Nội dung của học Vợ nhặt của Kim Lân giúp các em hiểu được tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra. Niềm khát khao hạnh phúc gia đình, niềm tin bất diệt vào cuộc sống và tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau giữa những người lao động nghèo khổ ngay trên bờ vực thẳm của cái chết. Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật. Thông qua video bài giảng cùng phần hướng dẫn soạn bài và phần bài học, DapAnHay chúc các em có thêm nhiều tiết học hấp dẫn và hiệu quả hơn tại lớp.
⇒ Góp phần tô đậm hiện thực nạn đói và đặc biệt là giá trị nhân đạo của tác phẩm: dù trong hoàn cảnh nào, người phụ nữ vẫn khát khao một mái ấm gia đình hạnh phúc.
⇒ Những con người đói khát gần kề cái chết vẫn khao khát hạnh phúc gia đình, vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau và luôn có niềm tin vào tương lai.
⇒ Bà là một người mẹ có tấm lòng nhân hậu, bao dung, đầy hi sinh, tiêu biểu của người mẹ nghèo VN.
Phân tích diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.
Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác phẩm được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện Vợ nhặt. Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí (1962). Để dễ dnagf nắm được những kiến thức cần đạt khi học tiết văn này, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây: Bài soạn Vợ nhặt.
Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn DapAnHay sẽ sớm trả lời cho các em.
Truyện Vợ nhặt được Kim Lân xây dựng dựa trên tình huống: Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ ngay giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh. Để cảm nhận được những giá trị nhân văn, nhân đạo trong truyện ngắn này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:
- So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt
- Dàn ý So sánh hai nhân vật bà cụ Tứ và người đàn bà hàng chài
- Chứng minh những người đói họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống
- Phân tích đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn của Kim Lân
- Diễn biến tâm lý nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt
- Phân tích tình huống truyện của tác phẩm Vợ nhặt để làm rõ ý kiến
- So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
- Cảm nhận về hành động Mị chạy theo A Phủ và hành động thị chạy theo không Tràng về làm vợ
- Hình tượng người phụ nữ xưa và nay qua tác phẩm Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ
- Phân tích tình huống truyện Vợ Nhặt của Kim Lân
- Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân
- Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân
- Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện Vợ nhặt
- Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
- Cảm nhận về nhân vật Người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân
-- Mod Ngữ văn 12 DapAnHay
Họ và tên
Tiêu đề câu hỏi
Nội dung câu hỏi
Câu trả lời của bạn
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc viết về người nông dân của nhà văn Kim Lân. Bằng ngòi bút nhân đạo của mình, người nghệ sĩ ấy không chỉ khắc họa những hình ảnh chân thực đến mức xót xa về người nông dân mà qua đó còn nói lên niềm cảm thương sâu sắc trước số phận bấp bênh, khốn cùng của họ. Trong tác phẩm, cả ba nhân vật Tràng, Thị và mẹ Tràng đều có những nỗi niềm riêng, những khổ tâm riêng, song sau tất thảy trong tâm hồn họ vẫn ánh lên những vẻ đẹp đáng được trân trọng. Nhân vật bà cụ Tứ- mẹ Tràng là nhân vật có tâm lí diễn biến khá phức tạp được nhà văn diễn tả rất thành công.
Bà cụ Tứ trước hết là một người đàn bà, nghèo khổ, góa chồng, sống cùng con trai ở xóm Ngụ Cư, cậu con trai tên Tràng, dù đã lớn những anh cu khá ngờ nghệch, lại xấu xí, thô kệch. Hai mẹ con sống với nhau, cùng nhau trải qua những gian khổ của cuộc sống thiếu thốn xã hội những năm 1945. Bà chưa bao giờ dám nghĩ anh cu Tràng con mình sẽ có vợ dù lòng bà rất muốn có một người con dâu bởi bà biết con mình thế nào, hoàn cảnh của gia đình ra sao.
Khi anh cu Tràng dắt vợ về chờ đợi mẹ trong căn nhà rách nát ấy, lúc về tới nhà, thấy một người đàn bà đang ngồi ở đầu giường của cậu con trai, bà rất ngạc nhiên. Và càng ngạc nhiên hơn khi nghe tiếng chào mẹ từ miệng người đàn bà ấy. Anh cu Tràng biết mẹ chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra bền cất tiếng “ Kìa nhà tôi nó chào u….Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Tiếng nói ấy, lời khẳng định ấy được cậu con trai của bà thốt ra, bà vẫn chưa thể tin được đây là sự thật, cố nhìn cho kĩ người đàn bà vẫn đang ngồi nơi đầu giường: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu”. Hóa ra con bà đã có vợ, một đứa vừa xấu, vừa nghèo như cu Tràng lại có kẻ nhận theo về ư? Lòng bà vẫn chưa hết ngạc nhiên, còn đong đầy những câu hỏi thắc mắc pha lẫn tò mò.
Khi dần hiểu ra mọi chuyện, biết Tràng nhặt được người đàn bà kia về làm vợ, bà chỉ biết “cúi đầu nín lặng” mà thôi. Xót thương biết bao cho số kiếp của con trai bà, bà nhớ về người chồng năm xưa của mình, nhớ về người con gái bà từng có những đã qua đời, bà càng thương, càng tủi, càng xót xa. Là một người mẹ, bà thương con vô bờ, bà biết con trai mình từ nay cũng đã yên bề gia thất, có mừng đấy chứ, nhưng mừng thì ít mà lắng lo thì nhiều. Bà trách phận mình làm mẹ lại chẳng thể cho con lấy một ngày ấm êm, cũng chẳng có gì lo cho con khi con lấy vợ. Bà cũng nặng lòng biết bao khi người chết vì đói thì nhiều, mạng sống mỏng manh như sợi tóc treo ngàn cân, nhà thì thiếu thốn, khốn khó mà con trai lại lấy vợ lúc này. Rồi bà khóc vì thương con, thương cô con dâu mới , hai đứa rồi sẽ ra sao, có chăng vượt qua được kiếp nạn đọa đày này. “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!...” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Làm sao có thể nói hết những yêu thương mà tấm lòng bà cụ dành cho con, những lời dịu dàng, chân thành được thốt lên từ trái tim ấm áp và sâu tận tâm can của người mẹ khiến ta không khỏi nghẹn lòng. “Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”.
Là một người từng trải, bà hiểu được rằng nếu không có nạn đói xảy ra, chắc gì con mình đa có vợ, đói khát thế, người ta mới tìm đến con mình. Dẫu vậy, thứ hạnh phúc nhỏ bé mà anh Tràng có được vẫn mang đến cho bà, cho gia đình nhỏ sự ấm áp. Dù biết phía trước còn những gập ghềnh, bà vẫn động viên con, khuyên lơn con. Bà dặn con phải sống yêu thương, thuận hòa, đùm bọc san sẻ nhau vượt qua cơn hoạn nạn. Trong lời dặn dò ấy, chứa chan cả một niềm tin rồi mai sẽ khác, rồi tương lai sẽ lại bình yên: “Rồi ra may mà ông giời cho khá…” ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn: chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này".
Trong buổi sáng sau ngày cô con dâu về, bà cố gắng dậy thật sớm, nhổ sạch vườn cỏ trước nhà, quét dọn lại nhà cửa, vườn tược. Hơn ai hết, bà xem công việc ấy như một sự yêu quý và trân trọng của mình dành cho người con dâu mới đến, bà đón con trong niềm vui để con đỡ tủi phận mà an lòng. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa”. Bữa sáng đầu tiên đã con dâu là một nồi cháo cám, dù là một món ăn chát đắng những bà vẫn cố mỉm cười vui vẻ để động viên con. Đu nghèo khó đến thế, nhưng trong bữa ăn của buổi sáng hôm ấy ta vẫn cảm nhận được không khí gia đình đầy ấm áp, tình cảm mẹ con vẫn dạt dào.
Nhân vật bà cụ Tứ lấp lánh trong tác phẩm những đức tính cao đẹp của người phụ nữ, người mẹ Việt Nam. Đó là sự đảm đang, lòng nhân hậu, vị tha, tình thương yêu con vô bờ bên và sự kiên cường trong ý chí. Trong gian nan, giữa ngàn sự chết chóc, trăm vạn mối lo toan, bà vẫn lạc quan, vẫn không nuôi hy vọng và niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp.
Bằng cách kể chuyện hấp dẫn, sự thấu hiểu tâm lý, lòng người đã giúp nhà văn đi sâu vào từng ngõ ngách tâm hồn của nhân vật, để khi đọc những trang văn viết nên từ ngòi bút ấy, ta được sống với những cảm xúc cùng nhân vật để cùng hạnh phúc, cùng lo lắng, cùng khóc, cùng cười. Thật cảm ơn Kim Lân đã dành cho những người nông dân lam lũ một tình yêu thương vô bờ và bền chặt đến vậy.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Tóm tắt nhân vật bà cụ Tứ :
- Người mẹ ấy mang lấy một cuộc đời nhọc nhằn, làm lũ. Đói nghèo làm hủy hoại dáng vẻ, ngoại hình.
- Bà cụ Tứ là người mẹ giàu đức hy sinh, vị tha và hết sức bao dung.
- Bà có trái tim nhân hậu.
- Người mẹ nghèo khổ trong tác phẩm đã không vì cái đói, cái cực của người tha hương cầu thực mà chai sạn tâm hồn, dưng dửng vô cảm với tình cảnh khốn cùng của người khác.
- Bên cạnh tình yêu thương với người cùng cảnh ngộ, bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ có tình yêu thương con vô bờ.
-Người mẹ ấy luôn có một niền tin vững chắc và biết truyền ngọn lửa niềm tin đến các con.
- Đức hy sinh của bà thật cao cả.
- Nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của KIM LÂN không chỉ là người mẹ có trái tim nhân hậu mà còn là người sắc sảo, trải đời và hiểu đời.
- Cách ứng xử của bà cụ Tứ vừa thông minh, vừa nhân ái vô cùng.
* Lòng nhân ái, tình mẫu tử cao đẹp, sức sống diệu kì và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, tình người ấm áp.
* Nhân vật bà cụ Tứ mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Thái Bình, Nam Định những năm 1945 là nơi mà nạn đói hoành hành nhất. Người chết ngã ra như rạ, không buổi nào người ta đi chợ, đi làm đồng mà không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí nồng mùi ẩm thối từ xác chết bốc ra. Giữa cái cảnh tối sầm vì đói khát, Tràng – một anh chàng tính khù khờ, ngu ngơ dắt về một cô vợ. Bọn trẻ thường ngày đùa giỡn với anh hôm nay cũng không dám đến gần vì trông anh hôm nay thấy lạ và khác thường quá. Cô vợ này của Tràng là Thị. Hai người kết duyên với nhau bằng vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Mẹ Tràng thấy con mang một cô gái về bảo là vợ trong lòng mà nửa vui nửa buồn. Giữa cái thời đói này người ta còn không dám mơ tới ngày mai chứ nói chi lấy vợ – mang thêm một cái miệng ăn về nhà. Bà chấp nhận nhưng trong lòng đầy lo âu rối bời. Sáng hôm sau, nhà của nhà anh trông thật lạ. Gọn gàng và sạch sẽ hơn hẳn. Cả nhà ngồi cùng nhau ăn sáng bằng nồi cháo lõng bõng, nhưng không khí trong nhà thật vui, cho đến khi nồi cháo lõng hết nhẵn, dù mẹ Tràng có nhanh trí đem nồi chè khoáng lên thì cũng chỉ là chè từ cám. Từ đó không ai nói với ai câu nào, vì ai cũng hiểu vị chát đầu lưỡi là thật và nó đã đem họ về thực tế. Họ không có lương thực. Một hồi trống thúc thuế vội vã dồn dập, Thị thắc mắc tại sao làng này vẫn còn đóng thuế, làng Thị người ta đã phá kho thóc của Nhật chia cho dân rồi. Tràng đang nghĩ đến những người phá kho thóc của Nhật, trong đầu vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới.
Vợ nhặt là một truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân, in trong tập Con chó xấu xí. Tác phẩm ban đầu có tên là Xóm ngụ cư, viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Bản thảo sau này được viết lại.
Cái đói tràn xuống chợ, trẻ con ủ rũ, người lớn dật dờ, lặng lẽ. Tràng bông dắt người đàn bà xa lạ ấy về. Trẻ con có đứa gào lên "chông vợ hài", người lớn bàn tán, những khuôn mặt u tối của họ như rạng rỡ lên. Về đến cái nhà vắng teo, bà cụ Tứ, mẹ Tràng về muộn; Tràng loanh quanh hết ra lại vào. Người đàn bà theo Tràng trong hoàn cảnh không ngờ. Hai lần gặp, và câu đùa với bốn bát bánh đúc người đàn bà ăn một chập và cái "chặc lưỡi" của Tràng.
Bà cụ Tứ về, Tràng reo lên, bà ngạc nhiên. Thấy trong nhà có người đàn bà, lại chào bà là u, bà càng ngạc nhiên. Được Tràng giải thích, bà nín lặng. Bao nỗi niềm xáo trộn trong lòng bà. Nói chuyện với con dâu, bà khóc. Tràng bật lửa thắp đèn, bà vội lau nước mắt… mùi đống rấm và tiếng hờ khóc ở những nhà trong xóm có người chết vẳng tới.
Sáng hôm sau, Tràng dậy muộn. Từ trong nhà đến ngoài sân đều đổi thay, gọn gàng, sạch sẽ. Tràng thấy có bổn phận với vợ và yêu cái nhà mình hơn. Bữa ăn chỉ có rau chuối rối chấm muối với mỗi người hai lưng bát cháo lõng bõng. Bà cụ Tứ nói toàn những chuyên vui vẻ. Bà mừng con dâu mới bằng nồi cháo cám mà bà gọi vui là "chè khoán". Tiếng trống thúc thuế ngoài đình nổi lên. Bà cụ Tứ lại khóc. Trong óc Tràng bỗng hiện lên lá cờ đỏ và đoàn người trên đê Sộp đi phá kho thóc.
Câu trả lời của bạn
Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và văn học Việt Nam sau năm 1945, truyện được in trong tập Con chó xấu xí năm 1962. Vốn xuất thân từ làng quê Việt Nam nên Kim Lân đã viết nên Vợ nhặt bằng tất cả tâm hồn, tình cảm của một con người là con đẻ của đồng ruộng. Truyện được xây dựng với nhiều tình huống gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Song nổi bật trong tác phẩm là giá trị hiện thực và nhân đạo.
Truyện đã phản ánh được những mặt cơ bản của hiện thực xã hội Việt Nam những ngày trước Cách mạng tháng Tám 1945. Chỉ thông qua tình huống nhặt được vợ của Tràng, truyện đã tái hiện được bức tranh về nạn đói thê thảm của người dân Việt Nam từ Quảng Trị đến Bắc kỳ hơn triệu người bị đói. Ở đây mở đầu truyện là cảnh cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ vùng Nam Định, Thái Bình đội nón lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm chỏng queo bên đường. Không khí vẩn lên một mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người... Dưới gốc đa... những người đói dật dờ lặng lẽ đi như những bóng ma. Tiếng quạ., cứ gào lên từng hồi thê thiết, Qua đây, người đọc cũng có thể hình dung được bộ mặt thật của bọn phát xít, thực dân và tay sai của chúng. Điều này được gói gọn trong một câu nói đầy phẫn uất của bà mẹ già: Tiếng thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc gì đã sống qua được đâu các con ạ! ....
Tác phẩm còn phản ánh được một hiện thực cơ bản khác. Đó là tấm lòng người dân hướng về cách mạng và sự vận động của cuộc sống hướng về tương lai. Giữa những tiếng trống thúc thuế dồn sưu dồn dập là hình ảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm vụt hiện lên trong ý nghĩ của Tràng. Nó báo hiệu một bình minh mới của cách mạng sẽ đến.
Bên canh nội dung hiện thực rộng lớn là giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua tình huống truyện độc đáo, qua tâm lý và số phận nhân vật, tác phẩm không cần đao to búa lớn vẫn tố cáo được một cách sâu sắc tội ác tày trời của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây nên nạn đói thảm khốc khiến hai triệu người phải chết đói. Bóng đen tử thần bao trùm lên tất cả, đè nặng lên số phận mỗi người dân và mọi xóm làng. Trong bối cảnh bi thảm ấy, giá trị con người quá rẻ mạt. Nếu như trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu, cô gái Thái bị ép duyên, đã đau khổ thở than: Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa thì ở đây người đàn bà mà Tràng nhặt được chỉ bằng mấy bát bánh đúc, một bữa cơm no và hai hào dầu. Nạn đói đã đẩy con người đến chỗ xem miếng ăn là tất cả. Ngay cả đến cái chuyện tỏ tình thường vẫn mang màu sắc tình tứ, e lệ, duyên dáng, thì giờ đây cũng chỉ còn trơ trọi là một câu chuyện lăn xả vào miếng ăn. Vì đói khát cùng đường mà không còn giữ được sự e thẹn thông thường của người phụ nữ Việt Nam. Chỉ mấy bát bánh đúc và vài lời nói tầm phào của gã đàn ông xa lạ, mà người đàn bà kia đã ton ton chạy theo để trở thành vợ nhặt của Tràng. Ý nghĩa nhân đạo không chỉ được toát ra từ sự cảm thông cho thân phận khổ đau của người dân nước Việt mà còn được toát ra từ sự tố cáo ấy.
Truyện Vợ nhặt còn cho ta thấy rằng người dân lao động vốn có bản chất lành mạnh, luôn luôn hướng về ánh sáng với một niềm tin bất diệt. Dù hoàn cảnh có hiểm nghèo bi thảm tuyệt vọng đến đâu, dù có kề bên cái chết, vẫn khát khao hạnh phúc, tổ ấm gia đình, vẫn hướng về sự sống và hy vọng ở tương lai tươi sáng. Đúng như tác giả đã có lần phát biểu: Trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái ảm đạm mà vui mà hy vọng..Những người đói họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống (Kim Lân). Vợ chồng Tràng vẫn lấy nhau giữa cảnh ngổn ngang xác người chết đói là vì vậy. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của hai người tuy bị bủa vây, bởi cái đói, cái chết nhưng sự sống chẳng bao giờ chán nản, vẫn là bất diệt, vẫn sinh sôi nảy nở từ bãi tha ma sặc mùi tử khí. Hạnh phúc tình yêu vẫn như làn gió xuân thổi về làm xôn xao sự sống. Trong một lúc Tràng dường như quên hết những cảnh ê chề tăm tối trước mắt, những tháng ngày đầy đe doạ phía trước. Lúc này trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa vói người đàn bà. Một cái gì lạ lắm... nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng. Sáng dậy thấy nhà cửa đổi khác, hắn cảm thấy lâng lâng và thấy từ đây phải có trách nhiệm hơn với người thân và chính cuộc đời mình. Ở bà cụ Tứ càng có những biểu hiện cảm động hơn. Niềm vui vì có con dâu, vì hạnh phúc của con và niềm tin ở cuộc sống đã làm cho người mẹ nhanh nhảu hơn Cái khuôn mặt u ám, bủng beo của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên.
Qua truyện Vợ nhặt, Kim Lân còn cho ta thấy trong hoạn nạn, con người lao động, càng yêu thương nhau hơn và dù trong cảnh khó khăn, khốn cùng, họ vẫn giữ được phẩm chất đẹp đẽ: đói cho sạch, rách cho thơm. Cuộc sống khắc nghiệt đoạ đầy con người, bắt họ phải sống cuộc sống của loài vật, nhưng nó không thể dập tắt được phần người, rất người trong lòng bà mẹ khốn khổ kia. Ba mẹ con Tràng đã tìm thấy niềm vui trong sự nương tựa, cưu mang nhau mà sống. Tình vợ chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ sức mạnh vượt qua cơn hoạn nạn khủng khiếp này.
Như vậy những con người đã vượt qua mặc cảm đói nghèo, tủi hờn để khẳng định sự sống, chắc chắn sẽ đi theo tiếng gọi của Việt Minh để giành sự sống cho mình trong cách mạng. Vì Đảng ta... hồn người. Chọn tình huống Vợ nhặt do nạn đói rùng rợn gây nên, Kim Lân không nhằm miêu tả sự mất giá, tha hoá con người, ngược lại đã khẳng định khát vọng sống còn và phẩm giá của họ. Tình yêu cuộc sống của những con người nằm bên bờ cái chết đã trở thành nguồn sáng, nguồn ấm áp sưởi ấm lòng người, thôi thúc họ đi tới cứu lấy đời mình.
Vợ nhặt được rút ra từ tập Con chó xấu xí, xuất bản năm 1945. Đây là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông, đồng thời cũng là một những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người nông dân và thể hiện đầy đủ quan điểm sáng tác của tác giả. Tác phẩm thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo.
Trước hết giá trị hiện thực của tác phẩm được thể hiện trong việc Kim Lân đã tái hiện thành công nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm 1945 phần lớn người dân đã bị đẩy tới cái chết. Kim Lân đã tập trung tất cả bút lực của mình để tạo dựng bối cảnh, không khí nạn đói ấy. Trong văn ông cái đói, cái chết đã hiện hình, nổi cộm sắc nét tạo nên những ám ảnh ghê rợn. Ấn tượng về cái đói cái chết đã được Kim Lân tạo dựng từ nhiều yếu tố, nhưng ấn tượng nhất là thị giác, khứu giác và thính giác. Ở thị giác, ông đã hai lần sử dụng hình ảnh đầy sức ám ảnh: bên cạnh những người chết như ngả rạ, là những người còn sống vật vờ như những bóng ma. Ở đây cái đói đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực, giữa sự sống và cái chết là ranh giới vô cùng mong manh. Nạn đói đã vắt kiệt toàn bộ sự sống của con người để hiện hình thành những bóng ma dật dờ. Ở khứu giác, cái đói cái chết trong văn Kim Lân không chỉ nhìn thấy mà còn có thể ngửi thấy đó là mù gây của xác người và mùi khét lẹt của các nhà đốt đống dấm. Còn thính giác cũng là những ấn tượng ghê rợn. Âm thanh của những đàn quạ liên thanh cất lên, là tiếng hờn khóc tỉ tê của những gia đình có người chết.
Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị hiện thực còn được thể hiện trong thân phận rẻ rúng của những người nông dân nghèo. Người đàn bà chết đói, người gầy sọp đi, hai mắt trũng sâu vào, vì cái đói, vì miếng ăn đã đồng ý lấy Tràng một cách nhanh chóng. Chính cái đói đã khiến người đàn bà ấy mất đi danh dự, sự e thẹn vốn có của một người con gái, mà trở thành một kẻ chỏng lỏn, vì miếng ăn sẵn sàng đánh mất lòng tự trọng của mình. Chỉ với vài bát bánh đúc và một lời nói vu vơ, thị đã chạy đến híp mắt cười tình, đánh mất đi sự e lệ, kín đáo và chấp nhận về làm vợ của Tràng khi không hề biết đến tính cách, con người của Tràng ra sao. Trong hoàn cảnh bị cái đói, cái chết dồn đuổi, thị sẵn sàng bám víu vào bất cứ thứ gì đảm bảo sự sống cho thị. Những chi tiết mà Kim Lân miêu tả đã cho thấy, người vợ nhặt là một người nông dân khốn khổ, bị đẩy đến bước đường cùng nên nhân cách và lòng tự trọng đã bị tha hóa.
Đám cưới với mỗi người là một nghi thức quan trọng nhất trong cuộc đời, nhưng đám cưới của Tràng và người vợ nhặt lại diễn ra hết sức sơ sài, sơ sài đến mức đáng thương. Bữa cơm đầu tiên của nàng dâu mới là nồi cháo cám đắng ngắt mà mọi người ngồi ăn không ai nói với nhau một câu.
Nhưng bên cạnh những mảng màu xám ngắt của hiện thực, ta còn thấy tác phẩm ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Trong tăm tối, khi cái đói đeo đuổi tất cả mọi người, tưởng chừng như người ta chỉ quan tâm đến sự sống chết của mình, thì người nông dân Việt Nam vẫn sẵn sàng dang tay cứu vớt những con người có số phận bất hạnh hơn mình. Nó thể hiện rất rõ truyền thống yêu thương đùm bọc “lá lành đùm lá rách” của nhân dân ta.
Tấm lòng nhân đạo của nhà văn trước hết thể hiện trong sự bao dung, tình yêu thương mẹ con Tràng dành cho người vợ nhặt. Tràng mặc dù có ngoại hình xấu xí nhưng lại có tấm lòng nhân hậu, yêu thương con người. Dù chỉ làm công việc tạm thời, không có ruộng đất nhưng Tràng sẵn sàng mua đồ ăn cho người đàn bà không quen biết. Tràng thương cảm cho người đàn bà khi nhìn thấy hình dáng tiều tụy hẳn đi của thị. Và nhất là Tràng còn đồng ý đem người đàn bà ấy về nhà làm vợ của mình, dù trong Tràng lúc ấy cũng thoáng chút lo âu. Việc lấy vợ của Tràng không phải là một chuyện ngẫu nhiên mà đó là cả một mạch vận động hợp lí. Lần đầu gặp gỡ, Tràng lần đầu tiên nhận được sự quan tâm, đó là cái híp mắt cười tình của một người con gái. Đến lần thứ hai, Tràng xót xa khi người đàn bà phốp pháp lần trước đã biến mất, thay vào dó là một kẻ quần áo rách như tổ đả, gầy hẳn đi. Sự thay đổi bất ngờ nhanh chóng ấy đã dấy lên trong Tràng lòng thương cảm, với bản chất lương thiện và sự đồng cảm của những người đồng cảnh ngộ, Tràng đã nhanh chóng quyết định đưa người phụ nữ đó về nhà để làm vợ của mình. Quyết định nhanh chóng, bất ngờ đó vừa thể hiện khát khao hạnh phúc của Tràng, vừa là sự cứu mang, nghĩa cử cao đẹp mà Tràng dành cho người phụ nữ khốn khổ, bất hạnh hơn mình.
Lấy vợ là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tràng, bằng những cử chỉ hết sức đơn giản, nhưng cũng đủ cho thấy sự trân trọng của Tràng với người vợ nhặt. Anh cho chị ăn một bữa thật no, mua một cái thúng con và mua ít dầu về đốt cho sáng. Hành động mua hai hào dầu đó còn như thắp lên một tương lai, hi vọng mới cho hai vợ chồng. Đặc biệt, sáng hôm sau khi lấy vợ, Tràng đã có những sự thay đổi hoàn toàn. Tràng thấy trong người lửng lơ, một niềm vui khó tả, khi lần đầu tiên được sống và cảm nhận niềm hạnh phúc gia đình. Và niềm hạnh phúc đó đã dẫn đến những biến chuyển trong nhận thức của Tràng, Tràng dấy lên tinh thần trách nhiệm với gia đình. Ý thức được vai trò trụ cột của mình, cùng tham gia với vợ và mẹ để xây dựng cuộc sống mới.
Còn với bà mẹ của Tràng, có con dâu trong hoàn cảnh éo le này làm bà vô cùng ngỡ ngàng, nhưng sau giây phút bất ngờ, bà đã hiểu ra mọi chuyện. Bằng tình yêu thương với người con trai, sự cảm thông với người vợ nhặt bất hạnh, bà hiểu rằng người ta chỉ dựng vợ gả chồng khi ăn nên làm ra, chứ không ai lấy vợ trong cái đói. Nhưng cùng với tình yêu thương con bà còn tự trách mình, thân phận làm mẹ nhưng lại không lo nổi hạnh phúc cho con. Thương con, lo lắng cho con bao nhiêu bà lại càng ngậm ngùi, xót xa cho thân phận người đàn bà kia bấy nhiêu. Bà không nhìn người con dâu mới bằng ánh mắt cay nghiệt, phán xét mà là cái nhìn đầy cảm thông, bao dung: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy, bà cụ không chỉ là hiện thân của tình mẫu tử cao cả thiêng liêng mà còn là hiện thân của tình người ấm áp, bao dung, bà đã đưa bàn tay yêu thương để nâng đỡ bao bọc cho những thân phận khốn khổ dù cuộc sống của mình còn muôn vàn khó khăn.
Không dừng lại ở đó, giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được nhìn nhận từ góc của người vợ nhặt. Người phụ nữ này bị cái đói dồn đuổi đến bước đường cùng, nhưng với lòng ham sống, cô đã cố bám víu đến cùng, cho dù phải biến thành thân phận vợ nhặt. Khát khao được sống đó cho thấy một trái tim khỏe mạnh, một nghị lực sống kiên cườing và bền bỉ ở người phụ nữ này. Như vậy, qua ba nhân vật Tràng, bà mẹ và cô vợ nhặt Kim Lân đã một lần nữa khẳng định lối sống nhân ái, giàu tình cảm và lòng vị tha của nhân dân ta. Không chỉ vậy, trong họ còn tồn tại sức sống mãnh liệt, sẵn sàng vượt qua mọi đói khổ, khó khăn.
Cuối cùng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở cuối bài với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong sự tiếc rẻ của nhân vật Tràng. Chắc chắn với tinh thần lành mạnh, lòng yêu cuộc sống Tràng và vợ sẽ tham gia hoạt động cách mạng. Hình ảnh lá cờ đó như một gợi mở về tươi lai tương sáng đang đón đợi họ ở phía trước.
Bằng nghệ thuật miêu tả bậc thầy, Kim Lân đã vẽ ra bức tranh hiện thực tàn khốc về nạn đói năm 1945, khi mạng người bị rẻ rúng đến cùng cực. Nhưng đằng sau bức tranh hiện thực đen tối ấy là ánh sáng của lòng nhân đạo, tình yêu thương, sự bao bọc, chở che lẫn nhau giữa những con người khốn khổ. Sự hòa quyện giữa hai giá trị hiện thực và nhân đạo đã tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Câu trả lời của bạn
Đã rất nhiều lần đọc truyện Vợ nhặt của Kim Lân nhưng lần nào cũng thế, cứ đọc đến đoạn miêu tả cảnh gặp gỡ đầu tiên giữa bà cụ Tứ (mẹ Tràng) với người "con dâu mới" mà con trai bà vừa "nhặt" được về là tôi lại thấy lòng mình rưng rưng cảm động. Với những lời văn trần thuật giản dị và mộc mạc, tác giả đã dựng được lại rất sinh động những diễn biến tâm lý tinh vi và phức tạp đang diễn ra trong tâm trạng của một bà mẹ nghèo, trước một tình huống éo le không hiểu nên mừng hay lo, là hạnh phúc hay tai họa.
Mở đầu đoạn trích là lời Tràng nhắc mẹ "Kia nhà tôi nó chào u". Người con trai cứ tưởng mẹ mình chưa nghe lời chào của vợ; cứ tưởng bà chưa biết có sự hiện diện của đứa con dâu. Nhưng đâu có phải như thế. Đọc truyện, trước đoạn trích này, chúng ta đều hiểu bà cụ Tứ đã thấy và sau đó đã nghe, đã biết nhưng chưa hiểu hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà thể hiện một sự băn khoăn, kinh ngạc. "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay ở đầu giường thằng con mình thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng U? ... Ai thế nhỉ? ... Ô hay, thế là thế nào nhỉ? Kim Lân dùng một giọng văn trần thuật rất mộc mạc. Ông gọi Tràng là "hắn", vợ Tràng là "thị". Tràng xưng với mẹ bằng "tôi", "chúng tôi" và gọi bà bằng "u": "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau. Cách xưng hô và gọi tên nhân vật dân dã, quê mùa như thế giúp bạn đọc hình dung rõ hơn về những con người nghèo khổ ở một vùng quê quanh năm đói túng, lạc hậu. Riêng đối với người mẹ, Kim Lân muốn biểu thị một thái độ tôn trọng và cảm thông. Ông gọi người mẹ ấy là "bà lão", "bà cụ Tứ", "người mẹ nghèo khổ". Cũng chính với thái độ này, tác giả như nhập thân vào bà cụ Tứ, nhìn sự việc, kể lại theo con mắt và tâm trạng của bà Một người mẹ nghèo khổ thấy dằn vặt, đau xót và lo lắng vì không lo nổi cho con: một con người đã trải qua nhiều cay đắng gian truân. Nay đứng trước tình cảnh của con, người mẹ ấy "hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số phận của đứa con mình". Trong lúc đó, dường như Tràng quá mừng vì bỗng nhiên "nhặt" được vợ nên không tỏ ra lo nghĩ gì lắm. Không phải ngẫu nhiên mà toàn bộ đoạn trích trên chủ yếu tập trung khắc hoạ tâm trạng của bà cụ Tứ. Một tâm trạng vui mà tội nghiệp, mừng mà vừa tủi vừa lo. Vui mừng vì dẫu sao con bà cũng đã có vợ, dù là vợ "nhặt" được ở ngoài đường. Việc Tràng có vợ là ngoài sức tưởng tượng của bà. Chính vì thế, ban đầu bà không hiểu nổi. Có lẽ vì niềm vui và sự cảm thông mà từ thái độ ngạc nhiên, lo lắng và tủi nhục, bà đã "nhẹ nhàng nói với nàng dâu mới" một cách thật chân tình, xúc động:
Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng..". Chắc chắn là trước đó, người con trai nghĩ thế nào mẹ cũng rầy la nặng nhẹ. Vì thế, sau khi bà nói "Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi". Tuy nhiên, mừng là mừng vậy "vui là vui gượng kẻo là". Chứ thực ra tâm trạng người mẹ nặng trĩu một niềm lo. Lòng bà ngổn ngang như mối tơ vò. Kim Lân chỉ lặng lẽ miêu tả bằng hàng loạt cử chỉ, chi tiết nhằm thể hiện tâm trạng đó của bà: "Bà lão cúi đầu nín lặng", "Bà lão hiểu rồi", "Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt...", "Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. ..". Suốt từ lúc về gặp con đến lúc bà cất tiếng, "nhẹ nhàng nói với nàng dâu mới" là cả một khoảng thời gian dài im lặng, một không khí nặng nề, ủ ê, một cơn bão lòng cố nén. Cố nén nhưng nó vẫn bật ra từ hai chữ “Chao ỏi" như một tiếng than tan vỡ. Đến câu hỏi ngập ngừng, ngắt quãng: "Con mình thì... biết rằng chúng nỏ có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?” Suy nghĩ đấy lo âu ấy là những lời tự an ủi, tự động viên và tự trách mình: "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ. bà đã chẳng lo lắng gì được cho con...". Nghe những lời tâm sự thầm kín của bà mà cảm thấy không còn nỗi tủi nhục nào hơn thế nữa. Sao số kiếp của những con người ấy khốn cùng đến vậy?. Những lời từ tốn của bà dặn dò đôi vợ chồng ở cuối đoạn trích là những lời nói rất chân tình, vừa mơ hồ hy vọng, vừa tự động viên, an ủi, vừa thừa nhận một sự thật đắng cay trong một tình thế chẳng có gì chắc chắn cả: "Rồi ra may mà ông giời cho khá... biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?".
Tuy chỉ là một đoạn trích rất ngắn so với toàn bộ thiên truyện Vợ nhặt nhưng cũng đủ cho ta thấm thía nỗi đắng cay tủi nhục của những kiếp người khốn khổ trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời hiểu được tình mẫu tử và lòng nhân ái hết sức cảm động của một bà mẹ nghèo. Đoạn trích cũng cho ta thấy được tài năng của Kim Lân trong việc khác họa tính cách và miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật.
Câu trả lời của bạn
Đã rất nhiều lần đọc truyện Vợ nhặt của Kim Lân nhưng lần nào cũng thế, cứ đọc đến đoạn miêu tả cảnh gặp gỡ đầu tiên giữa bà cụ Tứ (mẹ Tràng) với người "con dâu mới" mà con trai bà vừa "nhặt" được về là tôi lại thấy lòng mình rưng rưng cảm động. Với những lời văn trần thuật giản dị và mộc mạc, tác giả đã dựng được lại rất sinh động những diễn biến tâm lý tinh vi và phức tạp đang diễn ra trong tâm trạng của một bà mẹ nghèo, trước một tình huống éo le không hiểu nên mừng hay lo, là hạnh phúc hay tai họa.
Mở đầu đoạn trích là lời Tràng nhắc mẹ "Kia nhà tôi nó chào u". Người con trai cứ tưởng mẹ mình chưa nghe lời chào của vợ; cứ tưởng bà chưa biết có sự hiện diện của đứa con dâu. Nhưng đâu có phải như thế. Đọc truyện, trước đoạn trích này, chúng ta đều hiểu bà cụ Tứ đã thấy và sau đó đã nghe, đã biết nhưng chưa hiểu hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà thể hiện một sự băn khoăn, kinh ngạc. "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay ở đầu giường thằng con mình thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng U? ... Ai thế nhỉ? ... Ô hay, thế là thế nào nhỉ? Kim Lân dùng một giọng văn trần thuật rất mộc mạc. Ông gọi Tràng là "hắn", vợ Tràng là "thị". Tràng xưng với mẹ bằng "tôi", "chúng tôi" và gọi bà bằng "u": "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau. Cách xưng hô và gọi tên nhân vật dân dã, quê mùa như thế giúp bạn đọc hình dung rõ hơn về những con người nghèo khổ ở một vùng quê quanh năm đói túng, lạc hậu. Riêng đối với người mẹ, Kim Lân muốn biểu thị một thái độ tôn trọng và cảm thông. Ông gọi người mẹ ấy là "bà lão", "bà cụ Tứ", "người mẹ nghèo khổ". Cũng chính với thái độ này, tác giả như nhập thân vào bà cụ Tứ, nhìn sự việc, kể lại theo con mắt và tâm trạng của bà Một người mẹ nghèo khổ thấy dằn vặt, đau xót và lo lắng vì không lo nổi cho con: một con người đã trải qua nhiều cay đắng gian truân. Nay đứng trước tình cảnh của con, người mẹ ấy "hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số phận của đứa con mình". Trong lúc đó, dường như Tràng quá mừng vì bỗng nhiên "nhặt" được vợ nên không tỏ ra lo nghĩ gì lắm. Không phải ngẫu nhiên mà toàn bộ đoạn trích trên chủ yếu tập trung khắc hoạ tâm trạng của bà cụ Tứ. Một tâm trạng vui mà tội nghiệp, mừng mà vừa tủi vừa lo. Vui mừng vì dẫu sao con bà cũng đã có vợ, dù là vợ "nhặt" được ở ngoài đường. Việc Tràng có vợ là ngoài sức tưởng tượng của bà. Chính vì thế, ban đầu bà không hiểu nổi. Có lẽ vì niềm vui và sự cảm thông mà từ thái độ ngạc nhiên, lo lắng và tủi nhục, bà đã "nhẹ nhàng nói với nàng dâu mới" một cách thật chân tình, xúc động:
Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng..". Chắc chắn là trước đó, người con trai nghĩ thế nào mẹ cũng rầy la nặng nhẹ. Vì thế, sau khi bà nói "Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi". Tuy nhiên, mừng là mừng vậy "vui là vui gượng kẻo là". Chứ thực ra tâm trạng người mẹ nặng trĩu một niềm lo. Lòng bà ngổn ngang như mối tơ vò. Kim Lân chỉ lặng lẽ miêu tả bằng hàng loạt cử chỉ, chi tiết nhằm thể hiện tâm trạng đó của bà: "Bà lão cúi đầu nín lặng", "Bà lão hiểu rồi", "Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt...", "Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. ..". Suốt từ lúc về gặp con đến lúc bà cất tiếng, "nhẹ nhàng nói với nàng dâu mới" là cả một khoảng thời gian dài im lặng, một không khí nặng nề, ủ ê, một cơn bão lòng cố nén. Cố nén nhưng nó vẫn bật ra từ hai chữ “Chao ỏi" như một tiếng than tan vỡ. Đến câu hỏi ngập ngừng, ngắt quãng: "Con mình thì... biết rằng chúng nỏ có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?” Suy nghĩ đấy lo âu ấy là những lời tự an ủi, tự động viên và tự trách mình: "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ. bà đã chẳng lo lắng gì được cho con...". Nghe những lời tâm sự thầm kín của bà mà cảm thấy không còn nỗi tủi nhục nào hơn thế nữa. Sao số kiếp của những con người ấy khốn cùng đến vậy?. Những lời từ tốn của bà dặn dò đôi vợ chồng ở cuối đoạn trích là những lời nói rất chân tình, vừa mơ hồ hy vọng, vừa tự động viên, an ủi, vừa thừa nhận một sự thật đắng cay trong một tình thế chẳng có gì chắc chắn cả: "Rồi ra may mà ông giời cho khá... biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?".
Tuy chỉ là một đoạn trích rất ngắn so với toàn bộ thiên truyện Vợ nhặt nhưng cũng đủ cho ta thấm thía nỗi đắng cay tủi nhục của những kiếp người khốn khổ trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời hiểu được tình mẫu tử và lòng nhân ái hết sức cảm động của một bà mẹ nghèo. Đoạn trích cũng cho ta thấy được tài năng của Kim Lân trong việc khác họa tính cách và miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật.
Câu trả lời của bạn
Truyện ngắn Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện nhặt vợ đầy lạ lùng của nhân vật Tràng, qua tình huống nhặt vợ, nhà văn Kim Lân đã để các nhân vật của của mình bộc lộ những giá trị, phẩm chất tốt đẹp. Một trong những nhân vật tiêu biểu nhất trong truyện ngắn là anh Tràng, một người nông dân nghèo khổ, xấu xí, ngờ nghệch nhưng lại là người có tình thương, tinh thần trách nhiệm đáng quý. Bàn về nhân vật Tràng, có ý kiến cho rằng “Tràng là gã trai quê nông nổi, liều lĩnh nhưng lại đầy khát khao và tốt bụng”.
Tràng là người nông dân nghèo khổ, xấu xí sống ở xóm Ngụ cư. Theo dõi câu chuyện nhặt vợ của Tràng, ta thấy được nét tính cách hồn nhiên, trẻ con bên trong vẻ ngoài trưởng thành, có phần thô kệch. Là người đàn ông trưởng thành nhưng Tràng lại thường xuyên chơi đùa cùng đám trẻ con trong xóm cùng những hành động ngờ nghệch đã thành “thương hiệu riêng của anh Tràng “ngửa cổ lên trời mà cười hềnh hệch”.
Tràng là người sống vô tư, có phần nông nổi, liều lĩnh. Khi nạn đói hoành hành, cái đói cái chết đã trở thành nỗi ám ảnh thì anh Tràng vẫn không hề bi quan, lo sợ mà vẫn chịu khó làm ăn, nuôi sống gia đình. Ngay cả khi kéo xe bò mệt mỏi anh Tràng vẫn đùa vui bằng câu hát vu vơ “Muốn anh cơm trắng với giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Cũng chính câu hát vu vơ cùng sự hài hước, vui tính đã tạo ra cuộc gặp gỡ đặc biệt với người vợ nhặt.
Khi bị nhân vật Thị chỉ tay vào mặt mà trách mắng vì đã quên lời hứa lúc đẩy xe bò hộ, Tràng đã ngượng ngùng và chấp nhận mời Thị ăn bánh đúc như yêu cầu của chị ta. Có thể thấy hành động mời ăn bánh đúc ở đây vô cùng hào phóng, bởi trong nạn đói, miếng ăn cho bản thân, gia đình còn là một thách thức, việc mời người lạ ăn lại càng trở nên lạ lùng. Qua vài câu nói đùa vu vơ, người đàn bà lạ mặt đồng ý về làm vợ của anh Tràng, trước tình huống bất ngờ, ngoài dự đoán này, anh Tràng chỉ thoáng băn khoăn rồi liền đồng ý.
Quyết định “nhặt vợ” của anh Tràng có phần vội vàng, mà theo đánh giá của nhiều người thì đây là hành đồng bồng bột, có phần nông nổi. Phải thấy rằng chấp nhận “nhặt vợ” cũng có nghĩa anh Tràng đã chấp nhận mang theo gánh nặng gia đình, chấp nhận thách thức với nạn đói để có được hạnh phúc. Lấy vợ trong lúc nạn đói đang hoành hành là quyết định vô cùng liều lĩnh, nó không chỉ liên quan đến vấn đề gánh nặng gia đình mà còn liên quan trực tiếp đến miếng ăn, đến vấn đề sinh tồn. Tuy quyết định vội vàng, liều lĩnh nhưng có thể thấy Tràng hoàn toàn ý thức được những khó khăn khi lấy vợ trong thời điểm này “Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Nhưng cuối cùng Tràng chấp nhận đối diện với mọi thách thức, khó khăn trong cái chặc lưỡi “Chậc, kệ”.
Đọc đến đây độc giả có thể đánh giá hành động nhặt vợ của Tràng là nóng vội, liều lĩnh nhưng nếu theo dõi những hành động và diễn biến tâm lí của Tràng sau khi đưa vợ về nhà thì ta lại thấy thấu hiểu, trân trọng với con người tình nghĩa, với những khát khao hạnh phúc chính đáng của Tràng. Tràng quyết định lấy vợ đâu chỉ vì trách nhiệm với lời đùa giỡn của mình, cũng không phải sự liều lĩnh trong lúc nông nổi, nó được xuất phát từ chính khát khao hạnh phúc thành thực nhất của Tràng. Hành động mua hai hào dầu trong đêm đầu tiên vợ về nhà đã thể hiện được khát khao hạnh phúc cũng như thể hiện sự trân trọng của Tràng đối với người vợ nhặt, với hạnh phúc bất ngờ của mình.
Người vợ mà Tràng có được chỉ là người vợ theo không nhưng Tràng không hề tỏ ra rẻ rúng, coi thường, trong lòng Tràng chỉ có tình nghĩa của Tràng và người đàn bà đi bên. Nhìn thấy người đàn bà ngồi ở đầu giường Tràng đã nghĩ đến trách nhiệm của mình đối với vợ, đối với gia đình. Đây là sự chuyển biến tâm lí rõ rệt, gây bất ngờ cho tất cả mọi người, không chỉ với độc giả mà còn với chính bản thân Tràng, bởi nhìn lại hình ảnh Tràng vui đùa cùng với những đứa trẻ con, ai có thể biết rằng Tràng lại có những suy nghĩ sâu sắc, trách nhiệm đến vậy.
Lời nhận xét “Tràng là gã trai quê nông nổi, liều lĩnh nhưng lại đầy khát khao và tốt bụng” đã đánh giá tương đối đúng đắn, khách quan về nhân vật Tràng. Tràng là người đàn ông ngờ nghệch, nông nổi nhưng cũng là người đàn ông giàu tình thương, khát khao hạnh phúc nhất.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Có thể thấy, tiêu biểu và thành công nhất khi viết về đề tài người phụ nữ đó là hình ảnh người vợ nhặt của Kim Lân và Thị Nở của Nam Cao. Khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy ở hai nhân vật này có những điểm chung của người phụ nữ Việt Nam đồng thời mang những nét rất riêng và độc đáo.
Kim Lân là nhà văn chuyên về nông thôn, những điều gần gũi, mộc mạc và giản dị, gần gũi với người nông dân. Truyện ngắn ”Vợ nhặt” của Kim Lân tái hiện lại nạn đói thê thảm của nước ta năm 1945, đồng thời thể hiện vẻ đẹp tình người sức sống kì diệu của người nông dân: bên bờ vực chết, họ vẫn hướng tới sự sống, khát khao tổ ấm gia đình thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Nội dung nhân đạo sâu sắc cảm động thể hiện qua tình tiết truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí tinh tế, dựng đối thoại sinh động. Không chỉ thành công với nhân vật Tràng, tác phẩm còn để lại người đọc nhiều suy nghĩ, trăn trở đối với nhân vật Thị. Thông qua nhân vật Thị, ta càng thấu hiểu và cảm thông hơn tình cảnh của người phụ nữ giai đoạn trước cách mạng tháng Tám.
Song song cùng với Thị, Thị Nở của Nam Cao cũng có một số phận bất hạnh không kém. Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm Chí Phèo nói lên số phận bi thảm của người nông dân nghèo mà đầy lương thiện đã bị xã hội thực dân phong kiến xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi không có lối thoát. Thị Nở là một trong những nhân vật trung tâm của tác phẩm, góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác giả.
Nhà văn là người song hành trong cuộc tìm kiếm vẻ đẹp khuất lấp ấy để trân trọng, nâng niu và cảm thông với những nỗi thống khổ của nhân vật. Vậy nên khi so sánh nhân vật Thị và người vợ nhặt ta sẽ hiểu đồng thời khai thác và phân tích rõ nét hơn số phận cũng như nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ ở hai thời kì khác nhau.
Khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy ở hai nhân vật này đều có một điểm chung đó là cả hai đều có số phận bất hạnh, có những bi kịch riêng của đời mình.
Trước hết, phân tích nhân vật Thị trong tác phẩm Vợ nhặt, Thị là một người con gái có số phận bất hạnh. Thị sống trong thời kì nạn đói đang tràn về khắp xóm ngụ cư. Cái đói qua ngòi bút của Kim Lân khiến chúng ta kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết”.
Không chỉ vậy, cô sẵn sàng theo không Tràng về nhà chỉ qua vài câu nói bông đùa, sẵn sàng theo một người mà cô chẳng biết rõ nhà cửa họ như thế nào. Thị theo Tràng đơn giản vì khát khao được sống, khao khát mưu cầu hạnh phúc. Chết đói là điều cầm chắc, vì vậy Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Đây cũng là những khao khát rất bình dị của tất cả mọi người.. Bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi, thật đáng thương! Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh. Tưởng chừng Thị là một người phụ nữ táo bạo vô duyên nhưng thực chất cũng vô cùng e lệ và suy nghĩ như một người phụ nữ.
Không chỉ riêng Thị mà Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao cũng có số phận bất hạnh không kém. Thị Nở là người đàn bà xấu xí, dở hơi, lại thuộc dòng họ nhà có hủi. Trong con mắt của người dân làng Vũ Đại, thị là người đáng bỏ đi. Thị Nở nghèo, cái nghèo đeo bám. Cả làng Vũ Đại ai cũng biết đến Thị bởi ngoại hình thô kệch và gia cảnh nghèo. Thị đã phải đi gánh nước thuê để kiếm sống qua từng ngày.
Thị cũng như Chí Phèo, không được ai yêu thương. Và phải chăng ẩn sâu bên vỏ ngoài thô kệch kia là một trái tim ấm nóng, đang từng ngày khao khát yêu và được yêu. Và có lẽ, bất hạnh nhất đời người là bị cả xã hội chối bỏ, chê cười.
So sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta không chỉ thấy số phận bất hạnh của họ mà qua đó ta còn thấy được rất nhiều điều tốt đẹp ở hai nhân vật này mà ngòi bút tài tình của nhà văn đã thể hiện được. Đằng sau vẻ rách rưới, xấu xí của hai nhân vật này là một khát vọng sống mạnh liệt. Nhân vật Thị Nở được khắc họa qua đêm gặp Chí Phèo, qua chi tiết bát cháo hành, qua từng cử chỉ ân cần và lời hỏi thăm dành cho Chí. Có lẽ đây là đoạn văn thấm đẫm tình yêu thương, là vẻ đẹp giữa những con người cùng cực, bế tắc trong xã hội.
Thị thương Chí, một tình thương xuất phát từ trái tim với lòng cảm thông sâu sắc, không toan tính và vụ lợi. Chỉ đơn giản đó là tình yêu. Chí Phèo – con quỷ làng Vũ Đại, nhưng hắn cũng là người, cũng cần được yêu thương. Cả cuộc đời này, hắn cần Thị – người đàn bà mang đến sự ấm áp…
Trong “Vợ nhặt” của Kim Lân, người vợ nhặt cũng vậy, thị theo Tràng về chẳng qua cũng vì muốn tìm một mái ấm gia đình, một nơi được bao bọc trong tình yêu thương. Thị đã khơi dậy ở Tràng hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới và đám người đói đi phá kho thóc của Nhật - đó là minh chứng rõ nhất cho khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc đang rực cháy trong tâm hồn thị.
Thị Nở chính là hiện thân cho sự khao khát tình yêu đôi lứa dung dị, chân thành và đầy mãnh liệt. Đây chính là tình cảm mà Chí vốn luôn khát khao nhưng lại không có được.
Người đọc đã có nhiều ám ảnh với nhân vật Thị Nở của tác giả bởi ngòi bút “nghệ thuật vị nhân sinh” này. Giá trị nhân văn của thiên truyện chính là tấm lòng vị tha, yêu thương và đồng cảm mà Nam Cao đã chăm chút dành cho nhân vật của mình.
Còn với nhân vật người vợ nhặt, cô cũng là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam xưa. Dù có vẻ ngoài xấu xí, kệch cỡm, thô lỗ nhưng cô là một người vợ hiền hậu đúng mực, thương chồng và là một người con dâu lễ phép, biết điều và sẵn sàng vun đắp xây dựng gia đình dù người chồng ấy chẳng có gì trong tay. Đây chính là những nét đẹp rất tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam.
Vẻ đẹp con người không phải ở ngoại hình, lời nói mà ở hành động, cử chỉ, ở cách họ đối đãi với người khác. Những phẩm chất đáng quý đó không phải ai cũng thấy được, chúng ta phải biết nhìn, thấu hiểu, khám phá bản chất thực sự bên trong. Vậy nên khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy cụ thể những phẩm chất ấy.
Ở cả hai tác phẩm đều mang những thông điệp hết sức nhân văn, thể hiện giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực của tác phẩm. Khi so sánh nhân vật Thị Nở và người vợ nhặt, ta sẽ thấy ở hai nhân vật này chính là tinh thần nhân đạo mà nhà văn đã gửi gắm. Nhà văn đã cảm thông với số phận đau khổ của những con người nhỏ bé, bất hạnh. Tố cáo các thế lực gây ra đau khổ cho con người. Phát hiện, khám phá và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con người bất hạnh đồng thời đấu tranh cho khát vọng chân chính, tốt đẹp của con người.
Không chỉ có giá trị hiện thực, thông qua hai nhân vật này tác giả còn tố cáo hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Nhà văn đã phơi bày chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi khổ về vật chất hay tinh thần của những con người bé nhỏ, bất hạnh. Với mỗi tác phẩm cụ thể, giá trị hiện thực đều được biểu hiện cụ thể và đầy tính đa dạng. Từ đó thể hiện cái nhìn sâu sắc của nhà văn đối với nhân vật của mình.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Kim Lân. Nội dung truyện kể về anh Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê. Giữa trận đói kinh hoàng nuôi thân còn khó, thế mà bất ngờ, anh dám đèo bòng thêm cô vợ nhặt. Kim Lân đã sáng tạo ra tình huống nhặt vợ rất độc đáo, đồng thời vận dụng ngôn ngữ bình dân tự nhiên, mộc mạc để khắc họa tính cách của từng nhân vật. Từ bà cụ Tứ đến anh Tràng và người vợ nhặt, nhân vật nào cũng sinh động và chân thực.
Ngay cái tên truyện là Vợ nhặt cũng gợi cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị. Nhân vật vợ nhặt được tác giả miêu tả rất tinh tế, phù hợp với diễn biến tâm trạng ở từng tình huống khác nhau. Chị đã đem lại niềm vui ấm áp và hạnh phúc gia đình cho mẹ con Tràng trong cảnh ngộ mấp mé giữa sự sống và cái chết. Vì thế nhân vật này chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần hoàn thiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Thường thường, các nhân vật trong tác phẩm dù là chính hay phụ đều có một cái tên để gọi, để phân biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác. Đôi khi, tên nhân vật cũng bao hàm một dụng ý nào đó của tác giả hoặc có thể toát lên tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Truyện ngắn vợ nhặt của Kim Lân đã được nhà văn Nguyễn Khải nhận xét là: “Dường như chẳng có gì cả nhưng lại có khả năng làm kinh động lòng người”. Cho nên, khi tác giả cố tình không đặt tên cho nhân vật của mình và lấy nhân vật không tên ấy làm nhan đề tác phẩm thì chắc hẳn đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa.
Cốt truyện xoay quanh sự kiện “nhặt vợ" bất ngờ và trớ trêu của anh Tràng. Nhà Tràng chỉ có hai mẹ con ở cái xóm nghèo ven chợ. Là dân ngụ cư nên Tràng bị khinh rẻ. Đã thế, anh ta vừa luống tuổi lại vừa xấu trai nên ế vợ. Trong hoàn cảnh bình thường, Tràng không thể cưới được vợ, ấy vậy mà giữa nạn đói khủng khiếp, anh ta lại “nhặt" được “vợ” một cách tầm phơ tầm phào, chẳng cần phải cưới xin gì.
Nhân vật vợ nhặt xuất hiện trong bối cảnh trận đói năm 1945 đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù vù như những đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Chẳng ai biết gốc tích của chị ta ở đâu? Cha mẹ là ai? Anh em thế nào? Tất cả đều không. Chỉ biết ngày ngày, chị ngồi lẫn vào đám đàn bà con gái tụ tập trước cửa kho thóc để nhặt nhanh hạt rơi hạt vãi hay chờ có ai thuê mướn việc gì thì làm để kiếm sống.
Về hình thức, chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác: Áo quần tả tơi như tổ đỉa… người gầy vêu vao, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt… Chị là hiện thân của hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực và rồi sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ.
Lần đầu, chị ta xuất hiện trước mắt Tràng với cách nói năng đối đáp tỏ ra bạo dạn. Chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời chòng ghẹo của mọi người. Khi nghe Tràng hò: Muốn ăn cơm trắng mấy giò này – Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì và bị mấy cô bạn đẩy vai chòng ghẹo… thị cười như nắc nẻ, cong cớn nói với Tràng: Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy? Thị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc mắt cười tít làm cho anh Tràng thích lắm. Chuyện chỉ có thế và Tràng cũng quên ngay. Lần sau, Tràng vừa trả hàng xong đang ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tình thì thị ở đâu sầm sầm chạy đến, sưng sỉa trách anh: Điêu! Người thế mà điêu ! Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt. Gặp lại chị ta, Tràng không nhận ra vì chị ta khác quá. Một lúc sau nhớ ra, Tràng toét miệng cười, đon đả: Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã. Chị ta ngúng nguẩy: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Thấy Tràng vỗ vào túi khoe Rích bố cu… hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả: Ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì.
Chị ta đang đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan khiến
Câu trả lời của bạn
Truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân được sáng tác sau cách mạng tháng Tám nhưng lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Đặt trong bối cảnh ra đời của tác phẩm, nhà văn đã làm toát lên tấm long yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người người khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả xây dựng thành công ở hình tượng nhân vật "bà cụ Tứ" - mẹ anh Tràng - người "nhặt vợ".
Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng "long khòng", kẽ mắt "lèm nhèm ","khuôn mặt bủng beo, u ám ". Những hành động cử chỉ của cụ "nhấp nháy hai con mắt","chậm chạp hỏi", "lập cập bước đi", "lật đật:, "lễ mễ" cũng thể hiện cụ là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy còn bị đặt trong hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà cụ nói " cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng".
Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện ở giữa truyện khi anh Tràng đưa vợ về nhà, nhưng nhân vật này vẫn thu hút được sự quan tâm của người đọc bởi những vẻ đẹp tâm hồn, tính cách.
Trong người mẹ già nua, đói khổ ấy có một tình yêu thương dành cho con cái sâu sắc. Cụ thương người con trai của mình "cảm thấy ai oán xót thương cho số phận đứa con mình". Trong kẽ mắt kèm nhèm của cụ rỉ ra hai dòng nước mắt. Cụ đã sớm lo lắng cho cuộc sống tương lai của đứa con mình" không biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói này không". Bà còn dành tình yêu thương cho người con dâu mới của mình. Bà nhìn thị nghĩ :"Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy con mình, con mình mới có vợ được". Đó là tấm lòng người mẹ không khinh rẻ mà tỏ ra thông cảm thấu hiểu hoàn cảnh con dâu, thậm chí bà còn cho đó là may mắn của con trai mình, gia đình mình khi có con dâu mới. Điều đó chứng tỏ bà cụ Tứ rất hiểu mình, hiểu người. Tình yêu thương còn thể hiện qua những lời nói của bà cụ dành cho con "Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…". Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót, đồng thời động viên con bằng triết lý dân gian"ai giàu ba họ ai khó ba đời, hướng con tới tương lai tươi sáng. "… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…". Câu nói thể hiện tấm lòng thương xót cho số phận của những đứa con. Và để ngày vui của các con thêm trọn vẹn, sáng hôm sau cụ" xăm xắn quét tước nhà cửa". Hành động giản dị thôi nhưng thể hiện tấm lòng người mẹ tuy nghèo nhưng hết lòng thương yêu con. Và thế là đám cưới không nghi lễ, không đón đưa của đôi vợ chồng trẻ được chan đầy bằng tình yêu thương và tấm lòng lo lắng của người mẹ nghèo.
Nhân vật bà cụ Tứ bị đặt trong hoàn cảnh éo le, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan của người mẹ già yếu, tuy sắp đến độ gần đất xa trời nhưng luôn hướng về tương lai thể hiện qua những hành động và lời nói. Cụ tin vào triết lý dân gian: ai giàu ba họ ai khó ba đời- lạc quan về một ngày mai tươi sáng.Cụ đồng tình khi thấy Tràng thắp đèn mặc dù cụ biết lúc đó dầu rất đắt, dầu là thứ xa xỉ. Nếu để ý ta sẽ thấy chính bà lão "gần đất xa trời"này lại là người nói về tương lai nhiều nhất" cụ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Đó không đơn thuần chỉ là niềm lạc quan của người lao động mà còn là ước mơ về cuộc sống có phần tươi sáng hơn cho các con. Bà cụ trông cũng" tươi tỉnh khác hẳn ngày thường". Chính tâm trạng vui tươi phấn khởi của người mẹ già đã làm sáng lên cái không gian u ám và góp phần vào ngày vui trọng đại của cuộc đời người con trai. Sáng hôm sau cụ xăm xắn quét dọn nhà cửa, đó là những công việc sinh hoạt thường ngày nhưng đặt trong hoàn cảnh này, hành động quét dọn làm nhà cửa trông sạch sẽ, tinh tươm hơn giống như cụ đang muốn tự tay quét đi những tăm tối của ngày cũ và đón chờ những điều tươi sáng hơn. Và hình ảnh người mẹ già, cười đon đả: "Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy", cứ quẩn quanh, ám ảnh tâm chí người đọc. Cái lạc quan không những không bị mất đi mà lại càng trở nên mãnh liệt hơn trong mưa nắng cuộc đời. Trong buổi sáng đầu tiên đón tiếp nang dâu mới, nồi cháo cám "chát xít, nghẹn bứ trong miệng" mà ngon ngọt trong long, ngọt bởi tấm lòng người mẹ nghèo đang cố xua đi cái không khí ảm đạm bằng thái độ lạc quan và sự tươi tỉnh động viên con cố gắng vượt qua hoàn cảnh. Nhưng sự thật là vị đắng ngắt của cháo cám và tiếng thúc thuế từ xa vọng lại đã không làm niềm vui nhỏ của những con người nghèo khổ cất cánh lên được.
Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã dựng lên "hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945". Nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong nội tâm nhân vật. Ngoài ra, qua những lời nói, cử chủ, hành động của nhân vật ta cũng có thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Ở bà cụ Tứ thấp thoáng hình ảnh của nhân vật lão Hạc, của mẹ Dần, vợ chồng Dần (Nam Cao) những người nông dân nghèo nhưng chỉ sống vì con, hết lòng yêu thương con. Dẫu chỉ là một nhân vật phụ nhưng bằng tài năng, và tình cảm thiết tha trìu mến đối với tấm lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa được chân dung nhân vật vừa sinh động, chân thực, vừa cảm động, day dứt với người đọc. Chính những hành động, lời nói của cụ, nụ cười trên khuôn mặt bủng beo u ám đã làm sáng bừng thiên truyện sau cái tối tăm, cái bế tắc của đói nghèo. Ý nghĩa nhân bản mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù có đặt vào hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái chết nhưng vẫn không mất đi những giá trị tinh thần và phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu thương con người và thái độ lạc quan hi vọng vào tương lai tươi sáng dù cho chỉ có một tia hy vọng mong manh. Kim Lân đã khám phá và thể hiện thành công điều đó ở nhân vật bà cụ Tứ.
Câu trả lời của bạn
Năm 1945 là năm mà dân tộc ta xảy ra một sự kiện vô cùng đáng nhớ, đó là năm nạn đói lịch sử đã cướp đi hai triệu đồng bào của chúng ta. Nhưng cũng là năm cách mạng tháng 8 thành công chúng ta đánh đuổi được phát xít Nhật khai sinh ra nước Việt Nam.
Trong bối cảnh ấy tác giả Kim Lân đã viết tác phẩm Vợ nhặt để nói lên tội ác của giặc, mốc lịch sử quan trọng của dân tộc. Trong những câu văn đầy tình người tình nhân đạo cao cả của mình Kim Lân đã viết ” Những người đói khổ họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống” với niềm tin bất diệt, không bao giờ tắt.
Nhiều tác giả đã đề cập tới nạn đói lịch sử này, nhưng trong tác phẩm của nhà văn Kim Lân giàu cảm xúc nhân đạo, tình thương với những số phận người nông dân nghèo khổ. Trong mỗi trang viết ông đã vẽ lên tái hiện lại sự thực tàn khốc ấy.
Người chết như ngả rạ, những con quạ ăn xác thối kêu lên những tiếng thê lương, sự đói khát của những người nghèo, của những người đơn độc như anh cu Tràng, bà cụ Tứ, hay vợ anh cu Tràng hiện lên như những ngọn đèn leo lét trước gió. Những con người đi trong bóng chiều u tối, không tìm ra lối thoát.
Trong bối cảnh nạn đói người chết hàng loạt đó. Một người có ngoại hình thô kệch, xấu xí như anh cu Tràng. Hai con mắt ti hí, khuôn mặt khắc khổ dáng người thì thô ráp ấy. Hắn sống cảnh côi cút với bà mẹ già, vì bố hắn đã chết từ lâu. Một người ít hậu không có gì trong tay lại có thể lấy được vợ. Nói đúng hơn là nhặt được vợ trong thời kỳ đói kém ấy.
Bữa cơm đầu tiên sau ngày họ cưới nhau một bữa ăn chỉ có cháo cám với hoa chuối thái vội, một đĩa muối trắng nhưng ai cũng điềm nhiên bỏ vào miệng ăn một cách ngon lành, rồi đứng lên.
Trong bữa cơm những con người đói khổ ấy họ nói tới cờ đỏ sao vàng, nói tới việc cướp kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Những con người đang thầm hy vọng có một tương lai mới tốt đẹp hơn. Trong cái đói khổ, nghèo đói nhưng họ không bao giờ buông xuôi nghĩ tới cái chết để giải thoát đời mình, mà họ nghĩ tới sự sống sống tốt đẹp hơn nữa, sống đúng ý nghĩa của một con người.
Ngày Tràng lấy vợ ai cũng rất ngạc nhiên, bởi ai cũng cho rằng thời buổi khó khăn, đói kém như thế này lấy vợ là lấy thêm một miệng ăn, phải lo thêm cho một người có sung sướng gì mà lấy. Nhưng với cu Tràng và bà cụ Tứ thì lại khác.
Bà cụ Tứ, sau khi nhìn thấy cô gái lạ ngồi trong nhà mình hết sức ngạc nhiên, bà tưởng mình già rồi nhìn gà hóa cuốc. Nhưng khi lại gần bước hẳn vào nhà thấy người con gái lạ kia chào mình bằng u đã về? Thì bà không còn nhầm được nữa. Bà giật mình lắm, nhưng rồi bà lại nghĩ phải gặp lúc đói khổ như thế này thì người ta mới lấy tới con mình, con mình mới có vợ.
Rồi bà lại thương cho con trai, con dâu của mình người ta lấy nhau trong lúc ăn nên làm ra, còn mình lấy nhau trong lúc khó khăn, tới mấy mâm cơm mời hàng xóm cũng không có nổi, nhưng chẳng ai trách mình cả vì thời buổi này ai cũng đói khổ cả.
Ngày cưới, anh cu Tràng cũng bỏ ra hai hào để mua về nhà một chai dầu, anh mong muốn có không khí sáng sủa, mới mẻ cho đêm tân hôn của mình không tăm tối. Hai hào dầu sẽ mang lại hy vọng cho gia đình của anh cu Tràng, mang lại hy vọng cho cuộc sống lứa đôi, cho đời sống hôn nhân của đôi vợ chồng trẻ.
Hai con người khốn khổ, hai mảnh đời ghép lại với nhau trong cơn hoạn nạn, cơ cực chứng tỏ trong sự nghèo khó khốn khổ ấy con người ta vẫn nghĩ tới tương lai, nghĩ tới sự sống chứ không hề nghĩ tới bước đường cùng, cái chết. Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những tác phẩm giàu ý nghĩa, tính nhân văn cao cả nó thể hiện sự thành công của nhà văn Kim Lân khi đã viết lên một câu chuyện giàu tính nhân đạo, gợi lên trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khó quên
Chỉ sau đêm tân hôn, cả cu Tràng, vợ anh cu Tràng và bà cụ Tứ đều thay đổi. Sự thay đổi của cu Tràng là hắn trở nên phởn phơ khác thường, tâm trạng vui vẻ như đang trong giấc mơ, tưởng mơ mà không.. Nhiều lúc hắn cười vu vơ một mình. Câu chuyện nhặt được vợ, khiến cho anh cu Tràng nghĩ như một chuyện đùa nhưng lại khiến cho một người như anh cu Tràng có được vợ.
Vợ cu Tràng thi thay đổi nhiều lắm, từ một người phụ nữ chua ngoa đanh đá, không biết ngại lại gì. Thường gạ gẫm người khác mời mình ăn, nhưng khi làm vợ, làm dâu vẻ chua ngoa mất hẳn.
Cô trở nên hiền lành, biết dậy sớm cùng mẹ chồng chăm bón vườn tược, nhà cửa quét sạch sẽ, rồi cùng vào nấu bếp, làm bữa sáng. Mọi thứ đến với ngôi nhà nghèo nàn, tàn tạ tăm tối của Trang thật bất ngờ. Ngôi nhà đó giờ có ba con người đang hy vọng vào một tương lai mới. Một tương lai tốt đẹp hơn
Bà cụ Tứ thì vui vẻ phấn khởi lắm vì con trai mình đã có vợ, có người nâng khăn sửa túi. Trong bữa ăn gia đình bà thường xuyên mơ tới một cuộc sống khấm khá hơn “không ai giàu ba họ. Không ai khó ba đời…chăm chỉ làm ăn rồi trời thương cho ăn nên làm ra…”. Bà cụ Tứ động viên hai con cố gắng, mong cho hai con hạnh phúc, đó là tấm lòng của một người mẹ già hiền lương, thương con cái vô bờ bến.
Trong bữa ăn của một gia đình đầy hy vọng đó họ nói tới người nông dân trên đê Sộp cùng nhau phá kho thóc, rồi hình ảnh của lá cờ đỏ sao vàng. Những con người nghèo đói khốn khổ ấy vẫn hướng tới cuộc sống tương lai, điều đó khiến cho họ có sức mạnh để sống tiếp để hy vọng.
Tác phẩm Vợ nhặt đã gieo những mầm sống, vượt qua cái chết. Tác phẩm để lại trong lòng người đọc vô vàn cảm xúc khác nhau, khiến cho người đọc cảm thấy vô cùng xúc động trước những người nông dân nghèo khổ.
Câu trả lời của bạn
Ai nói chiến tranh là âm thanh dữ dội của bom đạn hay tiếng gào thét của dân đen vô tội? Không, nó im lặng. Vì khi đã chết, chúng ta không thể lên tiếng. Phát xít Nhật càn qua quê hương ta, đất Việt lầm than với hai triệu người con chết vất vưởng. Nhưng chính trong tận cùng ta thấy đối cực, trong cái chết và màu đen, chúng ta thấy tình yêu và sắc sáng. Truyện "Vợ nhặt" là thế, một minh chứng hùng hồn cho sức mạnh của sự sống, sống với nhọc nhằn khổ ải, sống với cái nghèo đến tột độ về vật chất, nhưng chỉ cần hi vọng, một sự hy vọng trù phú và vững chãi. Họ, chúng ta, tất thảy sẽ vượt qua.
Tràng xấu, xấu là xấu trai, nhưng được cái tốt bụng và dễ gần. Xóm làng nghĩ Tràng không thể có vợ. Cũng đúng, với cái thời đói đến ăn cám hay ánh sáng vào đêm là thứ xa xỉ vậy người vừa nghèo vừa xấu thì ai dám gởi thân?
Xóm tản cư nheo nhóc và hoang tàn. Đông thì có đông nhưng xóm làng như vẻ không người, chỉ là những cái bóng nhếch nhác lê gót trên những con đường quanh co. Xác chết nhiều hơn thực thể di động. Bóng đen gần như chiếm lĩnh cả, mặt trời vẫn sáng đó, nhưng đôi mắt của dân chúng ở đây cứ tối sầm sầm lại.
Ấy vậy mà Tráng có vợ. Xóm làng bị đói quật mà biểu hiện rõ nhất là lũ trẻ. Sự hoạt bát bình thường thay cho cái im ỉm thụ động, chắc không ai dạy nhưng chúng biết bớt vận động là bớt bầu bạn với đói. Nhưng Tràng lấy vợ! Bản năng làm chúng tò mò. Chúng nhốn nháo cả một đoạn.
Đường dài quanh co, sự dài ấy như trêu chọc cái e thẹn ban đầu của đôi uyên ương. Nghĩa chữ uyên ương cũng không hợp trong hoàng cảnh này, khi người ta hay dùng chữ mĩ miều đó cho những đám cưới linh đình. Nay, trên con đường về nhà chồng với xác chết cạnh đường đủ gần để nhìn thấy sự phân hủy hoặc cứ văng vẳng bên tai tiếng khóc tang gia; thiết nghĩ ngày cưới cũng đáng nhớ thật.
Tình yêu luôn là trò phiêu lưu. Vì rằng chúng ta không biết sẽ gặp ai, hoặc chi chúng ta không biết sẽ đi về đâu và kết quả thế nào với sự chọn lựa đó. Tràng và vợ đã tham gia cuộc phiêu lưu đó. Tràng vẫn lo đau đáu về tương lai. Một miệng nuôi không xong, giờ gánh thêm chẳng phải hại lấy thân và cả người? Đến với nhau tốt đẹp thì đó là duyên lành, nhưng lôi nhau xuống cùng cực thì lại là nợ đời với nhau. Tràng lại nhớ về cái sự chẳng biết duyên hay nợ kia. Một câu hò cho quên khổ lao động, một cái đáp của tuổi trẻ thanh xuân, hai người quen nhau. Lại cộng hưởng giữa đói và sự tốt bụng, họ lại gần nhau hơn. Giờ quay lại với sự thật ngay trước mắt, Tràng có vợ và mẹ anh thì vẫn chưa về.
Sự xuất hiện của người mẹ là cái nhấn cho sự khổ của đôi bên. Qua người vợ như tấm gương, ta nhìn thấy cả ba gương mặt đói hốc trong đấy. Và như mọi bà mẹ Việt Nam, bà đã khóc. Khóc vì thương, thương cho đứa con mình đã có vợ, thương cả đứa con dâu cũng cùng quẫn chẳng khác gì con mình. Khóc vì tủi, tủi cho cái phận nghèo không dễ có được một đám cưới đủ nghi thức hay gần hơn là đủ no, chỉ vài câu chào, vài ánh mắt nhìn thẳng nhau, vậy là họ thành gia đình. Và khóc với một chút nghi ngờ, phải chăng vì đến đường cùng, người ta mới gởi thân cho con trai nhà mình? Nước mắt tuôn ra cho lời định nói đến. Bà chỉ chúc cho hai con sống bình yên bên nhau, còn tương lai là sự bấp bênh không muốn nghĩ.
Vợ Tràng, thành viên mới của gia đình, chắc cũng lo xốn xang trăm bề. Mà không, phải chắc chắn chứ. Phụ nữ Việt vốn giỏi lo toan; công, dung, ngôn, hạnh là vốn liếng mà họ lận lưng khi về nhà chồng. Nhưng với cái quá mới thế này chị chưa thể chứng minh gì.
Rồi trời cũng tối. Chu kỳ vẫn thế. Sáng giăng mắt ra Tràng mới dậy. Đời hay nói mỗi ngày là một ngày mới, và điều đó ập ngay cho Tràng thấy. Nhà cửa gọn hơn, có cái gì đó ấm cúng hơn, chỉnh chu và cảm giác như đang và sẽ chuẩn bị cho tương lai.
Bữa cơm tới. Biết rằng đói thì luôn đói nhưng cơm thì vẫn phải theo bữa. Và họ, dùng từ cơm như thói quen, thứ đáng ra bữa ăn chỉ là cháo và cám. Trời đánh tránh bữa ăn, thằng Nhật thì không. Lại vang lên tiếng đòi thuế. Thuế, thuế, lại thuế!
Như vết thưởng mở miệng, mỗi ngày một bào mòn đến cùng kiệt sức khỏe. Thuế từng ngày là nỗi ám ảnh của dân đen, dân đói. Ruộng vẫn còn, nhưng chúng bắt trồng đay. Lúa vẫn có, nhưng là cho chúng nó. Dân ta chết, làm phân bón cánh đồng.
Tràng đờ ra. Cái đờ ra như sự nhu nhược không đề kháng. Cuộc sống của anh là sự chịu đựng và ám ảnh riết thành thói quen, anh quy đồng tương lai cho cái hiện tại khốn khổ này. Không riêng anh, mà có lẽ xóm làng này, không riêng xóm làng này, mà có lẽ cả một nước Việt này sự đờ ra kia như bao phủ tất thảy.
Việt Minh! Hả!? Việt Minh! Tràng như sực tỉnh. Cái tên này nghe mang máng ở đâu. Anh đã từng sợ, vì anh không hiểu gì. Nhưng vợ nói, rồi phong phanh tin nghe đồn, sao anh thấy họ thân quen.
Tràng như bị cuốn vào dòng suy nghĩ đó, với quật khởi, với cờ đỏ. Họ chính là ta, ta hòa với họ. Việt Minh không xa lạ mà chính là bản thể này. Tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Nhưng! Không còn là tiếng trống hoang mang lo sợ, âm thanh như tức lồng ngực giờ là tiếng trống trận cho cả một tầng lớp bị chà đạp. Sống với niềm tin, họ sẽ sống!
Truyện kết lửng lơ, với Tràng còn ngồi với bữa cơm dang dở. Nhưng cái dang dở kia là khởi đầu cho trường kỳ kháng chiến của một dân tộc, mà trong đó hình thành từ từng cá thể. Tràng, vợ Tràng và cả mẹ già, giơ tay sẽ cùng chung sức cho hành trình dài của triệu dân đất Việt. Pháo đài hòa bình và độc lập vững chãi trên từng viên gạch tin tưởng và hy vọng.
Câu trả lời của bạn
Một tác phẩm có nhiều thước đo giá trị, trong đó tình người, lòng yêu thương lẫn nhau chính là thước đo chủ yếu và cơ bản nhất, quyết định sức sống của tác phẩm đồng thời qua đó, thể hiện thái độ, tình cảm và cách nhìn nhận của nhà văn đối với con người và cuộc sống. Hai truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Vợ nhặt (Kim Lân), đều toát lên được tình người mà tác giả dành cho các nhân vật của mình, khác với văn xuôi thời kỳ trước 1945, đây là giá trị nhân đạo mới.
Macxim Gorki đã nói “Văn tức là người”. Đối tượng phản ánh trung tâm của văn học là con người. Nhà văn chân chính đi tìm bề sâu và mọi tâm trạng tinh vi, phức tạp nhất của tâm hồn con người để hiểu và yêu con người. Chính vì thế giá trị nhân đạo luôn là vấn đề cấp thiết trong văn chương mọi thời đại. Số phận con người, những khát vọng của con người không bao giờ lại cũ cả.
Sức mạnh của tình thương yêu con người được thể hiện rõ nét nhất qua đoạn Mị cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) và Tràng đối với cô vợ theo (Vợ nhặt – Kim Lân)
Đầu tiên là tác phẩm “Vợ chồng A phủ” qua hành động Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ là biểu hiện cao nhất của tình yêu thương con người:
Lúc đầu, Mị dửng dưng vô cảm trước cái chết cận kề của A Phủ. Nhưng sau đó, dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã thức dậy lòng thương người trong Mị. Lòng thương người ấy đã làm sống dậy trong Mị sức phản kháng mạnh mẽ. Nếu nói đêm tình mùa xuân là “tia lửa nhỏ” thì đêm cứu A Phủ là “đám cháy lớn”. Đám cháy ấy bùng lên khi Mị nhận thức được tội ác cha con nhà thống lý “Trời ơi chúng trói người ta đến chết thì thôi, chúng nó trói chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này. Chúng nó thật độc ác”. Nhận thức ấy là nhận thức hoàn toàn bằng lí trí, bằng sự tỉnh táo. Từ nhận thức ấy mà sự nổi loạn thứ hai của Mị mới thật là mong muốn của người đọc. Mị đã cắt đứt dây trói cho A Phủ. Rồi Mị cũng vụt chạy theo A Phủ vì theo Mị “Ở đây thì chết mất”. Hơn một lần trong truyện này Mị sợ chết. Lần đầu là thức dậy sau đêm bị trói nghĩ đến người đàn bà đời trước bị trói đến chết trong căn nhà này “Mị sợ quá. Mị cựa quậy xem mình còn sống hay là đã chết”. Lần thứ hai là lúc Mị cắt đứt xong dây trói cho A Phủ. Như vậy, sợ chết là biểu hiện cao độ nhất của lòng ham sống. Đó là vẻ đẹp sức sống tiềm tàng của con người lao động Tây Bắc và niềm tin của nhà văn vào khả năng vươn dậy của nhân vật.và đó cũng chính là tình yêu thương con người, giữa con người với con người.
Sau những hành động của mình vừa làm, Mị cảm thấy “hốt hoảng”, rồi đột nhiên “vụt chạy” đuổi theo A Phủ, và nói “A Phủ cho tôi đi!… Ở đây thì chết mất!” đây chính là lúc mà tình yêu thương con người được đẩy lên cao trào, bắt đầu hành trình từ “thung lũng đau thương” đến “cánh đồng vui” ở mảnh đất Phiềng Sa.
Mị và A Phủ từ tăm tối đau thương đã vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm. Họ đã cùng nhau đạp qua đêm tối, vươn đến ngày mai ở Phiềng Sa, nên vợ nên chồng. Cả hai người đã theo Cách mạng, theo Đảng, đánh giặc, bảo vệ quê hương và thay đổi số phận của mình. Cũng qua đó, tác giả đã bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống của con người và là bài ca ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặc biệt là sức sống tiềm tàng và hành động tự giải phóng của nhân vật, đồng thời đặt niềm tin và sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng sống tốt đẹp của con người dù bị đày đọa đau khổ.
Chỉ cần những hành động của Mị đó thôi, tuy có vẻ rất đơn giản nhưng phải có dũng khí lắm, người con gái đã từng cảm chịu kiếp sống trâu bò đó mới có thể dám làm, nếu không xuất phát từ tình thương người thì chắc chắn Mị đã không hành động như thế. Vì vậy hành động đó có ý nghĩa to lớn vì nó là sự hồi sinh, làm thức tỉnh một kiếp người, đồng thời là biểu tượng của tinh thần phản kháng quyết liệt với cái ác, cái xấu. Sự hồi sinh đó xuất phát từ tình yêu thương con người sâu sắc mà xã hội cũ đang cố tình vùi dập nó.
Còn trong tác phẩm “vợ nhặt” của Kim Lân, tình yêu thương con người được thể hiện qua hành động của Tràng, và Mị: Mị và A Phủ từ tăm tối đau thương đã vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm. Họ đã cùng nhau đạp qua đêm tối, vươn đến ngày mai ở Phiềng Sa, nên vợ nên chồng. Cả hai người đã theo Cách mạng, theo Đảng, đánh giặc, bảo vệ quê hương và thay đổi số phận của mình. Cũng qua đó, tác giả đã bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống của con người và là bài ca ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặc biệt là sức sống tiềm tàng và hành động tự giải phóng của nhân vật, đồng thời đặt niềm tin và sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng sống tốt đẹp của con người dù bị đày đọa đau khổ.
Đầu tiên là ngượng ngùng, xấu hổ. Từ khi rơi vào tình cảnh theo không Tràng làm vợ, cô vợ nhặt trên đường theo Tràng về bộc lộ rõ nét tâm lý ngượng ngùng, xấu hổ. Bên cạnh dáng vẻ phởn phơ, tự đắc của Tràng, thì cái vẻ thèn thẹn của người vợ càng lộ rõ. Thậm chí trước lời bàn tán của dân xóm ngụ cư, thị “ngượng ngùng chân nọ díu vào chân kia, thị chỉ dám càu nhàu ở trong miệng”, càu nhàu khẽ đến mức Tràng đi bên cạnh mà không nghe rõ. Ra thế, những nét đanh đá, chỏng lỏn, sống sượng không phải là bản chất mà là sản phẩm của hoàn cảnh năm đói, vẫn còn đó nguyên vẹn trong chị vẻ thuần hậu của người phụ nữ lao động thôn quê.
Trên đường gần về nhà Tràng, người vợ nhặt rơi vào tâm trạng lo âu, phấp phỏm, điều này được thể hiện rõ qua những câu hỏi dồn dập của thị với Tràng: “Nhà có ai không?”, “Sắp đến chưa?”,”Sao lâu thế?”….Bởi chị theo không Tràng là bất đắc dĩ, là để tránh cái đói quay quắt, không biết những gì đang đợi chị ở phía trước cho nên trong lòng lo lắng, bất an. Rồi khi trông thấy gia cảnh nhà Tràng chỉ là một “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm ngổm những bụi cỏ dại”, người vợ nhặt không nén nổi tiếng thở dài ngao ngán. Khi bước vào nhà, chị đứng khép nép tay vân vê tà áo rách, mặt bần thần. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả thật tinh tế tâm lý của người vợ nhặt khi rơi vào tình huống theo không Tràng về làm vợ.
Kim Lân rất tinh tế, chỉ điểm thoáng qua vài biểu hiện thất vọng ở người phụ nữ rồi ông chuyển sang một nét nhân bản hơn; không tránh được cái đói, cái rách, không tránh được cái nghèo, cái khổ, người vợ nhặt đã tìm được một điểm tựa tinh thần. Đó là mái ấm gia đình. Vì vậy có những lúc người vợ nhặt bộc lộ niềm vui, phấn chấn, hạnh phúc qua ngôn ngữ và cử chỉ thân mật như mắng Tràng “hoang nó vừa vừa chứ”…” chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. “Đồ khỉ gió”. Có lúc khặm mặt lại, lườm Tràng một cách tình tứ. Cái lườm của cô vợ nhặt gợi cho ta nhớ đến câu nói nổi tiếng của Nam Cao trong kiệt tác Chí Phèo: “Người đàn bà dù xấu đến đâu, khi yêu cũng lườm”. Cái lườm của người vợ nhặt ở đây quả là đã vượt lên trên cái đói, cái khát để đi đến một niềm hạnh phúc rất đời thường.
Được sống trong tình thương ấm áp của gia đình bà cụ Tứ, người vợ nhặt đã có được những thay đổi rõ nét: dịu dàng, đôn hậu trở lại, cùng bà mẹ chồng “xăm xắn” quét dọn vườn tược, nhà cửa. Việc quét dọn nhà cửa trong những ngày tháng ấy xét về mặt kinh tế thì vô nghĩa nhưng nó lại có ý nghĩa to lớn về mặt giá trị tinh thần nhân văn.Tràng, cô vợ nhặt, bà cụ Tứ không chấp nhận lối sống tạm bợ qua ngày, họ vẫn hướng tới một cuộc sống bền vững, tốt đẹp hơn. Sự thay đổi của cô vợ nhặt cũng khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: ” nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.” Không chỉ vậy, cô vợ nhặt còn có những dự cảm tốt đẹp về tương lai. Cuối tác phẩm, cô vợ nhặt nhắc đến truyện ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Câu chuyện tưởng vu vơ này nhưng lại bộc lộ một dự cảm đổi đời, một cuộc thay đổi số phận trong đó có người vợ nhặt.
Qua hai tác phẩm trên ta mới thấy được sức mạnh của tình thương yêu nó cao như thế nào, giúp con người vượt qua tất cả. Bằng tình thương và cái nhìn nhân đạo, nhà văn đã ngợi ca vẻ đẹp của người lao động và luôn muốn tìm cho nhân vật của mình một hướng đi mới và tươi sáng hơn.
Bên cạnh những cái chung, điểm giống nhau của hai tác phẩm thì hiện thực cuộc sống được phản ánh trong hai tác phẩm khác nhau:
Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là bối cảnh sau cách mạng và trong kháng chiến ở miền núi Tây Bắc. Nói về những con người lao động ở vùng núi cao và chế độ phong kiến vẫn còn đang đè nặng lên chính những con người nơi đây.
Còn “Vợ nhặt” của Tô Hoài lại lấy bối cảnh là nạn đói trước cách mạng và ở miền xuôi. Vào năm 1945 khi mà nạn đói hoành hành và phải khiến hơn 2 triệu người Việt Nam phải chết đói trong đợt đói đấy
Đối với Mị, Mị là nạn nhân của chế độ chúa đất phong kiến ở miền núi. Giá trị con người không được xem trọng, đưa ra đong đếm, mua bán, gán nợ như đồ vật hay trâu bò vậy. Còn vợ nhặt, cô là nạn nhân của nạn đói do bọn phong kiến, thực dân, phát xít gây ra.
Phong cách nghệ thuật, bút pháp miêu tả của mỗi tác giả khác nhau: Kim Lân chú ý khai thác từ tình huống và tâm lí nhân vật. Trong khi Tô Hoài có lối miêu tả nhân vật độc đáo.
Qua nhân vật và tình huống truyện, không những nhà văn phản ánh một mặt trận đen tối trong hiện thực xã hội, cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp tâm hồn của họ. Đó là niềm cảm thông sâu sắc với nỗi đau của con người, sự nâng niu nét đẹp tâm hồn mà hơn cả là sự hướng tới giải phóng cho con người.
Câu trả lời của bạn
Câu trả lời của bạn
Một tình huống truyện độc đáo.
Câu trả lời của bạn
0 Bình luận
Để lại bình luận
Địa chỉ email của hạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *