánh giá bằng việc tác phẩm đó khai thác gì, đóng góp gì cho cuộc sống con người cũng như tác động như thế nào đến tư tưởng, tình cảm thẩm mĩ của người đọc trong những thời đại khác nhau. Nhận thức sâu sắc điều này có ý nghĩa to lớn đối với người sáng tác (phải làm sao để sáng tác ra được những tác phẩm được coi là “một cuốn sách hay”) và cả đối với quá trình tiếp nhận của bạn đọc: không chỉ tiếp nhận các giá trị của văn học mà còn cần đưa nó vào trong quá trình tự giáo đục bản thân cũng như ảnh hưởng tốt đến những người xung quanh.
Khi Đan-cô (Trái tim Đan-cô - M.Gorki) móc trái tim mình ra để soi đường cho đoàn người vượt qua cái tối tăm của rừng thẳm để đến với miền đất chan hòa ánh sáng và sự sống, chàng đã dũng cảm nhận lấy sứ mệnh vinh quang nhưng cũng đầy đau khổ của một người dẫn đường. Và từ đó trái tim Đan-cô mãi trở thành một hình ảnh biểu tượng cho những gì cao cả và đẹp đẽ của con người. Văn học đã thể hiện được những giá trị vĩnh cửu của mình mà nói như La Bơ-ruy-e, nó đã “nâng cao tinh thần ta lên, gợi cho ta những tình cảm cao quí và can đảm”...
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *