Bài học giúp các em nắm được cách làm bài nghị luận về một hiện tượng đời sống. Có nhận thức, tư tưởng, thái độ và hành động đúng đắn trước những hiện tượng đời sống hằng ngày.
Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày ý kiến của anh ( chị) về nạn bạo hành trong xã hội hiện nay.
Đồng cảm và sẻ chia là một nếp sống đẹp trong xã hội hiện nay. Hãy viết một bài văn ngắn trình bày ý kiến của anh (chị) về nếp sống ấy.
Để nắm được cách làm bài nghị luận về một hiện tượng đời sống, các em có thể tham khảo bài soạn chi tiết hoặc tóm tắt dưới đây:
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Biển Đông đang là một vấn đề nhức nhối hiện hay. Dựa vào hiểu biết của mình, em hãy trình bày suy nghĩ của em về vấn đề đó.
Câu trả lời của bạn
I. Đặt vấn đề
Tình hình biển đảo Việt Nam hiện nay đang có những diễn biến phức tạp đe dọa trực tiếp đến chủ quyền lãnh thổ của dân tộc. Trước tình hình căng thẳng của biển Đông, "Thanh niên cần làm gì để bảo vệ Tố quốc?", là câu hỏi nhận được sự quan tâm đặc biệt của các bạn trẻ khi đề cập đến thời sự biển Đông.
II. Giải quyết vấn đề
1. Tình hình biến đảo? Nhận thức về tình hình?
Biển đảo Việt Nam trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của người Việt Nam. Điều này đã được chứng minh bằng lịch sử và các tài liệu khoa học. Các tư liệu khoa học và pháp lý được công bố hiện nay, đều thể hiện quá trình khai phá, chiếm hữu và thực thi chủ quyền liên tục của Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. Tuy nhiên những năm gần đây, Trung Quốc đã có nhiều hành động xâm hại đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam: bắt ngư dân Việt làm ăn, tấn công các tàu Việt trên vùng biển của chính Việt Nam, ngang ngược xây dựng thành phố Tam Sa trên quần đảo Hoàng Sa...
Những hành động nói trên của phía Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; xâm phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển của Việt Nam; vi phạm Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ký tháng 10/2011; trái với tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Tuyên bố cấp cao kỷ niệm 10 năm DOC, làm cho tình hình Biển Đông thêm phức tạp.
2. Hành động của thanh niên hiện nay
Để bảo vệ chủ quyền biển đảo, thanh niên, học sinh cần nghiên cứu và nhận thức sâu sắc về ý nghĩa thiêng liêng chủ quyền biến đảo và giá trị to lớn chủ quyền mà ông cha ta đã đổ xương máu để xây dựng; về lịch sử Việt Nam đặc biệt là lịch sử địa lý liên quan đến chủ quyền biển đảo, về lịch sử hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa... tìm hiểu rõ chính sách ngoại giao nhất quán của Đảng
và Nhà nước ta về vấn đề biển Đông cũng như nội dung của luật pháp, chế độ pháp lý của các vùng biển theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982.
Thanh niên cần hưởng ứng tích cực các diễn đàn hợp pháp trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên internet, khẳng định chủ quyền biển đào của Việt Nam trên các diễn đàn, đồng thời kịch liệt lên án và đấu tranh tham gia ngăn chặn các hành vi xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Thanh niên phải là hậu thuẫn, là cho dựa tình cảm vững chắc của những người lính biển đảo, bằng những việc làm thiết thực như gửi thư đến các lính Hải đảo để chia sẻ động viên và tiếp sức cho các anh thêm nghị lực để trông giữ biển đảo.
Điều quan trọng nữa là không ngừng tu dưỡng phẩm chất người Việt Nam mới, tích cực tham gia xây dựng đất nước giàu mạnh, có định hướng lý tưởng yêu nước và đoàn kết thì chúng ta sẽ kết nối khối sức mạnh lớn đủ sức bảo vệ chủ quyền biển đảo. Bên cạnh đó sẵn sàng chuẩn bị tinh thần tham gia trực tiếp vào công cuộc giữ gìn biển đảo quê hương bằng tất cả những gì mình có thể.
III. Kết luận
Biển đảo Việt Nam là một phần lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời của Tổ quốc được cha ông truyền lại. Trách nhiệm của tuổi trẻ nói riêng là ra sức gìn giữ toàn vẹn phần lãnh thổ này như lời Bác Hồ năm xưa đã dặn "các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước".
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những nỗi đau về nó vẫn còn mãi. Nhân ngày thương binh liệt sĩ, em hãy nêu những suy nghĩ của em về chiến tranh và hòa bình.
Câu trả lời của bạn
Nhân ngày Thương binh - Liệt sỹ 27/7, phóng viên đã nhận được một bài viết rất cảm động của độc giả Lê Thị Hương (25 tuổi, Chí Linh - Hải Dư chia sẻ câu chuyện về người bố là thương binh hạng 2/4 của mình, bác Lê Tuấn (nhập ngũ lần đầu năm 1974, lần 2 năm 1978, tham gia chiến đấu và bị thương ở chiên trường Campuchia).
Bài viết còn là những suy nghĩ rất thật, rất chân thực về chiến tranh của một người trẻ tuổi, người chưa hề biết thế nào là chiến tranh. Hiện bài viết đang lan truyền rất nhanh trên cộng đồng mạng và gây xúc động cho nhiều người.
Bố em, 18 tuổi vào bộ đội. Năm đó là 1974, chiến tranh đã vào hồi cuối,bố là lớp tân binh nên còn huấn luyện một thời gian dài để rồi tuyển lựa "đi B”. May mắn thay, bố chưa đến đợt đi B thì chiến tranh kết thúc, 1977 bố giải ngũ trở về, cưới vợ.
Tháng 8/1978, chị cả em ra đời, sau đó chit một tháng, chú Tư - em trai ruột của bố em, có lệnh gọi nhập ngũ. Chú vừa nhát vừa hiền, lại vừa cưới vợ nên bố xin đi thay chú. Đất nước đang cần người đã có kinh nghiệm, đơn tình ngyện của bố được chấp thuận ngay. Mẹ em, chị và ông bà tiễn bố lên đường. Vài tháng sau, bố đi K (chiên trường Campuchia). Chuyến tàu đưa bố đi từ Hải Phòng, đơn vị bố có hơn 40 người Hải Phòng, vào đến Quảng Trị còn 14 người. Họ nhảy tàu vì đi B thì sẵn sàng nhưng đi K thì khác.
Thời gian đầu còn có chút tin bố về nhà, càng về sau càng biền biệt. Mấy năm sau có giấy báo tử gửi về, bà nội khụy xuống trước thềm nhà. Suốt tháng trời bà mê man chỉ đòi chống gậy đi tìm con, bà bảo bố em không thể nào chết được.
Mẹ ôm chị gái em từ căn nhà riêng về ở với ông bà vì chị ốm quá, lên sởi mủ xanh mú vàng đã có lần thiếp đi, chú mang ra góc giường đặt, mẹ khóc ngất, bỗng thấy cánh tay chị vời lên, mẹ lại ôm chị, chăm nuôi bú mớm. Những năm tháng ấy, bố vẫn biền biệt bên kia, không hay biết gì về tình cảnh bi đát của con thơ, mẹ già.
Rồi bố bị thương trong một lần đi họp giao ban buối tối: đạp trúng mìn, bàn chân dập nát, đồng đội đưa về trạm quân y dã chiến giữa cánh đồng hoang. Sợ tiếp tế không kịp, bác sĩ y tá cưa chân cho bố, cưa sống, đồng đội hát quốc bao nhiêu vẫn không át nổi tiếng gào thét.
Rồi 2 ngày sau bố mới được chuyển về Sài Gòn bằng trực thăng, lần này nằm viện, cưa thêm một lần nữa vì vết cưa cũ bị nhiễm trùng. Điều dưỡng thêm vài năm nữa 1/3 chân phải của bố đã không còn, một mảnh đạn găm ở đùi và hai tai bị điếc nhẹ.
Bố về nhà với giấy chứng thương 2/4, mất sức 65% . Nhưng còn về được đã là đại phúc cho cả nhà mình, bố kể hồi mới sang được 1 tháng, chính tay bố đã phải gói hài cốt của bạn mình để trực thăng mang về.
Ngày bố về, nét mặt dữ dằn hơn, những cơn đau mê sảng thỉnh thoảng vẫn trở lại, chị em nhất định không nhận bố vì sợ cái nạng và cái chân gỗ bố tháo ra lắp vào mỗi sáng tối. Ngay cả đến đời con trai của chị, cháu ngoại của bố, mỗi nhìn cái chân ấy nó đều khóc thét.
Bố mất cả tháng giời chỉ để làm quen và ôm con gái mình vào lòng mà không làm nó sợ. Đúng, em là gái, em chỉ nhìn những thứ xung quanh mình, em nhìn thấy chiến tranh và hậu quả của nó trong suốt 18 năm sống bên bô', những lần sợ hãi đến run rẩy khi bố em mắt vằn tia máu lên nóng giận vì những điều không lớn lao gì, khi bố em những đêm rên rỉ trong vô thức vì mảnh đạn trong người, khi bố em có những lần đi xe máy hơi quẹt xe đã ngã vì không thế dùng chân giả mà chống như người ta được.
Bố em chưa một lần than vãn gì về chiến tranh, kêu ca gì về sự đãi ngộ của nước nhà cho những người thương bệnh binh như bố, bố vẫn bươn trải bán buôn ngược xuôi để nuôi con học hành.
Em nhớ mãi một lần lớp 11, em học kém bị bố đánh, đánh xong bố nói rất nhiều, nhưng có một câu em không thể nào quên được, bố bảo: "Chị em chúng mày đang đi học bằng tiền xương máu của tao đây con ạ”. Đúng, chúng em từ Cấp 1 cho đến hết Đại học đều được miễn học phí vì bố là thương binh.
Bao nhiêu năm em sống trên đời là bấy nhiêu năm em thấy mẹ chăm bẵm bố em từ miếng cơm, phích nước, ấm trà, là thấy mẹ chịu đựng đủ sự nóng nảy của bố do thay đổi tâm tính từ lúc trở về.
Có đôi lần ai đó nói đến chiến tranh, mẹ em chỉ lơ đãng nói một điều: "Kể cả có chiến tranh, thằng Hà (em trai em) nhà này cũng không bị gọi đi nhập ngũ đâu, nó con một, bố lại thương binh yếu đuối thế kia".
Các bạn có thể cười rằng mẹ suy nghĩ hạn hẹp và ích kỷ, nhưng nếu các bạn đã từng vùi cả tuổi xuân của mình để chờ chồng, nuôi cha mẹ già con thơ và ĩ dành cả cuộc đời để xoa dịu những vết thương chiến tranh, các bạn sẽ dễ cảm thông cho mẹ em biết chừng nào. Chiến tranh không đùa với ai cả, cũng không phải cứ hạ súng thì đã là kết thúc chính vì vậy, còn hòa bình được ngày nay hãy cố mà gìn giữ.
Trình bày suy nghĩ của bản thân về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong cuộc sống.
Câu trả lời của bạn
Đã ai tùng một lần đọc những lời thơ đấy giục giã của nhà thơ Nazim Hilsme "Nếu tôi không đốt lửa; Nếu anh không đốt lửa; Nếu chúng ta không đốt lửa; thì làm sao Bóng tối sẽ trở thành Ánh sáng!". Bóng tối sẽ tan đi và ánh sáng sẽ ngập tràn nếu anh hành động, tôi hành động và chúng ta cùng hành động. Trong cái ánh sáng rạng ngời xua tan bóng tối ấy có ánh sáng của tôi, của anh và của tất cả chúng ta. Và hôm nay, nhà thơ Tố Hữu đã mượn tiếng ru dịu êm của mẹ qua bài thơ "Tiếng ru" của mình, một lần nữa gợi cho chúng ta hiểu thêm về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, xã hội, giữa một con người với mọi người. Một ngôi sao không làm nên bầu trời đêm rực sáng. Một bông lúa chín chẳng làm nên mùa vàng bội thu. Một con người nhỏ bé đáng kể gì trong cõi nhân gian rộng lớn. Đất thấp thế nhưng nhờ có đất mà núi mới cao. Sông nhỏ thế thôi nhưng nhờ sông mà biển mới mênh mông đến vậy.
Một cá nhân bé nhỏ sẽ không là gì cả so với một cộng đồng to lớn. Nhưng ngược lại, những gì lớn lao, vĩ đại lại được tạo nên từ những điều hết sức nhỏ bé mà thôi. Sống trên đời, ai cũng mong muốn mình được thể hiện và khẳng định bản thân, phần cá nhân của mình. Đó là mong ước tự nhiên và chính đáng. Phần riêng ấy được thể hiện ở những khát khao, hoài bão của bản thân là niềm mong mỏi mình phải có vị trí nào đó trong mắt mọi người. Phần cá nhân bé nhỏ của mỗi người ấy cần được thể hiện, được khẳng định, được tôn trọng và ghi nhận. Chính "cái tôi" ấy tạo nên giá trị và bản sắc của mỗi cá nhân trong cộng đồng, làm cá nhân đó không bị hòa tan, không lẫn vào người khác. Tôi yêu những vạt nắng trải dài trên cánh đồng bát ngát, yêu những triền đê xanh thơm mùi cỏ non. Còn bạn, bạn yêu những ánh đèn màu rực rỡ của thành phố hoa lệ về đêm, yêu những tòa nhà chọc trời nguy nga, tráng lệ. Tôi và bạn có những tình yêu khác nhau, quan điểm sống khác nhau, và chính sự khác nhau ấy đã làm nên "cái tôi" riêng của mỗi cá nhân chúng ta. Phần tôi ấy được thể hiện bằng nhiều cách: bằng sự yêu thương, bằng những nỗ lực, phấn đấu học tập, lao động hay chỉ đơn giản là những sở thích riêng của chúng ta mà thôi.
Ở mỗi thời kì, ta đều thấy sự xuất hiện của những cá nhân vĩ đại, xuất sắc. Bằng tài năng của mình, họ đã đóng góp rất nhiều cho cộng đồng, xã hội. Họ có thể là những nhà khoa học, bằng những phát minh của minh đem lại sự phát triển cho đời sống của nhân loại như Đác-uvn, Marie Curie... Họ có thể là những nhà cách mạng, bằng sự nghiệp chính trị của mình mà đem lại hòa bình cho cả một dân tộc, một đất nước như Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta. Nhưng dù cá nhân có hoàn thiện, có lớn lao vĩ đại đến đâu đi chăng nữa nhưng cũng sẽ không là gì so với sức mạnh của cả một dân tộc. Cá nhân ấy khác nào một hạt cát với một sa mạc một giọt nước với một đại dương rộng lớn, một thân cây giữa bạt ngàn rừng xanh... Mất đi một hạt cát sa mạc vẫn cứ mênh mông; mất đi một giọt nước thì đại dương vẫn cứ bao la, mất đi một bông hoa thì mùa xuân vẫn cứ muôn phần rực rỡ... Một vĩ nhân, một anh hùng làm sao làm nên sự nghiệp lớn nếu không có sự kề vai góp sức của mọi người. Một cá nhân bé nhỏ làm sao tạo được sự nghiệp lớn lao khi chỉ làm một mình mình. Ta phải biết rằng cùng với ta, bên cạnh ta còn có sự chung tay góp sức cùng ta làm nên việc lớn. Nhìn lại lịch sử chiên đấu hào hùng của dân tộc, ta thấy rằng sở dĩ ta có thể dệt nên những trang sử vẻ vang, ta có thể anh dũng chiến đấu giành thắng lợi, đem lại hòa bình, tự do cho dân tộc được vì sự đồng lòng, đoàn kết của nhân dân. Chính những cá nhân nhỏ bé, riêng lẻ đã tạo nên một sức mạnh tập thể vô cùng lớn lao, có thể quét sạch quân thù. Hay hình tượng người anh hùng Thánh Gióng, nhờ có cơm áo của bà con làng xóm mà Gióng vươn vai trở thành tráng sĩ, xông pha trận mạc đánh tan giặc Ân. Hình tượng ấy đã được truyền thuyết hóa, thực chất đó chính là tinh thần đoàn kết của nhân dân đồng lòng chống giặc.
Qua đó, ta thấy sự khiêm tốn nhìn nhận, đánh giá vai trò của mỗi cá nhân trong cộng đồng quan trọng biết bao. Biết là thế nhưng chúng ta cũng đừng vì mỗi cá nhân vô cùng nhỏ bé mà quên đi sự đóng góp của bản thân để tạo nên cộng đồng, chúng ta đừng chi biết hưởng thụ những đóng góp của người khác mà làm mờ nhạt đi vai trò của mình, làm mình trở thành gánh nặng cho người khác, cho cộng đồng, xã hội. Bởi lẽ tất cả mọi thứ lớn lao đều được hình thành từ những gì bé nhỏ nhất. Một hạt cát bé nhỏ thật nhưng nếu không có những hạt cát kia thì làm gì sa mạc mênh mông đến vậy. Một giọt nước không là gì nhưng biển làm sao bao la khi không còn những giọt nước ấy. Vì vậy, ta có thể thấy cá nhân là một nhân tố quan trọng, là cơ sở để hình thành nên cộng đồng tập thể. Để những cá nhân có thể đóng góp sức mình vào phần chung to lớn, chúng ta không được quyền quên đi những đóng góp của họ. Vì biết đâu nỗi buồn bị lãng quên sẽ làm giảm đi nhiệt huyết trao tặng của họ, dù cho những đóng góp kia cho đi không phải mục đích là được nhận về. Như những người lính tuổi còn rất trẻ đã cho đi tuổi xuân, cho đi xương máu của mình vì một cái chung to lớn. Hay những người mẹ Việt Nam anh hùng đã đóng góp từng củ khoai, bát gạo cho các chiến sĩ, đóng góp cả những đứa con ưu tú cùa mình để rồi âm thẩm khóc nghẹn trong lặng lẽ khi hay tin các anh hi sinh, các anh không về. Các mẹ đã hi sinh hạnh phúc riêng của mình vì cộng đồng, vì tập thể to lớn kia. Những con người ấy họ đã cho đi mà có nề hà chi. Họ hi sinh cái phần cá nhân bé nhỏ của mình đâu phải vì huy chương, vì chiến công. Họ ra đi mà không cần đền đáp lại. Nhưng những lòng biết, những niềm cảm thông chia sẻ của chúng ta sẽ làm họ vui hơn rất nhiều, sẽ giúp họ cảm thấy ấm áp mà nhiệt tình hơn trong trao tặng. Chúng ta cũng không nên đóng góp sức mình mà lại đòi hỏi một sự công nhận thật tương xứng với công lao mà mình bỏ ra. Vì đó thực chất chi là một cuộc trao đổi chứ không phải cho đi vì cộng đổng. Vì vậy, chúng ta phải có quan niệm: mình vì mọi người, mọi người mình. Chúng ta cho đi thì ta sẽ được nhận về. Dù có lớn hay không thì sự nhận về ấy vẫn luôn có ý nghĩa.
"Ta là con chim hót; Ta là một cành hoa; Ta nhập vào hòa ca; Một nốt trầm xao xuyến...” (Thanh Hải)
Nhà thơ Thanh Hải cũng đã từng suy nghĩ về triết lí này trong cuộc đời sáng tác văn chương của ông. Ông muốn làm một chú chim để dâng cho đời tiếng hót, muốn làm một bông hoa điểm tô thêm sắc hương cho cuộc sông, một nốt nhạc trầm để lại cho người nghe những dư âm xao xuyến. Và ông gọi đó là "Mùa xuân nho nhỏ" của mình. Khát khao của ông, ước muốn của ông nhỏ bé thật nhưng nó đáng quý biết bao. Vậy đây, cuộc sống của chúng ta là thế. Ông chỉ muốn được là góc nhỏ của mùa xuân vì ông biết rằng mùa xuân lớn kia, mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước. Từ mùa xuân bé nhỏ ấy, ta mới thấy ước muốn đóng góp lúc nào nó cũng đáng quý, dù đóng góp nhỏ bé hay lớn lao thi nó cũng có ý nghĩa vô cùng. Ta và tôi, cá nhân và cộng đồng... tất cả đã tạo nên mối quan hệ mật thiết giữa những điều bé nhỏ và những thứ lớn lao trong cuộc sống. Đó chính là triết lí sống vô cùng đúng đắn mà con người đúc kết được từ những thực tế cuộc sống. Tiếng ru giản dị, mượt mà, êm đềm nhưng ẩn chứa trong nó là bài học lớn lao. Và tiếng ru đấy vẫn luôn đồng hành trong hành trang cuộc đời cùa chúng , từ thuở bé cho đến khi trưởng thành, giúp ta nhận thức được mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng trong cuộc sống, dạy ta biết đóng góp, biết cho đi tạo nên những bông hoa, những bài ca, những mùa xuân rực rỡ cho đời, người và cho cả chính chúng ta.
Trình bày suy nghĩ của em về tệ nạn cờ bạc hiện nay.
Câu trả lời của bạn
Chúng ta đang sống trong một đất nước không ngừng phát triển trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ. Để làm được điều đó, chúng ta phải vượt qua các trở ngại, khó khăn. Một trong số đó là các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, ma túy, cá độ, văn hóa phẩm đồi trụy. Nhưng đáng sợ nhất chính là cờ bạc. Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về tác hại to lớn của cờ bạc để phòng tránh cho bản thân, gia đình và xã hội.
Để phòng chống một tệ nạn thì chúng ta cần biết rõ về tệ nạn đó. Cờ bạc được định nghĩa như là may rủi trong tiền bạc nhằm mục đích có nhiều tiền nhưng không phải từ việc làm kiếm thêm. Ngoài ra nó cũng được xem như một loại ma túy, một khi đã sa chân vào thì khó có thể mà rút ra. Cờ bạc là trò chơi đỏ đen, may rủi, hên xui nhưng lại cực kì kích thích sự ham muốn chiên thắng trong mỗi con người chúng ta thật khó có thể mà cưỡng lại được. Ông cha ta đã ví cờ bạc như câu nói "ma đưa lối, quỷ dẫn đường". Không những ảnh hưởng đến thời gian, sức khỏe, tiền bạc, sự nghiệp, cờ bạc còn làm cho con người ta mất hết nhân cách, gia đình không hạnh phúc, an ninh xã hội kém. Cờ bạc cũng có nhiều loại như : tổ tôm, bài cào, sạp xám, cá độ đá banh...
Chúng ta thường nghe nói cờ bạc là vi phạm pháp luật, là nguy hiểm nhưng chẳng mấy ai quan tâm đến điều đó, mọi người cho rằng cờ bạc chỉ là một thú vui bình thường giúp mọi người xả stress. Thế nhưng công nghệ đánh bạc ngày càng phát triển, cùng với việc gia tăng số lượng người trẻ tham gia vào các hoạt động này đã làm dấy lên nhiều mối đáng lo ngại cho xã hội. Theo như thống kê của một số quốc gia ; điển hình là nước Úc "Trung bình trẻ em trong độ tuổi 12 - 15 đã bắt đầu chơi bài bạc hoặc cá độ và khi tới độ tuổi 16 - 17, một số em tham gia các hoạt động bài bạc mang tính thương mại" Ngày nay, cùng với sự phổ biến của Internet, bài bạc trên mạng thông tin toàn cầu này đang trò thành loại hình giải trí ngày càng phổ biến. Các công ty cờ bạc và cá độ trên Internet rất tích cực "chiêu mộ" người trẻ bằng nhiều biện pháp tinh vi khác nhau và "nhử" họ bằng những phần thường hấp dẫn... Đặc biệt hơn là học sinh chúng ta cùng với hiện tượng mang bài bạc vào lớp đê chơi. Và theo như Qui định của Bộ Giáo Dục thi đó là một trong 5 điều cấm kỵ nhất. Nhiều người cho rằng việc đánh bạc nhằm thể hiện đẳng cấp và trình độ kỹ thuật của họ. Thế nhưng ít ai nghĩ tới những hậu quả tương lai mà họ sắp phái trả như: Nợ nần tăng cao, phải vất vả trong việc trả các sinh hoạt phí thường ngày, phải sống phụ thuộc vào bạn bè và gia đình, ngày càng cảm thấy bất an, dễ cáu giận, bỏ việc hoặc gặp khó khăn khi phải tập trung làm việc, tiêu tốn thời giờ và tiền bạc vào bài bạc hơn là dành thời gian cho gia đình, bạn bè liên tục nghĩ rằng việc tiếp tục đánh bài sẽ giúp giải quyết các khó khăn tài chính, nghĩ rằng bài bạc đã chi phối mọi hoạt động trong đời sống. Và nhất là những bạn học sinh, tuổi đời còn quá dài mà chỉ vì một phút nông nổi, bị bạn bè rủ rê đã đánh mất tương lai. Thật đáng thương! Chốt lại, cờ bạc là mối nguy hiểm mà tất cả học sinh chúng ta phải tránh. Hãy vì tương lai tương đẹp cuả mỗi chúng ta.
Không dừng lại ở đó, cờ bạc như một con sâu đục khoét xã hội. Khiến cho an ninh, trật tự, quốc phòng bất ổn. Để thoả được sự ham muốn, cám dỗ, con bạc không từ một thủ đoạn, hành vi trộm cắp, giết người nào để có tiền cờ bạc. Không chỉ thế, nhà nước, xã hội còn phải tốn tiền để tổ chức lực lượng phòng chống và giải quyết những thiệt hại do người nghiện bạc gây ra. Mất tiền xây dựng các trại cải tạo, giáo dục, điều trị cho người nghiện... Rồi các nước láng giếng sẽ nghĩ sao về đất nước ta, điều đó quả thật là một thiệt hại rất lớn cho nền kinh tế nưóc nhà.
Nhưng các bạn đừng lo, nếu chúng ta biết cách phòng chống thì những mối nguy ngại trên sẽ được giải quyết, sẽ không còn tệ nạn cờ bạc nói riêng và tệ nạn xã hội nói chung... Mỗi người phải có trách nhiệm, tích cực tuyên truyền giáo dục cho người thân mình sự nguy hiểm của bài bạc để không ai bị chết vì thiếu hiểu biết. Luôn tránh xa với cá độ, bài bạc bằng mọi cách, mọi người nên có ý thức sống lối sống lành mạnh, trong sạch, không xa hoa, luôn tỉnh táo, đủ bản lĩnh đế chống lại mọi thử thách, cám dỗ của xã hội.
Cờ bạc quả là một con quỷ khủng khiếp nhất của gia đình và xã hội, còn hơn cả bệnh tật và đói khát. Chúng ta vẫn có thể phòng trừ nanh vuốt của con quý dữ này. Mỗi chúng ta phải nêu cao cảnh giác, chung tay ngăn chặn nó, mở rộng vòng tay đỡ lấy những người nghiện, đừng để họ lún quá sâu vào bóng tối. Đặc biệt là học sinh chúng ta phải kiên quyết nói không với bài bạc, xây dựng một mái trường, một xã hội thân thiện.
Trình bày suy nghĩ của em về chất độc màu da cam.
Câu trả lời của bạn
Chiến tranh đã lùi xa nhưng di hoạ mà nó để lại vẫn hàng ngày hàng giờ làm bao người Việt Nam đau đớn. Trước tình hình ấy, cả nước đã lập quỹ giúp đỡ các nạn nhân chất độc màu da cam nhằm phần nào cải thiện cuộc sống và xoa dịu nỗi đau của họ.
Chất độc màu da cam mà đế quốc Mỹ đã rải xuống các cánh rừng Việt Nam thời chiến tranh đã tạo nên nỗi kinh hoàng cho thế hệ sau của những người đã từng sống ờ những khu vực đó. Những đứa trẻ vô tội, tật nguyền dị dạng, vừa chào đời đã phải lìa đời hoặc nếu sống được thì sức khoẻ, trí tuệ thậm chí cả hình hài đều không bình thường... Những sinh linh quái dị tội nghiệp ấy trở thành nỗi ám ảnh, đau đớn đến tê tái của người thân, gia đình và toàn xã hội.
Nguyên nhân nào dẫn đến thảm hoạ ấy? Chính là do sự vô nhân đạo của giới cầm quyền ở một đất nước đã từng tuyên bố về quyền con người trước toàn thế giới. Để thực hiện âm mưu xâm lược của mình, đế quốc Mỹ đã không từ một thủ đoạn nào kể cả việc vi phạm quyền làm người của những trẻ thơ vô tội. Những bọc nước, cục thịt, quái thai hoặc những sinh thể điên dại, vô tri vô giác do chất độc màu da cam không chỉ khiến cho gia đình đau đớn về tinh thần, khốn khổ về vật chất mà còn là gánh nặng cho toàn xã hội... Những vết thương không mảnh đạn mà đeo bám dai dẳng mãi mãi không lành. Đó chính là tội ác tày trời mà chiến tranh đã gây ra .
Trước tình hình đó nhiều chương trình ủng hộ những nạn nhân chất độc màu da cam đã được tổ chức. Biết bao người đã khóc thương cho những số phận bất hạnh, biết bao chữ ký đã được thu thập để ủng hộ cuộc đấu tranh bồi thường cho các nạn nhân chiến tranh. Ngày đầu tiên, Mỹ rải chất độc chết người này xuống Việt Nam: 10-8-1961 đã trở thành ngày "Vì nạn nhân chất độc màu da cam". Cả nước Việt Nam đã lập quĩ giúp đỡ các nạn nhân khốn khổ. Đó là việc làm cần thiết để giúp đỡ họ phần nào cải thiện cuộc sống và xoa dịu nỗi đau. Nhiều em bé tật nguyền, côi cút đã được chăm sóc, nhiều tổ chức chính quyền, doanh nghiệp, cá nhân đã xây dựng nhà tình nghĩa, tặng xe lăn, tiền, quà, thăm hỏi và giúp đỡ các nạn nhân. Nhiều nhóm tình nguyện viên được thành lập để làm việc tại các trung tâm bảo trợ nạn nhân chất độc màu da cam... Dầu biết rằng tất cả những giúp đỡ đó không thế bù đắp được những mất mát, đau đớn của họ song đó thực sự là hành động đền ơn đáp nghĩa, phù hợp với truyền thống"tương thản tương ái", "uống nước nhớ nguồn" của dân Việt Nam ta.
Việt Nam đã cố gắng để xoa dịu nỗi đau chiến tranh, song "ơn phải trả, oán phải đền". Chính phủ Mỹ và 37 công ty hoá chất đã cung cấp chất độc này cho quân đội Mĩ cũng phải chịu trách nhiệm về sự vô nhân đạo của mình .
Nỗi đau của những nạn nhân da cam là một nỗi ám ảnh dai dẳng, việc giúp họ cần phải làm thường xuyên và liên tục. Bởi vậy, mỗi chúng ta cần nhận thức sâu sắc về vấn đề này, tích cực học tập, phấn đâu xây dựng xã hội tốt đẹp ở đó mọi người đều được đảm bảo quyền sống và quyền hạnh phúc.
Nghị luận xã hội về khen và chê.
Câu trả lời của bạn
Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn hoá nhân loại. Từ thời cổ đại, người dân Trung Quốc có quyền tự hào về những bậc học giả, về những người thầy lỗi lạc, uyên bác với những triết lí nhân sinh trở thành chân lý cho mọi thời đại. Tuân Tử là một trong số những bậc vĩ đại ấy. Và câu nói của ông: "Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ là kẻ thù của ta vậy", cũng đủ cho hậu thế phải suy nghĩ.
Xã hội loài người ngày càng phát triển về kinh tế, về tư tường, nhận thức và cũng song hành với phát triển sự phức tạp trong mọi quan hệ đời sống. “Miệng lưỡi thế gian" là điều không thể tránh khỏi. Mỗi con người sống chung trong đồng loại cần phải biết chấp nhận lời chê tiếng khen của mọi người, nhưng để nhận biết sự "thật" - "giả" trong mỗi lời khen tiếng chê, để có ứng xử thích hợp, quả không đơn giản. Câu nói của Tuân Tử đã giúp chúng ta cái kính chiêu yêu" nhận biết đâu là "thầy", đâu là "bạn", đâu là "thù" trong cuộc đời đầy phức tạp đó.
Là một con người, kể cả bậc vua chúa, vĩ nhân, trong cuộc sống, thật khó tránh khỏi những sai lầm. Những lúc như thế hẳn chúng ta nhận được những lời nhận xét của mọi người. Tất yêu, mỗi người khác nhau, sẽ có những nhận xét, thái độ khác nhau về ta. Điều quan trọng là ở chính bản thân ta: biết nhận ra cái đúng, cái sai của mình; quan trọng hơn, trong vô số những lời "khen” "chê" đó, ta nhận ra ai là "thầy ta", ai là "bạn ta", ai là "kẻ thù" của ta vậy!
Lời dạy của Tuân Tử thật chí lí: "Người chê ta mà chê đúng là thầy ta, người khen ta mà khen đúng là bạn ta". Mỗi người, khi phạm điều sai, tự mình không dễ gì nhận ra. Người nhận ra cái sai của ta, lại "chê"- tức khẳng định cái sai của ta và chi cho ta biết - hẳn phải là người có tầm tri thức, hiểu biết hơn ta. Người đó xứng đáng là bậc "thầy" của ta về trí tuệ. Hơn thế người thấy và dám chỉ cho ta nhận ra cái sai của mình, để mình có hướng khắc phục, sửa chữa, hẳn đó phải là người có cái tâm thật cao quý: những muôn cho chúng ta nhanh chóng tiến bộ. Chúng ta, về thái độ, tình cảm không thể không tôn trọng người đó là bậc "thầy" về nhân cách để ta học tập.
Người "khen ta mà khen phải"- nghĩa là người đó không những không kị, hiềm khích trước những cái tốt, cái mạnh của ta, mà còn "khen", cùng chung vui, chia ngọt sẻ bùi... Đó hẳn là người bạn tốt, người bạn tri âm, tri kỉ của ta vậy. Cuộc đời mỗi chúng ta, nếu có được nhiều người "thầy", người "bạn" như thế thì hạnh phúc biết bao nhiêu.
Tuy nhiên, trong cuộc sống, không phải ai khen hay chê ta đều là "thầy”, là "bạn'' của ta. Tuân Tử đã một lần nữa chỉ cho ta biết cách nhận ra " bộ mặt thật của những "kẻ" hiểm độc đó. Đó là "kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta", Tuân Tử tỏ thái độ rõ rệt, dứt khoát khi gọi những loại người đó "là kẻ thù của ta vậy". Nhưng để nhìn ra đâu là bạn "khen ta mà khen đúng" với "những kẻ vuốt ve, nịnh bợ” thì không dễ. Trước hết, kẻ vuốt ve, nịnh bợ, họ khen ta là xuất phát mục đích mong cầu lợi ích riêng của chính họ. Bởi vậy, thành tích của ta chỉ có một, chúng thổi phổng lên ba, bốn hoặc nhiều hơn thế. Thậm chí, có khi chúng còn nguỵ biện "phù phép" những khuyết điểm, sai lầm của ta thành "thành tích". Những kẻ luôn lấy việc "nịnh bợ" để tiến thân, khiến cho người được khen ngày càng tự đánh mất mình, xa rời lẽ phải... Thật đáng tiếc là những kẻ đó thời đại nào cũng có. Sử sách đã ghi lại không biêt bao nhiêu bậc vua chúa đã bị những kẻ nịnh thần làm cho u mê, dẫn đến hãm hại trung thần, triều chính đổ nát, xã tắc suy vong. Lời dạy của Tuân Tử lại một lần nhắc nhờ mỗi chúng ta cần sáng suốt để nhận ra đâu là "bạn ta" khen ta thật lòng; đâu là "kẻ vuốt ve, nịnh bợ" ta.
Không chỉ đúng với xã hội xưa, mà ngày nay và với tất cả mọi người, ở trên mọi lĩnh vực, lời dạy của Tuân Tử như một chiếc kính "chiếu yêu" giúp chúng ta nhận ra người tốt, kẻ xấu trong cuộc sống, trong học tập. Khi kinh tế thị trường mở cửa, thì đội ngũ những kẻ chạy theo lợi nhuận, vì danh, vì lợi ngày càng nhiều. Nhân viên nịnh bợ thủ trưởng, cấp dưới luôn luôn vuốt ve, chiều ý cấp trên; các bạn lười học thì xun xoe các bạn học giỏi đế cầu "phao cứu trợ” trong thi cử, kiểm tra... Hành động của những kẻ đó có thể khác nhau, nhưng đều chung một bản chất: mưu cầu lợi ích riêng tư. Nhưng bạn cũng vì những hiện tượng đó mà đánh mất niềm tin vào cuộc đời. Bởi người tốt, những người xứng đáng là "thầy ta", "bạn ta" luôn luôn ở bên ta. Câu nói của Tuân Tử, cũng là một lời nhắc nhở chí tình, chí lí cho chính mỗi chúng ta trong quan hệ ứng xử với mọi người. Chúng ta muốn mọi người chê ta lòng - như Tuân Tử đã dạy- ta phải biết coi trọng những người đó như bậc thầy của ta". Cũng vậy, với bạn bè, đồng đội, ta phải sống với cái tâm chân thành dám chỉ ra những khuyết điểm của bạn mà ta nhận thấy, với thức cầu mong cho bạn mình ngày càng hoàn thiện. Mỗi chúng ta cần biết "chia ngọt sẻ bùi với bạn bè coi thành tích của bạn làm niềm vui chung cùng chia sẻ".
Trình bày suy nghĩ của bạn về: Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng chính mình.
Câu trả lời của bạn
Trong thời đại khoa học tiên tiến như hiện nay, giáo dục đóng vai trò vô cùng quan trọng. Học tập là vấn đề được toàn xã hội quan tâm. Vậy học hỏi để làm gì? Trả lời cho câu hỏi này UNESCO đã đề xướng mục đích học tập: "Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình".
Mục đích học tập mà UNESCO để ra không chỉ phù hợp với thời đại mà luôn là mục đích rất nhân văn. Mục đích học tập phải đáp ứng hai yêu cầu: tiếp thu kiến thức và yêu cầu thực hành, vận dụng kiến thức, từng bước hoàn thiện nhân cách. Trước hết: "học đế biết”. Bài học đầu tiên của mỗi học sinh là học chữ cái, con số rồi cách viết, cách đọc. Chính từ nên tảng cơ bản nhất ây đã dần hình thành nên một hệ thống kiến thức toàn diện ở mức phổ thông. Học ở đây quá trình tiếp nhận kiến thức do người khác truyền lại và tự mình làm giàu vốn kiến thức cho mình. Qua việc học, chúng ta biết được những quy luật vận động của tự nhiên, những quy tắc chuẩn mực của xã hội, cách sống và hiểu hơn về giá trị cuộc sống. Thu nhận kiến thức có thể nói là mục đích học tập cơ bản nhất. Học tập trau dồi trí thức cho con người và làm cho trí tuệ con người sáng rạng ra.
Tuy nhiên, ông cha ta quan niệm: "Trăm hay không bằng tay quen”. Nếu như chỉ chăm học lí thuyết mà không chịu thực hành thì khi làm việc tránh khỏi những khó khăn, thậm chí là thất bại. Một ví đụ dễ thấy rằng cuộc sống của chúng ta, không ít người hiểu rộng biết nhiều nhưng khả năng thực hành lại rất kém. Ngược lại, tại sao những người nông dân "chân lấm tay bùn” suốt ngày "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” không được học hành đào tạo qua trường lớp nào mà tay nghề lại tài giỏi, xuất sắc như vậy? Đó là khả năng quan sát, đúc rút kinh nghiệm trong lao động của họ. Những người hay nói mà không hay làm là những người vô dụng. Đó là những con người biết trang trí bản thân chứ ko biết rèn luvện bản thân.
Như vậy "học" thôi chưa đủ mà còn phải "đi đôi với hành" nữa. Tất nhiên chúng ta ko nên nghiêng phiên diện một phía: "học" quan trọng hơn "hành" quan trọng hơn mà cần biết điều hòa kết hợp giữa hai yêu tố đó. Trong xã hội ngày nay, tri thức là tiền đề quan trọng. Để hoàn thành công việc có kĩ thuật cao cần phải nắm vững lí thuyết để vận dụng cho phù hợp. Công nghệ hiện đại khác nhiều với việc cày cấy, luân phiên mùa vụ của nông dân trên đồng ruộng. Lí thuyết gắn với thực hành sẽ tạo ra năng suất công việc cao hơn. Qua đây, ta thấy được tác động hai chiều giữa "học” và "hành", "biết" và "làm", chúng bổ sung, tương tác với nhau, là hai mặt của quá trình.
Bên cạnh việc đề cao giữa thu nhận kiến thức và thực hành, UNESCO đã chỉ ra:" học để chung sống, học để tự khẳng định mình". Đây chính là mục đích học tập rất nhân văn. Học tập giúp ta hiểu hơn về thế giới xung quanh làm cho những trạng thái tâm hồn ta trở nên linh hoạt hơn, đa dạng phong phú hơn. Ta đã biết mỉm cười trước niềm vui của người khác, biết đau trước những nỗi đau của con người, biết giúp đỡ, chia sẻ, cảm thông và tìm được chính mình. Tri thức tự nó đã là sức mạnh giúp cho con người rộng lượng hơn, vị tha hơn và tự tin hơn trong cuộc sống.
Ngày nay, cuộc sống hiện đại đã tác động đến suy nghĩ con người. Một bộ phận học sinh, sinh viên thời nay đã không xác định đúng đắn mục đích học tập của mình. Họ miệt mài trong học tập như cái máy, coi việc học như nhiệm vụ, trách nhiệm không thể chối bỏ, đối với cha mẹ, thầy cô. Họ học cho bằng cấp, cho sự nghiệp công danh mà họ trở nên thực dụng trong việc học và quên đi lợi ích của việc học, thiết nghĩ: nếu như cả xã hội này coi học tập chi là nghĩa vụ bắt buộc và chỉ dừng lại ở mức độ biết thì mỗi cá nhân sẽ không phát huy được tài năng, cá tính sáng tạo của bản thân và vô tình kim hãm sự phát triển xã hội. Vì vậy việc xác định mục đích học tập là rất quan trọng.
Mục đích học tập mà UNESCO đề xướng rất đúng đắn, nhân văn. Qua đó ta định hướng học tập dễ dàng hơn, việc học trở nên hiệu quả và hữu ích hơn. Tri thức như một cái thang dài vô tận, bước qua một bậc thang ta có thêm hành trang để tự tin bước lên bậc kế tiếp. Học vấn làm đẹp con người!
Trình bày ý kiến của mình về các nữ sinh thời nay nên mặc áo dài truyền thống hay trang phục hiện đại khi đến trường.
Câu trả lời của bạn
Trên đường phố ngày nay, ta thường bắt gặp những tà áo dài thướt tha, tinh khôi của những nữ sinh xen lẫn vào đó là những đồng phục trẻ trung, năng động tạo nên khung cảnh đẹp mắt trong những dịp tựu trường. Có nhiều ý kiến khác nhau là nên mặc áo dài truyền thống hay đồng phục hiện đại, chúng ta hãy cùng nhau thảo luận về vấn đề này.
Áo dài truyền thống là sắc phục của dân tộc ta, là quốc hồn, quốc túy của đất nước Việt Nam. Áo dài không chỉ đơn giản là trang phục để mặc mà còn là biểu tượng văn hóa, thể hiện bản sắc dân tộc, gắn liền với bao thăng trầm lịch sử. Trải qua nhiều biến đổi cách tân, đến ngày nay áo dài vẫn giữ được nét đẹp vốn có của nó, đi vào lòng những người con quê hương và được bạn bè năm châu biết đến. Đồng phục hiện đại là các loại váy hay quấn kết hợp với áo sơ mi trẻ trung, giúp cho các bạn học sinh cảm thấy thoải mái nhưng cũng không kém phần lịch sự, gọn gàng.
Khác với kimono của Nhật hay hanbok của Hàn Quốc, áo dài Việt Nam vừa truyền thống lại vừa hiện đại, loại trang phục này không giới hạn mặc ở một số nơi hay dịp mà có thể mặc mọi lúc, mọi nơi, dùng làm trang phục công sở hay đi học, đi chơi. Chiếc áo dài, đặc biệt là áo dài nữ sinh có một nét đẹp duyên dáng mà không loại trang phục nào có được. Áo dài làm cho nữ sinh thêm dịu dàng, thướt tha, gợi nên cảm xúc xao xuyên khó tả cho những nơi tình cờ bắt gặp. Hình ảnh nữ sinh Việt Nam trong trang phục áo dài đã đem đến cho các nhà thơ, nhà văn nguồn cảm hứng vô tận, như trong bà "Áo lụa Hà Đông" của Nguyên Sa: "Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát; Bởi vì em bận áo lụa Hà Đông...”
Hay trong bài "Tương tư" có khô: “Có phải em mang trên áo bay/ Hai phần gió thổi, một phần mây/ Hay là em gói mây trong áo;Rồi thở cho làn áo trắng bay.” Tà áo dài đem đến cho người phụ nữ Việt Nam nói chung và nữ sinh nói riêng một nét đẹp đăc trưng mà những người con xa quê hương luôn khắc trong tâm tưởng, luôn khát khao một lần bắt gặp, để lại cho những nữ sinh trung học một thời để nhớ, để thương. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng áo dài truyền thống. không còn phù hợp với nữ sinh ngày nay."Tại sao nữ sinh đi học lại phái bận áo dài?” đó là câu hỏi của hầu hết các bạn gái đã hoặc đang vào ngưỡng phổ thông. Với những bạn có vóc dáng thon thả thì rất thích hợp với áo dài, còn với những bạn có vóc dáng béo tròn thì mặc áo dài quá là cực hình. Trong những ngày mưa, đường lầy lội sẽ làm bẩn hết áo dài và màu trắng sẽ bị dây bẩn. Ngoài ra, mặc áo dài nữ sinh khó có thể vận động, chạy nhảy thoải mái và trong những tháng nóng nực thì áo dài càng làm nóng bức và dẫn đến mệt mỏi.
Ở nước ngoài, đặc biệt là những nước tiên tiến, phát triển trên thế giới trang phục đi học là tự do. Các học sinh, sinh viên chi cần mặc quần áo gọn gàng, sạch sẽ, lịch sự là được. Tuy thoải mái về ăn mặc nhưng nền giáo dục của họ rất tiên tiên, họ không quan tâm đến bề ngoài mà chỉ quan tâm đến chất lượng học tập. Từ xưa đến nay, áo dài là một nét truyền thông văn hóa của người Vịệt Nam. Người ta luôn mặc nó trong những ngày lễ hội, Tết nhưng việc mặc áo dài vào trường học chưa được xem xét kĩ.
Hơn nữa, không phải gia đình nào cũng có điều kiện may cho con em một vài bộ áo dài để mặc, trong khi đó giá một bộ đồng phục lại rẻ hơn nhiều, phụ huynh cũng không phải tốn công đi mua vải, tìm thợ may cho con em mình một bộ vừa ý.
Việc mặc đồng phục khi đến trường là một quy định bắt buộc đối với nhiều trường phổ thông hiện nay và không thể phủ nhận rằng những tà áo dài trắng chỉnh tề đã làm nên một nét đẹp thể hiện sự quy củ, tính kỉ luật và trang nghiêm trong mái trường chúng ta. Nếu việc mặc đồng phục khi đến trường được coi như một nội quy bắt buộc thì đã có sự đa dạng trong mẫu mã và kiểu dáng của bộ đồng phục học sinh. Như trước kia, hễ nghĩ đến bộ đồng phục học sinh, chúng ta thưòng nghĩ đến quần xanh, áo trắng mặc đồng phục có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau, song giờ đây việc mặc đồng phục đã tạo nên phong trào giữa các trường phổ thông, tạo nên nét đẹp mới cho mái trường Việt Nam.
Những bộ váy ca rô xếp nếp kết hợp với áo sơ mi trắng, những chiếc quần quây kết hợp cùng cà vạt đồng màu đem lại sự thoải mái cho người mặc. Những đồng phục này đã được cách tân và tiện dụng hơn rất nhiều, chúng mát thấm hút mồ hôi nhanh hơn, người mặc dễ vận động, góp phần không vào việc giúp các bạn học tốt hơn, năng động và sáng tạo hơn, lứa tuổi mới lớn sẽ hồn nhiên hơn, không còn bị gò bó trong tà áo dài cổ kính.
Tuy nhiên, bộ đồng phục hiện đại cũng làm mất đi vẻ đẹp dịu dàng, thướt tha vốn có của nữ sinh. Mai sau, khi rời xa mái trường, cũng không có gì đọng trong tâm trí, không còn hình ảnh đáng nhớ về một thời cắp sách tới trường. Tốt hơn là nên kết hợp cả trang phục truyền thống và hiện đại. Nhiều trường phổ thông đã áp dụng mặc áo dài vào ngày đầu tuần và đồng phục cho những ngày còn lại. Biện pháp đó là hiệu quả nhất vì vừa giữ được nét đẹp truyền thống mà các bạn nữ sinh chỉ phải mặc áo dài vào thứ hai, nên sẽ cảm thấy thoái mái hơn, tiện lợi trong hoạt động. Cho dù là áo dài truyền thống hay đồng phục hiện đại thì nữ sinh cũng nên giữ phẩm chất của mình, luôn trong sáng dịu dàng hồn nhiên và chấp hành tốt nội quy nhà trường.
Áo dài truyền thống và đồng phục hiện đại nên giao hòa với nhau tạo nên đẹp đáng yêu cho nữ sinh, vừa tôn lên nét đẹp truyền thống vừa tạo nên đẹp mới cho mái trường Việt Nam.
Suy nghĩ về hiện tượng tiếp nhận văn hoá ngoại lai của giới trẻ hiện nay?
Câu trả lời của bạn
Trong tác phẩm nhìn về vốn văn hoá dân tộc của Trần Đình Hượu viết con người hình thành bản sắc dân tộc của văn hoá không chỉ trông cậy vào sự sáng tạo mà còn trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh, sự đồng hoá những giá trị văn hoá bên mình. Anh chị trình bàv suy nghĩ của mình vẽ hiện tượng, tiếp nhận văn hoá ngoại lai của giới trẻ hiện nay.
Vượt hành trình gian nan để đổ về đại dương, dòng sông luôn khởi nguồn từ đất liền, chảy qua bao vùng miền để hoà vào biển lớn. Dòng sông văn hóa Việt Nam cũng khởi nguổn từ quá khứ 4000 năm lịch sử, chảy trong thời gian qua các miền văn hoá kế thừa và sáng tạo kết tụ lại thành những giá trị văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Nhưng "con đường hình thành bản sắc dân tộc của văn hoá không chỉ trông cậy vào sự tạo tác của chính dân tộc đó mà còn trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh, khả năng đồng hoá các giá trị hoá bên ngoài"- quan điểm đó của Trần Đình Hượu đã đặt ra trong lòng độc giả những trăn trở, đặc biệt trong hiện tượng tiếp nhận văn hoá ngoại lai của giới trẻ hiện nay.
Văn hoá Việt Nam hình thành sớm, xuất hiện từ những ngày công xã nguyên thuỷ, phát triển qua nền văn minh lúa nước, hình thành những nền hình văn hoá dân gian từ sự chạm khắc của miền truyền thuyết, ca dao, cổ tích với những tập tục ăn trầu, búi tóc từ thủa cổ xưa:
"Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu...."
Và cùng với sự ra đời của nhà nước quân chủ chuyên chế xã hội phong kiến đã mang đến cho nền văn hoá Việt nam những dấu ân đặc sắc mang đậm tính chất Á Đông. Người Việt Nam có quyền tự hào về vốn văn hoá đậm đà thuần Việt cả trong những lĩnh vực Văn học, nghệ thuật, kiên trúc, hội họa, điêu khắc... Với nền văn học dân gian phong phú thể loại (truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, thơ nôm, sử thi...) mà đỉnh cao là thể thơ lục bát vẫn được sử dụng đên ngày nay. Kiến trúc Việt Nam với những mái đình cổ kính, thấp thoáng ẩn hiện dưới những gốc đa, sau những rặng tre xanh, giếng nước, sân đình... Các làn điệu dân ca như ca trù, quan họ, cải lương. những nghệ thuật hội hoạ dân gian Đông Hồ.... có thể coi là những thành quả đã có làm cơ sở xây dựng một nền văn hoá phong phú đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Nhưng "con đường hình thành bản sắc dân tộc đâu chi trông cậy vào khả năng tạo tác "tức là sáng tác, kế thừa và phát huy những gì đã có mà còn "trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh, sự đồng hoá những giá trị văn hoá bên ngoài". Phải chăng, hành trình phát triển văn hoá từ sông ra biển chính là sự đồng hành của quá trình giao lưu và tiếp biến văn hoá - cũng chính là khả năng đôgng biến và chiếm lĩnh những giá trị văn hoá bên ngoài? Khả năng lĩnh và đồng hoá phải chăng là khả năng tiếp thu hội nhập nhiều nền hoá, khả năng đón nhận những ảnh hưởng của nền văn minh văn hoá lớn, khả năng tiếp thu chủ động, biến những cái ngoại lai thành cái của mình và có sàng lọc. Do bối cảnh của lịch sử với bao thăng trầm, trước những dòng chú lưu về văn hoá ồ ạt theo con đường cai trị của phong kiến thực dân xâm nhập vào văn hoá Việt Nam một cách có hệ thống thì việc "chiếm lĩnh" và" đồng hóa" để ko bị chiếm lĩnh và đồng hoá lại là vô cùng cần thiết, nó quyết định tới sự tổn tại riêng rẽ của một nền Văn hoá Việt không thể hoà lẫn. "Truyện Kiều" của Nguyễn Du cũng là một cách tiếp thu có chọn lọc những giá trị của văn Trung Hoa từ "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân để trở thành đỉnh cao của văn học dân tộc, sự chuyển thể từ thể loại truyện sang truyện thơ (Nôm) là một sự đồng hóa hết sức sáng tạo và tích cực của đại thi hào Nguyễn Du. Các thể thơ nôm đường luật cũng là hệ quả của quá trình tiếp nhận và lĩnh hội có chọn lọc như thế. Kiến trúc văn hoá đình chùa ảnh hường từ phật giáo từ Trung Quốc hay Ấn Độ nhưng vẫn mang dáng vẻ kiên trúc Việt Nam cũng là một minh chứng diệu kì cho khả nàng "chiếm lĩnh" và "đồng hoá" những giá trị Văn hoá bên ngoài.
Cùng với sự đổi thay của lịch sử, bước sang kỉ nguyên hội nhập với bao thay đổi của nến kinh tế thị trường, trước ngưỡng cửa của sự xâm nhập văn hoá với quy mô toàn cầu thì nhận định của Giáo sư Trần Đình Hượu đặt ra bao suy tư cho giới trẻ về trách nhiệm của bản thân trong thời đại mới. Trước dòng chảy xâm nhập ào ạt của nền văn hoá ngoại lai từ các nền văn minh trên thế giới, một bộ phận thanh niên Việt Nam đã biết nắm bắt lấy thời cơ, phát triển nền văn hoá dân tộc vốn đã giàu đẹp ngày càng văn minh và tiến bộ hơn. Sự tiếp thu có hệ thống các hệ tư tưởng văn hoá tây phương với những phong cách nghệ thuật thơ văn của Pháp, Italia, Anh, hay Đức, các công trình kiến trúc đậm dấu ấn cổ điển hay hiện đại của những quốc gia này cũng được tiếp thu và thiết kế bài bản. Chính sự năng động và sáng tạo đó đã góp phần làm ăn minh hơn, giàu có hơn cho bản sắc văn hoá Việt Nam, tạo nên sự phôi trộn hài hoà giữa cũ và mới, cổ điển và hiện đại, truyền thống và cách tân. Sự giao lưu và tiếp biến được coi là "nguồn gen tiến hoá" cho sự phát triển của văn hoá dân tộc trong giai đoạn giao lưu và hội nhập. Nền văn hoá Internet, văn hoá Online, văn hoá Game, hay sự thay đổi của trào lưu thời trang trên thế giới góp phần lột xác hình ảnh đất nước Việt Nam vốn vẫn được biết đến là nền văn hoá nông nghiệp với hình ảnh "con trâu đi trước cái cày theo sau". Đế làm được điều đó, không chi đòi hỏi người thanh niên Việt Nam phải năng động, sáng tạo biết nắm bắt du nhập một cách có chọn lọc mà còn đặt ra vấn đề bảo tồn những nét văn hoá truyền thống cũ, hoà nhập nhưng không hòa tan đó cũng là một thách thức đầy khó khăn, là những chướng ngại vật trong hành trình dòng chảy tiếp biến, hội nhập. Bởi bên cạnh những cá nhân, tập thể tích cực cùng tồn tại không ít những thanh niên sống thiếu lí tưởng, không có mục đích rõ ràng, du nhập văn hoá một cách tràn lan, máy móc, cả những nền văn hoá vốn không mang nhiều giá trị nhân văn thẩm mĩ chỉ đê thoả mãn nhịp sống gấp, sống sành điệu của một bộ phận giới trẻ ngày nay. Đó là bộ phận biểu hiện lối sông ngoại lai mất gốc, xa rời văn hoá truyền thống dân tộc, hòa tan một cách hoàn toàn trong dòng lũ hội nhập mà tự đánh mất chính mình. Một số khác lại có tư tưởng bảo thủ, không chiếm lĩnh, đồng hoá văn hóa ngoại lai, chỉ khư khư chăm chút cho cái vốn văn hoá xưa của dân tộc, không chịu du nhập, đổi mới, Bất giác,ở họ gợi lên hình ảnh về biển Chết, suốt đời chi khư khư khép mình, ko nhận nước từ bất kì dòng chảy nào nên chưa có sự sống của các loài sinh vật lại nghèo nàn đến thế, co thê nói, cả 2 điều trên đều có ảnh hưởng tiêu cực, là bước cản trở trên con đường xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Ý thức được trách nhiệm và sứ mệnh của bản thân đòi hỏi mỗi thanh niên của thời đại mới cần có thái độ và nhận thức đúng đắn về trách nhiệm, xác định lập trường tư tưởng vững vàng, để phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt thiếu sót của văn hoá dân tộc, tích cực quảng bá văn hoá dân tộc tới bạn bè quốc tế có thái độ tôn trọng đúng mực và chiếm lĩnh đồng hoá hiệu quả văn hoá ngoại lai. Điều đó là một ẩn số chỉ được giải quyết bằng bất đăng thức hành động của mỗi con người.
Có một câu hỏi khá phổ biến khi ta đặt chân lên xứ người. "Bạn đến đâu". Hãy tự hào trả lời 2 tiếng "Việt Nam" và giới thiệu cho họ về đất nước hình chữ S - khi bạn đã tự tin về nền văn hoá đậm đà bản sắc của mình!
Nghị luận xã hội: Giữ lấy truyền thống dân tộc.
Câu trả lời của bạn
Từ thời xa xưa, ông bà ta đã thường sử dụng những câu thành ngữ, tục ngữ để răn đe và nhắc nhở con cháu của mình về những phẩm chất, đạo lí cần thiết của mỗi người ai cũng phải có như là: "một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con", "ăn quả nhớ kẻ trồng cây", "bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"... các câu tục ngữ, thành ngữ ấy thể hiện lòng hiếu thảo, sự biết ơn và lòng thương người... Trong đó, có câu tục ngữ “uống nước nhớ nguồn" thể hiện phẩm chất đạo đức quan trọng của người Việt Nam, nhất là trong bối cảnh đất nước mình đang ngày một phát triển để hội nhập với nước ngoài thì đạo lí này càng trở nên sâu sắc hơn. Sau đây, tôi và các bạn hãy cùng nhau làm rõ câu tục ngữ này để có thế hiểu tận cùng những ý tứ của người xưa muốn răn dạy chúng ta thông qua câu tục ngữ này.
Thoạt nghe qua thì chắc hẳn ai cũng có suy nghĩ này rất đơn giản, rất dễ hiểu "Nước" là một thứ vô cùng quý giá, không có nước, con người và cây cỏ bị hủy diệt, không có sự sống. "Nguồn" là nơi xuất phát của dòng nước, nhưng đó chi là nghĩa đen của câu tục ngữ. Bên cạnh đó vẫn còn hàm ý sâu xa trong câu tục ngữ đó chính là lòng biết ơn. "Nước" chính là những thành quả của cha anh ta đã có công xây dựng nên. Vì vậy, khi thừa hưởng thành quả đó, chúng ta phải biết nhớ đến những người đã tạo ra nó, đồng thời phải biết giữ gìn quý trọng và không được lãng phí. Mặt khác, chúng ta phải có bổn phận phát huy phẩm chất đạo đức tốt đẹp này và truyền lại cho các lớp đàn em sau. Với những lời lí giải trên, chắc hẳn tôi và các bạn có thể hiểu được thế nào "uống nước nhớ nguồn" và tại sao khi "uống nước" chúng ta phải "nhớ nguồn". Trước tiên chúng ta phải thừa nhận một điều rằng đây là một đạo lí đúng và mỗi người cần phải thực hiện. Trong thiên nhiên và xã hội, không có sự vật nào là không có nguồn gốc. Trong cuộc sống, không có thành quả nào không do công sức lao động tạo nên. Trong lịch sử Việt Nam đã trải qua hai cuộc kháng chiên chống Pháp và chống Mĩ vô cùng gian khổ, nhiều người hi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc cá nhân và hơn thế nữa, có người đã phải hi sinh cả mạng sống của mình để chiến đâu giành lại độc lập cho đất nước. Họ đã chiến đấu với một ý chí kiên cường, anh dũng với mong muốn đất nước sớm được thống nhất và độc lập. Ngày nay, đất nước ta đã có được những điều đó và ngày một phát triển, hội nhập với thế giới. Đó chính là nhờ vào những công lao của cha anh ta, của những người đi trước. Chúng ta là những lớp đàn em, những thế hệ đi sau nên được thừa hưởng những thành tựu mà cha anh ta đã tạo ra. Vì vậy, chúng ta phải nhớ đên những người đã tạo ra những thành quả cho chúng ta. Ta phải biết đền đáp xứng đáng, đó chính là bổn phận tất yêu mà mỗi người chúng ta phải thực hiện. Ví dụ như: Hằng năm, nhà nước ta thường xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương cho các bà mẹ Việt Nam anh hùng, cấp vốn cho những thương binh liệt sĩ và tạo điều kiện cho họ làm ăn để cải thiện cuộc sống. Đó chỉ là một phần nhỏ những gì chúng ta làm được so với những gì mà cha anh ta đã làm. Ngoài ra, lòng biết ơn giúp ta gắn bó với người đi trước, với tập thể..., từ đó hình thành một xã hội thân ái đoàn kết. Ở nhà trường, các bạn học sinh cùng nhau quyên góp tiền để giúp đỡ xây dựng nhà tình thương hay tặng quà cho những gia đình thương binh, liệt sĩ và ở mỗi khu phố, phường, xã thì mỗi gia đình nhỏ cũng làm giông như vậy... thể hiện tính đoàn kết của một xã hội thân ái. Nêu thiếu lòng biết ơn, con người sẽ trở nên ích kỉ, dễ thoái hóa và trở thành kẻ ăn bám gia đình và xã hội. Vì không có lòng biết ơn, ta sẽ không biết quý trọng nhũng thành quả của người khác tạo ra và sẽ sử dụng một cách lãng phí.
Qua câu tục ngữ này, chúng ta đã rút ra được bài học cụ thể cho bản thân "uống nước nhớ nguồn" trước hết là nhớ công sinh thành, dưỡng dục của thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ của mọi người xung quanh, công lao của những thế hệ đã đi trước. Chúng ta phải sống sao cho trọn tình, trọn nghĩa, phải biết quý trọng và giữ gìn những thành quả mà mình được hưởng. Ta hãy học tập và làm việc sao cho xứng đáng với đạo lí làm người và truyền thông dân tộc.
Bạn có suy nghĩ gì về vấn đề: Tầm quan trọng của việc học.
Câu trả lời của bạn
Học hành có tầm quan trọng rất lớn đối với cuộc đời của mỗi con người. Người xưa đã nhắc nhở con cháu rằng: "Nếu còn trẻ mà không chịu học hành đến khi lớn lên sẽ chẳng thể làm được việc gì có ích". Bên cạnh đó còn có những câu: “Có học thì như lúa như nếp, không học thì như rơm như cỏ". Hoặc: "Bất học bất tri lí" (Không học thì không biết lí lẽ, lẽ phải).
Suốt lịch sử phát triển mấy ngàn năm, nhân loại đã tích lũy được một kho tri thức khổng lồ về tự nhiên và xã hội. Những tri thức ấy được lưu truyền từ đời này sang đời khác qua hình thức truyền miệng và chữ viết (sách). Muốn tiếp thu tinh hoa trí tuệ, con người chỉ có một con đường duy nhất là học suốt đời.
Nói đến học là nói đến trí lực, một năng lực suy nghĩ, một trực quan nhạy bén, một tư duy hợp lí. Điều ấy hết sức cần thiết cho tất cả mọi người. Chính vì ngay từ lúc nhỏ, bất kì ai cũng phải được học hành.
Trong mười hai năm ở trường phổ thông, học sinh được cung cấp những kiến thức sơ đẳng của một số bộ môn cơ bản như Toán, Lý, Hóa, Sinh, Văn, Sử, Ngoại ngữ... Tuy thế, học sinh phải chăm chỉ học hành thì mới hiểu và vững kiến thức một cách có hệ thống. Nếu lơ là, chểnh mảng, thiếu nghiêm túc trong việc học hành thì rốt cuộc là tốn thời gian, tiền bạc mà kết thu được chẳng đáng là bao.
Thực tế cho thấy là có học có hơn. Mục đích của việc học là nhằm phục vụ mọi công việc đạt hiệu quả cao. Nếu ta đơn thuần làm việc theo thói quen kinh nghiệm có sẵn thì công việc sẽ tiến triển chậm và chất lượng không tốt. Cách làm như trên chỉ thích hợp với các công việc giản đơn, không cẩn nhiều đến trí tuệ. Còn đối với những công việc phức tạp liên quan đến khoa học kĩ thuật thì cung cách làm việc ấy là lạc hậu, lỗi thời. Muốn đạt hiệu quả trong mọi lĩnh vực, chúng ta bắt buộc phải học, phải được đào tạo chính theo từng chuyên ngành và trong suốt quá trình làm việc vẫn phải học tập không ngừng, bằng mọi hình thức khác nhau.
Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ nhanh như hiện nay tri thức (chất xám) của con người là tiền đề vô cùng quan trọng. Có nắm vững lí thuyết, chúng ta mới làm được những công việc phức tạp.
Lí thuyết khoa học có tác dụng soi sáng, dẫn đường cho kĩ năng thực hành, nên người sẽ rút ngắn được thời gian mò mẫm, tìm hiểu thực tiễn, do đó sẽ tránh được những sai lầm đáng tiếc.
Học không chỉ là quá trình rèn luyện tri thức mà còn là quá trình rèn luyện tình cảm và đạo đức. Con người ngoài cái trí còn cần có cái tâm. Học là để thấu hiểu những lẽ huyền bí của cuộc đời, của vũ trụ chứa đựng trong những kiến thức toán đơn giản hoặc trong những quy luật thịnh suy của một xã hội. Không hòa cái tâm của mình vào trong cuộc đời, vào vũ trụ để lắng tìm và cảm nhận thì làm sao có được những tín hiệu mách bảo cho trí tuệ con đường đến những lẽ huyền diệu và bí ẩn kia?. Như vậy là có biết bao kiến thức mới, kiến thức mới về cuộc đời, vẽ thế giới mà chúng ta tìm kiếm được không chỉ bằng trí mà còn bằng cả tâm hồn.
Học cần có cái trí và cũng có cần có cái tâm là vì thế. Học cũng là để thêm cái trí, lành thêm cái tâm và để đóng góp tài đức của mình cho sự nghiệp xây dựng đất nước mạnh giàu,
Điều quan trọng là đã học thì phải học đều các môn khoa học tự nhiên khoa học xã hội. Văn, Sử là những môn học cần thiết, nêu không nói là đặc biệt quan trọng để tạo nên nhân cách. Nếu chúng ta không coi trọng các môn này thì tâm hồn sẽ khô cứng, vô cảm trước con người và cuộc đời mà dẫn đến thái độ dửng dưng trước vẻ đẹp phong phú và sự giàu có của lịch sử văn hóa dân tộc. Sẽ không ai trách chúng ta khi chỉ thích học Tin học, Kinh tế Ngoại ngữ. Nhưng nếu chỉ giỏi chữ số mà quên chữ viết, giỏi kĩ thuật mà kém văn hóa thì là thiệt thòi lớn cho mỗi con người. Việc học hành quan trọng như vậy, do đó chúng ta không thể coi nhẹ vai trò của việc học hành. Đúng là: "Nếu không có học hành đến nơi đến chốn thi lớn lên, chúng ta sẽ chẳng làm được việc gì có ích".
Hiện nay, một số bạn trẻ không nhận thức được tầm quan trọng của việc học đối với sự thành công hay thất bại của đời người. Nhận thức lệch lạc thường dẫn đến hành động sai lầm. Bỏ học đi chơi, giao du với những thành phần bất hảo để rồi bị rủ rê, sa ngã vào con đường cờ bạc, chơi bời, hút chích dần dần những người đó sẽ đánh mất nhân cách, mất khả năng làm việc và thành gánh nặng cho gia đình, xã hội. Một cuộc sống như thế không đáng gọi là cuộc sống của một con người chân chính. Đến lúc nào đó tỉnh ngộ, dẫu có ăn năn, hối hận thì cũng đã muộn màng.
Những kiến thức mà chúng ta tiếp thu được từ nhà trường, sách vở và cuộc đời nếu đem áp dụng vào thực tiễn sẽ mang lại nhiều thành quả tinh thần vật chất cho cuộc sống của bản thân, gia đình và xã hội.
Tri thức loài người mênh mông như biển cả ("Bể học vô bờ"). Dầu chúng ta có miệt mãi học suốt cuộc đời thì cũng chỉ là tiếp thu được một phần rất nhỏ Bác Hồ dạy: "Học ở trường, học trong sách vở; học lẫn nhau và học ở dân”. Lênin cũng từng khuyên thanh niên: "Học! Học nữa! Học mãi!". Đó là những lời khuyên chí lí, có giá trị đối với mọi thời đại. Nếu không coi trọng việc học chúng ta sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của đất nước, giai đoạn mới.
"Trong thế giới khốc liệt của AIDS không có khái niệm chúng ta với họ. Trong thế giới đó, im lặng đồng nghĩa với cái chết".(Cô-phi An-nan. Thông điệp nhân ngày Thế giới phòng chống AIDS, 1/12/2003). Suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến trên?
Câu trả lời của bạn
Nếu cho bạn quyền được vẽ tiếp bức tranh cuộc sống đang còn dang dở, bạn hoàn thành nhiệm vụ ấy như thế nào? Bạn sẽ phủ lên đó một màu xanh tươi mát hay màu đen u ám? Bạn sẽ vẽ về những con ngưòi trong sự đùm bọc yêu thương nhau là sự ghẻ lạnh hoài nghi? Bạn sẽ đặt niềm tín, sự kính trọng và lòng ngưỡng mộ vào những bác sĩ, kĩ sư, còn những mảnh đời bất hạnh, đặc biệt là những con người đang từng ngày, từng giờ chịu sự hành hạ của căn AIDS? Bạn sẽ đặt họ ở đâu trong trái tim mình? Dường như đó là những câu hỏi đặt ra cho tất cả mọi người trước sự lây lan hành hoành của đại dịch AIDS một trong những hiểm hoạ lớn nhất đang đe doạ tới sự sống của con người. Để trả lời cho những câu hỏi trên, nguyên Tổng thư kí Liên hợp quốc Cô - phi An - nan đã cho rằng: "Trong thế giới khốc liệt của AIDS không có khái niệm chúng ta và họ. Trong thế giới đó, im lặng đồng nghĩa với cái chết". "Xe tang đưa anh đi trong chiều vắng, gọi tên anh không gian âm u khóc thương...". Dường như mỗi lần nghe những giai điệu não về cái chết thảm thương của một chàng trai trẻ khi mắc phải căn bệnh thế kỉ HIV/AIDS mỗi lần lòng tôi nhói lên một nỗi đau không tên, vô hình nhưng xót xa. Đâu chỉ có một mình chàng trai đó, căn bệnh quái ác ấy còn cướp đi biết bao sinh mệnh của con người đó là: những cô gái, những người cha, những đứa trẻ bệnh truyền nhiễm mà nhân loại gọi là "hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người" đã len lỏi tới tất cả các quốc gia, như một bóng ma ám ảnh bao trùm lên cuộc sống tươi đẹp, gieo rắc những tang tóc đau thương cho cả nhân loại. Những con số biết nói đã khiến nhân loại phải giật mình sửng sốt nguy cơ lây nhiễm cũng như hậu quả mà AIDS đã gây ra cho cuộc sống con người: “Trong năm qua, mỗi phút đồng hồ một ngày đi trôi đi, có khoảng 10 người nhiễm HIV". "Đại dịch AIDS đã lấy đi hơn 6000 người mỗi năm hơn 2 trong 3 người bị HIV vẫn chưa được tiếp cận với dịch vụ điều trị…”. Vâng, con số ấy vẫn cứ tăng lên từng ngày, từng giờ theo cấp số nhân và trong một tương lai không xa nếu như con người không có biện pháp ngăn chặn thì trái đất cũng nhìn thấy những con người héo hon tiểu tuỵ vì AIDS ra sao nếu như thế hệ con cháu chúng ta sinh ra sẽ phải mang trong mình mặc cảm bệnh tật, sẽ không còn được vui chơi cười đùa, sẽ chẳng còn dám hy vọng khát khao về một tương lai tươi sáng, bên cạnh đó, căn bệnh thế ki AIDS càng trở nên đáng sợ hơn bao giờ hết chính bởi sự bất lực của y học hiện nay. Nhân loại vẫn chưa tìm ra một loại thuốc đặc trị để có thể ngăn ngừa căn bệnh quái ác cũng như sự lây lan nguy hiểm của nó. Con mất cha, vợ mất chồng, anh mất em... có lẽ đó sẽ là một chuỗi những thảm kịch mà AIDS đã, đang và sẽ gây ra cho xã hội loài người.
Tuy nhiên, điều đáng sọ hơn hết chính là sự tách bạch đến nghiệt ngã hai khái niệm "chúng ta" - những người khoẻ mạnh và "họ" - những người bị căn bệnh AIDS quái ác hành hạ. Trong thế giới khốc liệt của AIDS thì những ranh giới ấy vô cùng mong manh. Có thể hôm nay bạn là người khỏe mạnh vui tươi nhưng một phút bất cẩn nào đó, rất có thể bạn cũng trở nạn nhân của AIDS cho dù bạn là ai. Dù bạn muốn hay không thì căn bệnh thế kỉ ấy vẫn có thể xâm nhập vào cơ thể bạn, phá huỷ từng tế bào và chỉ tích tắc, bạn trở thành một trong những người thuộc khái niệm "họ nhưng, trong thực tế thì sự tách bạch giữa "chúng ta" và "họ" lại là cả ranh giới sâu thẳm được ngăn cách bằng bức rào định kiến nghiệt ngã sự thiếu hiểu biết. "Chúng ta" - vâng, đó là những con người khoẻ mạnh mắn vì chưa bị nhiễm căn bệnh thế kỉ, còn "họ" thì sao? Họ vẫn là những người có đầy đủ quyền lợi của một công dân. Chỉ có điều họ đang chịu sự đau đớn quằn quại do sự giày vò của bệnh tật. Dường như thế giới đang bị chia thành hai nửa: Một nửa là của "chúng ta" với sự miệt thị, khinh bỉ, xa lánh; còn một nửa kia là "họ" với sự tự ti, niềm mặc cảm về bản thân và sự éo le của số phận. Chẳng biết tự lúc nào, chúng ta đã chối bỏ tình đồng loại để thoả mãn thói ích kỉ và những định kiến bản thân. Còn họ, nhũng con người đáng thương hơn đáng trách thì bị bỏ rơi trong một thế giới lãng quên, cô độc và băng giá. Tôi đã từng chứng kiến cảnh một em nhỏ bị lây nhiễm HIV/AIDS từ mẹ và phải sống trong cảnh ghẻ lanh của người thân, sự miệt thị, xa lánh của hàng xóm. Mới sáu tuổi em đã phải tự lập làm những công việc mà đáng ra tuổi của em chưa đáng phải làm, ấy vậy mà chẳng ai lên tiếng bênh vực em, bảo vệ em, che chở em. Số phận của một em thơ bất hạnh sẽ còn trôi dạt về đâu nếu như cả xã hội quay lung? Nếu những hiện tượng trên còn tái diễn, có lẽ con người sẽ tự huỷ diệt chính mình trước khi AIDS huỷ diệt họ. Ý kiến của Cô-phi An-nan không chỉ nêu lên thực tế mà còn là lời cảnh báo, nhắc nhở thái độ sai lầm của chúng ta.
Có một nhà văn đã từng cho rằng: "Nơi lạnh lẽo nhất không phải Bắc Cực mà chính là nơi không có tình thương". Không tình thương, không có sự đồng cảm, con người sẽ trở nên lạnh lùng vô cảm, sẽ lãnh đạm bàng quan trước nỗi đau của đồng loại. Đặc biệt là trong thế giới khốc liệt của AIDS, "im lặng đồng nghĩa với cái chết". Im lặng nghĩa là thờ ơ, im lặng còn là vô trách nhiệm. Nếu vẫn cứ tiếp tục im lặng bỏ rơi đồng loại trong nỗi khổ của bệnh tật, im lặng nhìn dịch bệnh tiếp tục hoành hành thì chẳng bao lâu con người cũng sẽ im lặng chấp nhận số phận bất hạnh do dịch bệnh mang tới. Vì thế mà mọi người phải chung tay góp sức đẩy lùi bệnh tật. Muốn vậy, trước hết cần phải bỏ những thành kiến ngăn cách giữa "chúng ta" và "họ". Chúng ta cần phải tránh thái độ ghẻ lạnh, kì thị đối với người bệnh. Một cái nắm tay, một nụ cười, một lời hỏi han động viên từ những người xung quanh cũng có thể nhóm lên ngọn lửa của hy vọng và niềm tin trong lòng những người bất hạnh. Hãy để cho họ thấy rằng, họ không hề cô độc, xung quanh họ vẫn còn rất nhiều người ủng hộ, tin tưởng và yêu thương họ. Cánh cửa cuộc đời luôn luôn mở rộng chào đón họ, để họ tự tin hoà nhập với cộng đồng xã hội. Bên cạnh đó, việc phòng chống AIDS còn là nhiệm vụ cấp bách của mỗi quốc gia, của toàn –thế giới. Hiện nay nhiều tổ chức phòng chống HIV/AIDS và giúp đỡ những người bị bệnh AIDS đã được thành lập cho thấy con ngưòi đã nhận thức đầy đủ và rõ ràng hơn về việc phòng chống căn bệnh thế kỉ này.
Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển, song song với văn minh tiến bộ là những thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội len lòi vào mọi hang cùng ngõ hẻm, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng tới miền núi. Vì thế mà thế hệ trẻ ngày nay cần phải tinh táo lựa chọn cho mình một lối sống phù hợp, lành mạnh là cách để thanh niên ngày nay tạo lập cho mình một nền tảng đạo đức, nhaanh thức đúng đắn, tránh xa những cám dỗ tầm thường, thấp hèn trong cuộc sống Bên cạnh đó, tuổi trẻ cần phải có kiến thức về HTV/AIDS để giúp cho bản thân phòng tránh lây nhiễm và tham gia các hoạt động xã hội nhằm tuyên truyền nâng cao nhận thức của những người xung quanh để họ có cái nhìn đúng hơn về HTV/AIDS cũng như đối với những người bị bệnh.
"Cuộc sống không có tếng hát như cuộc sống không có ánh sáng mặt trời. Mỗi chúng ta hãy là những nốt nhạc góp vào bản hoà ca niềm vui của cuộc sống. Muốn vậy, ngay từ bây giờ chúng ta hãy chung tay góp sức với nhau làm nên một thành trì vững chắc đẩy lùi căn bệnh thế kỉ AIDS, giúp cho cuộc sống trở nên lành mạnh và hạnh phúc hơn. "Hạnh phúc chỉ có thể có được khi trải qua một nỗi đau khổ vĩ đại". Hãy tin là như vậy.
Trình bày suy nghĩ của em về tình bạn qua ý kiến của nhà văn Ni-cô-lai Ô-xtơ-rốp-xki: "Tình bạn trước hết phải chân thành, phải phê bình sai lầm của bạn, đồng chí, phải nghiêm chỉnh giúp đỡ đồng chí sửa chữa sai lầm"
Câu trả lời của bạn
Ngoài tình mẫu tử, tình thầy trò, thì tình bạn là một nhu cầu rất lớn của con người sống trong xã hội. Nhờ có tình bạn, cuộc đời ta bớt cô đơn. Tình bạn giúp ta vơi đi những nỗi buồn chán vì đó là chỗ dựa vững chắc để ta tâm sự, chia sẻ. Đã có rất nhiều câu ca dao, danh ngôn... để ca ngợi về tình bạn đẹp đẽ. Riêng ta, ta quan niệm về tình bạn như thế nào cho đúng để xứng đáng tình cảm đẹp đẽ cao quý đó mà nhà văn Ni-cô-lai Ô-xtơ-rôp-xki nói: “ Tình bạn trước hết phải chân thành phải phê bình sai lầm của bạn, của đồng chí phải nghiêm chỉnh giúp đỡ đồng chí sửa chữa sai lầm".
Thật vậy, đã là tình bạn thì việc trước tiên phải chân thành, chân thành một đức tính đáng giữ, phải coi bạn như chính bản thân mình. Khi ta đối với bạn tốt, có chân thành với bạn thì bạn mới tin mình. Chính nhờ ở sự tưởng ấy mà bạn mới thổ lộ hết những nỗi lo âu thắc mắc và nguyện vọng mình. Phải nói lúc ấy ta như một chỗ dựa vững chắc cho bạn. Chi có sự chân thành mới giúp cho tình bạn được lâu bền và ngày càng khăng khít.
Là người cùng trang lứa, cùng học chung một trường... trong mọi sinh hoạt nhất nhất cũng gần như giống nhau, ta đối xứ với bạn bè như thế nào đều biểu hiện qua việc làm. Điều quan trọng trước nhất là ta phải tin bạn như bạn mình, tuyệt đối không lừa dối, không vụ lợi trong tình bạn.
Trong cuộc sống, nếu ai không có bạn bè thì đó là điều không may mắn nhất là bạn tâm giao thì càng đáng buồn hơn. Bởi lẽ chỉ có ở những người bạn ta mới trút hết những nỗi niềm riêng tư, vì đôi lúc những nỗi niềm này ta không thế giãi bày với cha mẹ, người trong gia đình mà chỉ có bạn mới là người để cùng ta chia sẻ niềm vui, nỗi buồn ấy mà thôi. Trong những lúc này thấy tình bạn là cần thiết. Bạn bè giúp ta vượt qua mọi khó khăn, an ủi khi ta buồn, cùng ta chia sẻ niềm vui. Do vậy đã là bạn bè ta phải nên giúp đỡ một cách tận tình, bằng cả tấm lòng chân thành, không so đo, không tính toán, như vậy không có nghĩa là tách bạn bè ra khỏi tập thể mà chính bạn bè là một tập thể cùng nhau gắn bó, sinh hoạt và thương yêu nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Ở đây, ta không nên quan niệm "bạn bè" là hai người mà phải là số tăng, là một xã hội thu nhỏ như lớp học, nhà trường... thì sự chân thành trong bạn bè nó mới có giá trị hơn. Nghĩa là ta phải biết kết hợp tình bạn thân thiết quan hệ gắn bó trong tập thể rộng rãi, không đối lập tình bạn với mối quan hệ tập thể rộng rãi đó.
Yêu thương chân thành, giúp đỡ bạn hết lòng không có nghĩa là ta chấp nhận những thói hư tật xấu, những sai lầm của bạn. Càng không phải là để cho vui lòng bạn mà ta bỏ qua những khuyết điểm của bạn. Ngược lại, sự trân trọng tình bạn nó đòi hỏi ta phải nên mạnh dạn có khi không khoan nhượng trong việc phê bình góp ý về những sai trái đó. Làm như thế bạn mới hiểu ra những điều chưa tốt ấy để từ đó bạn sửa chữa. Giúp đỡ bạn sửa chữa những điều sai và cần phải thực hiện vì có như vậy bạn mới tiến bộ, mới trở nên tốt và đồng thời tình bạn mới lâu dài, bền chặt. Nếu ta vì nể nang, che giấu những thiếu sót của bạn thì chằng khác nào vô tình ta làm những tật xấu càng nhiều, càng lớn hơn. Vậy thì ta có phải là bạn tốt chưa, ta có chân thành với bạn không? Ngày xưa, Dương Lễ mạnh dạn đối xử tệ bạc với Lưu Bình để cho Lưu Bình tự ái. Chính nhờ đó mà Lưu Bình quyết tâm phải thi đỗ mục đích trả thù Dương Lễ. Nếu Dương Lễ không nhạy bén nghĩ ra cách giúp đỡ bạn như thế thì liệu Lưu Bình có được ngày vinh quy bái tổ về làng. Tình bạn của Dương Lễ quả thật là đẹp đẽ, là tấm gương sáng đáng để mọi người học hỏi.
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Đặc biệt ta phải có thái độ bao dung với bạn khi nhận lỗi và vui mừng với những tiến bộ của bạn. Được như thế tình bạn sẽ ngày càng thắm thiết bền chặt hơn.
Tình bạn là nhu cầu của mỗi người trong xã hội, nhất là đối với thanh niên. Sống mà không có bạn thân là con người cô đơn, không có hạnh phúc. Và khi đã có bạn rồi ta phải vun quén cho tình bạn ây ngày càng gắn bó hơn. Tình bạn là cao đẹp, là thiêng liêng đúng như nhà văn Ni-cô-lai Ô-xtơ-rôp-xki đã nói :
"Tình bạn trước hết phải chân thành phê bình sai lầm của bạn, của đồng chí phải nghiêm chỉnh giúp đỡ đồng chí sửa chữa sai lầm". Từ quan điểm trên, khi còn đi học ta phải thực hiện tốt nghĩa vụ thiêng liêng ấy trong mối quan hệ bạn bè để không ngừng xây dựng tình bạn đẹp đẽ trong nhà trường mà sau này lớn lên ra ngoài xã hội ta có được đức tính tốt ấy để góp phần thực hiện một xã hội lành mạnh có đạo đức.
Viết bài văn khoảng 600 chữ bàn về câu nói sau: "Càng tĩnh lặng bạn càng lắng nghe được nhiều hơn" (B. Ram-đát).
Câu trả lời của bạn
Tôi rất thích cảm giác ngồi ở một nơi nào đó yên tĩnh, chỉ có gió thoảng qua, vài tiếng chim kêu, trước mặt là mặt hồ phẳng lặng... và suy ngẫm. Tôi cũng cảm giác có thể bỏ ngoài tai tất cả mọi thanh âm xô bồ của cuộc sống, tìm kiếm và lắng nghe những âm thanh nhỏ bé, trong trẻo. Và tôi nhận ra rằng: “Càng trong tĩnh lặng, bạn càng lắng nghe được nhiều hơn".
Là một cư dân thủ đô, tôi có rất nhiều may mắn: tôi có nhiều cơ hội để học hành, nhiều cửa hàng để mua sắm và được tiếp xúc với nhiều công nghệ hiện đại. Nhưng nhiều lúc tôi cũng thèm được như những đứa trẻ chăn trâu, có thể chạy nhảy, nô đùa dọc theo những cánh đồng lúa chín hay nằm trên những cỏ xanh mà ngắm bầu trời cao rộng. Sống giữa đô thị tôi cũng quen dần cái ồn ã, sự bon chen xô bồ. Ra ngoài đường tôi nghe thấy những tiếng xe tiếng còi, tiếng hò hét. Ra chợ, tôi nghe thấy những tiếng mời chào, mặc cả, chửi bới. Tôi cũng hoà vào cuộc sống ấy như một quy luật. Lên xe buýt điều tôi quan tâm là lên thật nhanh để có ghế ngồi. Và tôi học, học như nhiệm vụ tối thượng, vươn lên vị trí thật cao. Tôi cũng không còn nhớ đã bao lâu rồi tôi không nghe thấy tiếng gió, tiếng của những chú ong,... Dường như nhịp sống gấp gáp của đô thị đã lấn át đi tất cả. Tôi luôn trân trọng mỗi dịp hè về quê nội. Khi ấy, tôi không phải lo lắng những bài kiểm tra, không phải chen lấn trên xe buýt. Tôi lắng nghe lòng mình, lắng nghe một cuộc sống thanh bình vẫn thì thầm với tới, khiến lòng tôi khoan khoái và dễ chịu. Tôi nhận ra cuộc sông này thật bình dị - đẹp trong sự bình dị.
Sự náo nhiệt đã từng làm tôi thích thú - những buổi vui chơi, hò hét, những cuộc bàn cãi... Và một ngày, tôi đi về một mình trên con đường quen thuộc, tôi nhìn thấy một cậu bé ăn xin chìa cái mũ về phía mình. Một lời thỏ thẻ yêu đuối “Chị ơi!”! Hắn lời nói ấy đã lọt thỏm đi giữa những câu chuyện bạn bè sôi nổi. Tôi chợt nhớ, đã bao lần tôi chạy theo cuộc sống sôi động mà không nghe thấy tiêng thở dài của cha mẹ tôi. Những bước chân nặng nhọc của cha chưa lao giờ làm tôi mất ngủ. Thời gian xây nhà mới, gia đình tôi gặp rất nhiều khó khăn, cha đâm ra hay cáu bẳn. Cha mắng mỏ mẹ con tôi, toàn những lời cáu gắt. Tôi không hề nghe thấy trong lời nói của cha sự mệt mỏi. Một ngày kia, tôi chợt nhận ra tóc cha bạc đi nhiều. Tôi cũng rất nhớ một kỉ niệm với em gái tôi. Đó là năm tôi lên cấp ba, những điều mới mẻ và lạ lẫm dường như choán hết tâm trí của tôi. Tôi không nghe thây tiếng em tôi thở dài thất vọng khi tôi đi chơi với bạn thay vì đưa em đi đọc sách ở thư viện. Tôi cũng không nghe thấy trong những lời giận dỗi của em nhu cầu được quan tâm. Và tôi tỉnh cờ đọc được bài văn em tôi viết về người mà nó yêu thương nhât. Đó là tôi. Thì ra trong mắt nó, tôi rất tuyệt, rất giói. Còn tôi, tôi thầy mình thật tồi.
Đôi khi sự tĩnh lặng không nằm ở thế giới bên ngoài. Nó nằm trong mỗi chúng ta. Gác lại những cuộc hẹn, sống chậm lại một chút, chúng ta sẽ lắng nghe được lòng mình. Cha mẹ thường bảo tôi: "Con lên phòng học bài đi…” Nhưng lòng tôi lại nói: "Tôi thích đọc tiểu thuyết thay vì đi học thêm, tôi xem phim thay vì chúi đầu vào bài vở. Tôi thích đánh cầu lông với em tôi vì kèm nó học tới khuya, tôi thích ăn những món do chính mình sáng chế. Trong những gì lòng tôi nói với tôi có những điều ích kỉ. Nhưng tôi không thích chúng, cũng không ghét chúng. Đôi khi tự lắng nghe mình một chút, mình muốn gì, mình cần phải làm gì cũng khiến tôi tự tin hơn. Tự tin vào chọn lựa và con đường mình đang đi!
Trong cuộc sống, ta phải lắng nghe rất nhiều điều. Có những chuyện làm ta khó chịu, nhưng cũng có những thứ khiến ta thoải mái. Song mọi sự trên không phải lúc nào cũng dễ dàng đoán định. Giống như thất bại chưa hẳn là điều xấu và thành công chưa hắn đã là hạnh phúc. Sự tĩnh lặng luôn cần thiết cho một sự suy xét toàn diện.
Tôi rất thích câu nói trong bộ phim hoạt hình nọ: "Hôm qua đã là quá khứ ngày mai là một điều bí ẩn và hôm nay chính là một món quà". Có lẽ món này sẽ chỉ được nhận ra khi chúng ta bình tâm là lắng nghe cuộc sống, nghe chính mình. Bởi khi ấy sẽ không có điều gì khiến ta bỏ lỡ và tìm thấy sáng ở tương lai. Tâm hồn của chúng ta sẽ giàu lên qua từng ngày ta sống trọn vẹn với mình.
Tôi hỏi đất:
- Đất sống với đất như thế nào?
- Chúng tôi tôn trọng nhau
Tôi hỏi nước:
- Nước sống với nước như thế nào?
- Chúng tôi làm đầy nhau
Tôi hỏi cỏ:
- Cỏ sống với cỏ như thế nào?
- Chúng tôi đan vào nhau
Làm nên những chân trời
Tôi hỏi người:
- Người sống với người như thế nào?
(Hữu Thỉnh)
Anh (chị) hãy giúp nhà thơ trả lời câu hỏi trên.
Câu trả lời của bạn
Tôi hỏi người:
- Người sống với người như thế nào?
Câu hỏi mà nhà thơ Hữu Thỉnh đặt ra trong bài thơ Hỏi của mình vẫn luôn da diết, khắc khoải như một kết thúc mở đầy ám ánh, gợi ra muôn vàn phong ba trong lòng người đọc. Cuộc sống là một cuộc hành trinh đầy khó khăn thách thức nhưng cũng là một trò chơi thú vị, một món quà lớn, đầy bất ngờ mà một cá nhân không bao giờ khám phá hết được. Người sống với người như nào? Câu hỏi mà tất cả chúng ta cần suy ngẫm và tìm câu trả lời. Một lúc nào đó khi bình tâm quan sát cuộc sống và nghĩ suy về nó, ta sẽ có được câu trả lời ta của riêng mình, dù có thểcòn chưa đầy đủ.
Con người đã sống với nhau như đất. Đất thì tôn trọng nhau còn con người thì dựa vào nhau, nâng đỡ nhau mà sống. Cuộc đời biết bao gian nan, trắc trở đôi khi ta khó mà vượt qua được. Giữa lúc ấy có những bàn tay luôn sẵn sàng chìa ra cho ta nắm, có những tấm lòng luôn rộng mở và ta biết mình may mắn và hạnh phúc nhường nào! Họ có thể là bạn nhưng cũng có thể là người chỉ từng quen biết. Đôi khi, tình người cao quý được xây đắp vô cùng tự nhiên như vậy. Đi hết quãng đường đời, lúc bạn thật sự chán nản là khi bên mình không còn ai, không có lấy một tấm lòng, một sự giúp đỡ, chia sẻ. Con người cần có nhau để sống tốt cuộc sống của mình và còn làm cho cuộc đời chung thêm tươi đẹp, như một bài ca muôn điệu mà những nốt nhạc lòng được ngân lên từ mọi nẻo trên thế gian này. Trong những năm tháng bom đạn chiến tranh, "Những bà cụ từ tâm như mẹ" đã cưu mang, đùm bọc các chiến sĩ, tạo thêm niềm tin cho các anh góp phần làm nên chiến thắng của dân tộc:
Con nhớ mế! Lừa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
(Chế Lan Viên - Tiếng hát con tàu)
Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé bên đồng chiêm
Bà mẹ đón tôi trong gió đêm
"Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ"
Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ
Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm
(Nguyễn Duy - Hơi ấm ổ rơm)
Các anh đi đến đâu cũng được nhân dân che chở, yêu mến, không quản ngại khó khăn, nguy hiểm: "Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng". Quả thật, tình cảm mà con người dành cho nhau cũng mộc mạc như đất mà thôi, nồng ấm mà đơn sơ, chân thành mà bền chắc. Chính tình cảm ấy đã "tôn cao" con người, làm cho những cá nhân nhỏ bé cũng trở nên cao cả, đẹp đẽ. Dân gian có câu: "Một miếng khi đói bằng một gói khi no". Có những sự giúp đỡ đúng lúc, kịp thời có thể cứu sống một sinh mạng. Cuộc đời có lúc thăng trầm và con người là bạn đồng hành của nhau trên con đường gian nan ấy, có khi nâng đỡ, có khi giúp bạn đường của mình tiến xa hơn mà không ngại hi sinh.
Con người đã sống với nhau như nước. Nước làm đầy nhau, nước tràn từ trên cao đến nơi thấp, từ sông hồ ra biển cả mênh mông, hoà vào nhau để dâng lên theo từng con sóng. Người với người "làm đầy nhau" bằng tình yêu thương, sự cảm thông và chia sẻ. Hơn thế nữa, con người xoa dịu, khoả lấp được những nỗi đau đớn, những vết thương lòng của nhau bằng liều thuốc từ trái tim mình. Suốt cuộc đời mỗi người, ai cũng đã từng, dù nhiều hay ít, được sống trong tình yêu thương kì diệu ấy. Từ những lời ru âu yếm của mẹ lúc ta lọt lòng, tâm hồn ta được làm đầy bởi những câu ca ngọt ngào, êm dịu, có cánh cò trắng rập rờn bay, trái tim ta được bồi đắp bởi tình mẹ bao la, sâu sắc. Càng lớn lên, hiểu biết nhiều điều về thế giới xung quanh, ta càng có được nhiều bạn bè, sống và chia sẻ với nhau lúc vui, lúc buồn và chính ta cũng chủ động hoà mình vào cuộc sống này, hoà mình vào dòng chảy mênh mông của cuộc đời. Tình cảm con người dành cho nhau cũng mát lành và hiền hoà tựa như dòng nước kia, nó có thể len lỏi vào những tâm hồn sắt đá nhất, làm tan đi băng giá những trái tim cứng rắn và phá đi cánh cửa của những tấm lòng còn đồng khép. Dòng nước còn có thể đi rất xa mang tình yêu thương khắp năm châu bốn bể bởi lẽ ở nơi đâu con người cũng là bạn, không phân biệt màu da chủng tộc hay ngôn ngữ, chỉ cần thôi: một tấm lòng…
Và con ngưòi đã sống với nhau như cỏ. Cỏ đan vào nhau, "Làm nên những chân trời". Mỗi người, mỗi cá nhân riêng rẽ chi như cọng cỏ nhỏ bé kia mà thôi thế nhưng với tình yêu đan dệt từ những cọng cỏ ấy, con người đoàn kết một lòng tạo nên những chân trời vô biên. Làm thế nào để sống tốt cuộc sống của mình đã khó nhưng khó khăn hơn là làm thế nào để làm cho cuộc sống của những người ta yêu quý, của đồng loại ta tốt đẹp hơn dù biết sức mình là rất nhò bé, còn khó hơn rất nhiều. Bất cứ một tập thể nào cũng cần có sự đoàn kết. Từ những cầu thủ chơi chung một đội bóng đoàn kết với nhau để làm nên vinh quang cho màu cờ sắc áo cho đến một dân tộc đoàn kết chống lại kẻ thù. Từ ngàn xưa con người đã biết dựa vào sức mạnh của tập thể. Không chỉ đoàn kết mà con người còn cần phải học cách sống hài hoà trong cuộc sống chung, không tách mình ra khỏi tập thể mà mình gắn bó, hướng tới mục đích cao cả trong cuộc đời là cái thiện, cái đẹp, những giá trị chân thực mà cũng là vô giá. Trong truyện ngắn Chữ người tử tù của mình, nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục. Bất châp địa vị xã hội, bất chấp những khác biệt và hiểu nhầm, họ đã nhận ra tấm lòng của nhau và trở thành tri ki ngay khi Huấn Cao đã gần kề cái chết. Có thể nói, Huấn Cao đã toại nguyện và thanh thản vì đã không để phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Họ đã soi sáng những nét nhân cách tốt đẹp của nhau, cùng hướng đến một tình yêu cái đẹp chân thành, bền vững. Phải chăng đó chính là ý nghĩa thực sự của cuộc sống?
Con người đã sống với nhau như vậy đấy, nâng đỡ, yêu thương, hoà hợp cảm thông, chia sẻ. Đó là lí do vì sao loài người sinh sôi và tổn tại đến bây giờ. Thế nhưng con người không phải không mắc những sai lầm. Đôi khi vì mục đích cá nhân mà có kẻ bán rẻ cả bạn bè, hay vì nguồn lợi không chính đáng mà họ tàn sát các dân tộc khác, biến đồng loại của mình thành nô lệ. Có nhũng điều đáng phải bị lên án như cuộc chiến tranh thế giới, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc A-pác-thai, chính sách diệt chủng của bọn phát xít,... Con người có không ít những phút mù quáng, sai lầm. Chính vì thế ta càng cần sống tốt với nhau để kéo họ ra khỏi sai lầm, để loài người lại tiếp tục đồng hành với nhau trên bước đường thời gian vô cùng, vô tận.
Có thể nói, một vài suy nghĩ về cuộc sống con người chưa thể trả lời đầy đủ cho câu hỏi mang đậm tính nhân văn sâu sắc của nhà thơ Hữu Thỉnh: Người với người sống với nhau như thế nào? Chỉ biết rằng, để tồn tại một cách có ý nghĩa, con người ta cần phải sống vì nhau, sống có tình yêu thương để vượt qua bao đau thương, bất trắc mà ta không thể lường trước được để cuộc sống thêm đẹp, bởi lẽ:
Người với người, sống để yêu nhau
Có gì đẹp trên đời hơn thế
(Tố Hữu - Bài ca mùa xuân 1961)
Từ việc cảm nhận hai câu thơ sau trong bài Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy: Ta đi trọn kiếp con người / Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru. Anh (chị) hãy nêu suy nghĩ của mình về tình mẫu tử trong xã hội hiện nay.
Câu trả lời của bạn
Khi trẻ con tập đi
Đường như có từ ngày đó
Nhưng còn cần cho trẻ
Tình yêu và lời ru
Cho nên mẹ sinh ra
Để bế bồng chăm sóc
Mẹ mang về tiếng hát
Từ cái bống cái bang
Từ cái hoa rất thơm
Từ cánh cò rất trắng
Từ vị gừng rất đắng
Từ vết lấm chưa khô
Từ đầu nguồn cơn mưa
Từ bãi sông cát vắng...
(Xuân Quỳnh - Chuyện cổ tích về loài người)
Những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế ấy của Xuân Quỳnh đã giúp cho con người ta thấy được vai trò to lớn của người mẹ cũng như những lời ru ngọt ngào trong cuộc đời mỗi con người. Mẹ trở thành nguồn cảm hừng dạt dào của biết bao thi sĩ. Bạn đọc yêu thơ chắc hắn đều rất ấn tượng với Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa Nguyễn Duy, đặc biệt là hai câu thơ cuối khổ ba đã gợi cho người đọc nhiều suy ngẫm vể tình mẫu tử trong xã hội hiện đại ngày nay:
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
Nguyễn Duy đã viết bài thơ trong nỗi xúc động nghẹn ngào khi người mẹ kính yêu của ông mãi mãi đi xa. Có thể nói, hai câu thơ mang đậm tính triết lí đã để lại trong mỗi trái tim nhiều rung cảm những dư vị thật khó quên, con ngưòi được sinh ra trong cõi đời này đâu chỉ lớn lên bằng dòng sữa ấm áp của mẹ mà còn bởi những lời ru "ầu ơ sớm chiều" - những lời ru từ "cái cái bang", từ "cái hoa rất thơm", từ cánh cò bay lả bay la trong những câu ca dao, từ "vị gừng rất đắng", từ "đầu nguồn" của những "cơn mưa", từ "bãi cát vắng"... Cuộc sống rất đỗi bình dị xung quanh đã góp phần khơi dậy những xúc cảm, rung động đầu tiên trong tâm hồn con. Và chính những lời ru ngọt ngào ấy lại là những bài học về đạo lí, những phẩm chất tốt đẹp của con người mà mẹ muốn mang đến cho đứa con bé bỏng: tình yêu quê hương đât nước, lòng vị tha, khoan dung, nhân ái với con người, tình cảm gia đình,.. Đặc biệt hơn cả, sâu thẳm trong lời ru giản dị ấy là tình yêu thương vô bờ, là niềm vọng mẹ dành cho con. Những bài học từ cuộc sống cùng tình yêu thương bao la trọn đời mà mẹ dành cho con, dẫu có đi hết cuộc đời này, đi "trọn kiếp người", con cũng không thể "đi hết mấy lời ru mẹ ru". Dù có cố gắng bao nhiêu, con cũng sẽ không bao giờ đền đáp được công ơn sinh thành và dưỡng dục to lớn của mẹ! Dẫu con có đi đến đâu, dù có xảy ra bất cứ điều gì thì mẹ vẫn sẽ mãi mãi ở bên con, sẽ dõi theo từng bước đi của con:
Dù ở gần con,
Dù ở xa con,
Lên rừng, xuống bể,
Cò sẽ tìm con,
Cò mãi yêu con.
Con dù lớn, vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.
(Chế Lan Viên - Con cò)
Vâng, lòng mẹ ấm áp và bao la sẽ soi đường, dẫn lối cho con trên cuộc hành trình đầy gian nan, thử thách. Mẹ sẽ là đôi cánh nâng những ước mơ của bay cao, bay xa và lại vẫn sẽ là điểm tựa của cuộc đời con, là bến bờ neo đậu khi con cần sự bình yên, khi con mệt mỏi.
Có thể nói, hai câu thơ của Nguyễn Duy đã khái quát thật hay về tình mẫu tử - một tình cảm vô cùng thiêng liêng, cao quý và đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Đó là lòng kính trọng, sự biết ơn, tình yêu thương, con cái đối với mẹ và cũng là sự chăm sóc, quan tâm, sự đùm bọc, che chở, dạy dỗ cùng tình yêu thương bao la của mẹ đốì với những đứa con.
Sau chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau, giây phút được nhìn đứa con bé bỏng cất tiếng khóc chào đời là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của người mẹ. Cũng bời vậy mà những cử chỉ, hành động thể hiện tình yêu thương bao la của mẹ được biểu hiện ngay từ khi đứa trẻ lọt lòng. Ngay từ khi được sinh ra, những em bé đã phân biệt được giọng nói ấm áp của mẹ với cả mọi người xung quanh, đã cảm nhận được ánh mắt, cử chỉ yêu thương mẹ. Mỗi sinh linh bé bỏng ấy là một phần máu thịt của mẹ - đó cũng là sự khác biệt rõ rệt nhất giữa tình mẹ và những tình cảm thiêng liêng khác trong cuộc sống. Rồi khi đứa con thân yêu của mẹ lớn dần lên, mẹ nuôi nấng, chăm sóc con bằng tất cả tình yêu thương, dành cho con những gì tốt đẹp nhất. Tình mẫu tử thiêng liêng còn được thể hiện ở sự quý trọng, biết ơn,… của đứa con dành cho mẹ. Đâu phải chỉ những lời nói "con yêu mẹ" mới thể hiện tình cảm ấy! Cách tốt nhất để mỗi người thể hiện tình yêu với mẹ là biết nghe lời và luôn cố gắng, nỗ lực hết sức vì niềm tin, hi vọng của mẹ.
Vậy đã bao giờ bạn thử hình dung một ngày nào đó, thế giới của chúng ta không còn tình mẫu tử? Lúc ấy, có lẽ, cả trái đất này chỉ là "một tinh cầu giá lạnh" mà thôi! Vì thế, tình mẫu từ vô cùng cần thiết trong cuộc sống. Tình mẫu tử khởi nguồn cho những tình cảm tốt đẹp khác. Bởi lẽ, ta làm sao có thể yêu thương một ai khác khi ta không tôn trọng, yêu quý chính người đã sinh ra ta, đã cho ta có cơ hội được tận hưởng cuộc sống tuyệt vời này? Làm sao có thể thương yêu với ai khi ta không yêu thương đứa con bé bỏng của mình? Có thể nói rằng, tình mẫu tử đã bồi đắp cho tâm hồn con người. Mẹ sinh ra chúng ta, ta một hình hài và cả một tâm hồn nữa. Chính mẹ và tình yêu thương cùng những lời ru ngọt ngào đã mang đến cho tâm hồn con những rung động đầu tiên. Mẹ dạy ta biết thế nào là tình yêu thương và cách thể hiện tình yêu thương đối với những người khác. Mẹ mang đến cho ta những bài học về đạo lí cũng như những kinh nghiệm sống quý giá. Cuộc sống không phải là một cuộc chạy đua, nó là một hành trình mà bạn phải từng bước khám phá. Trong trình ấy, sẽ có những lúc khó khăn, sẽ có những lúc ta thấy mệt mỏi, ta sẽ một điểm dừng chân, một bến đỗ, cần sự sẻ chia và hơn hết, ta cần một lời động viên, an ủi, khuyên răn. Đó là lúc ta nghĩ đến mẹ. Một cái ôm, một cái xoa đầu của mẹ cùng những lời yêu thương sẽ là động lực để ta bước tiếp, đê ta đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã. Mẹ sẽ là đôi cánh nâng những ước mơ của ta bay cao, bay xa hơn nữa, bởi ta biết rằng sau lưng ta ánh mắt mẹ luôn dõi theo những bước ta đi; bởi ta biết rằng luôn có một bến đỗ bình yên trong cuộc đời. Tình mẫu tử vô cùng quan trọng còn bời lẽ nó sẽ góp phần hình thành nhân cách con người. Mỗi người con sẽ là những công dân, những chủ nhân tương lai đất nước. Dẫu biết rằng quá trình hình thành nên nhân cách của một con người cần rất nhiều thời gian và có rất nhiều yếu tố tác động nhưng mỗi cuộc trình vạn dặm đều bắt đầu từ những bước chân đầu tiên, và vì thế sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc của mẹ cũng đã góp công sức vô cùng to lớn trong hình trình ấy. Nếu không có tình mẫu từ thì có lẽ sẽ không bao giờ có những đứa con trên cuộc đời này. Bởi vậy, con cái phải có trách nhiệm sống tốt, sống có ích để đền đáp công ơn to lớn của mẹ, phụng dưỡng mẹ lúc tuổi già sức yếu. Và chính mối quan hệ tác động qua lại ấy đã làm nên tình mẫu tử bền chặt, gắn bó và là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ bao đời nay.
Nhưng cũng có khi, tình mẫu tử không chi là tình yêu thương mà còn cần cả sự nghiêm khắc. "Thương cho roi cho vọt", "Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương". Chúng ta hãy nghe tâm sự của một người mẹ: "Mẹ yêu con nên mẹ nói không" trước những đòi hỏi vô lí của con […]. Đây là cuộc đấu tranh khó khăn trong cuộc đời mẹ. Nhưng mẹ vui vì mẹ đã chiến thắng và cuối cùng con thành công". Chính vì mẹ yêu con nên mẹ luôn muốn con trưởng thành. Chính những lời khuyên, lời răn dạy của mẹ sẽ là con đường đưa con đến với tương lai một cách nhanh nhât. Rồi đến khi con trưởng thành, khi còn làm cha, mẹ, con mới hiếu hết công lao cũng như sự hi sinh thầm lặng của mẹ:
Hoa cũng như đời mẹ, mẹ ơi!
Nở lặng lẽ và rơi lặng lẽ
(Thu Nguyệt - Mẫu tử)
Tinh mâu tử đã trờ thành nét đẹp giàu tính nhân văn của con người. Từ những năm tháng chiến tranh, tình mẫu tử làm rạng rõ hon cho tâm hồn người Việt Nam bởi lẽ tình yêu thương của những bà mẹ còn bao la, rộng lớn đốì với cả những đứa con không phải là máu mủ, là sự chằm sóc tận tình những chiến sĩ bị thương:
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi
(Chế Lan Viên – Tiếng hát con tàu)
Tình yêu thương của mẹ còn là những giọt nước mắt lặng lẽ rơi khi những đứa con thân yêu của mẹ cứ lần lượt ra chiến trường và mãi mãi không bao giờ trở về nữa: "Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ".
Trong xã hội ngày nay, cuộc sồng của chúng ta ngày càng phát triển cuộc sống được nâng cao và con cái vẫn là niềm hạnh phúc, là sự quan tâm lớn nhất của bố mẹ. Xã hội ngày càng có nhiều cám dỗ. Chính vì vậy mà việc gần gũi quan tâm đến con, hình thành nhân cách cho con càng trở nên vô cùng quan trọng. Mẹ không chỉ là người chăm sóc cho con từng bữa ăn, từng giấc ngủ còn là người lắng nghe những tâm tư, tình cảm, chia sẻ những khó khăn con trong cuộc sống. Những đứa con bé bỏng vẫn cảm thấy thật hạnh phúc có mẹ ở bên, vẫn vững tin vào con đường phía trước bởi một điểm tựa vững chắc - đó chính là mẹ. Cuộc sống hiện đại đôi khi khiến con người thấy căng thẳng, mệt mỏi và sự chia sẻ là điều vô cùng cần thiết. Còn gì sung sướng hơn khi chúng ta có mẹ để động viên, chia sẻ, an ủi khi ta có khó khăn; lắng nghe những suy nghĩ của ta, cho ta những lời khuyên trên hành trình khám phá cuộc sống? Thế nhưng, cũng chính bởi nhịp sống xô bồ, hối hả hiện nay - tình cảm cao quý ấy đã có nhiều thay đổi. Cuộc sống quá bận rộn đôi khi làm cho những người mẹ không thể có nhiều thời gian chăm sóc gia đình và quan tâm đến con cái. Chính bởi vậy, con ít khi gần mẹ, ít tâm sự, sẻ chia suy nghĩ khó khăn với mẹ. Lúc đầu, đó chi là những vấn đề nhỏ nhưng dần dần cứ chồng chất lên, nếu không tháo gỡ kịp thời thì sẽ có chuyện không hay xảy ra với con. Việc nhiễm những thói hư tật xấu là điều dễ xảy ra khi không có sự quan tâm của gia đình, đặc biệt là của mẹ. Hơn nữa, trẻ em hiện nay có xu hướng thích ở một mình, không thích có sự quan tâm của bố mẹ vì cho đó là tự do và dường như thích chơi "game" hay "chat" qua mạng hơn là tâm sự, trò chuyện với mẹ. Cũng có những bà mẹ không đi sâu tìm hiểu những suy tâm tư, tình cảm của con hoặc quan niệm sai lầm rằng thương con là nuông chiều, đáp ứng mọi yêu cầu của con. Đáng báo động hơn là tình trạng một số người mẹ đã đánh đập, ngược đãi chính đứa con mà mình đã dứt ruột đẻ ra hoặc có những người con đã chối bỏ trách nhiệm chăm sóc, phụng dưỡng người mẹ già yếu khiến cả xã hội bàng hoàng. Trước những thực trạng báo động như vậy, chúng ta cần có những biện pháp để khắc phục và trước tiên việc đó phải xuất phát từ trái tim của mỗi người. Mỗi người mẹ hãy cố gắng dành thời gian quan tâm, gần gũi con để hiểu và giúp con tháo gỡ những khó khăn. Còn đối với chúng ta - những đứa con - hãy luôn biết suy chín chắn, luôn nghĩ đến mẹ, đến những người thân của ta trưóc khi làm bất cứ việc gì. Công ơn sinh thành, dưỡng dụe của cha mẹ là vô cùng to lớn con cái phải hiếu thảo, nhận thức được rõ trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ. Ngoài ra, xã hội ta cần phái lên án những hành vi trái với đạo đức, phi nhân tính; đồng thời kết hợp với việc tuyên truyền, giáo dục cho thế hệ trẻ về tình mẫu tư cao quý.
Tình mẫu tử đã được nhắc đến trong những câu ca dao, tục ngữ đậm chất triết lí "Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Mẹ và tình yêu thương vô cùng của mẹ sẽ mãi soi đường chỉ lối cho con. Có ai đó đã nói "Có những lúc chỉ tình yêu của mẹ mới hiểu được những giọt nước mắt của chúng con, có thể giúp xua tan nỗi thất vọng và giúp chúng con vượt qua nỗi sợ hãi. Có những lúc chỉ tình yêu của mẹ mới có thể sẻ chia niềm vui cùng chúng con, khi chúng mơ ước điều gì đó, và nó hoá thành hiện thực trong đời". Những đứa con sẽ là thành quả cuối cùng của cuộc đời mẹ, là niềm hạnh phúc của mẹ:
Và chúng tôi, một thứ quả trên đời
Bảy mươi tuổi, mẹ đợi chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh
(Nguyễn Khoa Điềm - Mẹ và quả)
Hình ảnh mẹ trong cuộc đời mỗi con người đều mang những nét riêng: có những người mẹ vĩ đại, có những người mẹ tuyệt vời, còn đối với tôi, mẹ rất bình dị. Mẹ tôi không hát ru hay, không hay kể những câu chuvện cổ tích, không hay nói những lời lẽ yêu thương. Tình cảm của mẹ tôi giản dị nhưng ấm bao la. Yêu thương đâu nhất thiết phải bằng lời! Đối với tôi, tình yêu thương của mẹ là những bữa cơm gia đình ấm cúng, là sự lắng nghe, là những phút mắt lo lắng mỗi khi tôi mệt mỏi. Mẹ tôn trọng ý kiến của tôi, giúp tôi vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Tôi vẫn luôn mong muốn chị em tôi là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của cuộc đời bố mẹ. Khi vui, người tôi muốn chia sẻ đầu tiên là mẹ; khi buồn, người tôi muốn chạy đến bên đầu tiên cũng chính là mẹ. Tôi tự hào đã được mẹ sinh ra, tự hào vì là con của mẹ và trọn đời này có lẽ tôi sẽ không bao giờ có thể đền đáp ơn sâu nghĩa nặng ấy.
Cảm ơn những câu thơ của Nguyễn Duy đã nói hộ lòng biết ơn sâu nặng của những người con đối với mẹ. Mỗi người con hãy cố gắng sống tốt, hãy mở lòng mình, tự tin nói những lời yêu thương của mình đối với mẹ bởi biết đâu sớm mai thức dậy ta sẽ không còn có mẹ ở bên nữa. Cảm ơn Thượng đế vì đã cho chúng ta được là con của một người mẹ!
Khi bàn về phương pháp học tập, trau dồi văn hoá, có người cho rằng:"Văn hoá, đó là cái còn lại khi người ta đã quên hết cả". Em hãy giải thích câu nói trên.
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài
Ta hãy giải thích vấn đề trên.
2. Thân bài
a. Trau dồi văn hoá và quan niệm đúng đắn về cách học
b. Phê phán quan niệm sai lệch về cách học
Nghị luận xã hội về căn bệnh vô cảm trong xã hội hiện nay.
Câu trả lời của bạn
Trong đời sống đang phát triển mạnh mẽ về công nghệ, máy móc, con người có thể kiếm được nhiều tiền hơn, giàu có hơn, nhưng có một thứ dường như có biểu hiện vơi đi, đó là sự quan tâm giữa người với người? Cuộc sống công nghiệp với những tất bật và tốc độ vận động quá nhanh khiến người ta hẫng hụt đến mức ít quan tâm đến nhau hơn. Phải chăng những tất bật ấy là nguyên nhân khiến "bệnh vô cảm" có cơ hội lan rộng?
Vô cảm là một căn bệnh hiện không có trong danh sách của ngành y học, nhưng nó đã ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống con người. Vậy "bệnh vô cảm" là gì? Vô là không, cảm là tình cảm, cảm xúc. Vô cảm là trạng thái con người không có tình cảm. Sống khép mình lại, thờ ơ lạnh nhạt với tất cả mọi việc xung quanh. Trong nhịp sống hiện đại ngày nay, một số người chỉ lo vun vén cho đời sống cá nhân và quay lưng lại với cộng đồng xã hội. Một số người tự làm mình trở nên xa lánh, không quan tâm đến ai, không biết đến niềm vui nỗi buồn của người khác. Đó là "bệnh vô cảm". Chỉ lo chạy theo giá trị vật chất, đôi khi con người ta đã vô tình đánh mất đi vẻ đẹp đích thực của tâm hồn. Cuộc sống dù có sung túc hơn, giàu sang hơn, nhưng khi con người không biết quan tâm yêu thương nhau, thì đó vẫn không được xem là cuộc sống trọn vẹn được. Ngại giúp đỡ những người gặp khó khăn hoạn nạn, cuộc sống của chúng ta dần đi ngược lại với truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân từ xưa "Lá lành đùm lá rách".
Ngày nay, một số người chi biết sống và nghĩ cho riêng mình. Như khi thấy bao người hành khất bên đường, họ không giúp đỡ, thậm chí còn khinh miệt, dè bỉu chế nhạo trước nỗi bất hạnh của những mảnh đời đáng thương đó. Và cũng như bao tệ nạn, bao việc xấu xa cướp giật giữa đời thường vẫn xảy ra hằng ngày đấy thôi, nhưng không ai dám can ngăn. Vì sao? Vì sao con người lại vô cảm như vậy? Phải chăng cũng vì họ sợ, sợ sẽ gặp rắc rối liên lụy, cho nên không dại gì lo nghĩ đến chuyện của người khác. Nhưng đó không là "chuyện của người khác", đó chính là những vấn đề chung của xã hội. Sao con người lại có thể quay lưng lại với chính cộng đồng mình đang sống được kia chứ! Và không chỉ dừng lại ở một vài cá nhân, bộ phận nhà nước cũng có lối sống ích kỉ như vậy. Một vài cơ quan giàu sang luôn tìm cách bóc lột người dân, như về việc chiếm đất đai, tài sản... Rồi sau đó, họ ngoảnh mặt đi một cách lạnh lùng, bỏ lại sau lưng những mảnh đời khốn khổ cùng bao giọt nước mắt hờn trách cuộc đời không thể sẻ chia cùng ai. Đó không phải là biểu hiện của "bệnh vô cảm" hay sao!
Nếu cứ mãi tiếp tục như vậy, cuộc sống này sẽ mất hết tình thương, mất hết niềm cảm thông san sẻ, mất đi cả truyền thống đạo đức quý báu ngày xưa. Sẽ không còn là "một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ nữa", mà chỉ còn lại sự lạnh nhạt, sự thờ ơ vô cảm. "Tình thương là hạnh phúc của con người", liệu cuộc sống này có còn ý nghĩa nữa hay không nếu con người cứ tự khép mình lại và chỉ biết sống cho bản thân? Liệu bạn có cảm thấy hạnh phúc nếu xung quanh mình chỉ toàn là giọt nước mắt cùng với nỗi bất hạnh của bao người? Thomas Merton đã từng nói: "Nếu chúng ta chỉ biết tìm hạnh phúc cho riêng mình thì có thể chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy. Hạnh phúc đích thực là biết sổng vì người khác". Bạn giàu sang ư? Bạn thành công ư? Nhưng khi đã trở nên vô cảm, bạn chỉ thấy mỗi bản thân mình mà thôi. Sự giàu sang, sự thành công như vậy có mang lại hạnh phúc cho bạn không khi bạn chỉ sống một mình, hay đúng hơn là bạn tự tách mình ra khỏi cộng đồng, sống không sẻ chia.
Sống đôi khi đơn giản là học cách yêu thương. Hãy thử một lần trải lòng mình ra dù chỉ là chút ít ỏi. Bởi vì, khổ đau được san sẻ sẽ vơi đi một nửa, còn hạnh phúc được san sẻ sẽ nhân đôi. Hãy thử nghĩ xem, cụ già trên đường kia sẽ có thể qua đường nếu bạn chịu bỏ chút ít thời gian dừng xe lại và dắt cụ qua. Em bé sẽ không lạc giữa chợ nếu bạn chịu bỏ chút ít thời gian đưa em về phường công an tìm mẹ... Mỗi ngày đến trường, bạn có thể dành dụm một chút ít tiền cho quỹ "Vì người nghèo". Nhiều, rất nhiều những việc bạn có thể làm nếu bạn chịu bỏ "chút ít". Những đóng góp của bạn đôi khi rất nhỏ nhặt nhưng quan trọng hơn hết, đó là tình thương, là sự quan tâm chia sẻ, là cả một tấm lòng. Hãy làm những gì có thể để giúp cho nỗi đau của bao người được vơi đi. Sự trao đi yêu thương đôi khi cũng là điều mang lại hạnh phúc. Phải nói rằng, xã hội càng văn minh, thì con người đối xử với nhau nhân ái hơn, văn minh hơn. Tuy nhiên, vẫn tồn tại đâu đó lối sống thực dụng, ích kỉ là làm tổn thương đến truyền thống "nhiều điều phủ lấy giá gương" của dân tộc ta. Vì vậy, chúng ta không nên nói đời sống công nghiệp đã làm nảy sinh ''bệnh vô cảm", mà căn bệnh ấy xuất phát từ việc giáo dục con em và công dân chúng ta chưa thật nghiêm túc. Thật khó tìm nguyên nhân đầy đủ, nên xin trao câu hỏi này cho các nhà giáo dục và xã hội học, tâm lí học,...
Trong ca khúc "Mưa hồng", cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng viết: "Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ". Vâng, đừng sống quá vội vã! Đừng để dòng đời hối hả có thể cuốn bạn đi! Đừng quay lưng lại với tất cả! Đừng để dòng màu đỏ chảy trong con người bạn trở nên lạnh đen. Đừng để một khi nào đó dừng lại, bạn chợt nhận ra mình đã vô tình đánh mất quá nhiều thứ! Hãy nuôi dưỡng lòng nhân ái, tình thương của mình cùng mọi người đẩy lùi "căn bệnh vô cảm" kia. Và cũng bởi vì: ngày mai có thể sẽ không bao giờ đến nên hãy cho và nhận những gì bạn có trong ngày hôm nay.
Nhận thức của anh (chị) về thực trạng an toàn giao thông - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
1. Mở bài
2. Thân bài
3. Kết bài
Suy nghĩ về bệnh thành tích trong giáo dục - Ngữ Văn 12.
Câu trả lời của bạn
Từ một phẩm chất tốt trở thành... bệnh
Thành tích là kết quả có thể đánh giá được của nỗ lực con người. Kết quả không chỉ là một lợi ích vật chất hay tinh thần cá nhân, tuy rằng phần lớn yếu tố tạo nên động lực khiến con người phải nỗ lực nhiều hơn, tốt hơn để thành tích chính là lợi ích cho mình. Nhưng con người vẫn có thể làm hết mình vì lợi ích chung, lợi ích của xã hội, của đất nước.
Theo định nghĩa đó, nỗ lực đạt thành tích của một cá nhân hay một tập thể là một phẩm chất đạo đức tốt, đáng biểu đương và nhân rộng. Hãy tưởng tượng một xã hội mà trong đó mọi thành viên đều nỗ lực để đạt những thành tích cao hơn trên các lĩnh vực hoạt động: thể thao, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, sản xuất, thương mại, công nghệ... vì lợi ích cho mình và cho cả cộng đồng. Xã hội đó chắc chắn tiến bộ, nền kinh tế nước đó chắc chắn phát triển dân nước đó chắc chắn giàu có, quốc gia đó chắc chắn cường thịnh.
Nhưng đến khi nào thì những nỗ lực đạt thành tích, một phẩm chất tốt cần thiết của mỗi thành viên trong xã hội, lại trở thành một bệnh, mà ngày chúng ta gọi tên nó là bệnh thành tích? Suy cho cùng, nếu diễn dịch bằng thuật ngữ thông thường, sự khác nhau căn bản giữa thành tích và bệnh thành tích chỉ là sự khác nhau giữa hàng thật và hàng giả, hàng nhái. Và yếu tố then chốt làm nên sự khác biệt đó chính là sự có mặt hay không của lòng trung thực.
Điều lo ngại chung hiện nay là căn bệnh thành tích đang lan tràn trong ngành giáo dục của nước ta. Không phải chỉ lây nhiễm cho một bộ phận những người công tác trong ngành mà còn cho nhiều gia đình trong xã hội. Ông Nguyễn Thiện Nhân, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo, người được kỳ vọng rất nhiều trong công tác chấn hưng nền giáo dục nước nhà, đã nhận xét rằng không chỉ “các thầy cô, các trường ham muốn thành tích bằng kết quả thi cử cao" mà "hàng chục triệu phụ huynh và học sinh chính là đồng tác giả của bệnh thành tích".
Tuy nhiên, muốn khắc phục căn bệnh nguy hiểm này, có nhiều vấn đề được phân tích thêm và làm sáng tỏ. Tại sao các trường và các thầy cô ham muốn kết quả thi cao? Phải chăng vì kết quả cao đó - dù là kết quả không phản ánh đúng thực chất - là tiêu chí được Sở hay Bộ sử dụng để đánh giá thành tích điều hành và giảng dạy của ban giám hiệu, các thầy cô? Phải chăng với thành tích được đánh giá cao theo cách đó, chắc chắn ban giám hiệu và thầy cô sẽ có lợi là nâng lương, khen thưởng và tiếp tục "sự nghiệp” nhân lên căn bệnh thành tích? Và nếu tất cả các trường trên cả nước đều có những kết quả xuất sắc tương tự, phải chăng Bộ Giáo dục và đào tạo sẽ được đánh giá là có thành tích tốt trong công tác điều hành giáo dục trên cả nước? Tại sao các phụ huynh muốn con em có điểm cao hơn thực chất. Ở đây cũng cần có hai cách nhìn: thực chất và tác dụng. Xét về thực chất, không có phụ huynh học sinh nào muốn con em mình là học "giả". Họ là những người đã bỏ ra tiền thật, công sức thật, thời gian thật và hy vọng thật về một tương lai tốt đẹp thật của con em mình. Không có lý do gì họ lại mong muốn nhận được một môn hàng giả. Tuy nhiên, đứng trên điểm thực dụng, họ sẵn sàng làm mọi cách, kể cả những cách tệ hại nhất chúng ta đã được biết để con em họ qua được các kỳ thi, có một tấm bằng. Như vậy, suy cho cùng, phụ huynh học sinh và học sinh chính là nạn nhân của bệnh thành tích hơn là "đồng tác giả”. Khi sự lây nhiễm của bệnh thành tích đã thành phổ biến, làm gì có ai được miễn dịch? Cuối cùng, không có ai khác là xã hội phải gánh chịu rủi ro và chi phí cao hơn. Một sự lãng phí nghiêm trọng về thời gian và tiền bạc, hậu quả của bệnh thành tích. Khi nguồn nhân lực thiết yếu cho sự phát triển kinh tế bị méo mó nghiêm trọng cả về số lượng lẫn chất lượng, các doanh nghiệp đành phải chấp nhận "hàng giả" lẫn lộn với "hàng thật” và phải thêm ngân sách để đào tạo và đào tạo lại sau khi tuyển dụng, bệnh thành tích là hậu quả của chủ nghĩa hình thức và chính nó là mẹ đẻ của bệnh sao chép, học thuộc lòng. Với bệnh thành tích, các phương pháp đánh giá, kiểm tra kết quả học tập trở nên dày đặc, nặng nề, phức tạp nhưng mang tính chất rập khuôn, không có chỗ dành cho sự sáng tạo của người. Hơn nữa, hàng rào thì có quá nhiều và tập trung càng làm nặng thêm tinh thần học tủ, học rập khuôn, sao chép của học sinh.
Chúng ta đều nhận thức rõ ràng, một xã hội muốn phát triển tiến bộ phải có nhiều nhân tài, mà nhân tài phải là người thực học, được tiếp thu những kiên thức và các phẩm chất đạo đức tinh hoa của nhân loại và của dân tộc thông qua hệ thống giáo dục của cộng đồng. Giáo dục chính là xuất phát điểm, là nơi sản sinh ra nguồn năng lực cho sự cường thịnh của một nước, một cộng đồng dân tộc. Một nền giáo dục tốt và thành thục sẽ tạo nên những con ngươi đạt những thành tích tốt và trung thục. Những thành tích tốt và trung thực sẽ tạo nên những bước tiến mạnh mẽ cho cộng đồng dân tộc trên con đường phát triển.
Đất nước chúng ta đang tiến bước trên con đưòng đổi mới, mở cửa, hội nhập và tranh đua với thế giới để giành lấy một vị trí xứng đáng trên hành tinh. Đất nước này có cường thịnh hay không tùy thuộc vào việc nền giáo dục của chúng ta có đổi mới để có thể sản sinh ra những nhân tài thực học hay không. Trên tiến trình đổi mới giáo dục bệnh thành tích phải được xóa bỏ. Đó không phải là một việc quá khó, nhưng chắc chắn cũng không dễ dàng.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *