Nội dung của bài học giúp các em hiểu được diễn biến tâm lí của các nhân vật, nhất là chị Hoài và ông Bằng trong buổi cúng tất niên chiều ba mươi tết. Từ đó thấy được sự quan sát tinh tế và cảm nhận tinh nhạy của nhà văn về những biến động, đổi thay trong tư tưởng, tâm lí con người Việt Nam giai đoạn xã hội chuyển mình.
⇒ Vẻ đẹp của nhân vật: Chị Hoài là người phụ nữ nông thôn đẹp người, đẹp nết, sống tình nghĩa thuỷ chung. Chị Hoài đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong truyền thống gắn với mô hình gia đình nền nếp gia phong, sống nặng nghĩa tình thuỷ chung son sắt.
⇒ Ông Bằng là kiểu nhân vật đặc trưng cho lớp người rất phổ biến trong xã hội ta một thời: trọng đạo đức gia đình và các chuẩn mực xã hội truyền thống nhưng đang phải gánh chịu nỗi đau từ cơn lốc thị trường tàn phá vào giá trị gia đình.
đọan trích “Mùa lá rụng trong vườn”, Ma Văn Kháng đã khéo léo xây dựng kết cấu truyện hợp lý để giúp người đọc cảm nhận được nét đẹp tuyền thống gia đình của người Việt Nam để không đánh mất mình trước tác động của nền kinh tế thị trường, giúp mỗi người càng yêu thêm những nét đẹp trong tâm hồn người Hà thành. Truyện như một thước phim ngắn về một gia đình có truyền thống trọng đạo ân tình, tình nghĩa thủy chung son sắt. Để nắm vững những kiến thức cần đạt về văn bản này, các em có thể tham khảo thêm bài soạn Mùa lá rụng trong vườn.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Mùa lá rụng trong vườn được trích ra từ chương II của tiểu thuyết cùng tên. Tác phẩm thể hiện nỗi niềm thương tiếc cho những giá trị cũ của dân tộc đang bị mai một và nhạt nhòa trước những đổi thay của cuộc sống đổi mới. Để nắm vững lí thuyết cũng như cách cảm nhận về các vấn đề của tác phẩm này, các em có thể tham khảo các bài văn mẫu dưới đây:
- Phân tích truyện ngắn Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Qua tác phẩm, nhà văn bày tỏ niềm lo lắng sâu sắc cho giá trị truyền thống trước những thay đổi của thời cuộc.
Câu trả lời của bạn
Thông qua câu chuyệnn xảy ra trong gia đình ông Bằng, một gia đình nề nếp, luôm giữ gìn gia pháp và gia phong, nay trở nên chao đảo trước những cơn địa chấn tinh thần từ bên ngoài.
Câu trả lời của bạn
Mùa lá rụng trong vườn (1985) – Ma Văn Kháng.
Câu trả lời của bạn
Chị Hoài là dâu trưởng, vợ anh cả Tường liệt sĩ. Nhưng bây giờ chị Hoài đã có một gia đình riêng.
Câu trả lời của bạn
Chị Hoài lên thăm gia đình ông Bằng vào chiều 30 Tết, vào đúng lúc cả gia đình đang tíu tít vào buổi cúng tất niên.
Câu trả lời của bạn
Vẻ đẹp ngoại hình của chị Hoài: “Người thon gọn trong cái áo lông trần hạt lựu. Chiếc khăn len nâu thắt ôm khuôn mặt rộng có cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng cười rất tươi ”.
Câu trả lời của bạn
Từng là dâu trưởng trong gia đình ông Bằng, bây giờ chị đã có một gia đình riêng với những quan hệ, bộn bề lo toan riêng nhưng chị vẫn luôn dành một chút góc nhỏ trong trái tim cho gia đình ông Bằng. Chị về thăm gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi Tết.
⇒ Chị Hoài sống nặng tình nghĩa thủy chung son sắt. Chị coi gia đình chồng cũ như những người thân thích.
Câu trả lời của bạn
- Ông Bằng nghe tin chị Hoài lên thì xôn xao trong lòng, “ông cố đi cho ngay ngắn”, khi nhìn thấy chị thì ông đứng sững người lại, mặt thoáng chút ngơ ngẩn rồi mắt ông chớp liên hồi môi ông lật bật không thành tiếng, có cảm giác như sắp khóc.
- Giọng của ông khê đặc khàn rè “Hoài đấy ư con”.
⇒ Bằng hàng loạt chi tiết miêu tả nội tâm nhân vật nhà văn đã cho thấy được tâm trạng từ ngạc nhiên đến vui mừng, xúc động của người cha.
Câu trả lời của bạn
Trong tiềm thức vẫn sống động của mọi người trong gia đình, chị Hoài là một người phụ nữ thùy mị, nết na, vừa đẹp người, vừa đẹp nết.
Câu trả lời của bạn
Tâm trạng của chị Hoài khi gặp lại ông bằng:
- Xúc động sâu sắc khi gặp lại ông Bằng: “Không chủ động được mình”; “lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép”; thốt lên tiếng chào như tiếng nấc.
- Mừng rỡ, bồi hồi kể cho ông nghe về cuộc sống gia đình hiện tại.
Câu trả lời của bạn
Cảnh tượng gặp gỡ giữa ông Bằng và chị Hoài diễn ra đầy xúc động và tràn ngập tình yêu thương. Dù chị Hoài không còn là dâu trưởng trong gia đình, họ đã lâu không gặp gỡ nhưng tình cảm gia đình vẫn sâu nặng như xưa: vẫn luôn quan tâm, chia sẻ và lo lắng cho gia đình như ngày trước. Đó là tấm lòng của những người có ý nghĩa như trụ cột. Họ có tình cảm đẹp, bền chặt và lối ứng xử đẹp.
Câu trả lời của bạn
Nét văn hóa cúng tất niên chiều 30 Tết với khói hương và mâm cỗ thịnh soạn được tác giả nhắc đến trong đoạn trích Mùa lá rụng trong vườn.
Câu trả lời của bạn
- Khung cảnh ngày Tết và dòng tâm tư cùng với lời khấn của ông Bằng trước bàn thờ gợi cho ta nhiều suy nghĩ:
+ Gợi nhớ về cội nguồn các giá trị truyền thống của dân tộc ta.
+ Đồng thời nhà văn đặt ra vấn đề là cần phải biết giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của quá khứ của truyền thống.
Tóm tắt tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng?
Câu trả lời của bạn
Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn - được viết ra nhằm chia sẻ với người đọc giữa đời về niềm lo lắng sâu sắc cho các giá trị truyền thống trước những biến động, đổi thay của thời buổi kinh tế thị trường - được Ma Văn Kháng hoàn thành vào năm 1985. Tác phẩm được xét tặng giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986. Tác phẩm gồm 20 chương. Đoạn trích được chọn đưa vào Sách giáo khoa Ngữ văn 12 là một đoạn dẫn từ phần 4, chương II của tác phẩm.
Bằng một giọng kể ấm áp và cảm động, khi thì qua trật tự tuyến tính dẫn dắt, khi thì qua ngôn ngữ đối thoại, khi thì để cho sự việc phơi trải giữa thời gian hiện tại, khi thì để sự tình xa xôi sau một bức màn hồi ức, tác giả đã đưa người đọc trở về với một buổi chiều cuối năm đầy bình yên và trầm hương. Trong buổi chiều cuối năm đầy thiêng liêng mang tính truyền thống đó, người đọc nhận ra những nét đẹp rất phương đông, rất Việt Nam của ngày Tết cổ truyền: sự đoàn tụ, lễ cúng gia tiên và bữa cơm tất niên, những lời ước nguyện...
Có thể tiếp cận với không gian và thời gian đầy hương Tết của đoạn trích được dẫn ở ba toạ độ nghệ thuật sau:
Thứ nhất, chị Hoài và sự trở về trong buổi chiều ba mươi Tết
Chị Hoài - người vợ của một liệt sĩ. Chấp nhận sự vô thường, chị tái giá, nhưng vẫn giữ sự hằng thường: sự trong sáng thuỷ chung với gia đình nhà chồng (gia đình ông Bằng). Hết mùa lá rụng năm ấy, chị như chiếc lá tìm về cội nguồn, trở về thăm lại gia đình cũ đúng thời khắc buổi chiều tất niên. Chị Hoài (mà cái tên như ngầm gợi lên một cái gì ổn định, hằng thường, thuỷ chung) hiện lên trong tác phẩm và đoạn trích trong một lát cắt bất ngờ của đời sống, cũng là trong chặng cuối cuộc hành trình của một năm tàn tháng tận. Chị đem đến cho khu vườn của nhà chồng một tiết tấu bình yên - như bù lại cho những gì mà thế giới yên tĩnh ấy đã, đang và sẽ vừa bị tước đoạt vừa được bồi đắp mới để thích nghi trước một nhịp điệu gấp gáp của đời sống thị trường. Lời nhắn gọn gắn mà mênh mang biết bao, ít chữ mà nhiều nghĩa biết bao ở chương XX – chương cuối cùng của truyện - của chị Hoài sau một mùa lá rụng nữa như hoàn chỉnh thêm diện mạo tâm hồn của một người vợ liệt sĩ đã thanh thản chọn cho mình cách sống vì mọi người (trước hết là mọi người trong gia đình dù đó chỉ là một gia đình đã xưa cũ với chị mà chị hoàn toàn có quyền không phải chia sẻ trách nhiệm nữa): “Bao giờ cậu Cần cưới vợ, cô Phượng ở cữ, cô Lí về, nhớ điện cho tôi lên”.
Đúng như suy nghĩ của ba nhân vật Đông, Lí và Luận: “Quan hệ của chị ở gia đình này đã thuộc về quá khứ. Kỉ niệm của chị ở đây đẹp nhưng buồn. Chị có quyền quên mà không ai được trách cứ.” Nhưng đoạn trích đã cho người đọc đến với một nhân vật chị Hoài của hiện tại chứ không phải là của quá khứ. Vẫn còn đó trong mùa tết năm này của tác phẩm sự chu đáo, lo toan, nghĩa tình vẹn toàn của một người dâu trưởng. Điều đó làm tất cả mọi người trong gia đình ông Bằng đều cảm động. Qua cách miêu tả ấy của Ma Văn Kháng, người đọc cũng bất giác bồi hồi theo tâm hồn nhân hậu, cách sống vị tha, trong sáng nghĩa tình, thuỷ chung của người đàn bà đã một thời là dâu trưởng. Ma Văn Kháng đã ưu ái dành cho nhân vật đặc biệt này cả hai cách giới thiệu, miêu tả vừa trực tiếp (qua ngoại hình và diện mạo bình dị mà có nét tươi tắn: “một phụ nữ nông thôn trạc năm mươi, người thon gọn trong cái áo bông chần hạt lựu. Chiếc khăn len thắt nâu ôm một khuôn mặt rộng có cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng tươi.”; qua hai con mắt “đậm nỗi bồi hồi” cảnh cũ người xưa; qua ngôn ngữ thô mộc dân dã mà không phải là không tinh tế: “Cô Phượng đấy như?”) vừa gián tiếp (qua hồi ức của mọi người: “Chị Hoài, vợ anh cả Tường liệt sĩ. Chị Hoài, dâu trưởng, nết na, thuỳ mị.”; qua cảm nhận của Phượng trong hiện tại: “Người phụ nữ tưởng đã cắt hết mối dây liên hệ với gia đình này, vẫn giao cảm, vẫn chia sẻ buồn vui và cùng tham dự cuộc sống cuả gia đình này”). Chín năm chưa gặp lại người cha chồng kính yêu. Phút gặp lại, chị Hoài “gần như không chủ động được mình, chị lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép...”. Ma Văn Kháng tinh tế và sắc sảo để chị “kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa” - hai hàng gạch hoa của lễ giáo và sự xa cách của một lần tái giá. Chị thốt lên tiếng “Ông” nghe như một tiếng nấc. Nhưng đến lễ cúng gia tiên, chị Hoài đã thật sự trở về với niềm tin trong trẻo cũ. Người đàn bà đó đã giản dị một cách hồn nhiên để tin rằng chị vẫn là một phần không thể tách rời của cái gia đình xưa cũ. Vì vậy, ngay khi ông Bằng vừa khấn vái và buông tay chắp xong, chị liền “thế chân ông cụ, hai tay nâng lên trước ngực.” để cất lên lời khấn vái tổ tiên.
Có phải chính từ hình tượng này mà Ma Văn Kháng đã muốn nói lên một điều không được nói ra nói tác phẩm: thì ra, con người ta có quyền vừa hội nhập với cái mới mà vẫn vừa giữ gìn được những nét tinh tuý hằng thường của cái xưa cũ.
Thứ hai, ông Bằng và cuộc gặp lại người con dâu
Qua cách khắc hoạ của Ma Văn Kháng, ông Bằng vừa là hiện thân vừa là biểu tượng cho giá trị mang tính chuẩn mực của đời sống gia đình. Ông tìm bình yên trong tiết tấu cổ điển của bản “Vườn khuya”. Nhưng giai điệu thong thả du dương êm đềm ấy cũng không giúp ông chống đỡ nổi sự biến động phức tạp đầy tăng tốc của đời sống thị trường. Ông phải chứng kiến dần dần sự đổ vỡ của gia đình: con trai (Cừ bỏ xí nghiệp và có tin là đã vượt biên), con dâu (Lí - vợ của Đông) đang có biểu hiện chê chồng lạc hậu để đua theo lối sống xa hoa phù phiếm. Khu vườn nhỏ và yên tĩnh của gia đình ông Bằng vừa phải đối mặt với quy luật rụng lá của thiên nhiên, vừa phải đối mặt với quy luật biến động của đời sống xã hội. Ông Bằng chưa chịu nhận ra một điều - mà điều này cho đến cuối tác phẩm, sẽ xuất hiện trong một chiêm nghiệm của con dâu ông là Phượng: “Ai có thể ngờ được căn nhà yên tĩnh, ở đầu cái phố dài yên tĩnh, lại chỉ có được sự yên tĩnh bề ngoài. Gia đình, cái giọt nước của biển cả, có ai ngờ lại là một vùng chứa nhiều sóng gió đến thế.”
Cuộc gặp mặt giữa ông Bằng và người dâu trưởng là chị Hoài là một cuộc gặp gỡ vừa vui mừng vừa xót xa. Trong một chừng mực nào đó, cuộc gặp lại này xoa dịu niềm cô đơn và tiếp thêm niềm tin cho ông Bằng trong cảnh ngộ gia đình hiện tại. Ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế của Ma Văn Kháng tỉ mẫn ghi lại cận cảnh phút giây rớm nước mắt đó: ông Bằng sững lại khi nhìn thấy chị Hoài, trên gương mặt còn vướng vất ưu tư của ông “thoáng một chút ngơ ngẩn”, rồi mắt ông “chớp liên hồi”, môi “lật bật không thành tiếng”. Tác giả nói thay người đọc và thay cho cả nhân vật người cha chồng giàu cảm xúc này là “có cảm giác ông sắp khóc oà”. Khi chị Hoài lao về phía cha, thốt lên tiếng “Ông” nghe như tiếng nấc, giọng ông Bằng nghẹn ngào đẫm nước mắt: “Hoài đấy ư, con?”. Đúng là một cuộc gặp gỡ nhiều tâm trạng, nhiều nỗi niềm mà một nhân vật trong truyện đã nhận ra: “Cảnh gặp gỡ vui mừng nhiễm một nỗi tiếc thương, đau buồn, ê nhức cả tim gan.”.
Mùa lá rụng. Cây cối trong thiên nhiên lớn của đất trời và thiên nhiên hẹp là khu vườn của gia đình ông Bằng cũng đều chấp nhận quy luật vừa khắc nghiệt vừa thanh thản của tiết mùa cho một lần thay lá. Để lên non. Cũng như cây cối trong khu vườn nhà ông Bằng, những con người trong Mùa lá rụng trong vườn phải đối mặt cho một lần “lên đời” (cũng là một kiểu “thay lá”) để bước vào cuộc sống đầy năng động, đầy biến động của cơ chế thị trường. Trong cuộc sống tất bật để đi lên đó, một mặt những con người trong đoạn trích và tác phẩm phải phấn đấu để trang bị thêm những giá trị mới để thích nghi với cuộc sống mới; mặt khác, phải ra sức níu giữ, neo giữ những giá trị hằng thường đã trở thành chuẩn mực bất biến của đời sống. Giá trị cần được giữ gìn trong mùa lá rụng của tác phẩm và cũng chính trong đoạn trích là giá trị gia đình.
Thứ ba, mọi người trong gia đình ông Bằng và lễ cúng tất niên
Tất cả đều mong đợi chị Hoài lên thăm, chị Hoài trở về. Và “cầu được, ước thấy”. Niềm vui mừng của mọi người trong gia đình ông Bằng khởi phát từ tiếng reo to mừng rỡ của Phượng, tiếp theo là cảnh Đông, Lí, Luận hấp tấp vội vã từ phòng khách “ùa ra vệt đường lát xi măng đi qua vườn cây ra cổng...”. Cảnh Lí ôm chầm lấy chị Hoài. Rồi một loạt lời hỏi han, trao đổi rộn rã. Rồi cảnh người cha chồng và con dâu trưởng gặp lại nhau trong nghẹn ngào cảm xúc.
Lễ cũng tất niên tràn ngập không khí trang nghiêm nhưng ấm cúng, lời khấn thành kính mà chân thành. Đứng trước bàn thờ tổ tiên, ông Bằng “như quên hết xung quanh và bản thể”. Ông thành tâm theo khói hương ngày Tết trôi về quá khứ hằng thường, cất lên lời vọng tưởng đầy tri ân với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, với người vợ đã qua đời, với người con trai cả đã xanh mồ. Để rồi từ quá khứ thiêng, ông trở về với hiện tại bề bộn. Hơn ai hết trong gia đình này, ông ý thức sâu sắc sự kết nối giữa truyền thống và hiện tại, giữa tổ tiên và con cháu.
Mâm cỗ tất niên thịnh soạn được cả nhà - nhất là Lí - tươm tất chuẩn bị. Nỗi buồn năm cũ như qua đi, chỉ còn đó đêm trừ tịch đầy sự vui vẻ, hân hoan, ấm cúng của một gia đình tưởng chừng không bao giờ có thể chia cắt.
Có lẽ người đọc tuy không nói ra nhưng đều cảm động hướng đến và sẻ chia suy nghĩ lặng thầm của ông Bằng trong đêm cuối năm lặng gió ấy ở cuối chương II: “Gia đình và sự sum họp đêm giao thừa, có gì đầm ấm, thiết tha hơn. Kỳ diệu thay thời khắc này. ”
Tết, trong nỗi thiêng liêng thẳm sâu giản đơn mà huyền diệu đêm trừ tịch, sau những bổi hổi đoàn tụ, cuối những hoài niệm xao xác và khởi đầu thinh lặng những ước mơ, nghe vườn khuya rùng mình búng lá, nghe trước đường theo gió có ai đó lất phất xuyên qua trầm hương đi về hát khẽ lời “anh đến thăm em đêm ba mươi...” mà chợt làm huyên náo cả tách trà thơm, lặng thầm giở từng trang Mùa lá rụng trong vườn...
Cũng là một cái thú giữa ngày xuân chăng!
Chiều 30 Tết năm Bính Tuất, ai trong nhà ông Bằng cũng mong chờ chị Hoài- vợ của anh Tường liệt sĩ cũng là con trai trưởng của cụ Bằng. Nay chị đã lấy chồng. Và như cầu được ước thấy, chị Hoài sau khi đi bộ một đoạn đường khá xa đã đến cổng nhà ông Bằng, tiếp đón chị đầu tiên là tiếng reo vui của Phượng, theo sau là Đông, Lý, Luận ai cũng tíu tít đón chị dâu cũ. Và nghẹn ngào nhất có lẽ chính là cảnh ông Bằng-cha chồng và con dâu trưởng gặp lại nhau với bao cảm xúc dâng trào.
Chị Hoài năm nay đã gần năm mươi tuổi, nhưng chị vẫn rất đẹp với dáng người thon gọn. Đôi mắt đen láy, khuôn miệng tươi cười và người chị rất gọn. Chị đi bước nữa với anh làm ở Ủy ban xã, chị đang làm chủ nhiệm của hợp tác xã đan dệt thảm ngô, họ có bốn đứa con.
Chị Hoài về đây, mang theo rất nhiều quà quê từ gạo nếp, đến giò thủ, bột sắn dây, gói hạt giống mướp hương,…. Chị Hoài và các em trai em dâu của nói chuyện, hỏi thăm nhau rôm rã, vui mừng vì lâu ngày mới được gặp nhau. Rồi sau đó, ông Bằng đi xuống, ông nhìn chị như chực trào nước mắt. Chị Hoài nhìn ông, và khóc, chị cất tiếng chào: “Ông” trong nghẹn ngào. Ông Bằng run run, giọng khàn đặc đáp lại “Hoài đấy ư, con?”. Nhìn cảnh đó, khiến Phượng không kìm được nước mắt. Ông Bằng lấy khăn giấy lau đi đôi mắt ướt của mình và hỏi thăm về gia đình chị.
Họ tiếp tục câu chuyện của mình, trong lúc đó, mâm cỗ cúng gia tiên đã bày biện tươm tất, xong xuôi. Lý mới ông Bằng khấn lễ cúng gia tiên. Trên bàn thờ, khói hương nghi ngút, ngọn đèn dầu cứ lim dim cháy. Mâm cỗ cúng của nhà Lý rất thịnh soạn có bánh chứng hai cái xếp bên cạnh mâm ngũ quả, với những chén rượu nhỏ được bày trước ảnh song thân và bên trái là ảnh bà Bằng, bên phải là ảnh anh cả Tường. Lễ khấn tràn ngập không khí trang nghiêm, ấm cúng. Ông Bằng lầm rầm khấn như quên hết sự đời, còn chị Hoài thì nhìn lên bàn thờ rồi chị thế chân cụ Bằng để khấn, hai tay chị nâng lên trước ngực….
Không khí của mâm cỗ không còn là những nỗi buồn xưa cũ, thay vào đó là sự hân hoan ấm cúng của một đại gia đình. Mọi người bước vào mâm cỗ với niềm vui và chào đón những gì thiêng liêng nhất.
Dàn ý phân tích truyện Mùa lá rụng trong vườn?
Câu trả lời của bạn
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
a. Cuộc đời
b. Sự nghiệp
2. Tác phẩm
II. Tìm hiểu chi tiết
1. Nhân vật chị Hoài
⇒ Điều đó cho thấy chị là một người sống có tình nghĩa.
⇒ Tóm lại qua đây chúng ta thấy chị Hoài không chỉ đẹp người mà còn đẹp nết. Nhân vật Hoài được nhà văn xây dựng giống như mẫu người phụ nữ vẫn giữ nguyên được nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Chính chị đã đánh thức tình cảm gia đình thiêng liêng về gia tộc khiến cho bữa cơm tất niên trở nên ấm cúng hơn sang trọng và hân hoan hơn so với thời buổi xã hội khó khăn.
2. Cảnh sum họp trước giờ cúng tất niên
a. Diễn biến tâm trạng của ông Bằng và chi Hoài
⇒ Cảnh tượng hiện ra trước mắt chúng ta là một cảnh tượng của tình cảm gia đình giữa bố chồng và cô con dâu trưởng. Đó là một cảnh xúc động và tràn ngập tình yêu thương. Tuy nhiên trong lòng cả hai người đều mang một nỗi tiếc thương về những rạn nứt trong quan hệ gia đình. Vui đấy nhưng cũng buồn đấy. Tuy vậy chị Hoài trở về thăm nhà ông Bằng như tìm thấy được một người đáng tin cậy và thương yêu, mọi đau buồn được giải tỏa.
b. Khung cảnh Tết và ý nghĩa cúng tổ tiên trong ngày Tết
⇒ Hành động ấy thể hiện sự gợi nhớ về cội nguồn các giá trị truyền thống của dân tộc ta. Đồng thời nhà văn đặt ra vấn đề là cần phải biết giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của quá khứ của truyền thống
III. Tổng kết
Như vậy chỉ qua một đoạn trích trong tiểu thuyết mùa lá rụng trong vườn mà nhà văn Ma Văn Kháng đã thẳng thắn nêu lên những vấn đề nhức nhối của xã hội bấy giờ. Trước thời cuộc đổi mới của đất nước kinh tế khó khăn và những mối quan hệ gia đình rạn vỡ vì những văn hóa mới du nhập. Các giá trị truyền thống như bị xói mòn. Trước tình hình đó nhà văn muốn những con người chúng ta hãy biết giữ gìn những truyền thống văn hóa dân tộc quý báu.
Phân tích truyện Mùa lá rụng trong vườn?
Câu trả lời của bạn
Ma Văn Kháng đã từng nói: "Không ai chọn thời đại, hoàn cảnh để sinh ra và sống với nó cả". Ông từng được mệnh danh là người khuấy động văn đàn hiện đại Việt Nam, đại biểu tinh anh của văn học Việt với nhiều tác phẩm đặc sắc vẫn đang miệt mài cống hiến cho sự nghiệp văn chương cho nước nhà dù tuổi đã cao. "Mùa lá rụng trong vườn" là một cuốn tiểu thuyết đặc sắc của ông, xuất bản năm 1985. Truyện lấy bối cảnh một gia đình truyền thống vào những năm 80 của thế kỉ XX, khi đất nước bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ sau chiến tranh, gây ra nhiều thay đổi tốt có, xấu có. Truyện đã phản ánh chân thực những biến động trong xã hội thời bấy giờ và những ảnh hưởng to lớn của nó tới gia đình - tế bào của xã hội.
Thật vậy, đoạn trích là chương II của tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn kể về chiều 30 Tết năm Bính Tuất, chị Hoài - vợ anh Tường liệt sĩ con trưởng của cụ Bằng nay đi bước nữa. Tuy chị đã có gia đình riêng nhưng chị vẫn không quên về quê. Đón nhận tình yêu thương của gia đình ông Bằng, sự hỏi han của người em trai, em dâu gia đình chồng cũ không khỏi khiến chị nghẹn ngào. Khi câu chuyện cảm động giữa ông Bằng và chị diễn ra thì mâm cỗ cúng gia tiên cũng bày xong. Mâm cỗ ngày Tết thật là sang.. Qua câu chuyện trên, Ma Văn Kháng bày tỏ lòng trân trọng trước sự ăn ở đầy tình nghĩa thủy chung và những truyền thống tốt đẹp của người dân Hà thành.
Trước tiên, chị Hoài - đứa con tinh thần mà ông yêu quý đã được nhà văn chắp bút tô điểm. Chị là người vợ của một liệt sĩ. Mặc dù chị tái giá nhưng chị vẫn giữ tình nghĩa với nhà chồng cũ. Chị về thăm lại gia đình đúng vào 30 Tết. Ma Văn Kháng đã miêu tả chị rất tỉ mỉ, chi tiết. Hoài là một người phụ nữ nông thôn, trạc 50 tuổi. Người chị thon gọn trong chiếc áo bông trần hạt lựu. Chị có một khuôn mặt rộng với cặp mắt đằm thắm và cái miệng tươi. Chỉ với việc khắc họa đôi nét về nhân vật, ta có thể thấy chị Hoài hiện lên một cách giản dị với vẻ đẹp tươi tắn, sáng sủa. Từng là dâu trưởng trong gia đình ông Bằng, bây giờ chị đã có một gia đình riêng với những quan hệ, bộn bề lo toan riêng nhưng chị vẫn luôn dành một chút góc nhỏ trong trái tim cho gia đình ông Bằng. Trong tiềm thức mỗi người trong gia đình đầm ấm ấy luôn "vẫn sống động một chị Hoài đẹp người đẹp nết". Về thăm gia đình ông Bằng, chị mang quà quê với gạo nếp và giỏ thủ do chồng hiện tại chị làm. Lúc gặp ông Bằng mà mình kính trọng, yêu thương, chị "gần như không chủ động lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản.. kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa". Tiếng gọi của chị nghẹn ngào trong tiếng nấc "Ông!". Chị hòa chắp tay trước bàn thờ tổ tiên ngay sau khi ông Bằng lui gót, chị tíu tít hỏi han mọi người trong gia đình.
Với những hành động trên, ta thấy chị rất quan tâm, chăm sóc mọi người. Chị ấy sống nặng tình nghĩa thủy chung son sắt. Chị coi gia đình chồng cũ như những người thân thích. Đó cũng chính là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Ma Văn Kháng cũng lia ngòi bút của mình một cách điệu nghệ để khắc họa nhân vật ông Bằng với ngoại hình cao gầy hơn mọi ngày nhưng trang trọng và chỉnh tề hơn, gương mặt ánh lên cảm xúc của con người trước ngưỡng của năm mới. Khi nghe tin Hoài lên, "ông sững khi nhìn thấy Hoài, mặt thoáng một chút ngơ ngẩn. Rồi mắt ông chớp liên hồi, môi ông bật không thành tiếng có cảm giác ông sắp khóc òa", giọng ông bỗng khê đặc, khàn rè: "Hoài đấy ư, con?". Nỗi vui mừng khôn tả của ông khi gặp lại đứa con dâu trưởng mà ông rất mực yêu thương đã được miêu tả một cách chân thực.
Khi mâm cỗ thịnh soạn được đưa lên, mọi người quây quần bên nhau, ông Bằng đứng trước bàn thờ tổ tiên như quên hết mọi thứ xung quanh, trôi ngược về quá khứ để tri ân cha mẹ, tổ tiên, ông tâm tình với vợ và con trai cả đã hi sinh của mình: "Trong giây lát, nhập vào dòng xúc động tri ân cùng tiên tổ và những người đã khuất, ông Bằng lâng lâng trong những hoài niệm hư ảo, thoát trần. Nhưng ông chỉ ở trong dòng tình cảm trôi lững lờ đó trong giây phút. Quá khứ không cắt rời với hiện tại. Tổ tiên không tách rời với con cháu. Tất cả liên kết thành một mạch bền chặt thủy chung. Bởi vậy, ông lại trở về với những ngày đang sống, với những người đang sống, mắt ông bỗng cay xè". Có thể thấy, ông Bằng là gạch nối giữa quá khứ với hiện tại của gia đình trong giây phút thiêng liêng ấy. Ông là kiểu nhân vật trong đạo đức gia đình.
Tóm lại, qua đoạn trích "Mùa lá rụng trong vườn", Ma Văn Kháng đã khéo léo xây dựng kết cấu truyện hợp lý để giúp người đọc cảm nhận được nét đẹp tuyền thống gia đình của người Việt Nam để không đánh mất mình trước tác động của nền kinh tế thị trường, giúp mỗi người càng yêu thêm những nét đẹp trong tâm hồn người Hà thành. Truyện như một thước phim ngắn về một gia đình có truyền thống trọng đạo ân tình, tình nghĩa thủy chung son sắt.
Ma Văn Kháng sinh năm 1936 tại làng Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội. Tên khai sinh của ông là Lê Trọng Đoàn. Ông là một nhà văn nhiệt huyết đầy sức trẻ không những thế ông còn là nhà văn đi tiên phong trong quá trình đổi mới văn xuôi Việt Nam năm 1975. Ông có một khối lượng tác phẩm dồi dào và mang lại nhiều ý nghĩa tiêu biểu như “Mùa lá rụng trong vườn” được trích từ chương II của tiểu thuyết cùng tên. Tác phẩm thể hiện nỗi niềm thương tiếc cho những giá trị cũ của dân tộc đang bị mai một và nhạt nhòa trước những đổi thay của cuộc sống đổi mới.
Đọan trích là chương II của tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn kể về chiều 30 Tết năm Bính Tuất, chị Hoài – vợ anh Tường liệt sĩ con trưởng của cụ Bằng nay đi bước nữa. Tuy chị đã có gia đình riêng nhưng chị vẫn không quên về thăm mọi người. Đón nhận tình yêu thương của gia đình ông Bằng, sự hỏi han của người em trai, em dâu gia đình chồng cũ không khỏi khiến chị nghẹn ngào. Tác giả đã miêu tả chị rất tỉ mỉ, chi tiết. Hoài là một người phụ nữ nông thôn, trạc 50 tuổi. Người chị thon gọn trong chiếc áo bông trần hạt lựu. Chị có một khuôn mặt rộng với cặp mắt đằm thắm và cái miệng tươi. Chỉ với việc khắc họa đôi nét về nhân vật, ta có thể thấy chị Hoài hiện lên một cách giản dị với vẻ đẹp tươi tắn, sáng sủa.
Chị Hoài từng là dâu trưởng trong gia đình ông Bằng, bây giờ chị đã có một gia đình riêng với những quan hệ, bộn bề lo toan riêng nhưng chị vẫn luôn dành một chút góc nhỏ trong trái tim cho gia đình ông Bằng. Trong tiềm thức mỗi người trong gia đình đầm ấm ấy luôn "vẫn sống động một chị Hoài đẹp người đẹp nết". Về thăm gia đình ông Bằng, chị mang quà quê với gạo nếp và giỏ thủ do chồng hiện tại chị làm. Lúc gặp ông Bằng mà mình kính trọng, yêu thương, chị "gần như không chủ động lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản.. kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa". Tiếng gọi của chị nghẹn ngào trong tiếng nấc "Ông!". Chị hòa chắp tay trước bàn thờ tổ tiên ngay sau khi ông Bằng lui gót, chị tíu tít hỏi han mọi người trong gia đình.
Những hành động trên, ta thấy chị rất quan tâm, chăm sóc mọi người. Chị ấy sống nặng tình nghĩa thủy chung son sắt, coi gia đình chồng cũ như những người thân thích. Đó cũng chính là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Cuộc gặp mặt giữa ông Bằng và người dâu trưởng là chị Hoài là một cuộc gặp gỡ vừa vui mừng vừa xót xa. Trong một chừng mực nào đó, cuộc gặp lại này xoa dịu niềm cô đơn và tiếp thêm niềm tin cho ông Bằng trong cảnh ngộ gia đình hiện tại.
Lễ cũng tất niên tràn ngập không khí trang nghiêm nhưng ấm cúng, lời khấn thành kính mà chân thành. Đứng trước bàn thờ tổ tiên, ông Bằng “như quên hết xung quanh và bản thể”. Ông thành tâm theo khói hương ngày Tết trôi về quá khứ, cất lên lời vọng tưởng đầy tri ân với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, với người vợ đã qua đời, với người con trai cả đã xanh mồ. Để rồi từ quá khứ thiêng, ông trở về với hiện tại bề bộn. Hơn ai hết trong gia đình này, ông ý thức sâu sắc sự kết nối giữa truyền thống và hiện tại, giữa tổ tiên và con cháu. Mâm cỗ tất niên thịnh soạn được cả nhà, nhất là Lí – tươm tất chuẩn bị. Nỗi buồn năm cũ như qua đi, chỉ còn đó đêm trừ tịch đầy sự vui vẻ, hân hoan, ấm cúng của một gia đình tưởng chừng không bao giờ có thể chia cắt.Có thể thấy, ông Bằng là gạch nối giữa quá khứ với hiện tại của gia đình trong giây phút thiêng liêng ấy.
Qua một đoạn trích trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn, nhà văn Ma Văn Kháng đã thẳng thắn nêu lên những vấn đề nhức nhối của xã hội bấy giờ. Trước thời cuộc đổi mới của đất nước kinh tế khó khăn và những mối quan hệ gia đình rạn vỡ vì những văn hóa mới du nhập. Các giá trị truyền thống như bị xói mòn. Trước tình hình đó nhà văn muốn những con người chúng ta hãy biết giữ gìn những truyền thống văn hóa dân tộc quý báu. Vừa hội nhập cái mới mà vẫn vừa giữ gìn được những giá trị truyền thống.
Hướng dẫn soạn bài : "Mùa lá rụng trong vườn" - Ma Văn Kháng
Câu trả lời của bạn
Chị Hoài mang vẻ đẹp đằm thắm của người phụ nữ nông thôn:
+ Người thon gọn chiếc áo lông trần hạt lựu
+ Chiếc khăn len nâu thắt ôm khuôn mặt rộng có cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng cười rất tươi
- Nét đằm thắm, mặn mà toát lên từ tâm hồn chị, từ tình cảm đôn hậu, từ cách ứng xử đến quan hệ với mọi người
+ Từng là dâu trưởng trong gia đình ông Bằng, chị đã có một gia đình riêng nhưng mọi thứ vấn nhớ, vẫn quý, vẫn yêu chị
+ Người phụ nữ trưởng thành, để lại dấu ấn với mọi người trong gia đình
+ Nhân vật chị Hoài là mẫu phụ nữ đẹp truyền thống, giữ được nhiều phẩm chất tốt đẹp của con người qua “cơn địa chấn” xã hội
Câu 2 (trang 88 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Tâm trạng của các nhân vật ông Bằng, chị Hoài:
- Tâm trạng xúc động mạnh mẽ:
+ Ông Bằng khi nhìn thấy Hoài, “môi ông bật không thành tiếng, có cảm giác như ông sắp khóc òa”
+ Nỗi vui mừng, xúc động dâng trào khi ông được gặp lại người con dâu trưởng mà ông quý mến
+ Chị Hoài: gần như không chủ động được lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản…, chị nghẹn ngào trong tiếng nấc “ông”
→ Sự xúc động của hai người thể hiện chân thành trong gia đình, dự cảm những điều tốt đẹp trong truyền thống gia đình
- Trước sự có mặt của chị Hoài, ông Bằng như có thêm niềm tin trong cuộc đấu tranh âm thầm giành những điều tốt đẹp cho truyền thống gia đình giờ đây trước bao tác động của cuộc đời, có nguy cơ bị băng hoại
Câu 3 (trang 88 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Khung cảnh ngày Tết:
+ Khói hương, mâm cỗ thịnh soạn trong thời buổi đất nước còn nhiều khó khăn sau ba mươi năm chiến tranh
+ Mọi người trong gia đình tề tựu, quây quần
+ Tất cả chuẩn bị chu đáo trong khoảnh khắc tri ân trước tổ tiên trong chiều 30 Tết
- Hình ảnh gieo vào lòng người niềm xúc động rưng rưng, để “nhập vào dòng xúc động tri ân tổ tiên”
- Bày tỏ lòng tri ân trước tổ tiên, trong lễ cũng tất niên, trở thành truyền thống trân trọng, tự hào của dân tộc ta
- Dù cuộc sống hiện đại vẫn cần gìn giữ giá trị truyền thống tốt đẹp trong quá khứ.
- Nét đằm thắm, mặn mà toát lên từ tâm hồn chị, từ tình cảm đôn hậu, từ cách ứng xử, quan hệ với mọi người. Từng là dâu trưởng trong gia đình ông Bằng, bây giờ chị đã có một gia đình riêng với những quan hệ riêng, lo toan riêng, mọi thứ vẫn nhớ, vẫn quý, vẫn yêu chị. Bởi vì "người phụ nữ tưởng đã cắt hết mối dây liên hệ với gia đình này, vẫn giao cảm, vẫn chia sẻ buồn vui và cùng tham dự cuộc sống của gia đình này" (biết chuyện cô Phượng đã chuyển công tác, nhận được thư bố chồng cũ, sợ ông buồn nên phải lên ngay; chu đáo xởi lởi chuẩn bị quà, hỏi thăm tất cả mọi người lớn, bé; sự thành tâm của chị trước bàn thờ tổ tiên chiều 30 tết...). Trong tiềm thức mỗi người "vẫn sống động một chị Hoài đẹp người đẹp nết".
- Nhân vật chị Hoài là mấu người phụ nữ vẫn giữ được nét đẹp truyền thống quý giá trước những "cơn địa chấn" xã hội.
Câu 2: Diễn biến tâm lí của chị Hoài và ông Bằng
- Tâm trạng xúc động mãnh liệt:
+ Ông Bằng: "nghe thấy xôn xao tin Hoài lên", "ông sững khi nhìn thấy Hoài, mặt thoáng một chút ngơ ngẩn. Rồi mắt ông chớp liên hồi, môi ông bật không thành tiếng, có cảm giác ông sắp khóc oà", "giọng ông bỗng khê đặc, khàn rè: Hoài đấy ư, con?" Nỗi vui mừng, xúc động không giấu giếm của ông khi gặp lại người đã từng là con dâu trưởng mà ông rất mực quý mến.
+ Chị Hoài: "gần như không chủ động được mình lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản... kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa". Tiếng gọi của chị nghẹ ngào trong tiếng nấc "ông!".
=> Sự xúc động của hai người thể hiện tình cảm chân thành giữa những người trong gia đình, dự cảm những điều tốt đẹp trong truyền thống gia đình.
- Trước sự có mặt của chị Hoài, ông Bằng như có thêm niềm tin trong cuộc đấu tranh âm thầm nhằm giành lại những gì tốt đẹp trong truyền thống gia đình mà giờ đây, trước bao tác động của thời cuộc, đang có nguy cơ bị băng hoại.
I. Tác giả - Tác phẩm
1. Tác giả
Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh năm 1936, quê ở Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội. Tốt nghiệp Đại học sư phạm, ông lên dạy học ở Lào Cai và bắt đầu viết văn. Năm 1976, ông chuyển về công tác tại Hà Nội, làm Phó giám đốc - Tổng biên tập Nhà xuất bản Lao động, Ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập tạp chí " Văn học nước ngoài". năm 1988, ông nhận Giải thưởng văn học ASEAN và 2001 ông nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm chính : "Đồng bạc trắng hoa xòe"- 1979, "Vùng biên ải" - 1983, " Mùa lá rụng trong vườn" - 1985. "Ngày đẹp trời" - 1986. "Đám cưới không có giấy giá thú" - 1989, "Trăng soi sân nhỏ" - 1994, "Một chiều đông gió" - 1998....
2. Tác phẩm
"Mùa lá rụng trong vườn" là cuốn tiểu thuyết được tặng Giải thường Hội nhà văn Việt Nam năm 1986. Tác phẩm thể hiện sự quan sát và cảm nhận tinh nhạy của nhà văn về những biến động, những thay đổi trong tư tưởng và tâmlis của con người Việt Nam trong giai đoạn xã hội chuyển mình, bỏ dần mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường với những rạn vỡ tất yếu theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực trong quan niệm sống, cách sống và cách lựa chọn các giá trị. Chuyện xảy ra trong chính gia đình ông Bằng, một gia đình được coi là nề nếp, luôn giữ gìn gia pháp, gia phong, nay trỏe nên chao đảo trước những cơn địa chấn tinh thần từ bên ngoài.Nhà văn bày tỏ niềm lo lắng sâu sắc cho các giá trị truyền thống trước những đổi thay của thời cuộc
II. Trả lời câu hỏi
1. Dù hiện tại đã có giá đình riêng, đã sống một số phận khác, ít còn liên quan đến gia đình người chồng đầu tiên đã hi sinh trong chiến tranh nhưng chị Hoài vẫn luôn luôn quan tâm đến từng người và gắn bó với những biến động buồn vui của gia đình người chồng cũ. Nét đẹp tình nghĩa và thủy chung trong tâm hồn người phụ nữ này đã khiến tất cả mọi người trong gia đình với những tính cách khác nhau, đều yêu quý chị. Việc chị đột ngột trở về sum họp với gia đình người chồng cũ trong buổi chiều cuối năm, dự bữa cơm cúng tất nên, cách chị quan tâm đến từng người trong nhà, những món quà quê giản dị..... chứa đựng những tình cảm chân thành, thủy chung, nghĩa tình mộc mạc, nồng hậu. Chị trở lại với gia đình bố chồng trước đây của mình khi gia đình ấy đang có những thay đổi không vui, những rạn vỡ trong mối quan hệ giữa các thành viên, do những biến động của xã hội. Sự có mặt của chị đã gắn kết mọi thành viên trong gia đình, đánh thức tình cảm thiêng liêng về gia tộc. Bữa cơm cũng tất niên đã thể hiện rõ nhất vai trò quan trọng của chị Hoài đối với gia đình người chồng cũ và tình cảm trân trọng, yêu quý của mọi người đối với chị.
2. Cả ông Bằng và chị Hoài đều vô cùng lo lắng trước những biến động theo chiều hướng xấu đi của gia đình. sự xuất hiện bất ngờ của chị Hoài khiến ông Bằng xúc động mạnh mẽ. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi, khuôn mặt ông thoáng chút ngẩn ngơ. Chị Hoài trọng tình cảm, sống trong mối giao cảm đặc biệt với gia đình ông Bằng. vả lại, do xa cách người thân lâu ngày, nên bây giờ được gặp ông Bằng và các em, chị không giấu nổ tâm trạng vui mừng khôn tả.
Sự xúc động sâu sắc của hai người thể hiện tình cảm chân thành giữa những người trong gia đình. Nhưng quan trọng hơn, nó dự cảm những gì tốt đẹp trong truyền thống gia đình mà giờ đây, trước bao tác động của thời cuộc, đang có nguy cơ bị băng hoại.
3. Khung cảnh tết và dòng tâm tư cùng với lời khấn của ông Bằng trước bàn thờ gợi cho ta những xúc cảm, suy nghĩ sâu xa, thiêng liêng hướng về nguồn cội, giúp ta ý thức sâu sắc hơn về bảo vệ các giá trị truyền thống của dân tộc, nâng cao trách nhiệm giữ gìn những giá trị tốt đẹp trong quá khứ.
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *