Bài học giúp các em hệ thống hoá tri thức về cách viết các kiểu văn bản được học ở THPT như: văn tự sự, văn biểu cảm, văn nghị luận,...Nắm được kĩ năng lập luận, diễn đạt trong văn bản nghị luận.
Cách sử dụng và kết hợp các kiểu câu:
Cách xác định giọng điệu:
Để nắm vững kiến thức về phần tập làm văn chương trình Ngữ văn lớp 12, các em có thể tham khảo thêm bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Cuộc sống của bạn dù có khó khăn, thì tôi cũng xin bạn đừng bao giờ đánh mất đi niềm hi vọng. Niềm hy vọng chính là lòng tin và sự lạc quan về một tương lai tốt đẹp cho bản thân. Chính niềm tin và sự lạc quan đó sẽ tiếp thêm cho chúng ta rất nhiều sức mạnh để vượt qua hiện thực khó khăn và khắc nghiệt. Khi chúng ta đánh mất lòng tin, chúng ta mất đi hy vọng về một tương lai tốt đẹp của bản thân. Thì đấy là lúc chúng ta mất đi toàn bộ sức mạnh và nghị lực để sống, để vươn lên trong cuộc sống. Một người lãnh đạo khôn ngoan và tài giỏi phải xây dựng được lòng tin và sự hy vọng cho các nhân viên của mình vào tương lai.
Nếu nói sức mạnh là nguồn năng lượng để chúng ta chinh phục mục tiêu. Niềm tin cũng đơn giản là cảm giác tin tưởng của con người vào điều gì đó. Thì chung quy lại, sức mạnh niềm tin là năng lượng vào sự tin tưởng đạt được mong ước của chúng ta. Cuộc sống mà, chẳng phải khi nào mọi việc cũng suôn sẻ, vì vậy con người phải duy trì niềm tin để không nản lòng, tiến đến thành công. Sức mạnh niềm tin được thể hiện ở sự lạc quan, hướng đến tương lai, đặc biệt ta không coi khó khăn là vật cản mà coi đó là động lực giúp bản thân nghị lực trong mọi sân chơi. Câu chuyện về Thái Bảo Trâm là ngọn đèn lấp lánh trong căn phòng trần ngập ánh sáng của niềm tin. The Voice 2015, đó là cô gái 19 tuổi với thân hình to béo, giọng hát còn khiếm khuyết. Đam mê với âm nhạc có lúc lu mờ, lùi lại với bóng tối, nhưng không, Bảo Trâm không bỏ cuộc như thế. Sức mạnh niềm tin đưa cô vươn lên, ở bên chở che suốt thời gian dài quyết tâm. The Voice 2017, cô trở lại khi đã giảm 20 cân, giọng hát bay bổng, chạm đến trái tim mọi người, Trâm đi từng bước chân tự tin trên sân khấu với sự cảm phục của khán giả và giám khảo, tất cả ánh nhìn đổ dồn về con người ấy. Vậy mới nói niềm tin là động lực mạnh mẽ đưa con người bước qua khó khăn và đến đỉnh vinh quang.
Nói tóm lại, niềm tin trong cuộc sống chính là món quà ý nghĩa và quý giá nhất mà chúng ta đã nhận được từ Thượng Đế. Qua đó, ta nhận ra rằng: niềm tin sẽ là ống kính đắt nhất giúp con người tìm hiểu sự thú vị của cuộc sống. Cầu nguyện cho bạn đủ thanh thản để hiểu rằng niềm tin chính là giọt nước có thể tưới mát cho tâm hồn bạn mỗi khi vấp ngã. Cầu nguyện cho bạn đủ can đảm để biết rằng niềm tin chính là con đường sáng suốt nhất để bạn thực hiện ước mơ. Và cầu nguyện cho bạn đủ tự tin để nhận ra rằng niềm tin chính là người bạn đi theo chúng ta suốt cuộc đời!
Lập giàn ý chi tiết: Nhiều người cho rằng: Tình yêu thương, lòng trắc ẩn có vai trò quan trọng đối với con người, đặc biệt là khi thế giới hiện đại ngày càng lắm thiên tai, dịch bệnh, hiểm họa. Hãy bày tỏ suy nghĩ của em về vấn đề náy và thuyết phục mọi người đồng tình với suy nghĩ đó.
Giúp mình vớiiiiiiiiiiiiiiii, mình sắp phải nộp rồiiiiiiiiiiiii
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Đồng tình: Cuộc sống hiện đại luôn đầy những khó khăn thử thách và khi sốn trong nó, con người buộc phải chấp nhận những mặt tiêu cực và xấu xí mà cuộc sống ấy mang lại.
Không đồng tình: Quan niệm trên còn thiên về cái nhìn bi quan, phiến diện vì cho rằng con người chỉ thụ động hút về mình những tiêu cực, xấu xí trong khi hàng ngày vẫn có những điều tốt đẹp đến với mỗi người.
Câu trả lời của bạn
Một nhà vật lý nổi tiếng đã từng nói: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nâng cả thế giới”. Câu nói này của ông khiến ta thấy rằng trong cuộc sống con người luôn cần cho mình một điểm tựa để thực hiện những ước mơ, hoài bão hay vượt qua những khó khăn, trở ngại. Chính vì vậy, bài thơ Nơi dựa của Nguyễn Đình Thi gợi lên cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ.
“Nơi dựa” (điểm tựa) là nơi để mỗi người nương tựa, là nơi tiếp cho họ sức mạnh, niềm tin, động lực sống, nơi mang lại cảm giác ấm áp, bình yên…. Tuy nhiên, ở khía cạnh tinh thần, cậu bé cũng là nơi dựa cho người phụ nữ, bà cụ cũng là nơi dựa cho người chiến sĩ.
Không ai trong chúng ta có thể tồn tại một mình trên cõi đời này. Chúng ta luôn sống trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội: với gia đình, nhà trường, bè bạn. Chính trong những mối quan hệ đó, con người học tập, làm việc, dần định hình và phát triển nhân cách của mình. Trong cuộc sống, không ai có thể chắc chắn rằng cuộc đời mình thuận lợi mãi mãi. Có thể đến một lúc nào đó công việc của chúng ta sẽ gặp bất trắc, trở ngại. Chính những lúc ấy, ta rất cần tìm cho mình một nơi dựa làm điểm tựa trong đời, để được an ủi, che chở, giúp đỡ, vỗ về nâng bước. Từ đó những thất bại, rủi ro vấp phải sẽ nhanh chóng được vượt qua, con người sẽ có thêm tự tin để bước tiếp.
Như đã nói, bao giờ cũng bắt đầu từ chỗ dựa vững chắc: gia đình. Tình cảm thân thương ruột thịt, sự che chở nâng đỡ cho từng thành viên là điều gia đình không hề thiếu. Cha mẹ luôn ở bên con cái dẫu khi bé thơ đến lúc trưởng thành, động viên con vững bước trên đường đời và có khó khăn gì ta cũng về với cha mẹ đầu tiên. Ngược lại con cái cũng là nơi dựa của cha mẹ, niềm vui của con thể hiện ở nụ cười, nét mặt, ước mong cho con có một cuộc sống tốt đẹp hơn quãng đời mình đã sống là chỗ dựa vững chắc cho cha mẹ vượt qua những trở lực trong công việc. Điểm tựa tiếp theo cho con người chính là nhà trường, bạn bè, chúng ta hoàn toàn có thể yên tâm khi xung quanh ta còn thầy cô luôn dìu dắt, chăm sóc từng ngày, quanh ta vẫn còn bạn bè chia sẻ niềm vui trong học tập, đời sống. Những gì ta khó ngỏ lời cùng cha mẹ, khó cùng bố mẹ trò chuyện có thể trao đổi với thầy cô, bè bạn. Một môi trường học đường thân thiện, tích cực luôn là một không gian lý tưởng cho học sinh phát triển. Điểm tựa trong đời ta đôi khi là những tấm gương sáng, thậm chí những con người bình thường trong xã hội. Thấy những anh xe ôm dám bắt cướp, thấy những suất cơm từ thiện, những tấm lòng dành cho đồng bào nghèo, cơ nhỡ hoặc gặp phải thiên tai, ta có nơi dựa để tin rằng cuộc đời còn nhiều người tử tế. Gặp một hoàn cảnh khuyết tật, gia cảnh khó khăn nhưng biết vươn lên ta biết rằng mình còn là một điểm tựa mà thấy rằng mình còn hạnh phúc hơn bao người khác, vững tin với khả năng chịu đựng và vượt qua mọi thử thách của con người để từ đó phải cố gắng hơn.
Đúng là trong cuộc sống ta rất cần nơi dựa, nhưng đừng ỷ lại, dựa dẫm vào đấy quá nhiều. Cần lên án, phê phán những kẻ sức dài vai rộng nhưng vẫn sống bám vào bố mẹ già, những kẻ không chịu làm gì vì ỷ lại vào người khác. Nên nhớ rằng chỗ dựa chỉ hỗ trợ cho ta bước qua khó khăn chứ không thể làm thay ta mọi điều, hãy hiểu điểm tựa theo ý nghĩa tích cực nhất của nó. Nhắc lại ý trên, ta mới thì dẫu tìm cho mình một chỗ dựa nhưng quan trọng nhất vẫn chính là bản thân con người. Như lúc còn học phổ thông, Louis Pasteur chỉ là một học sinh trung học. Về môn hóa, ông đứng hạng 15/22 học sinh của lớp. Cuối cùng, ông đã trở thành một khoa học gia nổi tiếng. Walt Disney từng bị tòa soạn báo sa thải vì thiếu ý tưởng, từng nếm mùi phá sản rất nhiều lần trước khi sáng tạo nên Disneyland đến việc hợp tác cùng nhau. Chính vì vậy mà con người càng cần phải hợp tác cùng người khác nên mọi lĩnh vực, phải ủng hộ nhau, hợp lực với nhau để đẩy nhanh tiến độ phát triển. Trong thời buổi này không thể đóng khung mình trong chỗ dựa cho mình và lấy mình làm chỗ dựa cho họ, có vậy, chúng ta mới có thể đặt được thành công nhanh chóng.
Lí trí vĩ đại – cuốn sách được thương nhân và chính trị gia xuất sắc nhất của Mĩ đánh giá là cuốn sách đưa quốc này tiến vào thế kỉ XX – đã từng viết như sau: “Nếu mỗi lần vấp ngã, bạn lại bật lên như một quả bóng, khi mọi người đều từ bỏ mà bạn vẫn kiên trì hướng về phía trước thì làm sao bạn có thể thất bại được”. Cuối cùng, nơi dựa vững chắc nhất cho mỗi người vẫn là chính bản thân chúng ta. Nếu con người tự tin, có năng lực, biết tận dụng tốt nhất những gì mình có thì việc khó nhất cũng có thể vượt qua, từ đó đi lên thành công trong cuộc sống.
Tôi đã từng rất tâm đắc câu nói của s. Exupery: “ Nếu trái đất hình vuông thì chúng ta sẽ có các góc cạnh để ẩn náu nhưng vì nó hình cầu nên chúng ta lại phải đối mặt với cuộc đời”. Phải, cuộc sống xung quanh ta có bao giờ luôn đi qua mà không vướng phải những sống gió, những gian nan, thử thách. Con người có bao giờ sống mà chỉ luôn đi qua những giây phút bình yên. Và vì vậy, có những khi chúng ta cảm thấy mình thật nhỏ bé và yếu đuối trước thế giới rộng lớn này. Ấy là lúc ta cần tìm cho mình một “nơi dựa”, một điểm tựa trong cuộc sống. Hiểu được chân lí giản dị mà sâu sắc ấy, mỗi người sẽ tự rút ra cho mình nhửng chiêm nghiệm riêng khi đọc bài thơ Nơi dựa của Nguyễn Đình Thi.
Giản dị thôi, bài thơ vẽ ra hai cảnh trái ngược: một người đàn bà trẻ đẹp “ dắt đứa con thơ trên đường, đứa con chân “ lẫm chẫm”, tay “ hoa hoa một điệu múa kì lạ”, bé chưa nói rõ tiếng vậy mà “ đứa bé còn bước chưa vững chãi lại chính là nơi dựa cho người đàn bà kia”. Thời gian tính bằng đời người trôi qua, em bé lớn lên, thành người chiến sĩ. Người chiến sĩ đã trải qua những cuộc trường chinh, đã đối mặt với cái chết, anh “ đỡ bà cụ già lưng còng”, “bước run rẩy , khuôn mặt già nua”, đã chịu “nỗi cực nhọc gắng gỏi một đời” thế nhưng “ bà cụ bước không còn vững lại chính là nơi dựa cho người chiến sĩ kia đi qua những thử thách”.
Câu chuyện nhỏ nhưng ngụ ý nhiều chiêm nghiệm sâu xa. Một đứa trẻ vô tư, yếu ớt, một bà cụ lưng còng, sức yếu lại trở thành chỗ dựa cho người lớn, cho người chiến sĩ – những con người tuởng như phải mạnh mẽ, vững vàng hơn. Phải chăng, con đường mà họ đang đi chính là con đường đời mỗi chúng ta phải bước, và những “chỗ dựa" không phải mang ý nghĩa vật chất mà toát lên ý nghĩa tinh thần. Thì ra, “ nơi dựa" nhiều khi chẳng phải cái gì lớn lao, to tát mà có khi ở ngay bên cạnh, song hành cùng cuộc đời ta. Đó là những người thân thương, bình dị như cha mẹ, như bè bạn, thầy cô,… Đó là những người sống cùng ta, chia sẻ ngọt bùi, thấu hiểu tâm hồn ta, biết ta muốn gì, cần gì và luôn vun đắp cho hạnh phúc của ta. Nhân vật Nhĩ (Bên quê, Nguyễn Minh Châu) sau một đòi gian truân phiêu bạt mới nhận ra cái “ bến” của cuộc đời mình là Liên, người vợ lặng thầm, tần tảo. Điểm tựa không phải nơi nào xa lạ mà chính là những người thân thuộc bên ta, chứ không phải anh hùng hay vĩ nhân nào khác, họ là người sẵn sàng ghé vai cho ta sự vững tâm, bình yên trong tâm hồn. Triết lí giản dị mà thiêng liêng ấy lại càng trở nên thấm thía và sâu sắc vì nó mang đậm tâm sự, suy ngẫm của đời người.
Trong cuộc sống, có những lúc con người lâm vào bế tắc, có khi rơi vào tuyệt vọng và “nơi dựa” lúc ấy chính là động lục cho con người tiếp tục sống. Sau những đổ vỡ, cơ cục, những thất bại đắng cay, “chỗ dựa” là nơi ta lắng lại tâm hồn mình, nhận ra mục đích cuộc sống của mình thực sự là gì. Đứa trẻ nhỏ là chỗ dựa cho người thiếu phụ không chỉ vì đó là một phần của chị, mà còn bởi nhìn vào đứa trẻ, chị nhìn thấy tương lai của mình, thấy đứa con lớn lên, đẹp đẽ, trưởng thành, thấy dòng máu của mình được tái sinh trọn vẹn. Thì ra, chỗ dựa của chúng ta đâu chỉ là nơi ta đến khi mỏi mệt, nó còn tiếp thêm sức mạnh để ta tiếp tục sổng, tiếp tục yêu thương và dâng hiến cho đời. Câu chuyện trong bài thơ của Nguyễn Đình Thi gợi ta nhớ đến mảnh đời của người anh hùng châu Á Phạm Thị Huệ ( Hải Phòng). Căn bệnh HIV/AIDS bị nhiễm (từ một phút giây lầm lỡ của người chồng) tưởng như đã cướp đi sức sống, tuổi xuân đầy ý nghĩa của chị. Nhưng không, chính nhờ mầm sống đang hình thành trong chị mà chị có thêm niềm tin, nghị lực sống để vượt qua nghịch cảnh. Nếu không có một điểm tựa tinh thần bền vững như thế, liệu con người ấy có thể tiếp tục sống và sống có ích trong khi xã hội vẫn còn chưa hết kì thị với căn bệnh thế kỉ này?
Đọc bài thơ của Nguyễn Đình Thi, người đọc còn thấy ấm lòng về hình ảnh của bà cụ, chính là “nơi dựa” cho người chiến sĩ vượt qua thử thách. Vậy phải chăng, chỗ dựa, điểm tựa trong cuộc sống chính là nguồn sức mạnh, là niềm tin để mỗi người đương đầu với bao gian nan, khó khăn? Trong số chúng ta hẳn không ít người biết đến câu chuyện của Helen Keller- diễn giả Mĩ có tầm ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới. Chúng ta cũng biết bà là người không có khả năng thính giác và thị giác.
Nhưng với sự động viên, khích lệ, giúp đỡ của cô giáo Anne Sullivan, cùng là một người khuyết tật, Helen đã vượt lên trên mọi thử thách của cuộc đời, vượt qua bao khó khăn vì khiếm khuyết cơ thể để sống và thành công tột đỉnh. Đó không phải là một minh chứng tuyệt vời cho ý nghĩa của “nơi dựa” trong cuộc đời hay sao? Nhiều người đã rất xúc động khi xem chương trình “Những trái tim nhân ái” trên truyền hình VTV1. Ở đó từng có một câu chuyện cổ tích giũa đòi thường về ông Trần Thiên Minh – chủ nhân của ngôi nhà bảo trợ những người khuyết tật ở thủ đô Hà Nội. Chẳng ruột rà máu mủ nhưng ông đã tình nguyện trở thành chỗ dựa tinh thần cho hơn ba mươi cô gái sinh ta không may mắn suốt hơn hai mươi năm qua. Và điểm tựa vô giá ấy đã giúp đỡ các cô vượt lên số phận, hoà nhập với cộng đồng, xã hội hôm nay.
Có một chỗ dựa trong cuộc sống để mà sẻ chia, đồng cảm những lúc khó khăn, mỏi mệt sẽ là điều vô giá. Nhưng cuộc sống vẫn luôn cần ta phải tự đứng vững trên đôi chân của chính mình. Nơi dựa chỉ nên là điểm dừng chân của con người để tìm lấy một bến bờ bình yên trong tâm hồn, “chỗ dựa” không thể là nơi ta hoàn toàn dựa vào để lệ thuộc hay thoái lui trước cuộc sống vốn rất nhiều gian nan.
Trong cuộc sống hiện đại, nhiều lúc con người sống cô độc khép chặt mình trong những nhà hộp kín mít, sống mà không cần đến nhau, chỉ cần một chiếc máy tính, máy nghe nhạc là con người có thể tách ra khỏi cộng đồng. Trẻ con ưa “ chat” hơn nói chuyện với cha mẹ, gia đình chỉ đông đủ lúc bữa cơm tối… Phải chăng, con người đang bị cầm tù trong sự cô đơn của chính mình? Và vì thế, các vụ tự tử, cuộc sống chơi bời, thác loạn của nhiều thanh niên ngày càng tăng lên… Rõ ràng, thiếu đi sự sẻ chia, thiếu đi chỗ dựa trong cuộc đời, con người sẽ rơi vào trạng thái chông chênh, vô định, không biết làm thế nào để tiếp tục sống.
Câu trả lời của bạn
a. Mở bài: Giới thiệu vấn đề vấn đề ngại giao tiếp của giới trẻ
b. Thân bài:
Giải thích:
Ngại giao tiếp là gì? Ngạii giao tiếp là suy nghĩ, hành động thiếu tự tin khi giao tiếp, trao đổi với người khác.
=>Tình trạng này khá phổ biến trong giới trẻ ngày nay
Bàn luận:
Biểu hiện của ngại giao tiếp:
Nguyên nhân
Tác hại việc ngại giao tiếp
Giải pháp: Đến các cơ sở y tế đã được khám và chữa bệnh. Không nên sống trong thế giới ảo quả nhiều, phải năng động thường xuyên giao lưu, trò chuyện với mọi người.
Liên hệ bản thân
c. Kết bài
Câu trả lời của bạn
Trong thực thể đẹp nghệ thuật dường như có tất cả mà cũng như không có riêng về một mặt nào của đời thực: quan hệ kinh tế – xã hội, chính trị, triết học, văn hóa, đạo đức, khoa học, nhân cách, lối sống và lời ăn tiếng nói, sự nghiệp vĩ đại và đời thường nhỏ nhặt, thế giới bên trong và mặt cắt bên ngoài, cá nhân và cộng đồng, xưa, nay và mai sau…
Đó là một hiện tượng xã hội sống động, chứa đựng biết bao số phận cụ thể có bản chất “tổng hòa những quan hệ xã hội” rất chung mà cũng rất riêng, rất quen thuộc mà cũng rất mới lạ. Chính thể nghệ thuật là "bản sao" sinh động, toàn vẹn cuộc sống xã hội nhưng đã vượt khỏi nguyên mẫu, lung linh tài năng sáng tạo và thấm đượm "cái tâm” vì con người, vì "người hơn" của quần chúng lao động mà nghệ sĩ là đại diện trung thực. Một tác phẩm có giá trị thẩm mỹ cao là kết quả của sự hòa quyện nhuần nhuyễn ba yếu tố cơ bản: phản ánh chân thực đời sống xã hội, độc đáo, đặc sắc sáng tạo nghệ thuật tình cảm nhân đạo, với ý thức xã hội tiên tiến.
Nhu cầu hướng tới cái đẹp của con người luôn luôn mang tính khẳng định: con người cần phải đẹp "cả khuôn mặt, cả quần áo, cả tư tưởng" (Tsêkhôp), và toàn bộ các quan hệ xã hội với những hoạt động cụ thể của chúng cũng cần phải "theo quy luật của cái đẹp" (Mác). Vì vậy, cái đẹp có quyền tuyệt đối tồn tại phát triển. Cái đẹp là chuẩn mực, thước đo để định giá và định hướng, là lý tưởng thẩm mỹ mang tính phổ biến trong mọi lĩnh vực sống của con người nói riêng, của xã hội nói chung. Chỉ từ cái đẹp người ta mới có thể phủ định cái ác, cái giả, cái cũ. Trong nghệ thuật cái đẹp càng hiện ra đầy đặn, rực rỡ càng cơ sức lôi cuốn, cổ vũ, cảm hóa.
Trước cái đẹp của con người và cuộc sống được mô tả trong tác phẩm nghệ thuật, tình cảm, thị hiếu phán đoán và lý tưởng thẩm mỹ của công chúng được khơi nguồn và rộng mở trực tiếp, chính diện và có ảnh hướng rõ ràng. Cảm thụ cái đẹp là cảm thụ đặc biệt tích cực, khoái cảm trước cái đẹp là niềm hân hoan, sự say mê vừa sâu vừa lâu bền. Thật là lạ, các cụ xưa đắng cay trăm nỗi, thế mà vẫn ngâm ngợi bông sen, con cò, cô Tấm, chàng Thạch Sanh, ông Bụt. Vào những khi xã hội lắm đảo điên, đời người đầy rẫy tang thương, nhân dân trông đợi ở nghệ sĩ không chỉ phê phán thực trạng tăm tối, mà chủ yểu là soi tỏ cho họ niềm tin vào sức sống nhân văn. Những "kết thúc có hậu", "đại đoàn viên" trong văn chương ta xưa dường như là một tất yếu nghệ thuật, một nguyên tắc đạo lý nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội – thẩm mỹ, mà nếu thiếu vắng chúng người ta sẽ mất đi chỗ dựa vững chãi trong cuộc đời thực. Ngay cả những nghệ sĩ hiện thực "phê phán nồng nhiệt" vì "nỗi đau về con người" (Đôbrôliubốp) cũng trăn trở tìm kiếm "con người tốt tuyệt vời" (Dôxtôiepxki), "con người mới" (Tsecnưsepxki), "niềm tự hào về con người", vì nghệ thuật cần "phù hợp với những đứa con của cách mạng" (Xtăngđan). Chính những nghệ sĩ đó đã tiếp nhận tự giác hay chưa thật tự giác tư tưởng dân chủ và xã hội chủ nghĩa của quần chúng lao động, tư tưởng cách mạng trong xã hội đương thời. Không phải không từng có sự trùng khớp sóng đôi giữa sự rung chuyển tận gốc rễ xã hội và nghệ thuật sinh ra để đáp ứng yêu cần của sự rung chuyển đó: Đời sống không hiếm kỳ tích được lập nên do quần chúng tự giác, tự nguyện "gạt phăng hết đời tư nhỏ hẹp" để vươn tới thế giới mới đại đồng. Nghệ thuật nếu tự hào vào đám đông, vì đám đông, đương nhiên phải miêu tả "cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn" (Hồ Chí Minh) cái đẹp – anh hùng, cái đẹp – cao cả trong tầm vĩ mô hơn là dừng lại, đào sâu một bộ phận vi mô riêng lẻ. Đó là trường hợp văn thơ công xã Pari, nghệ thuật xô viết trong cách mạng tháng 10 và Chiến tranh vệ quốc, nghệ thuật Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến vừa qua. Khẩu đại bác tương lai bao nhiêu milimet sẽ nhằm vào ta khi hôm nay ta bắn súng lục vào "thứ văn nghệ ngợi ca" đó.
Giờ đây từ công cuộc đổi mới xã hội sâu sắc và toàn diện những nhân tố mới, những kết quả bước đầu quan trọng, những con người của CNXH đích thực đã xuất hiện và nhân lên mạnh mẽ. Quần chúng tin rằng nghệ sĩ và nghệ thuật sẽ đi cùng chiều và đi trước để ghi nhận, gây men, dự báo, định hướng. Muốn vậy, trước hết, nghệ sĩ phải có con mắt tinh đời nhìn thấy những cái mới mẻ. Nhưng sẽ không đơn giản một chút nào khi nhận thức và phản ánh cái mới, cái đẹp trong xã hội. Nhất là con người ngày nay năng động, cởi mở, nhảy vọt về tất cả mọi phương diện sống của nó, từ hoạt động thực tiễn, lối sống, nhân cách, lời nói đến ý thức, tư tưởng, tâm lý, tình cảm…
Tất nhiên, những thực thể hiện đại đó cũng phức tạp hơn, đa dạng hơn, nhiều ngõ ngách mê cung, nhiều nghịch lý “cái không thể trở thành cái có thể". Ở đây, sự hoạt động của cái đẹp, cái tốt, cái thật, cái mới không đứng ngoài những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của con người và xã hội. Đó chính là sự vận động của mọi cái đang tồn tại, những bước nhảy vọt của sự gián đoạn tính tiệm tiến, sự chuyển hoá thành mặt đối lập, sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới, như Lê nin đã nói. Vì vậy tách rời, cô lập cái mới, cái đẹp, cái tốt ra khỏi mối liên hệ môi trường khách quan quy định chúng và cơ thể tự vận động, phát triển chủ quan của chúng thì chúng chỉ là một cái xác thậm chí, một quà tặng vô duyên đối với công chúng. "Tơ hồng” cũng có nghĩa là “đánh lừa", dù xuất phát từ ý định thành thật biểu dương, ca ngợi đến mức nào.
Dự cảm, dự báo không phải là độc quyền hay ưu thế tuyệt đối của riêng nghệ thuật. Và cũng như bất cứ tư tưởng khoa học tiên tiến nào, nó là cái vốn có của ý thức thẩm mỹ chân chính khi nghệ sĩ nhận thức và phản ánh đúng đần những điều trông thấy trong đời sống xã hội và xu hướng biến đổi tất yếu khách quan của nó. Nghệ thuật không chỉ tiên đoán, dự báo về sự nảy sinh, phát triển và chiến thắng của cái mới, cái đẹp mà còn dự đoán quá trình cái cũ, cái xấu sẽ tàn lụi, mất đi dù hôm nay nó đang hoành hành. Tính đi trước của tư tưởng khoa học ở chỗ chỉ ra con đường thực tiễn và cái đích, đi tới của sự phát triển xã hội do nắm bắt được những nhu cầu đã chín muồi của đời sống hiện thực, vì vậy, nó có ý nghĩa lớn lao trong việc hướng dẫn tổ chức và giáo dục quần chúng lao động và các lực lượng tiến bộ giải quyết những nhiệm vụ mới do chính đời sống thực tiễn đề ra. Còn nghệ thuật lại hình tượng hóa dự cảm để bộc lộ cụ thể, sinh động lý tường thẩm mỹ, trong đó cái đẹp cần có sẽ có vai trò trung tâm, hạt nhân hợp lý, tập trung và chi phối toàn bộ dự cảm nghệ thuật. Trong dự cảm này chất tư tưởng khoa học tiên tiến về những quan hệ xã hội vừa là cơ sở khách quan trực tiếp vừa được hoà tan vào chất thẩm mỹ của cái đẹp được diễn tả. Đối với công chúng, dự cảm nghệ thuật đem lại chân lý, niềm tin của sự vươn tới về cái đẹp, gợi mở và thôi thúc hiện thực hóa nó thông qua sự tự thanh lọc, tự đồng hóa bằng chất men tình cảm và ý thức xã hội của chủ thể thường thức.
Xét ở góc độ thẩm mỹ, cái đẹp trong nghĩa đầy đủ và sâu sắc nhất của nó dường như là cái cốt lõi của nhân bản, gốc rễ của chất người, bởi vì con người sáng tạo thế giới và sáng tạo mình "theo quy luật của cái đẹp". Những cái đẹp người và cái nhân bản không phải là cái thuần túy trừu tượng, phi xã hội – lịch sử do bản chất hiện thực của con người là một chỉnh thể "tổng hòa mọi quan hệ xã hội". Từ đó, cái đẹp nhân bản không thể không gắn bó chặt chẽ với tất cả những gì tác động qua lại với con người: đời sống kinh tế – xã hội, chính trị, văn hóa, tư tưởng,… của một giai đoạn và thời đại của từng cộng đồng và tập đoàn xã hội nhất định và cả những điều kiện sống riêng của từng cá nhân, cá thể nào đó. Xét cho cùng, cái nhân bản, cái đẹp xã hội luôn mang tính cụ thể “chịu nhiều sự quy định" rất cụ thể, rất lịch sử và do đó chúng cũng biến đổi, phát triển trong sự phát triển chung toàn xã hội. Một xã hội thực sự cố tính loài, có nhân bản chỉ có thể tìm thấy ở xã hội cộng sản chủ nghĩa với bước đi ban đầu của nó là xã hội chủ nghĩa. Do chính là thế giới của chủ nghĩa nhân đạo, nhân bàn thực sự, của "chủ nghĩa cộng sản” với tính cách là sự xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu như là sự tự tha hóa của con người, và do đó coi như sự chiếm hữu một cách thực sự bản chất con người bởi con người và vì con người do đó, coi như việc con người xã hội, nghĩa là có tính chất người – sự quay trở lại này diễn ra một cách có ý thức và có giữ lại tất cả sự phong phú của sự phát triển đã đạt được" (C.Mác). Prômêtê và Sơn Tinh, Anna Karenina và Thúy Kiều là nhân loại đang đi tìm cái toàn nhân loại trong từng nấc thang nghiệt ngã của sự tiến triển lịch sử – cụ thể. Những Sêchxpia, Huy gô, Bandăc, Lêôna đơ Vanhxi, Beethoven, Tônxtôi, Goriki, Nguyễn Du không phải là những nhà nhân đạo chủ nghĩa của thế kỷ XXI, mà là những đại biểu khổng lồ đấu tranh cho lý tưởng nhân bản trong những không gian và thời gian đương đại của họ, và chính vì vậy họ trở thành bất tử, vĩnh hằng trong dòng đời vô tận. Gần đây, người ta đã đội đánh "chất người muôn thuở" đứng trên mọi xung đột xã hội để đánh đồng, đánh lộn, xóa sạch những cái vốn có ranh giới rõ ràng và đối lập trong mọi mặt của đời sống hiện thực. Người ta cũng treo biển "xem xét lại số phận và thiên chức con người" để mơn trớn, kích động những cái thấp hèn mà con người đích thực đang loại trừ hoặc co rút vào "bí ẩn vũ trụ riêng" để nhấm nháp, vuốt ve những mảnh tâm hồn tủn mủn, lạc lõng, thiếu hẳn một giá trị xã hội – thẩm mỹ cần thiết. Rút cục lại tất cả những cái mà người ta mệnh danh là "phát hiện", trở lại mình và "sáng tạo mới" trên đầy thực ra chỉ là sự vơ vào và nhai lại những "của nợ" mả cả lịch sử xã hội lẫn lịch sử nghệ thuật đã thải bỏ.
Trên tinh thần nghệ thuật hướng tới cái đẹp, cái nhân bản giá trị nhận thức – cảm hóa thẩm mỹ của nghệ thuật không loại trừ yêu cầu mô tả cái xấu, cái không nhân bản cái đối lập với cái đẹp và cái chất người. Trong những hoàn cảnh lịch sử nhất đinh và do yêu cầu phê phán xã hội, đối với một số nghệ sĩ nào đó, cái xấu được phản ánh, mô tả trực tiếp và gần như là duy.nhất (như Gôgôn, Vũ Trọng Phụng đã làm). Ở đây, cái xấu, cái ác được mô tả là cái chướng ngại của sự phát triển con người, thù địch với những gì là chất người dù ở một phạm vi sinh hoạt nhỏ nhất của nó. Những cái xấu, cái ác, dù ma quái "hấp dẫn", hoành hành ngang nhiên hay ẩn náu giấu mặt đến thế nào chăng nữa rút cục cũng không thoát khỏi định mệnh sòng phẳng là bị tiêu diệt, do mâu thuẫn bên trong của nó, do áp lực và sự trừng phạt của cái đẹp, cái tốt, cái mới. Chính nghệ thuật quá khứ, từ bi kịch cổ đại đến chủ nghĩa hiện thực phê phán đã thấm đượm tinh thần nhân đạo chiến đấu đến cách nhìn mang những nhân tố phủ định biện chứng nhất định.
Mô tả, phản ánh cái " không phải là chết người", nếu chỉ dừng lại ở hiện tượng bên ngoài, đơn giản, hoặc thổi phồng quá khích, tuyệt đối hoá như một tai họa vĩnh cửu, một bản chất duy nhất của xã hội với cái tâm thương vay hoặc thù hận, thì chỉ đem lại cho công chúng sự nhận biết hời hợt vô bổ, "lo âu" buồn nôn và “tuyệt vọng" trước cuộc sống đang cần phải vượt lên. Bôi đen thực chất là vi phạm tính chân thực nghệ thuật và tính chân thành của nghệ sĩ. Gốc rễ của thứ "sáng tạo bóng tối" này là cách nhìn đời qua tấm kính của một "linh hồn chết" không mảy may niềm tin vào con người với tư cách là chủ thể quyết định vận mệnh của chính nó và vì nó. Cơn khủng hoảng hiện nay của không ít khuynh hướng nghệ thuật tư sản là sự chối bỏ chúng của đông đảo quần chúng Phương Tây là một điều có thể cắt nghĩa được.
Quan điểm phê phán của chủ nghĩa nhân đạo đích thực bao giờ cũng gắn liền với sự xem xét thế giới trong tính cụ thể lịch sử, trong tính phát triển, đổi mới và cách mạng. Việc định rõ bản chất, cấp độ và phạm vi của cái xấu, cái ác cái giả có ý nghĩa nhận biết và cảm hóa rất cụ thể, rất thực tiễn đối với quần chúng. Một sự mô tả và phê phán cái xấu bằng cặp mắt tùy tiện, trùm lấp hay mơ hồ sẽ không ra khỏi tầm nhìn của anh chàng Chí Phèo chửi cả làng Vũ Đại nhưng ai cũng nghĩ "nó chừa mình ra". Có hành động dại dột, lỗi thời vì chúng sinh đau khổ của hiệp sĩ Đôn Kihôtê, có bệnh tâm thần của giai cấp cầm quyền lây lan đến tận tâm não anh cùng đinh A.Q có thời Ôblômôp và nhân cách cửa những linh hồn chết, có lão keo kiệt Grăngđê và người hùng hãnh tiến Saclơ, có Nghị Quế và có Xuân tóc đỏ, có Quỷ Mephixto và có bệnh sĩ của cậu giáo Thứ… Sự đa dạng, phong phú, phức tạp trong mô tả cái xấu cũng từ bản chất và cấp độ, phạm vi và vị trí của chính nó trong cuộc sống mà ra. Trước cái xấu được nghệ thuật trình diễn, quần chúng sẽ có được những gam cảm xúc tương ứng, hoặc căm giận, hoặc "vui vẻ tiễn biệt quá khứ" (Mác) hoặc “buồn bực đức hạnh" (Hêghen). Cuối cùng là, khi cảm nhận cái xấu, nhân dân ta nên cao hơn cái xấu và hướng tới cái tốt, cái đẹp. Nghệ thuật phán xét cái xấu một cách đúng đắn chính là "bông hoa của văn minh, rau quả của tinh thần xã hội phát triển" (Biêlinxki).
Con đường nghệ sĩ tiếp cận cái đẹp trong đời thực và đưa nó vào nghệ thuật là không đơn giản. Điều đó đòi hỏi năng lực toàn diện của nghệ sĩ. Vấn đề là ở chỗ: Công chúng khi tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật không thể "chỉ thấy tối sầm” mà phải có được ánh sáng để "nhảy qua bóng tối" đi tới cuộc sống cần có. Thật là buồn phiền, mấy năm trở lại đầy, nền nghệ thuật của chúng ta lặn ngập quá sâu vào đời thường mà hiệu quả xã hội của nó thật ít ỏi. Những bông hoa nghệ thuật chưa mọc lên rực rỡ, tác giả có tầm cỡ chưa xuất hiện. Công chúng nghệ thuật vẫn chờ đợi và vẫn tin rằng xã hội của chúng ta, với những xúc cảm lớn nhất định sẽ kết tinh được các giá trị nghệ thuật xứng đáng với cuộc đời.
Loài người chúng ta, từ thời “ăn lông ở lỗ” đến xã hội văn minh ngày nay, lúc nào cũng được sự che chở của “mái nhà thiên nhiên” mà sống vui, sống khỏe và phát triển không ngừng. Cho nên nói đến thiên nhiên ta cảm thấy nó rất gần gũi thân thương. Bởi “thiên nhiên là người bạn tốt của con người. Con người cần yêu mến và bảo vệ thiên nhiên”.
Chân lý ấy đã được khẳng định hùng hồn qua thực tế cuộc sống của con người chúng ta.
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu thiên nhiên là gì? Thiên nhiên là tất cả những gì ở bên ngoài con người, xung quanh con người, không do bàn tay của con người làm nên. Thiên nhiên còn là bầu trời, là rừng, là biển, là sông, là suối, là cây cỏ, chim muông… Tất cả những thứ đó luôn luôn ở bên cạnh con người để bảo vệ và giúp ích cho con người.
Từ bao đời nay, thiên nhiên là nguồn sống vô tận của con người: cơm, gạo, thịt, cá, cây trái, nhà để ở, nước để uống, quần áo để mặc, khí trời để thở… đều do thiên nhiên cung cấp. Con người càng lúc càng văn minh, càng tiến bộ đã tự mình tạo nên nhiều sản phẩm. Muốn làm được những điều ấy, con người rất cần sự giúp đỡ của thiên nhiên, từ đó ta lại càng thấy sự ích lợi của thiên nhiên nhiều hơn. Xưa kia con người cần mặt trời chỉ để sưởi ấm và chiếu sáng nay con người cần mặt trời để làm nguồn năng lượng quan trọng trong sản xuất và đời sống. Rừng xanh giờ đây không chỉ là nguồn lâm sản dồi dào với những cây gỗ quý, những cây thuốc chữa bệnh mà còn là nguồn điều hòa lũ lụt, là lá phổi khổng lồ để cho con người hít thở. Những dòng thác gầm réo, những con suối trong mát, những dòng sông cuồn cuộn chảy không chỉ là một bức tranh phong cảnh mà còn là con đường giao lưu, nguồn thủy sản, hơn thế nó còn là nguồn cung cấp điện năng khổng lồ.
Hơn nữa, thiên nhiên còn rất cần cho đời sống tinh thần của con người. Sau những ngày tháng làm việc vất vả cực nhọc trong phòng làm việc, trong nhà máy, ở trong thành phố chật hẹp đầy khói bụi, con người đến với thiên nhiên sẽ cảm thấy vô cùng sảng khoái, thiên nhiên sẽ giúp con người tái tạo lại sức khỏe, niềm vui sống và nhiệt tình lao động. Đôi khi được nhìn ngắm màu xanh của lá, nghe tiếng suối róc rách bên rừng, vui đùa trên bãi biển cũng đã khiến cho tâm hồn con người lấy được sự thư thái và thanh thản. Nhìn đóa hoa nở, ngắm cảnh chân trời, con người cũng có thể cảm nhận một niềm vui lớn quên hết những phiền muộn ưu tư. Chính thiên nhiên đã làm cho tâm hồn con người trở nên cao rộng mênh mông như trời như biển.
Vẻ đẹp của thiên nhiên còn đem đến cho con người khát vọng suy nghĩ về cái đẹp và sáng tạo nên cái đẹp cho mình. Cái đẹp của một cảnh bình minh, một cảnh hoàng hôn… làm xao xuyến bao nghệ sĩ để tạo nên thơ, ca, nhạc, họa. Nhà khoa học từ thiên nhiên mà rút ra những quy luật của sự sống để từ đó mà sáng tạo nên những công trình phục vụ cho cuộc sống con người. Thiên nhiên quả là nguồn sáng tạo của thơ ca nghệ thuật, là nguồn nghiên cứu phát minh của khoa học kĩ thuật.
Thiên nhiên có ích như thế, cần thiết với con người là thế. Cho nên từ xưa con người đã yêu mến và bảo vệ thiên nhiên như người bạn quý. Văn chương nghệ thuật bao giờ cũng trân trọng yêu quý thiên nhiên. Các nhà hội họa, nhà văn, nhà thơ, các nhạc sĩ đều dành cho thiên nhiên một tình cảm đặc biệt… Những bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ đã nâng giá trị vốn có của thiên nhiên lên một bậc. Đọc thơ của các thi sĩ ta càng thấy thiên nhiên muôn màu, muôn vẻ. Nguyễn Trãi thì:
"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yến im nặng vạy then”
Còn Nguyễn Du lại là:
“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng."
Đọc thơ Hồ Chí Minh ta lại thấy thiên nhiên thực sự là con người, là bạn đồng tâm, đồng chí, từ ánh trăng qua cửa sổ phòng giam hay núi rừng Việt Bắc, đến bóng cây cổ thụ, nhành hoa, tiếng suối giữa rừng đêm.
"Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa"
Mỗi chúng ta ai cũng hiểu được sự cần thiết của thiên nhiên trong cuộc sống của con người, thì phải có ý thức bảo vệ, giữ gìn thiên nhiên như một người bạn quý. Cho nên hơn lúc nào hết, chúng ta hãy thực hiện cấp bách nhiệm vụ “Hãy bảo vệ thiên nhiên” để tạo cho mình một cuộc sống tốt đẹp trong bầu không khí trong lành của thiên nhiên.
Câu trả lời của bạn
Từ khi có trái đất, loài người đã sinh sống được nhờ môi trường thiên nhiên xung quanh mình. Bầu không khí trong lành, nguồn nước mát và đặc biệt là màu xanh kỳ diệu của muôn cây lá khác nhau. Vì vậy nhân dân ta đã có câu “rừng vàng, biển bạc” để khẳng định giá trị của rừng và biển. Trong bài này, ta thử bàn bạc, tìm hiểu về rừng và nạn phá rừng sẽ dẫn đến điều gì?
Một số người không tin rằng: tàn phá rừng là tự thắt cổ mình, vì sự tàn phá đó chính là sự tàn phá môi trường sinh thái, tàn phá môi trường sống của chính mình. từ xưa đến nay, rừng, lá phổi xanh của con người có vai trò rất quan trọng để duy trì sự sống, để người hít thở sử dụng… Hiện nay, nạn phá rừng đang là mối lo cho các nhà sinh thái.
Trong thực tế, ai cũng biết rừng là nơi cung cấp nguyên liệu làm giấy, xây dựng nhà cửa và vật dụng trong gia đình. Thậm chí, phút cuối cuộc đời cũng nằm trong mấy tấm gỗ của rừng cây. Rừng còn là kho dược liệu vô cùng quý giá thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Rừng còn là nơi sinh sống, trú ngụ cho biết bao loài động vật, côn trùng khác, là nơi tạo ra… vô số các loài quý hiếm. Rừng phục vụ cho du lịch, là nơi nghỉ mát, nơi cắm trại lý tưởng cho mọi người… Rừng cần cho cuộc sống biết nhường nào. Nhưng quan trọng hơn hết rừng chính là môi trường sinh thái, là môi trường sống cho loài người. Các quá trình quang hợp của cây xanh liên tục xảy ra, hít khí cacbonic CO2 vào để rồi tạo khí Oxi – một thứ khí rất cần thiết cho cuộc sống. Đơn giản hơn, rừng chính là 1 “nhà máy lọc bụi tối tân nhất” mà chưa có 1 nhà máy nào trên thế giới có thể sánh nổi. Rừng điều tiết khí hậu. Rừng là lá chắn vững chắc nhất, là rào cản đầu tiên trước mọi biến động của thiên tai. Rừng cản lũ, cản lụt, rừng chống sa mạc hóa, rừng ngăn cát lấn đất, rừng giữ đất, nước… Khi đã hiểu được vai trò của rừng đối với môi trường sinh thái ta mới cảm nhận được hậu quả tai hại của việc làm tàn phá rừng. Có thích thú gì đâu khi đứng trên sa mạc cát nóng rát cháy cả đôi chân, đôi môi thì khô khốc, đắng cả miệng khắp nơi chỉ thấy có gió và cát bụi bay mịt mù. Lúc đó sao mà thèm một mảng xanh mát, một bóng râm, một vũng nước trong để có thể dừng chân nghỉ ngơi. Hoặc cảm giác chán chường khi thấy 1 ngọn núi toàn là đá, (có cây đâu mà giữ đất). Nguy hiểm hơn cả là vấn đề khí thở. Hằng ngày trên thế giới có biết bao nhiêu là nhà máy thải khí độc vào bầu khí quyển, biết bao bụi bặm trên các đường phố, biết bao con người đang chia nhau từng hớp không khí ô nhiễm dưới cái nắng chang chang, xung quanh chẳng có 1 tí bóng râm nào, chỉ toàn là khối bê-tông xám xịt, cao ngất che lấp cả bầu trời. Nếu vắng bóng rừng 1 khoảng thời gian dài, thì cả trái đất sẽ khô cứng lại, và cả nhân loại sẽ chết dần chết mòn. Lúc ấy, dẫu nhà cao cửa rộng, dẫu vàng bạc chất chồng, con người chỉ mong một cách rừng bạt ngàn xưa kia. Còn nữa, rừng vốn để chống thiên tai, bây giờ mất rừng rồi, mọi tai hoạ trước kia ít gây thiệt hại, nay bỗng chốc trở thành đại hoạ. Lũ lụt, sa mạc hoá, hạn hán, bão lụt xảy ra khắp nơi. Ngay thời điểm bây giờ, ở nước ta, lũ lụt và bão đang hoành hành ở nhiều nơi nguyên do cũng tại phá rừng. Thêm vào đó, thú rừng chẳng còn nơi sinh sống, sự đa dạng sinh học mất dần, nhiều loài động thực vật rơi vào tình trạng tuyệt diệt. Nếu thiếu rừng, thì còn gì là kho thuốc vô tận của thiên nhiên, lấy đâu ra nguyên vật liệu để phục vụ cho các ngành sản xuất, lấy gì làm chỗ nghỉ ngơi. Trước hiểm hoạ đó, con người phải làm gì? S.O.S báo động toàn thế giới. Đã đến lúc ta phải bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái.
Hội nghị quốc tế thượng cũng họp chỉ để bàn về 1 vấn đề duy nhất: bảo vệ môi trường. Uỷ ban bảo vệ môi trường sinh thái bằng nhiều cách khác nhau. Đó là vấn đề chung của toàn nhân loại. Riêng cá nhân ta, ta phải làm gì? Quá rõ: giảm thiểu việc khai thác rừng ngăn chặn triệt để việc phá rừng bừa bãi, bảo vệ rừng tốt hơn trong việc bảo vệ rừng. Không quá trễ để ta thực hiện nhiệm vụ bảo vệ rừng. Nhưng cũng không quá sớm để báo động về việc các cánh rừng đang biến mất khỏi trái đất. Chúng ta phải cùng nhau bảo vệ rừng, không để “nước đến chân mới nhảy”, lúc đó là quá muộn, con người đã tự giết mình.
Vậy “Tàn phá rừng chính là tự thắt cổ mình”, tự hủy hoại cuộc sống của chính chúng ta và cả một thế hệ tương lai.
Câu trả lời của bạn
Đối với học sinh Trung học cơ sở (THCS), môn Âm nhạc là một trong những phương tiện hiệu quả để thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức, thẩm mĩ nhằm góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh, tạo cơ sở hình thành nhân cách con người. Âm nhạc trong trường THCS với tư cách là một môn học có mục đích giáo dục văn hoá âm nhạc cho học sinh nhằm trang bị cho các em những kiến thức cơ bản, bước đầu hình thành khả năng cảm thụ, hiểu và thể hiện nghệ thuật âm nhạc, khơi dậy ở các em những khả năng sáng tạo trong hoạt động âm nhạc, củng cố thêm về tình cảm đạo đức, về niềm tin thị hiếu nghệ thuật và nhu cầu âm nhạc.
Nếu ở con người, nhu cầu về thẩm mĩ là nhu cầu tinh tế và cao quý; ý thức về cái đẹp, cái hay là ý thức có tính nhân loại cao thì trong cấu trúc nền giáo dục phổ thông hiện đại, giáo dục thẩm mĩ nói chung và giáo dục âm nhạc nói riêng, phải là bộ phận mang tính đặc thù, có cấp độ cao tương xứng với nó. Ở trường phổ thông, các môn học khác đều được xây dựng và lấy tác động hình thành nhân cách học sinh theo hướng chủ yếu: từ trí tuệ đến tình cảm, thì ngược lại, môn học Âm nhạc lại được xây dựng, lấy tác động hình thành nhân cách học sinh theo hướng chủ yếu: trực tiếp từ tình cảm đến trí tuệ, tạo ra một sự kết hợp hài hòa, và do đó, nó là môn học không thể thiếu được.
Mục đích giáo dục âm nhạc bao gồm những mục tiêu yêu cầu giáo dục cụ thể, là sự phản ánh kết quả mong muốn sau một quá trình giáo dục - dạy học. Kết quả ấy cũng chính là mô hình hay kiểu nhân cách cần hình thành, kiểu tập thể cần xây dựng ở học sinh thông qua môn học âm nhạc. Giáo dục âm nhạc là một hình thức giáo dục nghệ thuật mang tính đặc thù. Nó có khả năng liên kết, sử dụng cũng như hỗ trợ, xen lồng vào tất cả các hình thức nội dung giáo dục khác làm cho chúng đạt đến hiệu quả cao trong việc thực hiện những yêu cầu mục tiêu giáo dục. Nhưng với nhiệm vụ, chức năng chủ yếu của mình, giáo dục âm nhạc trước hết thể hiện mục tiêu, yêu cầu giáo dục nổi trội của mình là giáo dục thẩm mĩ. Nắm vững mục đích nổi trội này là một yêu cầu hết sức quan trọng. Nhưng để thực hiện trên thực tế có kết quả mục đích yêu cầu giáo dục này lại đòi hỏi phải tìm hiểu, nắm vững bản chất đặc trưng của nghệ thuật âm nhạc.
Mục tiêu và nhiệm vụ của môn âm nhạc ở trường THCS là trang bị cho học sinh một số kiến thức về kỹ năng ca hát, đọc và nghe nhạc; về lý thuyết âm nhạc ở mức độ đơn giản để một chừng mực nào đó, các em có thể tham gia vào các hoạt động âm nhạc của cộng đồng. Hình thành cho học sinh những hiểu biết sơ đẳng về cái hay, cái đẹp trong nghệ thuật âm nhạc, về ý nghĩa tác dụng của âm nhạc với đời sống, đồng thời mở mang vốn hiểu biết về truyền thống âm nhạc dân tộc Việt Nam, tinh hoa âm nhạc thế giới, góp phần bồi dưỡng tình cảm, đạo đức, trí tuệ, tạo không khí vui tươi lành mạnh, làm phong phú thế giới tinh thần nhằm phát triển hài hòa, toàn diện nhân cách học sinh.
Môn âm nhạc ở trường THCS gồm nhiều phân môn như: Âm nhạc thường thức, Học hát, Tập đọc nhạc. Mỗi phân môn có một vai trò nhất định. Ví dụ, với phân môn Học hát: Hoạt động ca hát có vị trí quan trọng trong đời sống con người; bài hát phản ánh một cách hình tượng những khái niệm sâu sắc về cuộc sống, thiên nhiên, con người và tất cả các mối quan hệ, tư tưởng, tình cảm. Hoạt động ca hát ảnh hưởng trực tiếp đến con người bằng tác động của âm nhạc và lời ca. Giọng hát không chỉ là phương tiện thể hiện cảm xúc suy nghĩ của người hát mà còn khơi dậy ở người nghe những cảm xúc tương ứng, những hiểu biết nhất định đem lại sảng khoái thẩm mĩ; sức diễn cảm của giọng hát cùng những cử chỉ, thái độ, nét mặt phù hợp rất thu hút học sinh. Nó khơi dậy ở học sinh những cảm xúc hướng tới chân - thiện - mỹ. Ca hát là một hoạt động quan trọng, bản chất của nó là thông qua luyện tập giúp học sinh có tinh thần sảng khoái và tạo cho học sinh có những ước mơ tươi đẹp. Chẳng hạn, khi nghe bài hát “Ngày đầu tiên đi học”, trong lòng học sinh trào dâng một cảm xúc êm đềm về tình mẹ, về kỉ niệm tuổi thơ…
Nội dung môn Âm nhạc ở trường THCS được tiến hành thông qua ba phân môn: Học hát; Nhạc lý - Tập đọc nhạc và Âm nhạc thường thức. Học hát là trọng tâm, Nhạc lý - Tập đọc nhạc là cơ sở và Âm nhạc thường thức làm nhiệm vụ nâng cao nội dung giảng dạy âm nhạc ở trường THCS.
Phân môn Nhạc lý - Tập đọc nhạc: giúp học sinh nhận biết những kí hiệu ghi chép âm nhạc đơn giản, thông thường nhất. Có khái niệm về yếu tố cơ bản của âm nhạc như cao độ, trường độ, giai điệu, tiết tấu, sắc thái...và giới thiệu sơ lược về cung, quãng, gam, giọng... đồng thời hướng dẫn các em đọc các bài nhạc chủ yếu ở giọng Đô trưởng hoặc La thứ, áp dụng các loại nhịp thông dụng với các âm hình tiết tấu đơn giản và những giai điệu dễ đọc.
Phân môn Âm nhạc thường thức: học sinh được nghe nhạc có dẫn giải các tác phẩm, qua đó giới thiệu một số tác giả tiêu biểu của âm nhạc Việt Nam và thế giới, một số nhạc sĩ Việt Nam được giải thưởng Hồ Chí Minh, một số nhạc sĩ quen thuộc với lứa tuổi học sinh và một vài nhạc sĩ thuộc trường phái cổ điển và lãng mạn phương Tây, giới thiệu một vài nhạc cụ dân tộc và nhạc cụ phương Tây phổ biến, giới thiệu sơ lược về dân ca Việt Nam, một số sinh hoạt âm nhạc dân gian, dân ca một số vùng miền tiêu biểu, một vài thể loại âm nhạc phổ biến, đôi nét về sáng tác âm nhạc cho thiếu nhi, tác dụng và ảnh hưởng của âm nhạc trong đời sống xã hội...
Như vậy, về tác dụng của âm nhạc đối với học sinh trong nhà trường là điều không thể phủ nhận. Cái đích cuối cùng của mục tiêu và nhiệm vụ môn Âm nhạc trong trường THCS là tạo nên một trình độ văn hóa âm nhạc nhất định. Trình độ văn hóa phổ thông hay trình độ học vấn phổ thông ở bậc THCS là do tất cả những hoạt động giáo dục và các môn học tạo dựng nên, trong đó có môn Âm nhạc.
Giáo dục nghệ thuật mang trong nó nội hàm rất rộng như chính đặc điểm tồn tại của nội dung khái niệm nghệ thuật. Nghệ thuật sinh ra như một đòi hỏi tất yếu của xã hội, như một thể hiện, biểu hiện cần có của con người với thế giới chung quanh.
Khi nói tới nghệ thuật, người ta thường nhớ câu nói nổi tiếng của nhà soạn nhạc thiên tài người Nga Pyotr Ilyich Tchaikovsky: “Ở đâu và khi nào ngôn từ bất lực thì ở đó sẽ sinh ra một thứ ngôn ngữ mới hùng hồn hơn, đó là âm nhạc”. Nhưng tôi nghĩ, tất cả các loại hình của nghệ thuật đều có thể được coi là đã ra đời trong hoàn cảnh như vậy. Và bên cạnh đó, trong tôi luôn tồn tại một hoài nghi: có thể cả ngôn từ và nghệ thuật đã cùng nhau sinh ra khi có sự xuất hiện của loài người, cùng song hành tồn tại và trong từng giai đoạn nhất định của diễn trình lịch sử xã hội loài người có những tương quan, quan hệ khác nhau.
Các loại hình nghệ thuật bao giờ cũng mang trong nó những đặc thù riêng về phương diện biểu hiện. Điều đó cũng có nghĩa: để hiểu, để thưởng thức một loại hình nghệ thuật cũng cần có những tri thức cơ bản, kiến thức nhất định về loại hình nghệ thuật đó. Tri thức đã có của mỗi loại hình nghệ thuật là rất to lớn và luôn dường như vô tận. Khi tiếp cận với nó, có thể sẽ làm cho chúng ta nhớ đến câu nói của người xưa: “càng học càng dốt” vậy. Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định, với một lượng tri thức cơ bản vẫn có thể là điều kiện cần cho phép chúng ta tiếp cận với một loại hình nghệ thuật. Để làm được việc đó thì vai trò của công tác giáo dục nghệ thuật là đặc biệt quan trọng. Giáo dục nghệ thuật là lĩnh vực có thể sẽ mang đến cho đối tượng cần những tri thức cơ bản để có thể tiếp cận với một loại hình nghệ thuật.
Thật ra, việc đánh giá cao vai trò của giáo dục nghệ thuật không phải là điều mới trong lịch sử phát triển xã hội loài người. Từ thời cổ đại, các triết gia đã coi giáo dục nghệ thuật là một trong những phương thức hiệu quả nhất cho việc giáo dục con người trở thành người tốt. Chính vì vậy, diễn trình lịch sử xã hội loài người cũng có thể được nhìn nhận ở góc độ của những quan điểm khác nhau về giáo dục nghệ thuật.
Trong thời gian qua, khi nói đến giáo dục nghệ thuật, nhiều nhà giáo dục nghệ thuật thường chỉ chú trọng tới đối tượng nhà trường phổ thông, coi đây là khu vực quan trọng để có thể tiến tới mục tiêu giáo dục nghệ thuật cho toàn xã hội trong tương lai: “Trẻ em hôm nay, Thế giới ngày mai”. Phải nhìn nhận: Giáo dục nghệ thuật trong nhà trường phổ thông giữ vai trò rất quan trọng. Nhưng thực ra cần phải có cái nhìn toàn diện về công tác này, bởi ngoài thời gian ở nhà trường, phần lớn thời gian trẻ em sống ở gia đình và ngoài xã hội. Do vậy, công tác giáo dục nghệ thuật cần phải đa dạng hơn về không gian và phương thức tiến hành.
Bên cạnh đó, không nên chỉ coi học sinh là đối tượng duy nhất cần thiết của giáo dục nghệ thuật; giáo dục nghệ thuật còn cần phải là nhu cầu cho mọi tầng lớp xã hội, cần phải được nhìn nhận ở một tầm khái quát cao. Và theo chúng tôi, đó mới chính là đối tượng thật sự của công tác giáo dục nghệ thuật. Chính vì vậy, công tác giáo dục nghệ thuật phải được đa dạng hóa về phương diện hình thức tiến hành. Nghệ thuật luôn không chỉ mang đến cho con người những giây phút giải trí thoải mái, mà hơn vậy, mang đến cho con người sự hưởng thụ mang tính thẩm mỹ về phương diện tinh thần, mang đến cho con người sự thanh cao – cao thượng và cả nghị lực vươn lên trong cuộc sống.
Giáo dục nghệ thuật trong nhà trường ở Việt Nam mấy chục năm qua thực chất chỉ triển khai ở hai môn âm nhạc và mỹ thuật. Các bài học về âm nhạc và mỹ thuật tại trường phổ thông đã đóng góp tích cực trong việc mang đến cho tuổi trẻ Việt Nam những kiến thức cần để có thể trở thành một con người toàn diện. Nhưng có một điều có lẽ cũng cần nói ở đây: Nếu tìm hiểu chúng ta sẽ thấy giờ học âm nhạc và mỹ thuật ở trường phổ thông chỉ có ở các cấp học tiểu học và trung học cơ sở, không có giờ dạy nghệ thuật (âm nhạc hay mỹ thuật) ở trường trung học phổ thông (THPT). Mà như chúng ta đã biết, học sinh lứa tuổi THPT đầy hiếu động và cần được sự quan tâm đặc biệt của nhà trường và toàn xã hội trong việc định hướng thẩm mỹ nghệ thuật. Trong thời gian qua, nhiều nhà nghiên cứu về giáo dục nghệ thuật thường bày tỏ lo ngại về thị hiếu thẩm mỹ của lứa tuổi này. Qua nhiều khảo sát chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy một điều: Nhiều giá trị tinh thần vốn là bản sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam không được các em biết và yêu quý, nhất là đối với học sinh THPT ở các thành phố, trung tâm lớn. Trong khi đó các em lại có thể biết, yêu thích nhiều tác phẩm âm nhạc nước ngoài. Khi nói về vấn đề này, các nhà nghiên cứu giáo dục nghệ thuật, trên từng góc độ của mình thường chỉ ra, nhấn mạnh những nguyên nhân khác nhau. Nhưng có lẽ tất cả đều thống nhất với nhau về sự cần thiết, cấp bách của công tác giáo dục nghệ thuật cho lứa tuổi THPT, về một cái nhìn, một sự chỉ đạo ở tầm chiến lược của công tác này.
Trường đại học Sư phạm Nghệ thuật T.Ư, một cơ sở đào tạo quan trọng của giáo dục nghệ thuật Việt Nam cho các trường phổ thông hàng chục năm qua cũng đã và đang chỉ đào tạo chủ yếu hai loại hình giáo viên âm nhạc và giáo viên mỹ thuật. Song qua khảo sát tại các địa phương và thực tế phát triển của xã hội chúng tôi nhận thấy: để có thể trở thành một người phát triển toàn diện trẻ em không phải chỉ cần học nhạc và mỹ thuật, phần đông các em đều rất thích học và có năng khiếu với các môn nghệ thuật khác như múa, kịch, v.v. Thời gian qua, xuất phát từ việc khảo sát nhu cầu của xã hội, nhà trường đã đề nghị và được Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép mở thêm một số ngành đào tạo mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về giáo dục nghệ thuật của xã hội như: Quản lý Văn hóa, Thiết kế thời trang, Hội họa và Thiết kế đồ họa. Theo chúng tôi, đây sẽ là những khởi đầu đầy hứa hẹn cho tương lai của công tác giáo dục nghệ thuật ở Việt Nam. Nhà trường cũng đã và đang hoàn thành nội dung Chương trình giảng dạy của một số mã ngành đào tạo khác thuộc lĩnh vực nghệ thuật để trình Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét việc cho đào tạo trong thời gian tới như: Sư phạm múa, sư phạm thanh nhạc, sư phạm nhạc cụ (organ/ghita), v.v. Nội dung của chương trình là những môn học nhằm đào tạo ra những giảng viên có trình độ chuyên ngành cao không chỉ cho các trường phổ thông, mà cả cho các trường sư phạm địa phương và trung ương của Việt Nam.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm đầu tiên của giáo dục nghệ thuật chính là giáo dục sự nhận thức, tình yêu đối với những giá trị mang tính bản sắc của nghệ thuật cổ truyền dân tộc. Từ đó, mỗi con người Việt Nam sẽ có ý thức hơn trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị đã khẳng định sự tồn tại của một dân tộc trong sự hội nhập giữa các nền văn hóa trên thế giới. Trong nhiều khảo sát của các cơ quan có trách nhiệm trong thời gian vừa qua đã chỉ ra: Những giá trị văn hóa cổ truyền còn chưa được yêu thích và coi trọng, nhất là trong giới trẻ. Giới trẻ Việt Nam hôm nay phần nhiều không yêu thích do không hiểu được những giá trị đích thực của văn hóa truyền thống. Trong các bài dân ca, nhiều lời ca cổ là khó hiểu đối với thế hệ trẻ hôm nay. Để khắc phục vấn đề này, theo chúng tôi không phải là công việc có thể làm ngay được và phải tốn rất nhiều công sức của một tầm chiến lược mang tính định hướng cao. Nhưng chắc chắn đây là công việc cần phải làm của toàn xã hội vì thế hệ trẻ và cũng là vì tương lai của đất nước.
Câu trả lời của bạn
Để phục vụ tốt nhất cho nhu cầu của cuộc sống, con người không ngừng khám phá, tìm tòi để đổi mới công nghệ. Cùng với nỗ lực đổi mới công nghệ của con người, công nghệ cũng có tác động ngược trở lại đối với chính cuộc sống của con người. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã dần thay đổi cuộc sống của con người theo hướng tiến bộ, ngày nay mọi hoạt động của đời sống đều có sự trợ giúp đắc lực của công nghệ như: điện thoại, ti vi, phương tiện đi lại…
Thuật ngữ công nghệ hiểu một cách đơn giản nhất, đó sự hệ thống những công cụ, phương pháp năng lực giải quyết vấn đề hay quy trình tạo ra sản phẩm. Trong xã hội hiện đại, để phục vụ cho đời sống con người đã, đang và sẽ không ngừng cải tiến công nghệ. Cũng chính từ sự phát triển ấy, công nghệ đã mang đến cho cuộc sống con người một diện mạo hoàn toàn mới theo hướng tiện ích. Nhận định “Con người từng ngày thay đổi công nghệ nhưng chính công nghệ cũng đang thay đổi cuộc sống con người” là lời đánh giá đúng đắn dựa trên bản chất của mối quan hệ, sự tác động qua lại giữa công nghệ và cuộc sống con người.
Tuy nhiên, câu nói cũng đã đặt ra vấn đề đáng để suy ngẫm. Sự phát triển của công nghệ là những dấu hiệu của văn minh, không ai có thể phủ nhận vai trò to lớn của nó đối với cuộc sống nhưng không vì thế mà chúng ta trở nên bị động, hoàn toàn bị chi phối bởi nó.
Việc phát triển, cải tiến công nghệ là nhu cầu tất yếu của cuộc sống nhằm phục vụ những nhu cầu thiết thực của thời đại. Trong thời đại bùng nổ công nghệ như hiện nay, công nghệ đang được biến đổi từng ngày, con người luôn nỗ lực, chủ động tìm tòi, nghiên cứu để thay thế công nghệ hiện đại bằng những công nghệ mới hiện đại hơn, toàn diện hơn hay phát minh ra những công nghệ khác hiện đại hơn để phục vụ cho cuộc sống của con người.
Chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI, thế kỉ hiện đại với sự bùng nổ của coongb nghệ và thông tin. Thật khó có thể phủ nhận được vai trò của công nghệ đối với cuộc sống của con người trong khi mọi lĩnh vực của đời sống, hoạt động sống của con người đều có sự trợ giúp, can thiệp của công nghệ. Từ chiếc điện thoại để liên lạc đến những thiết bị đồ dùng quan trọng như: điều hòa, tủ lạnh, ti vi, …đều là những thành tựu lớn của công nghệ mà trong cuộc sống ngày nay không thể thiếu đi vai trò của những thiết bị ấy.
Sự phát triển của công nghệ đã mang dẫn đến sự ra đời của nhiều thiết bị, sản phẩm hữu ích từ đó phục vụ ngày càng tốt hơn cho cuộc sống và nhu cầu của con người. Công nghệ phát triển, con người chính là chủ thể hưởng thụ những thành quả, mọi hoạt động đều trở nên tiện ích hơn, nhờ những thiết bị, sản phẩm hiện đại con người tiết kiệm hơn về thời gian và sức lực, chất lượng cuộc sống của con người vì thế cũng được nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì công nghệ cũng có những tác động tiêu cực đến cuộc sống của con người, đó chính là sự lệ thuộc vào công nghệ, con người trở nên bị động, lười suy nghĩ, lười vận động. Một bộ phận không nhỏ người trong xã hội vì quá sa đà vào những thiết bị công nghệ mà điển hình là điện thoại, những trò chơi công nghệ mà dần lơ là, không quan tâm đến những mối quan hệ, con người dần trở nên khô cứng, vô cảm và lười biểu đạt tình cảm.
Phát triển công nghệ là quy luật tất yếu của xã hội, sự phát triển này có thể mang đến chất lượng cuộc sống ngày càng được cải thiện, nâng cao cho con người. Tuy nhiên cần sử dụng một cách hợp lí, phù hợp tránh lệ thuộc hoàn toàn vào công nghệ vì nó có thể khiến con người trở nên bị động, lười biếng trong hoạt động tư duy,thụ động trong những mối quan hệ xã hội.
Đã bao giờ bạn tự hỏi nếu một ngày không có điện thoại, laptop hay những đồ công nghệ khác, cuộc sống sẽ ra sao? Chúng ta vẫn thường coi công nghệ như một điều thiết yếu của cuộc sống và nghĩ rằng những sự thay đổi đó là do con người. Nhưng có ý kiến cho rằng “Con người từng ngày thay đổi công nghệ nhưng chính công nghệ cũng đang thay đổi cuộc sống con người”. Phải chăng công nghệ đang ngày ngày chi phối, định hướng hành vi, thói quen không chỉ của cá nhân mà cả cộng đồng hay nhiều thế hệ.
Thuật ngữ công nghệ có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp, hàm nghĩa về các công cụ, kĩ năng và mưu mẹo của con người trong các hoạt động sống. Ngày nay, công nghệ được xem là hệ thống các phương pháp, công cụ và năng lực giải quyết vấn đề hay quy trình tạo ra sản phẩm (vật thể và phi vật thể). Con người đang ngày càng phát triển công nghệ những cũng đồng thời lệ thuộc và nó, bị nó chi phối. Việc phát triển, biến đổi công nghệ là quy luật tất yếu, khi con người chủ động thay thế phần quan trọng (cơ bản, cốt lõi) hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng công nghệ khác tiên tiến hơn. Công nghệ hiện diện trong mọi lĩnh vực của đời sống và đem đến cho chúng ta những lợi ích không thể phủ nhận. Cuộc sống chúng ta ngày một tốt hơn, tiết kiệm sức lao động,… Tuy nhiên, cũng có những ảnh hưởng tiêu cực khi sự lệ thuộc vào công nghệ ngày càng cao. Điều đó dẫn đến việc lười suy nghĩ, lười vận động, những mối quan hệ cũng trở nên lạnh lùng, khô cứng khi đa số lựa chọn việc duy trì việc gặp gỡ, trò chuyện, quan tâm chỉ qua những lời nhắn bằng mạng xã hội. Thế giới công nghệ còn khiến con người dễ rơi vào trạng thái ảo tưởng.
Trong thời đại hiện nay, vẫn cần thiết phát triển công nghệ. Tuy nhiên, việc sử dụng công nghệ cần tiết chế, phù hợp. Các cơ quan chức năng cần tăng cường sự quản lý, sử dụng công nghệ để phục vụ cho mục đích lành mạnh, cộng đồng. Và mỗi người cũng cần cân bằng giữa việc sử dụng công nghệ và thực hiện trách nhiệm với cộng đồng, gia đình. Hãy để công nghệ trở thành công cụ một cách phù hợp và hiệu quả với cuộc sống của chúng ta.
Câu trả lời của bạn
Trong cả quá trình lịch sử của dân tộc, con người Việt Nam đã chứng tỏ những phẩm chất tốt đẹp của mình, dũng cảm, xả thân khi chiến đấu với kẻ thù, cần cù bền bỉ trong lao động và không phải không có sự thông minh, sáng tạo trong cuộc sống. Tuy nhiên, khi xã hội phát triển, con người cần hình thành những phẩm chất mới để phù hợp với yêu cầu của tiến bộ xã hội. Nếu không làm được điều này, chính con người sẽ trở thành lực lượng cản trở sự tiến bộ ấy.
Thực tế cho thấy, người Việt Nam hiện nay có khá nhiều nhược điểm cần thay đổi, khắc phục. Khoa học ngày càng phát triển, yêu cầu chuyên môn hóa ngày càng cao. Mỗi phút giây đều có những phát minh, những thành tựu ra đời thay thế cho cái cũ. Điều đó yêu cầu con người cũng phải vận động, thay đổi theo. Nhưng dường như người Việt Nam vẫn còn cách suy nghĩ bảo thủ, coi trọng cái cũ, ngại và sợ thay đổi dẫn đến chậm đổi mới, tiến bộ, thiếu sáng tạo và chủ động trong công việc. Điều này dẫn đến hiện trạng đó là trước sự ra đời của rất nhiều máy móc, công nghệ sản xuất mới, người Việt vẫn đề cao sản xuất thủ công hay dây chuyền cũ, dẫn đến năng suất kém, chất lượng sản phẩm không nâng cao hay bắt kịp yêu cầu. Hay còn rất nhiều những ảnh hưởng tiêu cực khác. Nguyên nhân có thể dẫn đến từ chính quá khứ bị đô hộ, hình thành “tâm lý nô lệ”, dễ bị phụ thuộc, thu động, đầy mặc cảm. Sự ảnh hưởng nặng nề của tàn tích phong kiến để lại sự trì trệ, bảo thủ trong cách nghĩ. Muốn đổi mới chúng ta cần thay đổi ngay trong hệ thống giáo dục, tích cực đào tạo thế hệ công dân bắt kịp được yêu cầu của thời đại. Mỗi cá nhân phải tích cực đổi mới tư duy, học hỏi và tự rèn luyện tác phong năng động, rèn luyện bản lĩnh và nâng cao khả năng sáng tạo để năm bắt cơ hội và đối mặt với những thử thách mới.
Việc hội nhập với các nước tạo cơ hội song cũng là thách thức buộc chúng ta phải tự đổi mới từ tư duy, tác phong cho đến thái độ và cách thức làm việc. Sự hoàn thiện, tiến bộ chung của toàn xã hội chính là quá trình tự hoàn thiện, phát huy cả mỗi cá nhân.
Câu trả lời của bạn
Trí tuệ xúc cảm lần được hiểu theo nghĩa: đó là 70% số trường hợp những người có chỉ số IQ trung bình làm việc tốt hơn những người có chỉ số IQ cao. Nó nằm vô hình trong mỗi chúng ta, gây ra ảnh hưởng đến cách chúng ta điều khiển hành vi, phân tích yếu tố xã hội, đưa ra quyết định cá nhân để đạt được kết quả tích cực.
Nếu như người có IQ cao là những người mang trong mình những dấu hiệu của trí tuệ xúc cảm như: đầu tiên họ phải là những người có một vốn từ vựng cảm xúc mạnh mẽ do họ làm chủ được bản thân và thấu hiểu bản thân; luôn luôn tò mò về người khác; biết điểm mạnh điểm yếu và dễ thay đổi; biết nói không trong những trường hợp nhất định; không quên nhưng biết bỏ qua sai lầm và cuối cùng là không cầu toàn và hài lòng với những gì mình đang có. Những dấu hiệu trên chính là việc tự điều chỉnh trí tuệ cảm xúc trong cuộc sống.
Vậy còn những người không có khả năng tự chủ về trí tuệ cảm xúc thỉ ngược lại họ có vốn từ vựng không cao, không điều chỉnh được cảm xúc của bản thân và dễ nổi cáu trong công việc… chính vì vậy, việc điều chỉnh trí tuệ cảm xúc là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công và hạnh phúc của mỗi người, giúp mỗi cá nhân xây dựng các mối quan hệ bền vững, tinh thông trong công việc chuyên môn, giải quyết vấn đề và quản lý cảm xúc hiệu quả thông qua quá trình rèn luyện qua hoạt động và thói quen hàng ngày thể hiện:
Đầu tiên: bạn phải luôn tập trung vào mặt tích cực của bản thân mình, phát huy điểm mạnh và hạn chế điểm yếu của bản thân. Bạn bỏ ngay suy nghĩ mình không có ích gì cho cuộc sống này, quá kém cỏi. Bạn đã bao nhiêu lần tự so sánh mình với người khác để rồi tự buồn một mình.
Chỉ vì những suy nghĩ tiêu cực đấy, bạn đã tự thu nhỏ bản thân mình. Chính vì vậy đừng bao giờ để suy nghĩ của người khác áp đặt vào tâm lý của bạn. Hãy đặt ra cho mình mục tiêu và tận dụng những điểm mạnh của bản thân để hướng đến cái đích cao nhất.
Hai là: phải kết giao với những người có suy nghĩ tích cực bởi vì họ là những người đem đến cho bạn động lực cao trong cuộc sống, Có câu nói: “Những mối quan hệ của bạn có thể mở rộng thêm tầm nhìn nhưng cũng có thể bóp nghẹt những giấc mơ của bạn”. Bạn sẽ cảm thấy vui vẻ, hào hứng hơn khi bạn tiếp xúc với những người có suy nghĩ tích cực. Họ sẽ truyền thêm cho bạn nguồn cảm hứng cũng như là động lực thôi thúc bạn.
Ba là: luôn hướng đến tương lai và loại bỏ quà khứ: Tư tưởng của chúng ta thường bị cuốn hút vào những gì đã qua.
Bốn là: không ngừng học hỏi và phát triển theo hướng độc lập và tự chủ:
Năm là: luôn tìm cách làm cho cuộc sống trở lên vui vẻ và mới mẻ.
Và cuối cùng: chính là việc sử dụng thời gian một cách thông minh sẽ giúp cho bạn nên danh sách được những công việc một cách cụ thể và hợp lý.
Câu trả lời của bạn
Với mỗi chúng ta, sau khi kết thúc những năm tháng trên ghế nhà trường, mỗi người lại lựa chọn cho mình một con đường riêng để đi tới thành công. Nhưng “Một thực tế phổ biến hiện nay là với đa phần giới trẻ các trường nghề chỉ được coi là lựa chọn cuối cùng khi giấc mơ gõ cửa các trường đại học của họ không đạt được”. Việt Nam là một đất nước nông nghiệp phải trải qua rất nhiều vất vả, khó nhọc, lao động mệt mỏi mới mong có được cuộc sống đầy đủ. Do đó, suy nghĩ và quan điểm cho rằng: chỉ HỌC, HỌC và HỌC mới có thể giúp mình phát triển, thoát khỏi sự nghèo khó sau lũy tre làng đã trở thành quan niệm ăn sâu vào tiềm thức và suy nghĩ của mỗi người. Vì vậy, đại học luôn là mục tiêu cao nhất và là nơi duy nhất được mọi người theo đuổi, cố gắng mọi giá để đạt được. Nhưng không phải ai cũng có đủ điều kiện hay may mắn để bước vào cánh cửa đó. Và khi niềm hy vọng bị dập tắt thì nhiều bạn trẻ mang theo sự chán nản, buông xuôi, thất vọng để lựa chọn theo học những trường nghề. Nếu các trường đại học tập trung đào tạo về tri thức nghiên cứu thì kĩ năng là mục tiêu đào tạo của các trường dạy nghề. Nếu xét trên các phương diện thì đây là hai yếu tố chủ đạo để phát triển kinh tế và đều được đề cao như nhau. Nhưng ở Việt Nam thì nghề chỉ được coi là “Chiếu dưới”. Đây không phải một hiện tượng đơn lẻ mà phổ biến trong cả nước. Nói cách khác, nhiều suy nghĩ tiêu cực còn nghĩ rằng vào trường nghề là một thất bại cực kì nặng nề. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước hết đó là nhận thức. Chúng ta vẫn chưa thoát khỏi được quan niệm học nghề chỉ dành cho những công việc chân tay vất vả, phục vụ những công việc thiên về thể lực, ít cần đến nghiên cứu hay sáng tạo. Chưa tính đến thực tế hay hiệu quả công việc, trong các cuộc thi quốc tế, Việt Nam chỉ luôn đạt giải và thành tích cao ở những môn thi về lý thuyết còn những bộ môn yêu cầu kĩ năng thì nước ta vẫn rất hiếm khi được vinh danh. Thiết nghĩ, chúng ta cần thay đổi về cả nhận thức và hành động để xóa bỏ ranh giới giữa học đại học và học nghề. Chính sách phát triển nên chú trọng đầu tư thêm cho các trường đào tạo nghề để tạo điều kiện tốt nhất cho việc học tập, thực hành của học viên, giúp đào tạo được nguồn nhân lực có tay nghề cao. Mỗi người cũng cần thay đổi nhận thức của mình. Dù là phát triển, đóng góp về tri thức hay lao động để tạo ra những sản phẩm hữu hình, có giá trị và thiết thực thì đều được trân trọng và có một vị trí như nhau. Đã đến lúc loại bỏ quan niệm chỉ đại học mới mang lại hạnh phúc và thành công. Hãy cùng thay đổi để các trường nghề trở thành một trong những lựa chọn tích cực của thế hệ trẻ thay vì con đường tạm thời, mang tính giải pháp khi cánh cửa đại học khép lại.
Với mỗi chúng ta, sau khi kết thúc những năm tháng trên ghế nhà trường, mỗi người lại lựa chọn cho mình một con đường riêng để đi tới thành công. Nhưng “Một thực tế phổ biến hiện nay là với đa phần giới trẻ các trường nghề chỉ được coi là lựa chọn cuối cùng khi giấc mơ gõ cửa các trường đại học của họ không đạt được”. Việt Nam là một đất nước nông nghiệp phải trải qua rất nhiều vất vả, khó nhọc, lao động mệt mỏi mới mong có được cuộc sống đầy đủ. Do đó, suy nghĩ và quan điểm cho rằng: chỉ HỌC, HỌC và HỌC mới có thể giúp mình phát triển, thoát khỏi sự nghèo khó sau lũy tre làng đã trở thành quan niệm ăn sâu vào tiềm thức và suy nghĩ của mỗi người. Vì vậy, đại học luôn là mục tiêu cao nhất và là nơi duy nhất được mọi người theo đuổi, cố gắng mọi giá để đạt được. Nhưng không phải ai cũng có đủ điều kiện hay may mắn để bước vào cánh cửa đó. Và khi niềm hy vọng bị dập tắt thì nhiều bạn trẻ mang theo sự chán nản, buông xuôi, thất vọng để lựa chọn theo học những trường nghề. Nếu các trường đại học tập trung đào tạo về tri thức nghiên cứu thì kĩ năng là mục tiêu đào tạo của các trường dạy nghề. Nếu xét trên các phương diện thì đây là hai yếu tố chủ đạo để phát triển kinh tế và đều được đề cao như nhau. Nhưng ở Việt Nam thì nghề chỉ được coi là “Chiếu dưới”. Đây không phải một hiện tượng đơn lẻ mà phổ biến trong cả nước. Nói cách khác, nhiều suy nghĩ tiêu cực còn nghĩ rằng vào trường nghề là một thất bại cực kì nặng nề. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước hết đó là nhận thức. Chúng ta vẫn chưa thoát khỏi được quan niệm học nghề chỉ dành cho những công việc chân tay vất vả, phục vụ những công việc thiên về thể lực, ít cần đến nghiên cứu hay sáng tạo. Chưa tính đến thực tế hay hiệu quả công việc, trong các cuộc thi quốc tế, Việt Nam chỉ luôn đạt giải và thành tích cao ở những môn thi về lý thuyết còn những bộ môn yêu cầu kĩ năng thì nước ta vẫn rất hiếm khi được vinh danh. Thiết nghĩ, chúng ta cần thay đổi về cả nhận thức và hành động để xóa bỏ ranh giới giữa học đại học và học nghề. Chính sách phát triển nên chú trọng đầu tư thêm cho các trường đào tạo nghề để tạo điều kiện tốt nhất cho việc học tập, thực hành của học viên, giúp đào tạo được nguồn nhân lực có tay nghề cao. Mỗi người cũng cần thay đổi nhận thức của mình. Dù là phát triển, đóng góp về tri thức hay lao động để tạo ra những sản phẩm hữu hình, có giá trị và thiết thực thì đều được trân trọng và có một vị trí như nhau. Đã đến lúc loại bỏ quan niệm chỉ đại học mới mang lại hạnh phúc và thành công. Hãy cùng thay đổi để các trường nghề trở thành một trong những lựa chọn tích cực của thế hệ trẻ thay vì con đường tạm thời, mang tính giải pháp khi cánh cửa đại học khép lại.
Câu trả lời của bạn
Nếu ví cuộc sống này như là nước, liệu bạn có thể lấy tay nắm giữ được nó hay không? Thật khó, nhưng bạn có thể suy ngẫm về câu trả lời đó qua lời khuyên: Bạn chớ để cuộc sống trôi qua kẽ tay vì bạn cứ đắm mình trong quá khứ hoặc ảo tưởng về tương lai. Ý kiến trên nhấn mạnh đến ý nghĩa của việc sống cho hiện tại, cần biết trân trọng những khoảnh khắc đang diễn ra, chứ không phải mãi mải mê với quá khứ và mơ mộng về tương lai. Thực vậy, hiện tại, những gì đang diễn ra là thứ đang trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn. Nó là những gì hiện hữu mà bạn phải trải qua, phải sống hết minh cho nó. Hiện tại là thời điểm để khẳng định cái tươi đẹp của quá khứ và nền tảng mở ra tương lai. Vậy, bạn cứ đắm mình trong quá khứ, với những hào quang đã qua, hạnh phúc thật đấy nhưng “liều thuốc ngủ quên” ấy có duy trì được sự sống cho bạn ở hiện tại? Hay tương lai là điều bạn phải hướng tới, bạn có quyền đôi chút ảo tưởng, nhưng không thể lúc nào cũng sống với điều chưa xảy ra. Hiện tại như nước vậy, vơi hay đầy là do bạn. Để nó trôi qua kẽ tay, rơi rớt đi một cách lãng phí bạn thực sự đánh mất cuộc sống của mình. Mà khi mất đi sẽ chẳng bao giờ lấy lại được nữa. Vậy lúc đó, quá khứ hay tương lai cũng chẳng có ý nghĩa gì. Chúng ta vẫn ngưỡng mộ một Bill Gates tài ba, giàu có, nhưng sau bao nhiêu năm trở thành người giàu nhất thế giới ông vẫn để mỗi ngày trôi qua đều ý nghĩa. Một Nick Vujic không tay, không chân nhưng vẫn sống đầy lạc quan, ý chí để có những ngày tươi đẹp. Và ngoài kia cũng có những bạn trẻ sống hết mình với đam mê, khát vọng, không cho phép thanh xuân của mình lãng phí. Chí có như vậy, cuộc sống có là nước, thì mỗi giọt được nhỏ ra là những chắt chiu, tinh túy để cuộc đời bạn thêm ý nghĩa. Trân trọng và hết mình với hiện tại bạn đã trả lời cho vẻ đẹp của quá khứ và mang ánh sáng cho tương lai.
Câu trả lời của bạn
Nếu hỏi rằng câu chuyện cổ tích nào mà người Việt Nam biết và yêu thích nhiều nhất, có lẽ là truyện Tấm Cám. Biết bao giá trị làm người mà ông cha ta từ xa xưa đã đúc kết nhằm răn dạy con cháu những thế hệ sau. Về cuộc đời cô Tấm, có câu thơ nói rằng: Dẫu phải khi cay đắng dập vùi, Rằng cô tấm cũng về làm hoàng hậu. Câu thơ đã nhấn mạnh đến số phận nhiều cơ cực, gian truân mà cô Tấm phải trải qua nhưng kết cục lại đầy viên mãn và hạnh phúc. Điều đó khiến chúng ta có nhiều suy ngẫm về cuộc sống của chính mình. “Cay đắng, dập vùi” có lẽ ai cũng gặp phải trong cuộc sống, chỉ khác là ở mức độ khác nhau. Nhưng đó là những khó khăn, gian khổ trên đường đời mà mỗi người đều gặp phải. Nếu hỏi những người thành công nhất trên thế giới, thì đằng sau họ là cả một câu chuyện dài của sự nỗ lực. Chẳng có thành công nào dễ dàng đến với chúng ta nếu không trải qua những khó khăn như vậy. Điều duy nhất chúng ta phải làm đó là kiên trì, nhẫn nại, đôi khi phải nhẫn nhục để sau này gặt hái thành công. Triết lý rất lớn mà truyện Tấm Cám để lại được từ cuộc đời cô Tấm, đó là “Ở hiền gặp lành”. Cay đắng, dập vùi là vậy, nhưng con người phải luôn sống chân thành, sống đúng với bản chất tốt đẹp, đam mê và tin tưởng chính mình. Bởi vậy cái kết có hậu của Tấm, không còn là ao ước của người dân xưa, mà đó là bài học về cách sống, là kinh nghiệm đúc kết của bao đời. Cho nên hãy cứ để cuộc đời vần vũ mình đi, việc của mình là phải nỗ lực, cố gắng, sống có đạo đức để đón chờ một tương lai tươi sáng ở phía trước.
Câu trả lời của bạn
“Dù ai nói ngả nói nghiêng/ Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân” Câu ca dao gợi cho ta nhiều suy ngẫm về chính kiến của bản thân trước tác động của thế giới bên ngoài. Vậy chính kiến là gì và nó có vai trò như thế nào trong cuộc sống? Chính kiến là quan điểm, là lập trường. Người có chính kiến là người có lập trường riêng, không dễ bị dao động hay bị ảnh hưởng bởi lời nói, hành động của người khác. Và ngược lại, người không có chính kiến riêng sẽ dễ dàng bị cuốn theo những lời nhận xét đánh giá, hay tự làm bản thân bị căng thẳng, bối bời. Chính kiến hay việc giữ vững lập trường chính là một điều vô cùng quan trọng, là điểm tựa để ta thực hiện những dự định, ước mơ, nó giúp ta luôn có một tinh thần minh mẫn và tỉnh táo, không bị áp lực khi lúc nào, làm việc gì cũng phải suy nghĩ xem người khác nghĩ gì về mình, về việc làm của mình. Trong mỗi vấn đề, mỗi người đều có những suy nghĩ, những nhận định riêng bởi vì họ có những góc nhìn khác nhau về những khía cạnh khác nhau của vấn đề. Chính vì vậy nên chính kiến của bản thân trước những tác động của thế giới bên ngoài là rất cần thiết. Tuy nhiên, đừng bị nhầm lẫn có chính kiến riêng với lối sống “bảo thủ”, không chịu nghe ý kiến từ người khác, lúc nào cũng coi ý kiến của mình đưa ra là đúng, là hay nhất. Bởi đôi khi, ta phải biết lắng nghe, biết nhìn nhận để thấy được quan điểm của mình có thật sự đúng đắn. Chính vì vậy, dù ta đang đi học, đi làm hay ở bất cứ vị trí nào trong xã hội thì bản thân mỗi người đều phải có lập trường vững vàng,và hãy biết tiếp thu những ý kiến của người khác một cách thông minh, sử dụng trí tuệ để phân biệt rõ đúng sai mà điều chỉnh cho phù hợp.
Câu trả lời của bạn
“Nữ sinh nên mặc áo dài hay đồng phục truyền thống?”. Đó là một trong những chủ đề hay được bàn luận và có những ý kiến trái ngược nhau. Vậy trước tiên, ta nên hiểu rõ về hai loại hình trang phục này. Áo dài là loại trang phục truyền thống của Việt Nam, là một hình ảnh đẹp, góp phần tôn lên vẻ nữ tính, sự duyên dáng, kín đáo và thanh lịch cho người mặc, thể hiện bản sắc văn hóa Việt Nam. Đồng phụ hiện đại là những bộ đồng phục cách tân cho phù hợp với xu hướng thời trang hiện nay nhưng cũng không quá cầu kì, kiểu cách giúp nữ sinh sẽ trở nên năng động, cá tính hơn. Tuy nhiên, mặc áo dài hay đồng phục hiện đại đều có những hạn chế riêng. Tà áo dài thướt tha tuy đẹp nhưng đôi khi lại trở nên vướng víu, gây ảnh hưởng đến việc đi lại và những hoạt động cần sự nhanh nhẹn, năng động của nữ sinh, đặc biệt trong những ngày hè nóng nực khó chịu, hay mưa gió. Còn đối với đồng phục hiện đại có một số bộ phận nữ sinh bắt chước phong cách ăn mặc của nữ sinh nước ngoài không phù hợp với lứa tuổi, văn hóa, thẩm mĩ của người Việt Nam. Nếu có thể được kết hợp cả mặc áo dài truyền thống (vào những dịp lễ, tết) và đồng phục hiện đại (vào buổi học bình thường) thì chúng ta nên thực hiện để vừa tạo sự đa dạng, vừa giữ được nét đẹp truyền thống của con gái Việt Nam.
Câu trả lời của bạn
Nếu bạn đặt chân vào một nhà hàng sang trọng hay một quán nước vỉa hè, rồi sân bay, nhà ga, hay bất cứ nơi công cộng nào… Bạn có nhận thấy một điều rất phổ biến hiện nay, đó là mọi người ai cũng cầm trên tay một chiếc điện thoại thông minh, ngồi bấm bầm và không nói chuyện với nhau. Hình ảnh này đã được nhiều phương tiện thông tin đại chúng đưa tin và nó gợi cho ta suy ngẫm về vấn đề giao tiếp thời công nghệ. Công nghệ ra đời, đến nay được đánh dấu ở mốc 4.0 thể hiện những bước tiến vĩ đại của loài người. Lợi ích nó mang lại không hề nhỏ, trong đó vấn đề giao tiếp cũng được cải thiện đáng kể. Bạn có những mối quan hệ quá lâu không liên lạc, nhờ công nghệ bạn đã kết nối được với họ. Người thân của bạn đi xa, có công nghệ bạn thường xuyên trò chuyện được với họ. Việc mua đồ không phải đến tận nơi, trò chuyện với chủ cửa hàng, không bị những ánh mắt dò xét của những bà chủ khó tính. Cả những tâm tư thầm kín cũng dễ dàng chia sẻ mà không sợ ngại, xấu hổ… Rõ ràng, công nghệ phát triển việc giao tiếp của con người trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết, khoảng cách đã dần thu hẹp và gia tăng hiệu quả giao tiếp hơn. Tuy nhiên, mặt trái của công nghệ trong vấn đề giao tiếp cũng đã được đề cập ngay ở phần mở đầu. Công nghệ có thực sự khiến con người ta xích lại gần nhau? Nhìn viễn cảnh mà chúng ta đã nhắc tới ở trên thì con người bận giao tiếp trong một thế giới ảo, mải mê quan tâm đến những mối quan hệ qua màn hình… Điều này thật đáng báo động. Hơn nữa, cứ ngỡ quan tâm, tương tác nhau trên mạng xã hội thì bên ngoài cũng sẽ như vậy, nhưng không, sự thật hoàn toàn ngược lại. Bên cạnh đó, điều đáng sợ là giao tiếp thời công nghệ có thể thoải mái, dễ dãi đến mức thái quá. Đặc biệt là các bạn học sinh. Muốn biết học sinh có nói tục chửi bậy không cứ lên facebook. Đa số các vụ bạo lực học đường hiện nay đều có liên quan đến vấn đề giao tiếp trên mạng xã hội. Vậy, giao tiếp thời công nghệ có cần phải có những quy chuẩn không? Hoàn toàn có, vì việc giao tiếp là sử dụng ngôn ngữ. Chỉ cần bất cứ giao tiếp nào gây ảnh hưởng đến ngôn ngữ đều khiến cho trình độ văn minh của một đất nước đi xuống. Bạn và tôi, chúng ta đang sống trong bối cảnh như hiện nay, giao tiếp tốt hay xấu cũng đều do xuất phát từ chính mỗi người.
Cuộc sống phong phú hơn, tiện ích hơn với những công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, có những người quá “đắm đuối” giao tiếp do lạm dụng công nghệ đến nỗi bỏ quên việc trò chuyện trực tiếp cũng như những mối quan hệ ngoài đời. Chúng ta có thể hiểu “giao tiếp” là trao đổi, tiếp xúc với nhau. Cụ thể giữa con người với con người, giao tiếp có thể qua: ngôn ngữ hoặc phi ngôn ng (bao gồm ngôn ngữ cơ thể). “Công nghệ” là thuật ngữ nói chung chỉ các phương tiện kỹ thuật, máy móc hiện đại, như: điện thoại, máy tính,.. Hiện nay đi ra các quán cà phê cuối tuần đông đúc hơn thường nhật chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp hình ảnh: Mỗi bàn có 5 -7 người, có điều suốt thời gian ngồi bên nhau, họ cùng nhâm nhi cà phê nhưng không ai nói chuyện với ai mà trao đổi với người khác qua các phương tiện công nghệ. Ngay cả trong quan hệ công việc, tình yêu hay gia đình, nhiều người cũng thích nói chuyện trên mạng hơn. Nhiều bạn trẻ ngày nay đã lười giao tiếp hẳn, quá lạm dụng công cụ trò chuyện trên những mạng xã hội. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do một số bạn còn quá lệthuộc vào công nghệ, chưa biết kiểm soát bản thân. Dẫn tới hậu quả là giao tiếp bằng cách trò chuyện trực diện ngày càng bị chối bỏ: Khi trò chuyện trên mạng thì rất thân mật nhưng gặp ở ngoài thì toàn bơ nhau như chưa hề quen biết. Các mối quan hệ bị rạn nứt hoặc mất đi: Quan hệ thân thiết giữa những người trong gia đình, bạn bè, xã hội ngày càng “nhạt” đi, khó thấu hiểu và cảm thông lẫn nhau. Để cải thiện tình hình trên, chúng ta hãy cùng thực hiện qua khẩu hiệu: “Hãy tắt máy tính, ra ngoài và gặp ai đó”, hay “Hãy đối mặt với vấn đề của bạn, đừng mang nó lên Facebook”. Bản thân mỗi người cần biết kiểm soát việc sử dụng công nghệ của bản thân.
Câu trả lời của bạn
Có khi nào bạn nhận ra cuộc sống này của mỗi chúng ta là một cuộc hành trình tìm kiếm đầy gian khổ. Trong đó cái đích mà mỗi con người hướng tới không gì khác chính là thành công. Quả thực, thành công đóng một vai trò ý nghĩa lớn đối với con người. Đó chính là thứ mà chúng ta đã nỗ lực, cố gắng để đạt được khi quyết tâm thực hiện một vấn đề gì đó. Có được thành công, chúng ta sẽ cảm nhận được rất rõ những nỗ lực ấy đã đạt kết quả như thế nào. Thành công còn khẳng định năng lực thực sự của con người, giúp chúng ta chứng minh được với cuộc sống rằng: bạn có thể làm được. Thành công là động lực để chúng ta tiến đến những nấc thang cao hơn mà có khi nhiều người không dám nghĩ tới. Nếu cuộc sống này với bạn đều là thất bại, hoặc chưa một lần thành công thì quả thực đáng buồn. Không có thành công, bạn sẽ luôn “chìm nghỉm” trong dòng sông cuộc đời, mọi nỗ lực đôi khi không được người khác thừa nhận. Nó có thể khiến bạn tự ti, chán nản, chẳng tha thiết gì với cuộc sống này nữa. Bởi vậy, thành công sẽ chỉ đến với những ai thực sự quyết tâm, quyết tâm và quyết tâm. Trong cuộc sống bạn cứ nghĩ rằng bạn phải thật giàu sang, phải làm đến chức tước này nọ… đã là thành công. Nhưng thực tế, dù thành công lớn hay nhỏ, bạn đều phải cố gắng để đạt được. Bạn thử nghĩ xem, một ông bố hay bà mẹ nào đó chỉ mải mê kiếm tiền, bỏ bê con cái, gia đình chỉ bận cãi vã, không chăm chút cho nhau… liệu giàu có có phải là sự thành công? Bạn dùng mọi thủ đoạn để đạt được điều bạn muốn, nhưng thành công bạn có được lại không chân chính thì điều đó chẳng ý nghĩa gì! Thế nên, thành công của người cha, người mẹ là khi con trưởng thành và được nói câu: “cảm ơn con đã giúp bố mẹ tốt nghiệp khóa học làm cha mẹ”. Cũng chẳng cần cao sang, thành công là ngôi nhà luôn đầy ắp tiếng cười, được làm công việc mình yêu thích, được đi đến nơi mình muốn đến, được ăn món mình muốn ăn… Thật tuyệt vời, thành công chính là kết quả của những gì mà chính chúng ta nỗ lực, chứ không phải tạo hóa ban phát hay bạn gặp may mắn trong đời. Thành công đôi khi là những điều đơn giản lắm mà ngay cả những bạn trẻ mười tám, đôi mươi sẽ làm được nếu rèn luyện và học tập thật tốt. Thành công sẽ chẳng chờ chúng ta đến để đón nhận mà phải đi tìm và nỗ lực thật nhiều. Bạn và tôi chúng ta cùng cố gắng được không?
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *